DÂN TỘC GIÁY
I, Giới thiệu chung về dân tộc Giáy
1, Dân số, địa bàn cư trú.
Ở Việt Nam, dân tộc Giáy có trên 25000 người. Đồng bào cư trú tập trung
tại các huyện Bát Xát, Mường Khương, Bảo Yên (Hoàng Liên Sơn), Yên
Minh, Đồng Văn (Hà Tuyên), Mường Tè, Phong Thổ ( Lai Châu), Bảo
Lạc( Cao Lạng) cũng có người Giáy.
Dựa vào thổ âm khác nhau, đồng bào Giáy ở tỉnh Hà Tuyên, Cao Lạng và
các xã Bản Phiệt, Bản Cầm, Thái Niên (Hoàng Liên Sơn) gọi bộ phận của
dân tộc mình là Giáy Nắm.
Giáy là tên tự gọi. Ở Hoàng Liên Sơn, Lai Châu, Người Tày, Thái gọi
người Giáy là Giẳng. Người Việt gọi là Nhắng; nhưng tên gọi này không
quen thuộc trong dân tộc Giáy. Hiện nay đồng bào có nguyện vọng gọi theo
tên tự , gọi là Giáy.
Hiện tượng sống hoà vào nhau đang diễn ra ở nhiều địa phương: ở các
huyện Bảo Thắng, Bắc Hà, Bát Xát, Bảo Lạc, Yên Minh, dân tộc Giáy với
dân tộc Tày; ở các huyện Bảo Yên, Mường Khương, dân tộc Giáy với dân
tộc Thái. Ở những nơi đó, đồng bào Giáy, hoặc giữ được những tập quán
sinh hoạt dân tộc nhưng sử dụng ngôn ngữ dân tộc khác, hoặc giữ được ngôn
ngữ Giáy nhưng tiếp thu tập quán sinh hoạt của dân tộc khác. Cũng có nơi
như Bản Giẳng( Mường Tè),Nặm Cáy, Tả Chải ( Bắc Hà) người Giáy chỉ
giữ được cách cúng tổ tiên là hiện tượng duy nhất để nhận ra là dân tộc Giáy.
Một số nơi như Bản Lầu( Mường Khương), Phong Niên( Bảo Thắng) người
ta khó phân biệt ngôn ngữ, sinh hoạt của hai dân tộc Giáy và Nùng.
Sự giống nhau này không phải là quá trình giao lưu văn hoá mà là quá
trình thống nhất của các nhóm người vốn chung nguồn gốc lịch sử, ngôn ngữ
và những đặc điểm văn hoá khác .
2, Kinh tế truyền thống :
Đồng bào Giáy sống chủ yếu về làm ruộng. Trước đây, sau ngày lễ “
roóng poọc” ( như hội xuống đồng của người Tày) mọi người bắt đầu công
việc đồng áng. Công cụ, cách thức làm ruộng cũng giống vùng người Tày_
Nùng. Người Giáy trồng nhiều lúa tẻ hơn lúa nếp. Lúa gặt rồi được đánh
đống trên những nơi khô ráo, khi nào rỗi mới đập đem về nhà.
Nhiều gia đình phát thêm rẫy để trồng ngô, các loại rau bí, khoai, sắn.
Họ cũng làm nhà phụ ở rẫy để các cụ già trông nom hoa màu, chăn nuôi gà,
vịt, lợn. Cách cư trú phụ này khá phổ biến ở vùng người Giáy vì chăn nuôi
xa làng, gia súc ít bị lây dịch bệnh.
Người Giáy ít nghề thủ công. Một vài nơi có người biết đan trần để đập
lúa; họ cũng thường đem trần bán hoặc đổi lấy thóc. Tuy nhiên nghề này
thường là những người già yếu làm. Các nghề đúc lưỡi cày, làm trang sức
bằng bạc cũng chỉ có ít người làm ở một vài địa phương.
Người Giáy chăn nuôi nhiều trâu, ngựa, lợn, gà, vịt. Ngựa dùng để
thồ, để cưỡi, là con vật có giá trị hơn trâu, lợn, nên được chăn dắt chu đáo.
Các gia súc khác thường thả rông, chỉ cho ăn bữa sớm và bữa tối. Ở mỗi
làng có một khu rừng rộng, rào kín để lúa trâu cả làng vào đó, gọi là “lùng
vái”, trâu thả vào đó gọi là “cái xuồng lùng”. Vài ba ngày người làng rủ
nhau tới thăm một lần. Khi cần kéo cày kéo gỗ người ta bắt riêng những con
trâu kéo về chăn dắt, xong việc lại thả vào “lùng vái”. Ngày nay, tình trạng
thả rông gia súc đã chấm dứt, trâu, lợn có chuồng, vịt nhốt trong ao, suối rào
kín, hạn chế được chết dịch.
II, Văn hoá vật thể:
1, Nhà cửa
Đồng bào Giáy thường dựng làng ở nơi có nguồn nước, gần ruộng, ven
núi tương đối bằng. Họ sống tập trung thành làng gồm nhiều nhà, ở gần
nhau. Ở Bát Xát có nhiều làng đóng tới trăm nóc như làng Pẳn, Quang Kim,
Bản Qua,v.v… Mỗi khi có người nơi khác đến ở, bà con làng sở tại thường
rủ nhau đi đón, chuyển hộ nhà cửa, đồ dùng và giúp đỡ mọi thứ cho người
mới đến mau chóng ổn định nơi ở, việc làm.
Nhóm Giáy vùng Hà Giang, Cao Bằng ở nhà sàn. Nhóm Giáy vùng Lào
Cai, Lai Châu ở nhà đất. Nhưng qua tài liệu văn học dân gian thì người Giáy
vốn ở nhà sàn. Hiện nay đồng bào ở nhà đất vẫn còn dựng một sàn trước cửa
để sử dụng. Nhà sàn hay nhà đất, gian giữa đều là nơi trang nghiêm: đặt bàn
thờ tổ tiên, tiếp khách. Buồng các cặp vợ chồng trong gia đình quây ở các
gian bên. Phụ nữ không nằm gian giữa. Bếp thường đặt ở gian bên; nay có
nhiều nơi đã làm nhà để đun nấu riêng.
