Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Triết học Phật giáo và những ảnh hưởng đến đời sống con người Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (630.14 KB, 22 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA VẬT LÍ

TIỂU LUẬN
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG
CỦA NÓ ĐẾN ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI VIỆT NAM

Học viên

: Nguyễn Văn Ngọc

Đà Nẵng, tháng 06 năm 2017

1


MỤC LỤC
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN ............................................................................... 4
1.1. Đặt vấn đề ................................................................................................. 4
1.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................... 5
1.3. Phương pháp nghiên cứu......................................................................... 5
CHƯƠNG 2. PHẬT GIÁO - SỰ RA ĐỜI VÀ NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT
HỌC CƠ BẢN ..................................................................................................... 6
2.1. Sự ra đời của Phật giáo ............................................................................ 6
2.1.1. Hoàn cảnh ra đời của Phật giáo ......................................................... 6
2.1.2. Thân thế và sự nghiệp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ..................... 6
2.2. Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo .................................... 7
2.2.1. Quan điểm của Phật giáo về thế giới quan......................................... 7
2.2.1.1. Vô ngã .......................................................................................... 7
2.2.1.2. Vô thường ..................................................................................... 7


2.2.1.3. Duyên ........................................................................................... 8
2.2.2. Quan điểm của Phật giáo về nhân sinh quan ..................................... 8
CHƯƠNG 3. SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO TRONG ĐỜI SỐNG
XÃ HỘI .............................................................................................................. 14
3.1. Phật giáo và tín ngưỡng dân gian ......................................................... 14
3.2. Phật giáo và tư tưởng, đạo lý người Việt ............................................. 15
3.2.1. Ảnh hưởng của Phật giáo về tư tưởng .............................................. 15
3.2.2. Ảnh hưởng của Phật giáo về đạo lý .................................................. 15
3.3. Phật giáo và phong tục, tập quán người Việt ...................................... 16
3.3.1. Ảnh hưởng của Phật giáo qua tập tục ăn chay, phóng sinh, bố thí .. 16

2


3.3.2. Ảnh hưởng của Phật giáo qua tập tục cúng rằm, mồng một và lễ chùa .. 16
3.4. Phật giáo và lối sống của thanh niên hiện nay..................................... 17
3.5. Phật giáo trong thời đại công nghệ ....................................................... 18
3.6. Phật giáo trong xã hội Việt Nam hiện nay ........................................... 19
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 20
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 22

3


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1. Đặt vấn đề
Đạo Phật là một trong những học thuyết Triết học - tôn giáo lớn nhất trên thế
giới, tồn tại rất lâu đời với hệ thống giáo lý đồ sộ và số lượng phật tử đông đảo
được phân bố rộng khắp. Đạo Phật được truyền bá vào nước ta khoảng thế kỷ II
sau công nguyên và đã nhanh chóng trở thành một tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc

đến đời sống tinh thần của người Việt, bên cạnh đạo Nho, đạo Lão và đạo Thiên
chúa.
Tuy nhiên, tùy ở từng giai đoạn lịch sử của dân tộc mà học thuyết tư tưởng,
tôn giáo này hay học thuyết tư tưởng, tôn giáo khác nắm vai trò chủ đạo, có tác
động mạnh đến nếp sống, thói quen, suy nghĩ của người Việt, như Phật giáo ở thế
kỷ thứ X - XIV, Nho giáo thế kỷ thứ XV - XIX, học thuyết Mác - Lênin từ giữa
thập kỷ 40 của thế kỷ XX. Cho đến nay, những học thuyết này không giữ địa vị
độc tôn mà song song cùng tồn tại với các học thuyết, tôn giáo khác, tác động vào
đời sống xã hội.
Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
Mác - Lênin là tư tưởng chủ đạo, là vũ khí lý luận soi đường cho chúng ta. Nhưng
bên cạnh đó, bộ phận kiến trúc thượng tầng của xã hội cũ vẫn có sức sống dai
dẳng, trong đó giáo lý nhà Phật đã ít nhiều in sâu vào tư tưởng, tình cảm của một
số bộ phận lớn dân cư Việt Nam. Việc xoá bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của nó là
không thể, nên chúng ta cần vận dụng một cách phù hợp để góp phần đạt được
mục tiêu của thời kỳ quá độ cũng như sau này. Do đó, việc tìm hiểu nghiên cứu
Phật giáo đối với thế giới quan, nhân sinh quan của con người là hết sức cần thiết.
Việc đi sâu nghiên cứu, đánh giá những mặt tiến bộ cũng như hạn chế, Phật giáo
giúp ta hiểu rõ tâm lý người dân hơn và qua đó tìm ra được một phương cách để
hướng đạo cho con người một cách chân chính, đúng đắn. Theo đạo để làm điều
thiện, tránh cái ác.
Hơn nữa quá trình Phật giáo phát triển, truyền bá ở Việt Nam gắn liền với
quá trình hình thành, phát triển tư tưởng, đạo đức của con người. Vì vậy, khi
4


nghiên cứu lịch sử, tư tưởng, đạo đức Việt Nam không thể không đề cập đến Phật
giáo và những mối quan hệ, tác động qua lại giữa chúng.
Tóm lại, nghiên cứu Phật giáo và nhìn nhận, đánh giá nó là một nội dung
quan trọng nhằm tìm hiểu lịch sử cũng như định hướng cho sự phát triển nhân

cách, tư duy con người Việt Nam trong tương lai.
1.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là triết học Phật giáo, ảnh hưởng của Phật
giáo đến đời sống xã hội Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là những tư tưởng cơ bản của triết học Phật
giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống xã hội Việt Nam.
1.3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, logic phân tích
và tổng hợp gắn với lí luận thực tiễn là các phương pháp được sử dụng để thực
hiện đề tài.

