Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Phân tích nguyên nhân và những ảnh hưởng của dòng vốn FDI tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.14 KB, 18 trang )

Đề số 10: Phân tích nguyên nhân và những ảnh
hưởng của dòng vốn FDI tại Việt Nam.
LỜI NÓI ĐẦU
Trong cuộc đua tranh phát triền kinh tế hiện nay, vấn đề tăng trưởng nhanh và
lâu bền diễn ra gay gắt đối với tất cả các quốc gia. Đối với những nước đi sau, có
điểm xuất phát thấp về kinh tế, yêu cầu này đặt ra như một đòi hỏi sống còn; hoặc
là đuổi kịp vươn lên phía trước, hoặc là tụt lại sau và ngày càng xa rời các cơ hội
phát triển.
Trước những diễn biến phức tạp đó của thế giới, Việt Nam cũng có những cải
cách kinh tế quan trọng, đặc biệt là sau đại hội VI của Đảng. Một trong những nội
dung qua trọng của chính sách mới ở Việt Nam là mở cửa thu hút vốn đầu tư nước
ngoài. Trong những năm qua Việt Nam đã không ngừng cải thiện môi trường đầu
tư trong nước nhằn thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và
những nỗ lực đó đã mang lại những kết quả đáng khích lệ. Nhiều dự án đầu tư trực
tiếp nước ngoài đã đi vào hoạt động và mang lại những hiệu quả thiết thực trong
việc nâng cấp hệ thống thông tin viễn thông, khách sạn hình thành một số ngành
công nghiệp mới như lắp ráp và sửa chữa ô tô, xác định trữ lượng dầu khí, hình
thành các khu công nghiệp…Còn các nhà kinh doanh nước ngoài qua thực tiễn
hoạt động ở Việt Nam đã ngày càng tin tưởng hơn vào hiệu quả các dự án đầu tư
của họ.
I. Giới thiệu chung về FDI:
1. Khái niệm FDI:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI: Foreign Direct Investment) là hình thức đầu
tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ
sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý
cơ sở sản xuất kinh doanh này.
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đưa ra định nghĩa về FDI như sau: FDI
xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở
một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương
diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần
lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các


cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay đựoc gọi là
“công ty mẹ” và các tài sản được gọi là “công ty con” hay “chi nhánh công ty".
2. Các hình thức FDI:
a. Phân theo bản chất đầu tư:
_Đầu tư phương tiện hoạt động:
Đầu tư phương tiện hoạt động là hình thức FDI trong đó công ty mẹ đầu tư
mua sắm và thiết lập các phương tiện kinh doanh mới ở nước nhận đầu tư. Hình
thức này làm tăng khối lượng đầu tư vào.
_Mua lại và sáp nhập:
Mua lại và sáp nhập là hình thức FDI trong đó hai hay nhiều doanh nghiệp có
vốn FDI đang hoạt động sáp nhập vào nhau hoặc một doanh nghiệp này (có thể
đang hoạt động ở nước nhận đầu tư hay ở nước ngoài) mua lại một doanh nghiệp
có vốn FDI ở nước nhận đầu tư. Hình thức này không nhất thiết dẫn tới tăng khối
lượng đầu tư vào.
b. Phân theo tính chất dòng vốn:
_Vốn chứng khoán:
Nhà đầu tư nước ngoài có thể mua cổ phần hoặc trái phiếu doanh nghiệp do
một công ty trong nước phát hành ở một mức đủ lớn để có quyền tham gia vào các
quyết định quản lý của công ty.
_Vốn tái đầu tư:
Doanh nghiệp có vốn FDI có thể dùng lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh
doanh trong quá khứ để đầu tư thêm.
_Vốn vay nội bộ hay giao dịch nợ nội bộ:
Giữa các chi nhánh hay công ty con trong cùng một công ty đa quốc gia có thể
cho nhau vay để đầu tư hay mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp của nhau.
c. Phân theo động cơ của nhà đầu tư:
_Vốn tìm kiếm tài nguyên:
Đây là các dòng vốn nhằm khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên rẻ và dồi
dào ở nước tiếp nhận, khai thác nguồn lao động có thể kém về kỹ năng nhưng giá
thấp hoặc khai thác nguồn lao động kỹ năng dồi dào. Nguồn vốn loại này còn