Một vài kiêng cữ và nghi lễ liên quan đến nhà cửa
Lấy gỗ làm nhà: Thời gian kiếm gỗ để làm nhà phải từ 15 tháng 7 đến
tháng 8 là tốt nhất vì người ta cho rằng gỗ được lấy vào tháng này không bị
mọt.Chọn tháng còn phải chọn ngày, kị nhất ngày 20, 21 và 30 trong tháng.
Những cây gỗ tự đổ hoặc cụt ngọn nhất thiết không được dùng để làm nhà.
Mỗi lần đi kiếm gỗ gia chủ phải báo cho bà con dân bản biết đến giúp và đó
cũng là nghĩa vụ của dân bản.
Chọn đất và hướng nhà: Đây là công việc phải nhờ đến thầy mo. Khi
chọn được nơi nào ưng ý, củ nhà phát quang một bãi đất, đào một cái lỗ nhỏ
rồi bỏ vào đó ba hạt thóc, xếp theo hình tam giác: Một hạt ở phía tây tượng
trưng cho bàn thờ và sinh mệnh con người trong gia đình, một hạt ở phía bắc
chăn nuôi, một hạt ở phía nam trồng trọt. Úp bát lại rồi thầy mo khấn thổ
thần hỏi xem có ở được không. Sáng hôm sau ra xem nếu ba hạt thóc còn
nguyên vị trí cũ là được. Nhà thường hướng đông bắc hoặc đông nam.
Dựng và lợp nhà: Phải nhờ thầy mo chọn ngày giờ tốt. Được ngày giờ,
trước hết phải dựng hai cột có vách để treo bàn thờ, sau đó đến hai cột cái
tượng cho gia chủ. Dựng đươc hàng cột nào luồn xà ngang đến đó. Sau khi
luồn xà ngang và xà dọc, lắp các trụ ngắn hình quả bí xong mới đưa đòn
dòng lên. Đòn dòng đựơc coi như là linh hồn của ngôi nhà và sự thịnh
vượng của gia chủ. Dưới dạ thượng lương thường để một số chữ hán:
Thượng lương vạn đại, vạn sự như ý, làm ăn sung túc…dựng xong thượng
lương thì bà chủ nhà mang đến một thước vải đỏ hai đầu buộc sáu bông lúa (
mỗi đầu ba bông) treo vào giữa cây thượng lương, sau đó đốt pháo chào
mừng nhà mới.
Khi lợp mái, những người buộc các phên tranh, miệng không được ngậm
lạt, sợ sau này trên mái có chuột cắn hết tranh.
Vào nhà mới, chọn được ngày nếu chưa kịp che vách hoặc làm tường thì
nhất thiết phải che vách nơi treo bàn thờ, gia chủ mới được vào ở.
Khi vào nhà mới, trước tiên là bà chủ nhà, một tay xách nước, một tay
cầm cum thóc nếp mang vào nhà và đốt lửa nơi định đặt bếp. Sau đó lần lượt
những người đàn bà khác vào nhà chuẩn bị cỗ cúng thổ thần.
Trong lễ lên nhà mới, người ta thường giết gà, lợn hoặc trâu ( tuỳ vào
hoàn cảnh kinh tế của gia chủ) mời mọi người đã làm giúp đến liên hoan.
Trong tiệc người ta thường hát bài: “ vương páo ỷ” (hát chúc nhà mới).(Xin
trích một đoạn):
… “ Nhà bố rộng và rộng
Nhà bố rộng và to
Cửa to và cửa nhỏ
Hai lối tha hồ đi
Mái lợp như ngói hoa
Từng vần in trên mái
Nhà bố đắp thành tường
Như nhà xây quét vôi
Tiếng tăm lừng khắp bản
Ai ai cũng ca ngợi”
…
“ Nhà lợp kín làm sao
Chân rui trông cũng đẹp
Nơi dựng nhà đẹp đẽ
Tha hồ phóng tầm mắt
Nhà bố đẹp và đẹp
Như các sợi chỉ màu
Nhà bố rất sung túc…”
2, Trang phục truyền thống.
Trang phục người Giáy thuộc loại giản đơn, ít thêu thùa diêm dúa. Nhìn
lại trang phục của các cụ già 70, 80 tuổi ở các vùng giữ nhiều đặc điểm sinh
hoạt của người Giáy thì thấy rằng:
_ Nam giới Giáy mặc áo dài chấm gối, xẻ nách, vấn khăn; quần lá toạ;
ống tay áo, ống quần rộng. Có nhiều người nuôi tóc dài để búi.
_ Phụ nữ Giáy mặc áo che kín mông, xẻ nách, tay rộng, ở hò và cổ tay áo
đắp những miếng vải khác màu. Váy che kín gối, xoè tương đối rộng. Nhóm
Giáy vùng Lào Cai, Lai Châu mặc quần, nhưng nhiều tài liệu sáng tác dân
gian lại nói đến mặc váy. Phải chăng xa xưa người Giáy đều mặc váy? Cách
phổ biến làm tôn vẻ đẹp của thiếu nữ là dùng sợi len hoặc sợi màu đỏ, màu
hồng độn với tóc vấn, gọi là piêm mào và đeo chiêc túi vải hình chữ nhật
rộng 25-30 cm, dài 35-40 cm. Dây túi dệt bằng chỉ màu luồn vào miệng túi
theo kiểu dây rút. Hai đáy được thêu hình răng chó (hẻo ma) uốn trên đường
chỉ màu xoè ra như hai cái quạt hoa nhỏ. Đây là hoa văn phổ biến trong nghệ
thuật trang trí người Giáy, còn được dùng thuê ở hai đầu chiếc gối, ở rèm vải
cửa buồng đôi vợ chồng mới cưới hay ở mũ trẻ em.
Phụ nữ người Giáy cũng biết dệt thổ cẩm làm mặt chăn, mặt địu, nhưng
không phổ biến.
Hiện nay y phục người Giáy có một số thay đổi. Phụ nữ mặc áo ngắn
hơn, gấu áo nhỏ; lớp trẻ viền áo vòng ra phía sau thành vòng tròn, trước kia
chỉ viền phía ngực. Nam giới mặc áo xẻ ngực. Do ít thêu thùa nên người
Giáy không tốn nhiều thời gian để may mặc. Hầu hết đồng bào mua vải về
may nên đa số phụ nữ có thêm nhiều thời gian chăm lo công việc khác.