5


CHƯƠNG 2. PHẬT GIÁO
- SỰ RA ĐỜI VÀ NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CƠ BẢN
2.1. Sự ra đời của Phật giáo
2.1.1. Hoàn cảnh ra đời của Phật giáo
Xã hội Ấn độ cổ đại ra đời từ rất sớm và là nơi xuất hiện nền văn minh sông
Ấn (khoảng thế kỉ thứ XXV TCN). Đến thế kỉ thứ XV TCN, có sự xâm nhập của
người Arya vào khu vực của người bản địa, người Dravida, hình thành nền các
quốc gia Ấn độ với nền văn hóa mới - nền văn hóa Véda.
Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế - xã hội Ấn độ cổ đại là mô hình “công xã
nông thôn”. Đặc trưng của nó là ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà nước, dưới
sự cai trị của các Đế vương, mà gắn liền với nó là sự bần cùng của người dân
trong công xã. Xã hội thời kì này bị phân chia thành bốn đẳng cấp chính: tăng lữ,
quý tộc, bình dân tự do và nô lệ cung đình. Mỗi đẳng cấp giữ một thế sinh hoạt
riêng và có phân biệt sâu sắc. Trong khi những người Bà-la-môn có uy tín tuyệt
đối trong xã hội và được hưởng rất nhiều đặc quyền thì đẳng cấp nô lệ lại có cuộc
sống cơ cực lầm than. Giữa các đẳng cấp tồn tại mẫu thuẫn gay gắt mà kết quả là

những cuộc đấu tranh giai cấp giữa các đẳng cấp trong xã hội. Trong cuộc đấu
tranh ấy, nhiều tôn giáo và trường phái triết học ra đời, trong đó có Phật giáo.
Phật giáo lí giải căn nguyên của nỗi khổ và tìm đường giải thoát cho con
người khỏi nỗi khổ triền miên trong xã hội nô lệ Ấn độ. Vì chống lại sự ngự trị
của đạo Bà-la-môn và kinh Véda nên Phật giáo được xem là dòng triết học không
chính thống.
2.1.2. Thân thế và sự nghiệp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
Người sáng lập ra Phật giáo là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, tên thật là Tất
Đạt Đa (Siddhattha), họ là Cù Đàm (Goutama), thuộc bộ tộc Sakya. Người sinh
ngày 15 tháng 4 năm 563 TCN, là thái tử của vua Tịnh Phạn, một nước nhỏ nằm
ở Bắc Ấn Độ.

6


Nhìn rõ nỗi khổ của chúng sinh, Tất Đạt Đa từ bỏ cuộc sống cao sang quyền
quý, dòng dõi Đế vương, quyết xuất gia tầm đạo để tìm đường giải thoát con người
khỏi nỗi khổ. Ròng rã suốt sáu năm tu hành, ở tuổi 35, Người đã giác ngộ tìm ra
chân lí “Tứ diệu đế” và “Thập nhị nhân duyên”, giúp giải thoát nỗi khổ cho chúng
sinh.Từ đó Người đi khắp nơi truyền bá tư tưởng của mình và trở thành người
sáng lập ra tôn giáo mới - Phật giáo.
Qua hơn 40 năm truyền đạt giáo lí khắp Ấn Độ, Người được suy tôn là Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni. Người qua đời ở tuối 80 và để lại cho nhân loại những tư
tưởng triết học Phật giáo vô cùng quý giá.
2.2. Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo
Tư tưởng triết học Phật giáo thể hiện trên hai phương diện: thế giới quan và
nhân sinh quan, chứa đựng những tư tưởng duy vật và biện chứng chất phác.
2.2.1. Quan điểm của Phật giáo về thế giới quan
Quan điểm về thế giới quan của Phật giáo được thể hiện tập trung ở nội dung
của ba cặp phạm trù: vô ngã, vô thường và duyên.

2.2.1.1. Vô ngã
Phật giáo cho rằng thế giới xung quanh ta và cả con người không phải do
một “đấng sáng tạo”, một vị thần nào tạo ra mà được cấu thành bởi sự kết hợp
giữa hai yếu tố: sắc và danh.
Sắc là yếu tố vật chất, có thể cảm giác được. Danh là yếu tố tinh thần, không
có hình chất mà chỉ có tên gọi. Danh và sắc hợp thành “Ngũ Uẩn”, bao gồm: sắc
(vật chất), thụ (cảm giác), tưởng (ấn tượng), hành (suy lý) và thức (ý thức). Danh
và sắc tác động qua lại tạo nên vạn vật và con người. Sự tồn tại của vật chất chỉ
là tạm thời, không phải là vĩnh viễn, cho nên cũng không tồn tại cái “tôi”.
2.2.1.2. Vô thường
Vạn vật biến đổi theo một chu trình: Sinh - Trụ - Dị - Diệt (Sinh - Lão - Bệnh
- Tử). Đức Phật dạy “tất cả những gì trong thế giới đó là biến đổi, hư hoại, đều là
vô thường”. Vì vậy, vô thường nghĩa là không thường, không mãi ở yên trong một
7


trạng thái nhất định mà luôn luôn thay đổi hình dạng, đi từ trạng thái hình thành
đến biến dị rồi tan rã.
Vô thường là phương pháp chỉ rõ mặt trái của đời, để bài trừ những sự mê
lầm, chạy theo vật dục. Vô thường là định luật chi phối vạn vật từ thân tâm đến
hoàn cảnh. Hiểu được điều đó, con người dễ giữ được bình tĩnh, thản nhiên trước
cảnh đổi thay bất ngờ.
2.2.1.3. Duyên
Vạn vật đều chịu sự chi phối của luật nhân duyên. Trong đó duyên chính là
điều kiện để nguyên nhân trở thành kết quả. Kết quả ấy lại nhờ có duyên mà trở
thành nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà trở thành kết quả mới. Cứ như
vậy mà tạo nên sự biến đổi không ngừng của vạn vật tuân theo quy luật NhânQuả. Nhân và Quả là hai trạng thái nối tiếp nhau, nương vào nhau mà có. Nhân là
cái mầm, Quả là từ mầm mà có. Nếu không có Nhân thì không thể có Quả, nếu
không có Quả là không thể có Nhân, Nhân thế nào thì Quả thế ấy. Nghĩa là Nhân
và Quả bao giờ cũng cùng một loại, Nhân đổi thì Quả đổi.