nhằm mục đích khai thác các tài sản sẵn có thương hiệu ở nước tiếp nhận (như các
điểm du lịch nổi tiếng). Nó cũng còn nhằm khai thác các tài sản trí tuệ của nước
tiếp nhận. Ngoài ra, hình thức vốn này còn nhằm tranh giành các nguồn tài nguyên
chiến lược để khỏi lọt vào tay đối thủ cạnh tranh.
_Vốn tìm kiếm hiệu quả:
Đây là nguồn vốn nhằm tận dụng giá thành đầu vào kinh doanh thấp ở nước
tiếp nhận như giá nguyên liệu rẻ, giá nhân công rẻ, giá các yếu tố sản xuất như
điện nước, chi phí thông tin liên lạc, giao thông vận tải, mặt bằng sản xuất kinh
doanh rẻ, thuế suất ưu đãi…
_Vốn tìm kiếm thị trường:
Đây là hình thức đầu tư nhằm mở rộng thị trường hoặc giữ thị trường khỏi bị
đối thủ cạnh tranh giành mất. Ngoài ra, hình thức đầu tư này còn nhằm tận dụng
các hiệp định hợp tác kinh tế giữa nước tiếp nhận với các nước và khu vực khác,
lấy nước tiếp nhận làm bàn đạp để thâm nhập vào các thị trường khu vực và toàn
cầu.
II. Nguyên nhân có dòng vốn FDI tại Việt Nam:
Trong 10 năm qua Việt Nam đã cấp phép cho 9.445 dự án đầu tư trực tiếp
nước ngoài, tức FDI, và 3.945 dự án tăng vốn, nâng tổng số đầu tư FDI lên tới
mức 165,9 tỉ đô la, cao hơn gần 4 lần so với thập niên trước đó - Tân Hoa Xã
(Trung Quốc) trích thuật một báo cáo của Cục Đầu tư Nước ngoài thuộc Bộ Kế
hoạch và Đầu tư Việt Nam cho biết. Báo cáo nói rằng FDI của Việt Nam đã đạt
đỉnh 71,7 tỉ đô la trong năm 2008, mức cao nhất trong vòng 20 năm.
Trong năm 2010, các nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục đưa ra dấu hiệu tin tưởng
vào triển vọng kinh tế Việt Nam qua việc giải ngân 11 tỉ đô la, tuy số vốn đăng ký
chỉ ở mức 18,59 tỉ đô la, tương đương với 82,2% của số FDI trong năm 2009.
Bản tin hôm thứ tư (30/03/2011) của báo điện tử của chính phủ Việt Nam cho
biết bức tranh FDI trong 3 tháng đầu năm nay đã có một điểm sáng đặc biệt là
nguồn vốn thực hiện cao hơn số đăng ký, ước tính đạt 2,54 tỉ đô la.
Theo TS Edmund Malesky, Việt Nam vẫn thường “tự giới thiệu” mình là một
quốc gia có dân số trẻ, chi phí lao động thấp, tốc độ tăng trưởng nhiều năm liền