III, Văn hóa phi vật thể.:
1,Ngôn ngữ : thuộc hệ ngôn ngữ Tày-Thái.
Đối với các dân tộc Tày-Nùng-Thái dân tộc Giáy có quan hệ về nhiều
mặt.Hiện tượng sống hòa vào nhau đang diễn ra ở nhiều địa phương:ở các
huyện Bảo Thắng,Bắc Hà,Bát Xát,Bảo Lạc,Yên Minh,dân tộc Giáy với dân
tộc Tày;ở các huyện Bảo yên,Mường Khương,dân tộ c Giáy với dân tộc
Nùng;ở các huyện Mường Tè,Phong thổ,dân tộc Giáy với dân tộc Thái.Ở
những nơi đó đồng bào Giáy hoặc giữ được tập quán sinh hoạt dân tộc
nhưng sử dụng ngôn ngữ dân tộc khác,hoặc giữ được ngôn ngữ Giáy nhưng
tiếp thu tập quán sinh hoạt của dân tộc khác.Cũng có nơi như bản Giằng
(Mường Tè),Năm Cáy,Tả Chải(Bắc Hà) người Giáy chỉ giữ được cách cúng
tổ tiên là hiên tượng duy nhất để nhận ra là dân tộc giáy.Một số nơi như Bản
Lầu(Mường Khương),Phong Niên(Bảo Thắng) người ta khó phân biệt ngôn
ngữ sinh hoạt của 2 dân tộc Giáy và Nùng.
2,tổ chức xã hội:
Nhìn chung quá trình phân hóa giai cấp trong dân tộc Giáy khá rõ
ràng,nhưng bộ phận người Giáy ở Lào Cai diễn ra nhanh hơn,sâu sắc hơn
các vùng khác.
Dưới chế độ phong kiến,các thành phần xã hội và quan hệ ruộng đất vùng
Giáy Lào Cai đại thể như sau:
A,Những người làm việc trong bộ máy thống trị:
1,Lý trưởng coi 1 xã.Trước ngày giải phóng(1950),huyện Bát Xát chia
làm 3 xã coc 3 lí trưởng.Lí trưởng được hưởng 1 suất ruộng công gọi là
ruộng quan.Người ta dùng đơn vị đo lường dân gian (co ná) để chỉ diện tích
ruộng cấy 50kg thóc giống,và thường nói chức dịch ấy được ăn mấy “co
ná”.Lý trưởng không phải đi lính,đi phu.Khi già yếu thôi việc,lý trưởng vẫn
được hưởng 1 “co ná” gọi là “ná cưn lào”(ruộng an dưỡng),không phải chịu
phu phen tạp dịch.Trường hợp bị cách chức,thì không được hưởng ruộng
nữa.Ruộng lý trưởng ở làng nào thì dân vùng đó phải làm không
coongtroong cấy thu hoạch,đỏ vào kho quan.
Để gây thế lực cho mình,các quan đều tổ chức lính dõng hoặc dân thường
luân phiên canh gác nhà ở của chúng.Chúng cũng thường cho người anh em
họ hàng làm các chức phó lý,binh thầu v.v…để thâu tóm quyền lực về
mình.Quan bắt mỗi làng trong đơn vị hành chính của chúng phải phục dịch
cho chúng 1 việc như làng chuyên trồng thảo quả,làng chuyên lo việc
cưới,việc tang,làng chuyên làm ruộng…có quan còn lập cả đội gái xòe để
mua vui khi tiệc yến,hầu hạ bọn quan trên đến.
2,Phó lý(pỏ).Tùy theo số dân ít hay nhiều mà quy định số pỏ.Pỏ được 1 suất
ruộng công gọi là ná pỏ bẳng 1 “co ná”,có nơi được 2 “co ná”.Dân phải làm
không công cho pỏ các việc:cày bừa vỡ,nhổ mạ,cấy,gặt.
3,Chủ coi hai,ba thôn,có nơi có hàng trăm hộ.chủ dưới quyền phó lý.Chủ
được chiếm 1 “co ná” như phó lý.
4,Pinh thầu(ping):chức này coi các việc hành chính trong các xóm nhỏ,có
nơi chỉ 5-7 hộ.Pinh được chiếm 1 “co ná”,tự làm lấy.
5,Xíp ná,cũng gọi là mù láo.Người này không nhất thiết phải nhiều tuổi như
mù láo của dân tộc Mèo,chỉ cần tháo vát,giúp pinh thu thuế,đốc phu.Xíp ná
được 1 “co ná” lấy trong số ruộng thuế của làng,tự làm lấy,được miễn phu.
6,Xã đoàn,tổng đoàn,châu đoàn không được phần ruộng như như chức dịch
hành chính,chỉ được suất ruộng cầm súng như các loại lính khác.Họ được
mỗi năm chừng 2 tấn thóc,lấy từ thóc thuế do lý trưởng thu.
7,Lính dõng,cầm súng nhà nước giao nhưng không thoát ly gia đình.Người
đi lính được 1”co ná”,miễn phu,miễn thuế,dưới điều khiển của chức dịch từ
Pinh trở lên.Tuy nhiên lính dõng vẫn có hệ thống tổ chức riêng như xã
đoàn,tổng đoàn,châu đoan coi nhiều xã đoàn,tất cả đặt dưới quyền chỉ huy
của viên đồn trưởng người Pháp.
8,Các loại lính ăn lương nhà nước(khố đỏ,khố xanh,lính cơ)cậy là người nhà
vua nên có quyền thế,dân và chức dịch trong làng phải nhường nể
chúng.Mỗi người đi lích chiếm 1 “co ná” ruộng công,tự làm lấy,không đi
phu,không nộp thuế,phải góp thóc,nuôi trả và các cúng lễ chung của
làng.Chúng được chọn ruộng đất tốt nhất nên dân có câu:”Ruộng tốt tìm
lính”.Khi hết hạn lính,họ vẫn được chiếm lấy “co ná”ấy làm cho đến khi
chết,theo chế độ”cưu lào”như quan.Trường hợp đào ngũ hoặc bị đuổi thì
phải trả ngay ruộng cho làng cũng như nộp súng cho quan.Đối với lính dõng
cũng như vậy nên nhiều người phải đút lót chức dịch và quan lại để được giữ
súng lâu năm.