Một Nhân không thể tự thành Quả nếu không có sự giúp đỡ của nhiều Nhân
khác vì vạn vật đều là sự tổ hợp của nhiều nhân duyên. Quả là sự vật đã chuyển
thành cái mà ta mong đợi, ước muốn. Vì thế mỗi vật đều có thể gọi là Nhân hay
Quả đều được. Đối với quá khứ nó là Quả, đối với tương lai thì nó là Nhân. Sự
biến chuyển từ Nhân thành Quả có khi nhanh, khi chậm, không phải bao giờ cũng
diễn ra trong một thời gian đồng nhất.
Tóm lại, Phật giáo bát bỏ quan niệm duy tâm cho rằng thần thánh sáng tạo
ra vạn vật. Phất giáo thừa nhận vạn vật được cấu thành từ các yếu tố vật chất và
tinh thành và chúng biến đổi không ngừng. Đó chính là quan điểm duy vật biện
chứng của Phật giáo.
2.2.2. Quan điểm của Phật giáo về nhân sinh quan
Quan điểm của Phật giáo về nhân sinh quan bao gồm: “Nghiệp”, thuyết “Tứ
Diệu Đế” và “Ngũ giới”.
8


a. Nghiệp
Phật giáo cho rằng một linh hồn không thể được tạo nên một cách ngẫu nhiên
và độc đoán từ sự toàn năng của thượng đế hay một Đức Phật nào. Phật giáo tin
rằng có một định luật tự nhiên chi phối vạn vật.
Theo lý nghiệp báo, chúng ta không bị trói buộc bởi một quy luật tiền định
nào, chúng ta có đủ năng lực để chuyển phần nào cái nghiệp của ta theo ý muốn.
Tóm lại, nghiệp là năng lực cá biệt được chuyển từ kiếp này sang kiếp khác
và phụ thuộc vào sự biến đổi của tâm lực. Nghiệp giúp cấu thành nên tâm lí con
người và giải thích những hiện tượng thiên tài, vĩ nhân, thần đồng.
b. Thuyết tứ Diệu đế
Tứ Diệu đế là bốn chân lý của Phật giáo, gồm: khổ đế, tạo đế, diệt đế và đạo đế.
• Khổ đế
Khổ đế là thực trạng đau khổ của con người. Phật giáo cho rằng đời người là
một bể khổ, ràng buộc, hệ lụy và không tự do, có tám cái khổ gồm: sinh, lão, bệnh,

tử, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, sở cầu bất đắc, ngũ thụ uẩn. Tùy theo phương
diện ta có cách hiểu về “khổ” khác nhau:
Phương diện sinh lý: khổ là cảm giác khó chịu, đau đớn. Gồm: sinh, lão,
bệnh, tử.
Phương diện tâm lý: khổ là sự mất mát, thua thiệt, không hài hòng, thất
vọng,… Gồm: ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, sở cầu bất đắc.
Phương diện Phật học: khổ là ngũ thụ uẩn, gồm: sắc, thọ, tưởng, hành và
thức. Khi ta bám víu vào năm yếu tố trên, coi đó là ta, là của ta, là tự ngã của ta
thì sự khổ đau có mặt. Ý niệm “tôi” hình thành cái ham muốn, vị kỷ mà từ đó mọi
khổ đau phát sinh.
Tóm lại, khổ là sự đau đớn về thể xác, sự dằn vặt về tinh thần và là kết quả
hàng loạt nhân duyên được tạo tác từ tâm thức. Để thấu hiểu được căn nguyên của

9


nỗi khổ, con người không thể dừng lại ở sự thật của đau khổ, hay quay đầu chạy
trốn, mà phải đi vào soi sáng cái bản chất nội tại của nó.
• Tập đế
Tập đế là sự thật vững chắc nói về nguyên nhân của những nỗi khổ đã tích
lũy lâu đời, lâu kiếp trong mọi chúng sinh và đây chính là cội rễ của sanh tử luân
hồi. Có 12 nguyên nhân gây ra sự đau khổ, gọi là thập nhị nhân duyên, gồm:
1. Vô minh: Vô minh là không sáng suốt, là mề lầm, không nhận được bản
tính duyên khởi chân thật. Do vô minh, nên không biết tất cả sự vật, dầu thân, dầu
cảnh, dầu sinh, dầu diệt, dầu năng, dầu sở, dầu có, dầu không, đều do nhân duyên
hội họp mà giả dối sinh ra, do nhân duyên tan rã mà giả dối mất đi, đều theo nhân
duyên mà chuyển biến như huyễn, như hóa, không có thật thể. Chính vì không
biết như thế, nên lầm nhận thật có cái ta, thật có cái thân, thật có hoàn cảnh, rồi
do sự đối đãi giữa thân tâm và cảnh giới, phát khởi ra những tâm niệm sinh diệt
chuyển biến không ngừng.