luôn ở mức cao và chế độ chính trị ổn định… Theo kết quả được công bố từ ý kiến
của 1.155 doanh nghiệp FDI đến từ 47 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới
đang hoạt động tại Việt Nam, chiếm 20% các doanh nghiệp FDI hiện có trên đất
nước Việt Nam cho thấy 10 yếu tố tác động nhiều nhất đến các doanh nghiệp FDI
khi quyết định lựa chọn đầu tư vào Việt Nam, bao gồm: Chi phí lao động; ưu đãi
về thuế, đất đai đầu tư; ổn định chính trị; chất lượng lao động; chi phí nguồn
nguyên liệu, dịch vụ trung gian; sức mua của người tiêu dùng; sự sẵn có nguồn
nguyên liệu và dịch vụ trung gian; quy mô thị trường nội địa; sự sẵn có của các
khu công nghiệp; ổn định kinh tế vĩ mô.
“Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao; sự ổn định về chính trị; môi trường, chính
sách được cải thiện; sự cam kết mang tính chiến lược ngày càng tăng của các tập
đoàn xuyên quốc gia”. Những đánh giá lạc quan của UNDP không phải mang tính
ngoại giao mà hoàn toàn phù hợp với đánh giá của ta với những diễn biến thực tế.
Đứng ở vị trí thứ 12 trong xếp hạng chung Chỉ số niềm tin FDI, xếp ở vị trí
93 về mức độ thông thoáng của môi trường kinh doanh, và nằm trong nhóm
11 nước (N -11) có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới trong năm 2010,
Việt Nam đang tạo ra nhiều cơ hội và là địa chỉ đầu tư tốt cho các nhà đầu tư
thế giới…
Việt Nam đã trở nên rất hấp dẫn và nhiều công ty nhìn về châu Á đã xem Việt
Nam là một điểm đến cho các dự án của họ. Có nhiều lý do để luồng vốn FDI đổ
vào:
_Giá công nhân rẻ, năng suất lao động cao, hơn 60% dân số dưới 25 tuổi.
_Nhiều công ty không muốn bỏ trứng vào một giỏ, ví dụ như vào Trung Quốc.
Họ muốn đa dạng hoá đầu tư. Nike đầu tư vào cả Trung Quốc và cả Việt Nam.
Ngoài việc xuất khẩu các sản phẩm chất lượng ra nước ngoài, Nike tin họ có thể
bán sản phẩm ở Việt Nam khi mức thu nhập của người địa phương cao lên.
McDonald, KFC và nhiều công ty dịch vụ khác đến Việt Nam vì họ sẽ có nhiều cơ
hội bán hàng ở đây và xuất khẩu ra nước ngoài.
Lạm phát đang là vấn đề lớn để giải quyết, và Chính phủ đang thực hiện chính
sách tiền tệ thắt chặt, nhưng về nền tảng thì Việt Nam rất cạnh tranh.

“Đầu tư cao hay thấp phụ thuộc vào thủ tục hành chính”. Theo Bộ trưởng
Bộ KH-ĐT Võ Hồng Phúc, môi trường đầu tư nước ngoài của VN về mặt pháp
luật đã được cải thiện. Đây là một nhân tố rất cơ bản khiến con số đầu tư nước
ngoài năm nay khả quan như vậy. Khi Luật Đầu tư và Doanh nghiệp chung ban
hành sẽ còn cởi mở, cải thiện hơn nữa.
Hiện tại, băn khoăn lớn nhất của các nhà tài trợ và nhà đầu tư nước ngoài là thủ
tục hành chính còn nhiều điều chưa hợp lý, nhất là ở cấp dưới. Điều này đã thể
hiện rõ về tình hình thu hút đầu tư tại các địa phương. Cùng môi trường, mặt bằng
pháp lý, giá cả như nhau nhưng có những địa phương thu hút đầu tư nước ngoài
rất tốt như Vĩnh Phúc, Vĩnh Yên, Bắc Ninh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng
Tàu. Ngược lại, nhiều địa phương cùng điều kiện, thậm chí còn thuận lợi hơn như
gần cảng, gần trung tâm kinh tế lớn, trục giao thông lớn nhưng vì phối hợp giữa
các sở, ban, ngành trong địa phương đó yếu, thủ tục hành chính phiền hà, chỉ đạo
chưa thống nhất nên thu hút đầu tư kém.
Đến nay, Bộ KH - ĐT đã nhiều lần khuyến cáo các địa phương về những rào
cản do thủ tục hành chính mang lại. Song điều cốt yếu vẫn nằm ở chính quyền địa
phương, bởi Bộ chỉ chủ trì, làm đầu mối xử lý vướng mắc tại các dự án đầu tư
nước ngoài có quy mô lớn, có tầm của quốc gia và vướng mắc của những nhà đầu
tư chiến lược, còn những dự án nhỏ vẫn do chính quyền địa phương giải quyết.
III. Ảnh hưởng của dòng vốn FDI tại Việt Nam:
Đối với bất kỳ một quốc nào, dù là nước phát triển hay đang phát triển thì để
phát triển đều cần có vốn để tiến hành các hoạt động đầu tư tạo ra tài sản mới cho
nền kinh tế. Nguồn vốn để phát triển kinh tế có thể được huy động ở trong nước
hoặc từ nước ngoài, tuy nhiên nguồn vốn trong nước thường có hạn, nhất là đối
với những nước đang phát triển như Việt Nam (có tỷ lệ tích luỹ thấp, nhu cầu đầu
tư cao nên cần có một số vốn lớn để phát triển kinh tế). Vì vậy, nguồn vốn đầu tư
nước ngoài ngày càng giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc
gia. Hoạt động đầu tư nước ngoài là kênh huy động vốn lớn cho phát triển kinh tế,
trên cả giác độ vĩ mô và vi mô. Trên giác độ vĩ mô, FDI tác động đến quá trình
tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phúc lợi xã hội cho con người,