Các chức dịch lúc đầu do dân bầu nhưng sau đã nảy sinh tranh chấp.Trước
khi bầu,người tranh cử thường đem tiền của đút lót quan sở tại,mổ lợn,mổ
trâu mời dân ăn uống,hứa cho dân quyền lợi nếu dân bầu.
B,Nhân dân lao động và các thành phần khác:
1,Nhân dân lao động ở làng nào thì phải phục dịch bọn chức dịch ở làng
đó.Nhà nào không giữ phần ruộng công của làng thì không nộp thuế,không
đi phu,nhưng hầu hết họ phảo gắn với ruộng công của làng.Ai có 1 suất
ruộng công thì chịu phu,chịu thuế và không bị làng coi rẻ.
2,Những người làm nghề mê tín gồm mo,tảo,chỉm(then)và thầy bói.Mo và
tào thường có từng tốp từ 3 đến 7,8 người,nhân dân gọi là “chau
mo”(phường tảo,phường mo).Tảo và mo nổi tiếng không nhiều lắm như cả
huyện Bát Xát khoảng 1 vạn người Giáy mới có 1 mo ở Bản Pẳn,1 tảo ở
huyện Tòng Sành và 1 “chiêu”(then) ở Bản Náng.Thầy bói không làm mo
làm tảo được.Hầu hết họ không trúng vào các chức dịch xã.Trong chừng
mực nào đó chức dịch cũng phải được kính nể họ.Họ không được miễn
phu,thuế,tạp dịch.Họ cũng trực tiếp lao động sản xuất.Thực tế họ gần gũi và
được nhân dân quý mến hơn bọn chức dịch.
3,Những người làm nghề thủ công,bao gồm thợ làm đồ vàng bạc,thợ đúc
lưỡi cày,nồi,chảo gang và thợ làm nhiều đồ gia dụng khác loại này không có
nhiều,có khi cả 1 vùng rộng lớn mới có 1,hai người.Họ được nhân dân quý
mến.
4,Nhà đàn bà góa(ran da mai),nếu nhà này chưa có con trai lớn hoặc không
có con trai thì dân làng chỉ coi là nửa hộ,mọi đóng góp chỉ chịu 1 nửa
suất.Và phần ruộng công cũng dễ dàng bị làng đòi lại nếu không cáng đáng
được phu,thuế.Họ không được bàn bạc công việc chung với làng xóm,kể cả
cúng lễ,làng phân bổ sao chịu vậy.
5. Người liên lạc thông tin tức trong làng (gọi là trả). Mỗi làng có một trả
phụ thuộc vào pinh. Trước đây trong làng luân phiên nhau mỗi năm một
người làm trả. Nhưng cũng có nhà không đảm nhiệm được vi góa bụa,vì quá
neo đơn,nên sau làng dành cho một người làm, người đó được miễn
phu,miễn thuế. Rất ít người muốn làm việc này vì địa vị xã hội rất thấp kém.
Trả không có phần ruộng nhưng được trả công bằng thóc chừng 1 tấn đến
1,6 tấn hàng năm. Trả đến đâu gặp bữa được ăn tự nhiên,dân làng coi đó là
nghĩa vụ nuôi trả.
6.Các con trai đi ở gọi là bảo ná. Công việ chính là làm ruộng.Loại này
được nhà chủ đối xử khá.”bảo ná” mặc cả với chủ về công xá: thường mỗi
năm hai bộ quần áo,một đoi giày,một cái mũ,từ 200 đến 300 kg thóc. Cuối
năm chủ phải trả sòng phẳng nếu không thì làng xóm chê bai gia chủ và
“bảo ná” kiện lén chức dịch. “Bảo ná” muôn thôi việc lúc nào cũng
được,chủ không được ép buộc. Chủ nhà thường phải chiều chuộng “bảo ná”
để được việc,có người làm lâu năm.Nhưng “bảo ná” cần cù, nết na thường
được chủ nhà gả con gái cho.
7.Đầy tớ “hỏi”. Người đi làm ở đầy tớ thường là con mồ côi, con nhà rất
nghèo.Đến ở với ai, “hỏi” phải lao động cực nhọc cho nhà chủ. Có người
chọn đời làm “hỏi”.
8.Người trong nhà(hún rán đâu) là người được miễn phu thuế để chuyên
trồng thảo quả,làm ruộng,phục dịch nhà quan.
Hầu hết các làng còn có ruộng công dùng vào việc thờ cúng,gọi là “na
xía”,”ná cáu” tức ruộng thần,ruộng cầu.Phần ruộng này mỗi năm thu chừng
300-400kg thóc.Ai làm ruộng này phải thắp hương rừng thần vào ngày 29
tháng giêng hàng năm và chịu 1 gà,1 vịt,để sửa lễ cúng thần,không đi
phu,không nộp thuế.Ruộng thổ thần(ná tú tí) từ 1 đến 2”co ná”cũng dùng
vào việc cầu cúng cho làng.Ai làm ruộng này năm đầu chịu cho làng 1 nửa
con trâu cúng,năm sau đóng góp và đi phu như mọi người.
Những người sống bằng nương rẫy không phải đi phu,đóng thuế vì xã hội
coi họ là những người có địa vị thấp kém hơn người làm ruộng công.
Khi có Đảng lãnh đạo tinh thần yêu nước của đồng bào Giáy được phát
huy mạnh mẽ,luôn sát cánh cungg nhân dân các dân tộc trong cả nước lao
động chiến đấu xây dựng bảo vệ đất nước..
*Trong gia đình : theo chế độ phụ hệ, Người chồng, người cha có vị thế
nổi bật trong gia đình. Con cái lấy họ cha. Nhà trai chủ động việc cưới xin.
IV,Phong tục tập quán
*Người phụ nữ khi thai nghén phải kiêng nhiều thứ như khi đun bếp
không được cho ngọn cây củi đốt trước,sợ đẻ ngược,không được đến các
đám tang hoặc nơi thờ cúng thần,sợ bị bắt vía v.v…cốt để luc sinh được mẹ
tròn con vuông.Gần tháng đẻ người ta làm cúng”mè pang”(mẹ mụ)để chính
thức đặt mụ cho đứa trẻ.Ở các nhà khá giả thi con đầu lòng cúng”mè pang”
rất to,có khi mổ lợn 70-80kg.Những lần sau cũng cúng nhưng lễ vật chỉ cần
1 gà,1 vịt.