2. Hành: Hành, chính là cái tâm niệm sinh diệt chuyển biến không ngừng ấy,
nó làm cho chúng sanh nhận lầm có cái tâm riêng, cái ta riêng của mình, chủ
trương gây các nghiệp, rồi về sau chịu quả báo.
3. Thức: Tâm niệm sinh diệt tiếp tục ấy, theo nghiệp báo duyên ra cái thức
tâm của mỗi đời, chịu cái thân và cái cảnh của loài này hoặc loài khác.
4. Danh sắc: Các thức theo nghiệp báo duyên sinh ra danh sắc. Sắc, bao gồm
những cái có hình tướng, như thân và cảnh; Danh, bao gồm nhwnxgc ái không có
hình tướng, như cái sự hay biết, nói một cách khác, là thức tâm thuộc nghiệp nào,
thì hiện ra thâm tâm và cảnh giới của nghiệp ấy.
5. Lục nhập: Thân tâm đối với cảnh giới thì duyên khởi ra các sự lãnh nạp
nơi 6 giác quan, nhãn căn lãnh nạp sắc trần, nhĩ căn lãnh nạp thanh trần, tỷ căn
lãnh nạp hương trần, thiệt căn lãnh nạp vị trần, thân căn lãnh nạp xúc trần và ý
căn lãnh nạp pháp trần.

10


6. Xúc: Do những lãnh nạp như thế, mà các trần ảnh hưởng đến tâm hay biết
sinh ra quan hệ với nhau, nên gọi là xúc.
7. Thọ: Do những quan hệ giữa tâm và cảnh như thế, nên sinh ra các thọ là
khổ thọ, lạc thọ, hỷ thọ, ưu thọ và xả thọ.
8. Ái: Do các thọ đó, mà sinh lòng ưa ghét, đối với lạc thọ, hỷ thọ thì ưa, đối
với khổ thọ, ưu thọ thì ghét và đã có ưa ghét thì tâm gắn bó với thân, với cảnh,
hơn bao giờ hết.
9. Thủ: Do tâm gắn bó với thân, với cảnh nên không thấy được sự thật như
huyễn, như hóa, mà còn kết hợp được những ảnh tượng rời rạc đã nhận được nơi
hiện tại, thành những sự tướng có định, rồi từ đó chấp mọi sự vật đều có thật, sự
chấp trước như thế, gọi là thủ.
10. Hữu: Do tâm chấp trước, nên những sự vật như huyễn như hóa lại biến
thành thật có, có thân, có cảnh, có người, có ta, có gây nghiệp, có chịu báo, có

sống và có chết, cái có như thế, tức là hữu.
11. Sinh: Có sống, tức là có sinh, nói một cách khác, là do không rõ đạo lý
duyên khởi như huyễn, không có tự tánh, nên nhận lầm thật có sinh sống.
12. Lão tử: Lão tử là già rồi chết. Do có sinh sống, nên có già, rồi có chết.
Tóm lại, tùy theo cách nhìn của mỗi người về cuộc đời mà có khổ hay không.
Nếu không bị dục vọng, vị kỷ hay phiền nào khuấy động, chi phối, ngự trị trong
tâm thì cuộc đời đầy an lạc, hạnh phúc.
• Diệt đế
Phật giáo cho rằng nguyên nhân của nỗi khổ là do sự vận hành của thập nhị
nhân duyên mà gốc rễ là vô minh. Khi vô minh bị diệt thì trí tuệ bừng sáng, hiểu
được vạn vật, không còn tham vọng, không còn tạo nghiệp nữa và vì vậy mà thoát
khỏi vòng luân hồi sinh tử. Một khi người ta đã làm lắng dịu lòng tham thì những
nỗi âu lo, sợ hãi, bất an giảm dần, thâm tâm trở nên thanh thản, nhẹ nhàng. Lúc
đó, con người sẽ trở nên rộng lượng hơn, cư xử sáng suốt hơn, nhận thức sự vật

11


hiện tượng sâu sắc hơn, chính xác hơn. Tùy theo khả năng giảm thiểu lòng lam,
vô minh đến mức độ nào mà đời sống sẽ tăng phần hạnh phúc đến mức độ ấy.
• Đạo đế
Đạo đế là con đường tu hành để diệt trừ đau khổ. Thực hiện Đạo đế là một
quá trình lâu dài, kiên trì, giữ nguyên giới luật, tập trung thiên định cao độ. Phật
giáo đã trình bày 8 con đường hay 8 nguyên tắc (Bát chính đạo) buộc ta phải tuân
thủ bát chính đạo gồm:
Chính kiến: Phải nhận thức đúng, phân biệt được phải trái
Chính tư duy: Suy nghĩ phải chính, phải đúng đắn.
Chính nghiệp: Hành động phải chân chính.
Chính ngữ: Nói phải đúng, không gian dối
Chính mệnh: Sống trung thực, không tham lam, vụ lợi, gian tà.

Chính tịnh tiến: Phải nỗ lực, siêng năng học tập, có ý thức vươn lên.
Chính niệm: Phải luôn luôn hướng về đạo lý chân chính.
Chính định: Kiên định tập trung tư tưởng vào con đường chân chính.
Muốn thực hiện được “ Bát chính đạo” thì phải có phương pháp để thực hiện
nhằm ngăn ngừa những điều gian ác gây thiệt hại cho mình và những người làm
điều thiện có lợi ích cho mình và cho người. Nội dung của các phương pháp đó là
thực hiện “ Ngũ giới” (năm điều răn) và “Lục độ” (Sáu phép tu).
Ngũ giới” gồm:
Bất sát: Không sát sinh
Bất đạo: Không làm điều phi nghĩa.
Bất dâm: Không dâm dục.
Bất vọng ngữ: Không bịa đặt, không vu oan cho người khác.
“Lục độ” gồm:

12


Bố thí: Đem công sức, tài trí, của cải để giúp người một cách thành thực chứ
không để cầu lợi hoặc ban ơn.
Trí giới: Trung thành với điều răn, kiên trì tu luyện.
Nhẫn nhục: Phải biết kiên nhẫn, nhường nhịn, chịu đựng.
Tịnh tiến: Cố gắng nỗ lực vươn lên.
Thiền định: Tư tưởng phải tập trung vào điều ngay, không để cho cái xấu che
lấp.
Bát nhã: Trí tuệ hiểu thấu hết mọi chuyện trên thế gian.
Tóm lại: Phật giáo cho rằng chỉ có bằng sự kiên định để thực hiện “Bát hành
đạo”, “Ngũ giới”, “Lục độ” thì chúng sinh mới có thể giải thoát mình ra khỏi nỗi
khổ. Phật giáo không chủ trương giải phóng bằng cách mạng xã hội. Mặc dù Phật
giáo lên án rất gay gắt chế độ người bóc lột người, chống lại chủ nghĩa duy tâm
cua Bàlamôn giáo. Đó là một trong những nhược điểm đồng thời cũng là ưu điểm

nửa vời của Đạo phật. Đứng trước bể khổ của chúng sinh Phật giáo chủ trương
cải tạo tâm linh chứ không phải cải tạo thế giới hiện thực. Như vậy Phật giáo
nguyên thuỷ có tư tưởng vô thần, phủ nhận đấng sáng tạo (vô ngã, vô tạo giả) và
có tư tưởng biện chứng (vô thường, lý thuyết Duyên khởi). Tuy nhiên, Triết học
Phật giáo cũng thể hiện tính duy tâm chủ quan khi coi thế giới hiện thực là ảo giả
và do cái tâm vô minh của con người tạo ra.

13


CHƯƠNG 3. SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO
TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
3.1. Phật giáo và tín ngưỡng dân gian
Phật giáo rất gần gũi và dễ hòa hợp với tín ngưỡng dân gian nước ta. Nếu
đặc điểm tôn giáo Việt Nam là thờ cúng tổ tiên, thần thánh thì Phật cũng được coi
là tổ tiên, thần thánh, phật điện cũng trở thành thần điện, tính tâm linh Ấn Độ
nhường bước cho tính tình cảm Việt Nam. Hơn đâu hết, tôn giáo Việt Nam nặng
về tính tình cảm hơn là giáo lý.
Phật giáo biết bám lấy làng xã bằng nhiều hoạt động cụ thể có tổ chức, kết
hợp với tín ngưỡng bản địa, hội hè. Nhà sư và ngôi chùa có vai trò quan trọng
trong đời sống dân gian cổ truyền. Ở Bắc Bộ trước đây, hầu như làng nào cũng có
chùa. Ngoài thờ Phật, chùa còn thêm tín ngưỡng dân gian thờ thần tiên, thờ các vị
tướng có công với nước. Ngôi chùa trở thành một trung tâm văn hoá làng. Có thể
nói, Phật giáo đã góp phần làm phong phú thêm nền văn hoá dân tộc. Nho giáo về
mặt nào đó làm cho tư tưởng văn hoá khô cứng thì Phật giáo có phần làm mềm
hơn, phong phú và sinh động hơn. Hội chùa cũng như hội làng là tiêu biểu cho sự
hồ hởi của công xã, là một dịp để con người được giải phóng tình cảm, hoà cái ta
của mình vào cái ta của làng xã, không bị giáo lý khuôn phép gò bó và toả chiết
tâm hồn. Dưới mái nhà chùa mà vẫn được phép giao lưu tình cảm. Chả thế mà
bao nhiêu câu chuyện tình duyên đằm thắm đã xảy ra bên cạnh cửa thiền. Thế ra

cửa từ bi không hề nghiêm ngặt như chốn sân Trình cửa Khổng. Phật chứng nhận
cho cuộc sống hồn nhiên của làng xã.
Tâm lý dân gian Việt Nam ta thiên về sự cân bằng, sự bù đắp. Nỗi khổ hôm
nay phải được đền bù bằng sự sung sướng ngày mai. Cô Tấm trong cổ tích trải
qua bao gian nan cuối cùng vẫn được hưởng hạnh phúc. Phật giáo cũng hứa hẹn
với con người sự đền bù không do quyền phép nào, chỗ dựa nào của nho giáo,
cũng không do cán cân phúc tội của đạo gia, mà do chính nỗ lực của bản thân
mình. Tâm lý người Việt Nam ta phần nhiều cũng quan niệm nhận thức như vậy,
mà chăc chắn không phải vì do họ quán triệt thuyết bát chánh đạo của nhà thiền.
14


Tuy nhiên, không phải phật giáo đi được vào quần chúng, và có một sự gắn
bó sâu sa nhất định mà không một sự thẩm định, lựa chọn nào. Dân gian xưa
không có điều kiện hay trình độ để làm việc ấy, song khi họ chấp nhận, chối bỏ
hoặc biến hóa những giáo lý để thích nghi với trình độ tư duy, với các sinh hoạt
của họ tức là họ đã “lộ” cái ý đồng hay không đồng. Có thể nói rằng, văn hoá Việt
Nam hoá phật hơn là phật hoá. Phật giáo đến Việt Nam dù là phật giáo nguyên
thuỷ hay đa dạng sau này bởi tiểu thừa hay đại thừa thì vẫn phải nhập với tín
ngưỡng bản địa. để biến Man Nương thành Phật Mẫu, Ỷ Lan thành Quan Âm mà
không cần phải tạo ra xung quanh nhân vật ấy những gì huyền bí thần kỳ cho lắm.
Trong mấy chục năm lại đây, Phật tử Việt Nam rất chăm lo đến việc thực
hiện các nghi lễ của đạo mình. Họ hay lên chùa trong các ngày lễ, họ trân trọng
thành kính trong khi thi hành lễ, họ siêng năng trong việc thiền định, giữ giới, làm
việc thiện. Việc ăn chay hàng tháng trở thành thói quen không thể thiếu của người
theo Đạo Phật. Mặt khác, nhà chùa sẵn sàng thực hiện các yêu cầu của họ như cầu
siêu, giản oan,... Tất cả những điều này củng cố niềm tin vào giáo lý, vừa qui định
tư duy và hành động của họ, tạo cơ sở để hình thành những nhân cách riêng biệt.
3.2. Phật giáo và tư tưởng, đạo lý người Việt
3.2.1. Ảnh hưởng của Phật giáo về tư tưởng