là 3 khía cạnh để đánh giá sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Trên giác độ vi
mô, FDI có tác động mạnh mẽ đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
trong nước, vấn đề lưu chuyển lao động giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp
trong nước
Việt Nam thực hiện Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài (12/1987) trong bối cảnh
phát triển kinh tế - xã hội còn rất thấp. Hạ tầng cơ sở nghèo nàn, khoa học công
nghệ lạc hậu, nguồn nhân lực phần lớn chưa qua đào tạo…Trong khi đó, nhu cầu
phát triển luôn phải đối mặt với sức ép cần vồn đầu tư, công nghệ tiên tiến, đẩy
mạnh xuất khẩu… để khai thác lợi thế so sánh nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng
cao, giải quyết công ăn việc làm và ổn định đời sống xã hội. Mặt khác, từ những
năm cuối thập kỷ 80 đến hết thập kỷ 90 của thế kỷ trước, xu hướng đầu tư quốc tế
vào các nước đang phát triển chủ yếu tập trung vào các ngành khai thác, công
nghiệp chế tạo và những ngành cần nhiều lao động. Trong bối cảnh phát triển đó,
Việt Nam rất khó thu hút FDI vào các ngành công nghệ cao, sản xuất những sản
phẩm có giá trị gia tăng lớn hoặc vào những ngành phải đáp ứng được các tiêu
chuẩn khắt khe của bảo vệ môi trường. Vì vậy, việc định hướng thu hút FDI vào
những ngành mà Việt Nam có lợi thế tự nhiên, phù hợp với trình độ phát triển và
đón bắt được xu hướng đầu tư quốc tế là khá phù hợp. Do đó, mặc dù còn những
hạn chế nhất định, nhưng FDI đã đóng góp rất tích cực, có vai trò như những trụ
cột đối với thành công của chính sách đổi mới nền kinh tế.
Đầu tư nước ngoài là nhân tố quan trọng và khẳng định rõ vai trò của mình
trong việc đóng góp vào sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Nguồn vốn này bao
gồm đầu tư trực tiếp (FDI) và đầu tư gián tiếp (FII). Trong khi FII có tác động
kích thích thị trường tài chính phát triển thì FDI có vai trò trực tiếp thúc đẩy sản
xuất, bổ sung vốn trong nước, tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý, tham gia
mạng lưới sản xuất toàn cầu, tăng số lượng việc làm và đào tạo nhân công, tăng
nguồn thu cho ngân sách
Thực tế trong những năm qua cũng như dự báo cho giai đoạn tới đã khẳng định
tầm quan trọng của FDI với phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay. Đánh giá đúng
vị trí, vai trò của đầu tư nước ngoài, Đại hội lần thứ IX của Đảng ta đã coi kinh tế