Người Giáy quan niệm có con là do đầu thai.Vì vậy có trường hợp đẻ
nhiều lần không nuôi được mà đều là trai hoặc gái cả thì khi trẻ sơ sinh chết
người ta khía tai làm dấu để khỏi đầu thai.Trẻ đầy tháng,gia đình sửa lễ báo
tổ tiên biết để được phù hộ và sau lễ này mới bế đứa trẻ ra gian giữa,đi lại
chơi bời.Nếu là con đầu thì ngày đây tháng được gia đình làm cỗ mừng long
trọng để đặt tên.Tên,ngày tháng năm sinh đứa trẻ được thầy cúng viết bằng
chữ Hán vào 1 miếng vải đỏ nhỏ(giấy mệnh)dùng để so tuổi khi lấy vợ lấy
chồng,khi chết để chọn giờ nhập quan và hạ huyệt.
Trẻ ốm yếu,khóc nhiều gia đình có tục đem gửi họ khác làm cha mẹ gọi
là”pò mè chỉ”(bố mẹ gửi) hoặc đem tới gửi vía ở 1 hòn đá,gốc cây nào
đó.Hàng năm cha mẹ đẻ phải đưa con đem quà đến sêu tết cha mẹ gửi.
*Lễ cưới:
Gồm các bước:đánh tiếng,dạm hỏi,thả mối,ăn hỏi,cưới,lại mặt.Mỗi bước
đều tốn kém.Trước đây khi đã hỏi thành,nhà trai thường đưa tới nhà gái 1
vòng cổ,1 vòng tay gọi là “đánh dấu”.Trung bình mỗi lần cưới nhà trai phải
chi phí chừng 200kg thịt lợn(thịt do nhà gái thách và dùng ở nhà trai0,bạc
trắng,nay được thay thế bằng tiền ngân hàng khoảng 300-500 đồng.Mỗi
người họ hàng gần của nhà gái sẽ được 1 món quà cưới gọi là “cưn srinh” do
nhà gái thách nhà trai,gồm 1 con gà,1 con vịt,1 đồng bạc trắng-nay thường
thay mỗi suất bằng 30 đồng.Ai được suất quà này thì khi con dâu có con
đầu lòng thì phải có quà mừng cháu.Thông thường người ta đón dâu về ở
hẳn nhà chồng ngay hôm cưới.Tục ở rể cũng khá phổ biến.Ngày nay nhiều
trường hợp thách ở rể được thay bằng số tiền mặt tương đương sự tốn kém
nuôi nấng bố mẹ vợ trong những năm ỏ rể và tiền quan tài v.v…Tiền này
trao cho nhà gái khi cưới.Trong dân tộc giáy trước đây khá phở biến tục kéo
vợ khi đôi bên yêu nhau nhưng cha mẹ nhà gái ngăn cản,khi nhà trai nghèo
không đủ tiền cưới,khi cô gái không đồng ý lấy…Trường hợp này cũng có
lúc xảy ra mâu thuẫn giữa 2 gia đình hoặc đánh nhau để giành lại con gái
hoặc không hòa thuận.Những năm gần đây,tục này đã chấm dứt.Ông mối là
người làm chứng,lam “người giữa” giải quyết các việc trong quá trình cưới
xin và các việc xảy ra giữa vợ chồng sau này.Khi cưới chạy tang tốn kém
ít,lễ nghi đơn giản.
*Tang ma:
Người Giáy quan niệm thế giới có 3 tầng:tầng trên trời,tầng con người
đang sống,tầng dưới đất.Tầng trên trời được mô tả đẹp đẽ,sung sướng.Tầng
dưới đất thì nhỏ bé,khác với tầng giữa như người địu con ở bắp chân,đeo dao
ở cổ chân,v.v..Tổ tiên ở tầng trên.Mỗi người chết được làm cúng lễ đủ nghi
thức sẽ được lên trời sống với tổ tiên.Ai chết không được cúng lễ hẳn hoi sẽ
bị đẩy xuống âm ty hoặc biến thành con vật,hồn vía sống lởn vởn quanh con
người.Vì vậy những người lớn,nhất là những người đã có vợ con,chết,gia
đình cố làm ma chu đáo.
Khi có người chết người ta phải đối chiếu với “giấy mệnh”,người chết để
chí giờ cho vào quan tài,giờ khiêng ra cửa không trùng giờ sinh con
cháu,theo quan niệm,nếu trúng hồn vía người sống dễ bị người chết bắt
đi.Người ta cúng là để chuộc hồn người chết và đưa lên sống cùng tổ
tiên,những ngày tết con cháu cúng người chết mới được hưởng.Những người
chịu tang kiêng ăn mỡ,kiêng cười đùa,kiêng ngồi ghế cao,kiêng nằm
giường…cho đến khi chôn xong.Trường hợp làm ma khô,tức là làm ma sau
khi đã chôn ít hoặc nhiều năm,chỉ kiêng 1 hay hai bữa chính.Nhũng người
giàu có thì đám tang có thể kéo dài đến 5-7 ngày đêm mổ trâu,ngựa,làm
thêm nhiều nghi lễ như nghi lễ trôi sông,rước hồn đi dạo v.v…Những gia
đình neo túng thì chỉ cần mổ con lợn 20-30kg,cúng 1 đêm rồi chôn cất.Con
cháu chịu tang nhiều nhất là ba năm nhưng thường chỉ để tang năm ấy và là
lễ đoạn tang vào dịp cuối năm.Người không chết trong nhà,nếu ở xa thì chôn
cất rồi làm ma ở nhà,nếu gần thì đưa thi hài về để trong cái lều gần làng làm
đám xong mới chôn,nhất thiết không đem về nhà.Chôn cất xong nhưng chưa
được đưa hồn lên cùng tô tiên thì lập bài vị để hàng ngày cúng cơm nước.Lễ
đưa hồn lên tổ tiên làm cùng với đoạn tang.Các lễ nghi trong việc tang là cái
chung của cả dân tộc,không có nghi thức riêng cho từng dòng họ.Duy chỉ có
cách đặt quan tai thì theo kiêng cữ của dòng họ mà đặt dọc hoặc đặt ngang
lòng nhà.
Người Giáy cũng có tục tảo mộ vào ngày mồng 3 tháng 3 hàng năm.