Giáo lý nghiệp báo đã được truyền vào nước ta từ rất sớm và trở thành nếp
sống hết sức sáng tỏ đối với người Việt Nam có hiểu biết. Dân ta có câu: “Ở hiền
gặp lành; ác giả ác báo”, đây chính là kết quả tự nhiên, âm thầm của lý nghiệp
báo. Nghiệp báo luân hồi đã in đậm nét trong văn chương bình dân, trong văn học
chữ Nôm, chữ Hán và đã dẫn dắt từng thế hệ con người hành động sao cho tốt
đẹp, đem lại hòa bình an vui cho con người.
3.2.2. Ảnh hưởng của Phật giáo về đạo lý
Đạo lý từ bi, hiếu hòa, hiếu sinh của Phật giáo đã ảnh hưởng và thấm nhuần
trong tâm hồn người Việt. Điều này được thể hiện rõ qua con người của Nguyễn
Trãi (1380-1442) - nhà văn, nhà chính trị, tư tưởng kiệt xuất của nước ta, ông đã
biến đạo lý từ bi thành đường lối chính trị trong “Bình Ngô Đại Cáo”:
15


“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy trí nhân để thay cường bạo”
Vì vậy, sau khi đánh thắng quân nhà Minh, không những không giết, ta còn
cấp thuyền bè, lương thực để họ rút về nước.
Ca dao Việt Nam thể hiện rõ tinh thần thương người của Phật giáo: “Lá lành
đùm lá rách” hay “Nhiễu điều phủ lấy giá gương; Người trong một nước phải
thương nhau cùng”. Những câu ca dao này nói lên lòng nhân ái vị tha của dân tộc.
Ngoài đạo lý từ bi, dân ta còn chịu ảnh hưởng từ đạo lý tứ ân của Phật giáo,
gồm ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân quốc gia và ân chúng sanh. Đạo lý này được xây
dựng theo một trình tự phù hợp với sự phát triển của tâm lý về tình cảm của người
Việt. Tình thương bắt đầu từ thân đến thương cha mẹ, họ hàng, lan dần đến tình
thương trong các mối quan hệ xã hội với thầy bạn, đồng bào, quê hương đất nước
và mở rộng đến nhân loại, vũ trụ. Trong đạo lý tứ ân thì ân cha mẹ là nổi bật và
ảnh hưởng sâu đậm trong tình cảm người Việt.
3.3. Phật giáo và phong tục, tập quán người Việt
3.3.1. Ảnh hưởng của Phật giáo qua tập tục ăn chay, phóng sinh, bố thí

Ăn chay xuất phát từ quan niệm từ bi của Phật giáo. Đạo Phật không muốn
sát sinh hại vật mà trái lại là phải thương yêu muôn loài. Ăn chay, thờ Phật là việc
đi đôi với nhau của người Việt. Cùng với thờ Phật, tục thờ cũng tổ tiên của người
Việt có từ lâu đời. Tục này xuất phát từ lòng hiếu kính đối với ông bà, cha mẹ, tổ
tiên. Tín ngưỡng này được một số bình dân nhập làm một với Đạo Phật, Phật giáo
có nhiều kinh đề cập đến vấn đề này như Kinh Vu Lan, Báo Phụ Mẫu Ân,…
Cũng xuất phát từ tinh thần từ bi của đạo Phật, tục lệ bố thí, phóng sinh đã
ăn sâu vào đời sống sinh hoạt của quần chúng nhân dân lao động. Người dân thích
làm phước bố thhí và sẵn sàng giúp đỡ kẻ nghèo khó, hoạn nạn.
3.3.2. Ảnh hưởng của Phật giáo qua tập tục cúng rằm, mồng một và lễ chùa
Những ngày lễ lớn như lễ Phật Đãn, Vu Lan, tắm Phật, thật sự đã trở thành
ngày hội văn hóa của người Việt. Điều này phù hợp với nét sinh hoạt cộng đồng
16


truyền thống. Những ngày lễ này giúp gắn bó người Việt với nhau, nâng cao yêu
thương đồng loại và nảy nở lòng hy sinh, tính vị tha, củng cố lòng hiếu kính với
ông bà, cha mẹ. Ảnh hưởng đó ngày càng sâu rộng trong quần chúng nhân dân.
Tóm lại, Phật giáo đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình và duy
trì các tập tục dân gian người Việt.
3.4. Phật giáo và lối sống của thanh niên hiện nay
Tư tưởng Phật giáo có ảnh hưởng ít nhiều đến đời sống của thanh thiếu niên
hiện nay. Ở các trường phổ thông, tổ chức đoàn, đội luôn phát động các phong
trào nhân đạo như “ Lá lành đùm lá rách”, “quỹ giúp bạn nghèo vượt khó”, “quỹ
viên gạch hồng”,… Ngay từ nhỏ các em học sinh đã được giáo dục tư tưởng nhân
đạo, bác ái, giúp đỡ người khác mà cơ sở của nền tảng ấy là tư tưởng giáo lý nhà
Phật đã hoà tan với giá trị truyền thống của con người Việt Nam. Lên đến cấp III
và vào Đại học, những thanh thiếu niên có những hoạt động thiết thực hơn. Việc
giúp đỡ người khác không phải hạn chế ở việc xin bố mẹ tiền để đóng góp mà có
thể bằng chính kiến thức, sức lực của mình. Sự đồng cảm với những con người