có vốn đầu tư nước ngoài là một thành phần kinh tế, là một bộ phận cấu thành của
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, được khuyến khích phát triển, hướng
vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội, gắn với thu hút công nghệ
hiện đại, tao thêm nhiều việc làm và đề ra nhiệm vụ cải thiện nhanh môi trường
kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh nguồn vốn đầu tư nước ngoài(chủ yếu là FDI)
đối với chiến lược phát triển KT-XH của cả nước.
FDI có thể ảnh hưởng tới nền kinh tế ở tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và
xã hội. Tuy nhiên, đối với các nước đang phát triển, nhất là các nước nghèo, kỳ
vọng lớn nhất của việc thu hút FDI chủ yếu là nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế.
Kỳ vọng này dường như được thể hiện trong tư tưởng của các nhà kinh tế và các
nhà hoạch định chính sách với ba lý do chính: Một là, FDI góp phần vào tăng
thặng dư của tài khoản vốn, góp phần cải thiện cán cân thanh toán nói chung và ổn
định kinh tế vĩ mô. Hai là, các nước đang phát triển thường có tỷ lệ tích lũy vốn
thấp và vì vậy, FDI được coi là một nguồn vốn quan trọng để bổ sung vốn đầu tư
trong nước nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Ba là, FDI tạo cơ hội cho các nước
nghèo tiếp cận công nghệ tiên tiến hơn, dễ dàng chuyển giao công nghệ hơn, thúc
đẩy quá trình phổ biến kiến thức, nâng cao kỹ năng quản lý và trình độ lao động
Tác động này được xem là các tác động tràn về năng suất của FDI, góp phần làm
tăng năng suất của các doanh nghiệp trong nước và cuối cùng là đóng góp vào
tăng trưởng kinh tế nói chung. Trên thực tế không phải nước nào cũng đạt được
cùng một lúc hai mục tiêu này. Một số nước thu hút được dòng vốn FDI khá lớn
nhưng tác động tràn hầu như không xảy ra. Ở một tình thế khác, vốn FDI đổ vào
một nước có thể làm tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế nhưng đóng góp của nguồn
vốn này vào tăng trưởng là thấp. Cả hai trường hợp trên đều được coi là không
thành công với chính sách thu hút FDI hay chưa tận dụng triệt để và lãng phí
nguồn lực này dưới góc độ tăng trưởng kinh tế. Thực trạng này khiến cho các nhà
kinh tế ngày càng quan tâm nhiều hơn tới việc đánh giá tác động của FDI tới tăng
trưởng kinh tế, đặc biệt là của các nước đang phát triển, thông qua hai kênh tác
động đề cập ở trên.
FDI góp phần làm tăng tổng vốn đầu tư, tăng kim ngạch xuất khẩu, tạo thêm

công ăn việc làm cho người lao động, góp phần thu ngân sách nhà nước và ổn định
kinh tế vĩ mô.
Về tác động gián tiếp (còn gọi là tác động tràn), FDI tác động tới các doanh
nghiệp Việt Nam qua bốn kênh chính: Tạo sức ép cạnh tranh trên thị trường, từ đó
buộc các doanh nghiệp trong nước phải đầu tư đổi mới công nghệ; lưu chuyển lao
động từ doanh nghiệp FDI đến các doanh nghiệp trong nước; chuyển giao công
nghệ cho doanh nghiệp trong nước; liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh
nghiệp trong nước để sản xuất sản phẩm. Tuy nhiên, việc tác động có các mức độ
rất khác nhau và tùy thuộc từng loại hình doanh nghiệp.
Một trong những tác động lớn nhất của dòng vốn FDI đến tăng trưởng kinh tế
ở Việt Nam là tác động đến việc di chuyển lao động và chuyển giao công nghệ
giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước.
FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng vào tổng đầu tư xã hội và góp phần cải
thiện cán cân thanh toán trong giai đoạn vừa qua. Khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài đã đóng góp quan trọng vào GDP với tỷ trọng ngày càng tăng. Khu vực này
góp phần tăng cường năng lực sản xuất và đổi mới công nghệ của nhiều ngành
kinh tế, khai thông thị trường sản phẩm (đặc biệt là trong gia tăng kim ngạch xuất
khẩu hàng hoá), đóng góp cho ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho một
bộ phận lao động. Bên cạnh đó, FDI có vai trò trong chuyển giao công nghệ và các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo sức ép buộc các doanh nghiệp trong
nước phải tự đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất. Các dự án FDI cũng
có tác động tích cực tới việc nâng cao năng lực quản lý và trình độ của người
lao động làm việc trong các dự án FDI, tạo ra kênh truyền tác động tràn tích cực
hữu hiệu.
_FDI đối với vốn đầu tư xã hội và tăng trưởng kinh tế:
Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới với xuất phát điểm rất thấp. Do vậy,
xét về nhu cầu vốn, FDI được coi là một nguồn vốn bổ sung quan trọng cho
vốn đầu tư trong nước, nhằm đáp nhu cầu đầu tư cho phát triển. Đóng góp của
FDI trong đầu tư xã hội biến động lớn, một phần phản ánh diễn biến thất thường
của nguồn vốn này, một phần thể hiện những thay đổi về đầu tư của các thành