“Pháng” tiếng Giáy nghĩa là ma.Đồng bào Giáy quan niệm có “pháng
rán”(ma nhà) và “phang rooc”(ma ngoài).Ma nhà hay ma ngoài đều có thể
gây ra việc thiện việc ác ảnh hưởng tới đời sống.Ma nhà là linh hồn những
người thân có thể chết ở nhà nhau được.Loại này thường “đói ăn” nên mỗi
khi bói thấy loại này,hẹn giờ trả lễ ngay.Đối với ma ngoài chì khi người ta
ốm đau,bói thấy thì mới cúng.Ma nhà được cúng vào các ngày tết trong
năm,các dịp cần “mời” cần “báo”.Vào nhà người Giáy,dù nhiều mặt sinh
hoạt đã biến đổi sâu sắc nhưng việc thờ cúng trong nhà vẫn giữ nét
riêng.Gian giữa,phía trong là nơi đặt bàn thờ.Mặc dù tên gọi nơi ấy là “tứ
pảu dà”(thờ ông bà) nhưng nó bao gồm cả thờ 1 số loại khác.Thông thường
bàn thờ nhà người Giáy có ba bát hương,xếp theo thứ tự 1,2,3 kể từ trái sang
phải:
Bát hương 1 thờ”chảo vàng”(vua bếp) cúng vào ngày 23 tháng chạp.
Bát hương 2 thờ “then tỉ”(thiên địa) cùng ngày mồng 2 tết khi trời chưa
sáng rõ.Loại này không nhất thiết nhà nào cũng thờ nhưng đa thờ thì phải
truyện đời.
Bát hương 3 thờ tổ tiên không kể bao đời cho nên khi khấn thường gọi
chung chung”pảu quang láng dà” hay “pau tà dà úm”(ông nội bà ngoại,ông
mang bà bế).Nếu chủ nhà là con nuôi hoặc con rể(thừa tự)muốn thờ họ cha
mẹ đẻ thì đặt thêm bát hương nữa ở bên trái,phía ngoài bát hương thờ tổ
tiên.Bát hương ấy có khi là thờ 1 người nào đótrong họ đã co công gây dựng
cho chủ nhà.Nhà nào không đặt bàn thờ mụ trong buồng thì làm thêm bát
hương đặt ngoài bát hương thờ vua bếp.Người chủ nhà có thể làm 1 bàn nhỏ
cạnh bà thờ lớn đẻ thờ họ vợ hoặc đặt thêm bát hương phía trái ngoài
cùng.Loại này thường để an ủi vợ.Phía dưới bàn thờ,chính giữa,thẳng bát
hương thứ 2 thờ “tỉ chú”(thổ địa giữ đất nền nhà đang ở.Hai bên cửa chính
có 2 ống nhỏ cắm hương và thẳng cửa chính ra phía ngoài sân thờ linh hồn
những người đã cách rất xa với đời hiện tại,để giữ của.
*Ngày tết:
Tháng Giêng trong ngôn ngữ Giáy gọi là “Đươn xiêng” (tháng Tết);
“Vắn xiêng” (ngày Tết); “Cưn xiêng” (ăn Tết); “liều xiêng” (chơi Tết). Họ
bắt đầu ăn Tết từ ngày mổ lợn cho đến ngày 29 tháng Giêng, nhưng mời
khách lại chỉ có 2 ngày, đó là ngày mổ lợn (thường mổ vào ngày 28, 29
tháng Chạp) và ngày tiễn ông bà (hóa vàng). Ngày tiễn ông bà của người
Giáy tùy theo từng dòng họ. Họ Vàng là chiều ngày mồng một, họ Sần, họ
Vạn là chiều ngày mồng ba, các họ còn lại là chiều mồng hai… Các ngày
khác người ta không mời khách nhưng khi chơi Tết người ta có thể tụ tập ở
một nhà nào đó vui chơi và ăn uống hát hò. Tết đến, người ta mổ lợn, gà, vịt,
chế biến nhiều món ăn và làm nhiều bánh trái, sửa sang, quét dọn nhà cửa,
chuẩn bị củi đuốc, thu xếp trả nợ, mua sắm vật dụng và may quần áo mới…
Người Giáy có 5 lần cúng tổ tiên đó là ngày mổ lợn, ngày ba mươi, ngày
tiễn ông bà, rằm tháng Giêng và ngày 29 tháng Giêng gọi là Tết nhỏ (nghĩa
là ngày để kết thúc Tết). Sáng mồng một, khi gà gáy canh đầu tiên, người ta
dậy thắp hương, đốt vàng ở thùng hứng nước hoặc ở thành giếng, sau đó lấy
nước mới đem về đun, pha trà, rửa ấm chén, rửa mặt và cúng ông bà tổ tiên
bằng nước chè, sau đó lấy giấy đỏ, vải đỏ đi dán, buộc vào tất cả mọi vật
dụng trong nhà, công cụ lao động, cây quả .v.v… nghĩa là mọi vật cũng đều
được ăn Tết. Tháng Tết, người Giáy không đi lao động và chưa qua rằm
tháng Giêng không được lấy lửa ở nhà người khác, kiêng mang đồ tang vào
nhà người khác; kiêng vay mượn hoặc lấy đồ, nếu trong trường hợp bắt buộc
phải mượn thì phải có lì xì đặt lên bàn thờ nhà người ta mới được mang đồ
đi. Họ cũng kiêng quét nhà, đổ rác vào ngày mồng một và khi các dòng họ
làm lễ tiễn ông bà xong mới được quét nhà, đổ rác… Ngoài Tết Nguyên đán,
đồng bào Giáy còn rất coi trọng Tết tháng 7 (ăn vào ngày 14 tháng 7). Tết
này coi là Tết thứ hai sau Tết Nguyên đán. Người ta có thể mổ lợn (nếu có),
có thể chung nhau mổ hoặc mua thịt, còn gà, vịt không thể thiếu. Bánh trái
thì đơn giản hơn, nhưng lại có xôi nhiều màu và cũng tổ chức nghỉ ngơi, vui
chơi ba ngày. Tiếp đó là Tết mồng 3 tháng 3 âm lịch, nếu xếp theo thứ tự thì
Tết này đứng thứ ba. Đây là dịp đi tảo mộ và tu sửa mồ mả. Còn Tết mồng
hai tháng hai, mồng bốn tháng tư, mồng năm tháng năm, rằm tháng tám,
tháng chín ăn cơm mới… người ta cúng tổ tiên bằng cốm, xôi cốm trộn lẫn
với xôi từ gạo cũ, cúng đậu đũa, mướp luộc, khoai sọ đồ (có thể thay bằng
đá cuội trắng), những thứ đó mang ý nghĩa là cái cũ và cái mới kết hợp với
nhau, sang năm sẽ không thiếu đói và bông lúa sẽ dài như đậu đũa, quả
mướp, hạt lúa sẽ to như khoai sọ. Tháng mười hai làm bánh giày kết thúc vụ
mùa, tháng mười một đón Tết đông chí, hai mươi ba thánh chạp tiễn táo
công… Cái chung nhất trong những ngày Tết ở nhà đồng bào Giáy là lịch
sự, không nói tục chửi bậy, không đánh cãi nhau. Mọi người vui vẻ, tôn
trọng lẫn nhau, có vướng mắc gì thì vì là Tết nên đều bỏ qua cho nhau…
*LỄ HỘI:
Lễ hội Roòng Poọc của người Giáy.