gặp khó khăn, những số phận bất hạnh cô đơn, cộng với truyền thống từ bi, bác ái
đã giúp những học sinh, sinh viên còn ngồi trên ghế nhà trường có đủ nghị lực và
tâm huyết để lập ra những kế hoạch, tham gia vào những hoạt động thiết thực như
hội chữ thập đỏ, hội tình thương, các chương trình phổ cập văn hoá cho trẻ em
nghèo, chăm nom các bà mẹ Việt Nam nghèo,... Hình ảnh hàng đoàn thanh niên,
sinh viên hàng ngày vẫn lăn lội trên mọi nẻo đường tổ quốc góp phần xây dựng
đất nước, tổ quốc ngày càng giàu mạnh thật đáng xúc động và tự hào. Tất cả những
điều đó chứng tỏ thanh niên, sinh viên ngày nay không chỉ năng động, sáng tạo
đầy tham vọng trong cuộc sống mà còn thừa hưởng những giá trị đạo đức tốt đẹp
của ông cha, đó là sự thương yêu, đùm bọc lẫn nhau giữa mọi người, lòng thương
yêu giúp đỡ mọi người qua cơn hoạn nạn mà không chút nghĩ suy, tính toán. Và
ta không thể phủ nhận Phật giáo đã góp phần tạo nên những giá trị tốt đẹp
ấy.Chúng ta càng phải nhắc đến giá trị đó trong khi cuộc sống ngày nay ngày càng
xuất hiện những hiện tượng tiêu cực. Trong khi có những sinh viên còn khó khăn
17


đã dồn hết sức mình để học tập cống hiến cho đất nước thì vẫn còn một số bộ phận
thanh niên ăn chơi, đua đòi, làm tiêu tốn tiền bạc của cha mẹ và đất nước. Tối đến,
người ta bắt gặp ở các quán bar, sàn nhảy những cô chiêu, cậu ấm đang đốt tiền
của bố mẹ vào những thú vui vô bổ. Rồi những học sinh, sinh viên lầm đường lỡ
bước vào ma tuý, khiến cho bao gia đình tan nát, biết bao ông bố bà mẹ cay đắng
nhìn những đứa con của mình bị chịu hình phạt trước pháp luật. Thế hệ trẻ ngày
nay nhiều người chỉ biết chạy theo vật chất, bị cuốn hút bởi những thứ ăn chơi sa
đoạ làm hại đến gia đình và cộng đồng. Hơn bao giờ hết việc giáo dục nhân cách
cho thế hệ trẻ trở nên rất quan trọng và một trong những phương pháp hữu ích là
nêu cao truyền bá tinh thần cũng như tư tưởng nhà Phật trong thế hệ trẻ. Đó thực
sự là công việc cần thiết cần làm ngay.

3.5. Phật giáo trong thời đại công nghệ

Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, mọi lĩnh vực trong đời
sống con người đều có bước nhảy vọt. Xu thế toàn cầu hoá thể hiện ngày càng rõ
nét. Điều kiện đó đòi hỏi con người phải hết sức năng động, nhanh nhạy nắm bắt
vấn đề trong cuộc sống. Trong khi đó, theo giáo lý nhà Phật con người trở nên
không có tham vọng tiến thân, bằng lòng với những gì mình đã có, sống nhẫn
nhục, không đấu tranh, hướng tới cõi niết bàn khi cuộc sống trần gian đã chấm
dứt. Như vậy đạo đức Phật giáo đã tách con người ra khỏi điều kiện thực tiễn của
xã hội, làm cho con người có thái độ chấp nhận chứ không phải là cải tạo thế giới.
Đạo đức xuất thể của Phật giáo là chạy trốn nhu cầu bản năng chứ không phải chế
ngự thiên nhiên, bắt nó phục vụ cho mình. Các chương trình xã hội của Phật giáo
không phải cải tạo lại điều kiện sống mà chỉ để cố san bằng xã hội bằng đạo đức,
trong xã hội đó ai cũng từ bi, bác ái, hỉ xả, nhẫn nhục,... Đạo đức nhà Phật mất
dần giá trị cũng chính thái độ yếu thế này, với nhà Phật những nhu cầu về thể xác
thì bị coi là trần tục, kém đạo đức, nhất là trong cuộc sống ngày nay, khi mà con
người đã đạt được một trình độ nhất định, quan niệm trên càng không thể chấp
nhận được. Do đó, ảnh hưởng của Phật giáo càng xa rời thế hệ trẻ.
18


3.6. Phật giáo trong xã hội Việt Nam hiện nay
Chúng ta cũng nhận thấy rằng, ngày nay trong số những người đi chùa, nhiều
người không có đủ tri thức về Phật giáo cho nên khó có thể giáo dục đạo Phật một
cách tự giác, tích cực trong xã hội và gia đình. Người dân lên chùa thường quá
chú trọng đến lễ vật, đến các ham muốn tầm thường. Do không được giáo dục đầy
đủ, đúng đắn giáo lý nhà Phật, số đông thanh thiếu niên đã đua theo thị hiếu của
mọi người. Họ đến chùa cúng bái, thắp hương vái xin Phật, Bồ Tát, La Hán phù
hộ độ trì cho họ đạt được mong muốn của mình. Những mong muốn ấy thường là
chuyện học hành, tình cảm, sức khoẻ, vật chất... hoặc hơn nữa, họ coi đến chùa
chỉ là hình thức đi chơi, giải trí với bạn bè kèm theo đó là sự thiếu nghiêm túc
trong ăn mặc, đi đứng, nói năng. Số lượng học sinh, sinh viên nói riêng cũng như