Hàng năm vào ngày Thìn tháng Giêng âm lịch người Giáy ở Tả Van
(huyện Sa Pa - Lào Cai) lại mở hội Roòng Poọc để cầu mùa màng bội thu,
người yên vật thịnh, mưa thuận, gió hoà.
Tại lễ hội, lễ vật trên bàn cúng bao gồm: Đĩa hoa quả, bánh kẹo, năm bát
xôi màu xanh, đỏ, tím, phỏng gạo bốn bát, hai nắm xôi trắng nắm ý nghĩa vị
thần mang theo trên đường đi. Bên cạnh có bát nước trong có đồng xu tượng
trưng sự sung túc về tiền bạc. Cạnh bát hương là 5 chén nước chè, 9 chén
rượu và 9 quả trứng màu xanh, đỏ, trắng tượng trưng cho màu trang phục
của 9 nàng theo hầu vị thần. Ngoài ra còn có trang sức dành cho các nàng
hầu như khuyên tai, vòng đeo tay, đeo cổ. Bên cạnh bát nước là quả Còn để
ném vòng nhật nguyệt. Một con lợn con, một con gà, con vịt sống để gầm
bàn lễ khi nào già bản khấn cúng xong dâng lên vị thần (hiến tế) với ý nghĩa
cảm ơn vị thần đã cho dân bản nhiều gia súc. Trên ghế vị thần ngồi bên trái
có gánh củi, ý nghĩa trên đường đi vị thần và người hầu có củi để nấu ăn và
sưởi. Bên phải có gánh cỏ, ý nghĩa để trên đường đi ngựa của vị thần có cỏ
để ăn. Trên ghế ngồi của vị thần có trải chăn màu đỏ vì theo dân tộc Giáy
màu đỏ là màu may mắn.
Sau khi chuẩn bị các lễ vật xong thầy cúng khấn cúng, đọc tên các lễ vật
và xin vị thần bản phù hộ cho dân bản một mùa bội thu, gia súc đầy chuồng,
làm được của ăn của để.
Lễ cúng xong thì thầy cúng sẽ đưa quả Còn cho những người già uy tín
trong bản ném vòng Nhật Nguyệt treo ở độ cao 30m. Trong ngày làm lễ
cúng phải ném thủng vòng Nhật Nguyệt, vì người Giáy quan niệm rằng nếu
vòng Nhật Nguyệt không được ném thủng thì cả năm đó bản sẽ đen đủi. Khi
vòng Nhật Nguyệt được ném thủng thì từng gia đình đến bàn thờ chính để
thắp hương vái lạy thần linh, cầu may mắn cho gia đình và làng bản.
Tham gia lễ hội là tất cả già trẻ, lớn bé trong bản. Người Giáy cũng rất cởi
mở khi đón tiếp bạn bè các dân tộc anh em đến xem và chia vui. Sau phần lễ
(cúng tế) là đến phần hội. Nhiều trò chơi dân gian diễn ra rất vui, trong đó
đặc biệt là có cuộc thi tài cày ruộng của những chàng trai.
Mở đầu là trò chơi ném còn. Những người cao tuổi (nam một bên, nữ một
bên) lấy 6 quả còn cùng ném tượng trưng 3 lần khai mạc, rồi sau đó mọi
người vào cuộc chơi. Những quả còn tua xanh đỏ vun vút lao lên phông
còn.Tiếng xuýt xoa hò reo cổ vũ rền vang. Phông còn bị ném thủng là báo
hiệu cho một năm mùa màng tươi tốt.
Cùng với ném còn là chơi kéo co. Tốp nam đứng phía đông cầm phần gốc
dây song (dây kéo co).Tốp nữ đứng phía tây cầm phần ngọn. Hồi trống kèn
nổi nên thùc giục.Bên nam (đằng đông tượng trưng cho dương, mặt trời)
luôn kéo thắng. Bên nữ (tượng trưng cho âm) giả vờ thua. Và như vậy, năm
đó cả làng sẽ được mùa.
Lễ hội Roòng Poọc (xuống đồng) của người Giáy là sự giao hoà giữa thiên
nhiên và con người, làm mỗi người trong cộng đồng nơi đây biết trân trọng
giá trị của lịch sử (ghi nhớ công lao người mở đất lập bản), biết trân trọng
thiên nhiên (tâm linh tôn trọng các thế lực siêu nhiên, biết yêu thương cỏ
cây, tài nguyên đất và nước), biết yêu thương con người (giao lưu, đồng
cảm, đoàn kết). Vì vậy, lễ hội này vừa có nét đẹp văn hoá cổ truyền, vừa phù
hợp với điều kiện cuộc sống hiện đại mà ta vẫn kỳ vọng là sự phát triển bền
vững. Ngoài ra, lễ hội còn thu hút rất nhiều du khách trong và ngoài nước, là
nguồn tài nguyên nhân văn để tiếp tục phát triển kinh tế du lịch nơi vùng đất
huyền thoại Mường Hoa-Sa Pa.