số lượng người dân đi chùa gần đây càng đông, song xem ra ý thức cầu thiện, cầu
mạnh về nội tâm còn quá ít so với những mong muốn tư lợi. Có rất ít người đến
chùa để tìm sự thanh thản trong tâm hồn, để tu dưỡng nghiền ngẫm đạo lý làm
người, về thiện - ác. Như vậy, mục đích đến chùa của nột số người dân đã sai lầm
so với điều mà giáo lý nhà Phật muốn hướng con người ta vào.
Thời đại ngày nay, là thời đại phát triển. Nước ta vừa trải qua mấy chục năm
chiến tranh và hàng chục năm sống dưới chế độ quan liêu bao cấp, đời sống còn
nghèo nàn, lạc hậu rất đến sự phát triển. Phát triển có nghĩa là sự tăng trưởng
nhanh chóng về kinh tế, đời sống vật chất và văn hoá. Đảng và Nhà nước đã chỉ
ra nhiệm vụ trước mắt làm dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Để
đạt mục tiêu này nước ta cần có những người năng động, lạc quan, tin tưởng, dũng
cảm mở rộng sáng tạo. Vì vậy việc cần làm hiện nay là phải xác định rõ Phật giáo
có ảnh hưởng đến hệ tư tưởng của người Việt Nam như thế nào để từ đó đưa ra
những chính sách phát triển phù hợp với lòng dân, làm cho xã hội ngày càng phát
triển tiến bộ và tốt đẹp hơn.

19


KẾT LUẬN
Qua việc tìm hiểu vấn đề chúng ta phần nào hiểu thêm được tư tưởng của
Phật giáo. Phật giáo là để độ sinh chứ không phải độ tử, giúp cho chúng ta thức
tỉnh, bỏ ác làm lành, vượt qua mọi khổ đau phiền muộn ngay ở trong hiện tại để
có một cuộc sống hạnh phúc , an lạc cho dù còn nhiều thiếu thốn về vật chất hay
bất cứ một yếu tố khách quan nào đưa lại qua đó cho chúng ta thấy rõ vấn đề có
ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng hình thành nhân cách và tư duy con người
Việt Nam.
Dù còn những hạn chế song chúng ta không thể phủ nhận những giá trị đạo
đức to lớn mà Phật giáo đã mang lại. Đặc trưng hướng nội của Phật giáo giúp con
người tự suy ngẫm về bản thân, cân nhắc các hành động của mình để không gây

ra đau khổ bất hạnh cho người khác. Nó giúp con người sống thân ái, yêu thương
nhau, xã hội yên bình. Tuy nhiên, để giáo dục nhân cách đạo đức của thế hệ trẻ
thì như thế vẫn chưa đủ. Bước sang thế kỷ XXI, chuẩn mực nhân cách mà một
thanh niên cần có đòi hỏi phải hoàn thiện cả về mặt thể xác lẫn tinh thần, phải có
đủ khả năng chinh phục cả thế giới khách quan lẫn thế giới nội tâm. Đạo đức thế
kỷ XXI do vậy có thể khai thác sự đóng góp tích cực của Phật giáo để xây dựng
đạo đức nhân văn toàn thiện hơn, tự giác cao hơn vì sang thế kỷ XXI, bên cạnh
sự phát triển kỳ diệu của khoa học, những mâu thuẫn, chiến tranh giành quyền lực
rất có thể sẽ nổ ra dưới sự hậu thuẫn của khoa học, các loại vũ khí sẽ được chế tạo
hiện đại, tàn nhẫn hơn, dễ dàng thoả mãn cái ác của vài cá nhân và nguy cơ gây
ra sự huỷ diệt sẽ khủng khiếp hơn. Khi đó đòi hỏi con người phải có đạo đức,
nhân cách cao hơn để nhận ra được cái ác dưới một lớp vỏ tinh vi hơn, “sạch sẽ”
hơn.
Như vậy trong cả quá khứ, hiện tại và tương lai, Phật giáo luôn luôn tồn tại
và gắn liền với cuộc sống của con người Việt Nam. Việc khai thác hạt nhân tích
cực hợp lý của Đạo Phật nhằm xây dựng nhân cách con người Việt Nam, đặc biệt
là thế hệ trẻ, là một mục tiêu chiến lược đòi hỏi sự kết hợp giáo dục tổng hợp của
xã hội - gia đình - nhà trường - bản thân cá nhân, một sự kết hợp tự giác tích cực
20


cả truyền thống và hiện đại. Chúng ta tin tưởng vào một thế hệ trẻ hôm nay và
mai sau cường tráng về thể chất, phát triển về trí tuệ, phong phú về tinh thần, đạo
đức tác phong trong sáng, kế thừa truyền thống cha ông cũng như những giá trị
nhân bản Phật giáo sẽ góp phần bảo vệ và xây dựng xã hội ngày càng ổn định,
phát triển.

21



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS,TS. Lê Hữu Ái và PGS,TS. Nguyễn Tấn Hùng, Triết học, NXB Đà
Nẵng, 2010.
2. PGS. Nguyễn Tài Thư, Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối
với con người Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, 1997.
3. GS,TS. Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Tập 3, NXB TP.Hồ
Chí Minh, 2002.
4. Nguyễn Duy Cần (1997), Tinh hoa Phật giáo, NXB Tp.HCM.
5. Thích Nữ Trí Hải dịch (2000), Đức Phật đã dạy những gì (con đường thoát
khổ), NXB Tôn giáo.
6. Đoàn Quang Thọ (2007), Giáo trình triết học, NXB Lý luận Chính trị.
7. Thích Minh Thuận (2008), Phật học căn bản, NXB Tôn giáo, Hà Nội.

22



×