Tuy vốn là lễ hội dân tộc truyền thống của người Giáy ở Tả Van, nhưng
nhiều năm nay đã lan rộng, trở thành lễ hội chung của cả vùng thung lũng
Mường Hoa. Từ sáng sớm, làn sương còn giăng mù mịt từng đoàn người tíu
tít nói cười trong mây, hồ hởi về dự hội. Người Mông từ Hầu Thào, Lao
Chải dồn xuống, người Dao từ Bản Hồ, Bản Phùng ngược lên, du khách từ
thị trấn SaPa cũng tới dự làm cho lễ hội đông vui tới vài nghìn người.
* VĂN HÓA .
Đồng bào Giáy có nhiều truyện cổ,thơ ca,tục ngữ,đồng dao,phong
sao,câu đố.Có truyện vừa kể vừa xen lời hát như truyện “Lực trá”(đại thể
truyện Tấm-Cám người Việt).Một số truyện bằng thơ dài như truyện “Pịt
trai-Phù sỉ”’nàng ẻn tái”v.v…Loại truyện “e toi”(thằng cuội) cũng rất
nhiều.Hầu hết các hiện tượng tự nhiên đều được giải thích bằng 1 câu
chuyện cổ tích và người ta tin đó là nguồn gốc do người xưa đã định,như
câu”xiều con sáo”,”siều láo xuổng”(đời trước đặt ra,đời già để lại).Ví dụ khi
giải thích tại sao có núi thì đồng bào có truyện kể”Pảu looc tó”(ông khổng
lồ) gánh đất lấp biển để lấy đất cho người ở và trồng trọt.Núi là những hòn
đất ông đánh rơi.Hoặc kể rằng núi là những tảng đất ông Loọc tóo cày lật
lên.Tục ngữ được dùng phổ biến trong đời sống.
Đồng bào làm thơ là để đặt lời cho bài hát.Lời hát còn bao gồm những câu
tục ngữ,thành ngữ,câu đố.Người hát giỏi là người vừa thuộc nhiều bài hát có
sẵn và có tài ứng khẩu. Dân tộc giáy chưa có văn tự nên trí nhớ là phương
tiện duy nhất lưu truyền dân ca. Nội dung các bài hát chia làm nhiều loại
như mừng nhà mới, mặt trăng, mặt trời, nước rơi thác…Mỗi loại có tới 12
bài khác nhau. Hát về tình yêu lứa đôi thì nhiều hơn cả. Có 3 hình thức vui
hát.
1.
Hát bên mâm rượu( vươn nả lảu). Loại hát này không nhất thiết phải
là bên nam bên nữ, không kể là những người “ Chân tóc còn xanh”
hay những người “ mặc áo màu không nên” (Cụ già). Nội dung chủ
yếu của loại hát này là ca ngợi rượu ngọt, chè ngon, chúc tụng già
làng sống lâu trăm tuổi, con trẻ khỏe vui, làm ăn sinh sống hạnh
phúc. Loại hát bên mâm rượu mang tính chất nghi lễ, nói nhiều tới
đạo lý con người nên được các già làng yêu thích.
2.
Hát đêm của trai gái, có thể là trai gái chưa vợ chưa chồng nhưng
cũng có cả những người đã “ bảy con nghe tiếng hát trèo qua cửa
sổ” bởi người ta chỉ “ lấy giọng hát chứ không lấy người hát”. Cuộc
hát phải tuân theo trình tự, hát xin phép và chúc thọ chủ nhà, hát
mặt trăng , mặt trời rồi mới được chuyển sang nội dung tình cảm lứa
đôi. Những buổi hát này có thể kéo dài mấy đêm liền.
3.
Hát tiễn đường “vươn srỏong răn”-trai gái gặp nhau giữa đường
hoặc tiễn nhau từ làng này sang làng khác,trao đổi dặn dò nhau bằng
tiếng hát.Tiễn nhau đi đến khi nào “không trông thấy mới về”lúc ấy
tiếng hát mới dứt.Nếu cuộc hát đi sâu vào tình cảm,đôi bên không
nỡ dứt thì có khi người vế cũng phải quay lại để đêm đến tiếp diễn
cuộc hát.Cách hát này không tuân theo trật tự nội dung như hát
đêm,nên thường là hát tình yêu.Dân ca có hai làn điệu.Người Giáy ở
Cao Lạng,Hà Tuyên có điệu “phướn” không những người Giáy hát
mà cả người Nùng,Tày sống gần người Giáy cũng hát.Người Giáy ở
vùng Lào Cai,Tây Bắc có điệu “vươn”,”phướn” đều có nghĩa là
hát.Tùy theo nội dung bài hát mà người hát sử dụng làn điệu cho
phù hợp.
Hiện chưa tìm thấy các điệu múa của người Giáy.Trong tháng
7,các dịp làm then giải hạn then vọng ngâu,trai gái trong làng đến dự cùng
nhau nhảy vui,tay cầm nhạc hoặc khăn,có khi đồng thanh”hú”.
Người Giáy đã làm chủ cuộc đời ,phát huy khả năng lao động sáng tạo
xây dựng cuộc sống mới ngày càng vui tươi.Từ sau cuộc vận động hợp
tác hoàn thành cải cách dân chủ ở miền núi,ruộng đất thực sự thuộc quyền
sở hữu của nông dân tập thể.Chỉ vài năm sau khi xây dựng hợp tác hóa
nông nghiệp,vùng người Giáy đã có 1 số hợp tác hóa tiên tiến như Bản
Vược,Quang Kim,Cốc San…
Số cán bộ Giáy được Đảng,nhà nước đào tạo ngày càng nhiều.tính đến
nay bình quân 1.800 người có 1 người có trình độ đại học,3 người có trình
độ trung học và nhiều người có trình độ sơ cấp thuộc các ngành y ,giáo
dục,công nghiệp thực phẩm,báo chí,văn hóa nghệ thuật…Trường học đang
phát triển ở vùng Giáy và họ đang có nhiều người theo học trong các
trường chuyên nghiệp,đó là điều kiện để tăng nhanh khả năng tiếp thu
khoa học,làm cho đồng bào Giáy mau chóng thoát khỏi nghèo nàn lạc
hậu,cùng với cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hôi thành công.
I,Giới thiệu chung về dân tộc Giáy (Trần Mạnh Hảo)
II,Văn hóa vật thể (Trần Mạnh Hảo)
III,Văn hóa phi vật thể (Nguyễn Thị Lệ Thu)
IV,Phong tục tập quán (Nguyễn Thị Lệ Thu)