phần kinh tế trong nước. Giai đoạn 1994-1995, tỷ trọng của FDI trong tổng đầu
tư xã hội lên tới 30-31 %, là mức cao nhất cho đến nay. Tỷ lệ này đã giảm dần
và năm 2004, FDI thực hiện ước còn chiếm 15,5 % trong tổng đầu tư toàn xã
hộiTrong suốt một thập kỷ qua, khu vực có vốn FDI chiếm tỷ trọng ngày càng
tăng trong GDP. Năm 2004, khu vực FDI đóng góp 15,2 % vào GDP so với tỷ
lệ đóng góp 6,4% của khu vực này năm 1994. Bên cạnh đó, khu vực có vốn FDI
luôn dẫn đầu về tốc độ tăng giá trị gia tăng so với các khu vực kinh tế khác và là
khu vực phát triển năng động nhất. Tốc độ tăng giá trị gia tăng của khu vực này
luôn cao hơn mức trung bình của cả nước.
_FDI với việc nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp và xuất khẩu:
FDI vào Việt Nam chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp. Nhờ đó, trong
hơn một thập kỷ qua Việt Nam đã cải thiện được nhiều ngành kinh tế quan trọng
như thăm dò, khai thác dầu khí, bưu chính viễn thông, điện tử, xây dựng hạ
tầng… Năm 2004, khu vực có vốn FDI đóng góp tới 35,68% (giá so sánh năm
1994) tổng giá trị sản xuất công nghiệp cả nước, trong khi tỷ lệ này chỉ là
25,1% năm 1995. Đến nay, khu vực có vốn FDI đóng góp 100% sản lượng của
một số sản phẩm công nghiệp như dầu khí, ô tô, máy giặt, điều hoà, tủ lạnh, thiết
bị máy tính; 60% cán thép; 28% xi măng; 33% máy móc thiết bị điện, điện tử;
76% dụng cụ y tế chính xác; 55% sản lượng sợi; 49% sản lượng da giày; 25%
thực phẩm đồ uống Nhìn
chung,
tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp của
khu vực có vốn FDI luôn duy trì ở mức cao, cao hơn tốc độ tăng trưởng chung
toàn ngành trong suốt giai đoạn 1995-2003, trừ năm 2001. Năm 2004, giá trị
sản xuất công nghiệp của khu vực này tuy cao, đạt 15,7% nhưng thấp hơn mức
chung của toàn ngành, chủ yếu do tốc độ tăng rất cao của khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh trong nước (22,8%).
Trong một thập kỷ trở lại đây, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực
FDI luôn cao hơn so với tốc độ tăng trung bình của cả nước. Năm 1991, kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 2 tỷ USD,

trong

khi
đó năm 2004 con số này
đã là 26,5 tỷ đô la, tăng gấp 13,5 lần so với năm 1991. Khu vực FDI chiếm tỷ
trọng ngày càng tăng trong tổng giá trị xuất khẩu, từ 4% năm 1991 lên 54,6%
năm 2004. Cần lưu ý rằng, mặc dù FDI có tỷ trọng xuất khẩu cao song giá trị
xuất khẩu ròng của khu vực có vốn FDI không cao. Sở dĩ như vậy vì các dự án
FDI trong công nghiệp vẫn chủ yếu sử dụng các dây chuyền lắp ráp
có qui mô
nhỏ và sử dụng nguồn đầu vào từ nhập khẩu là chính.
_FDI đối với việc làm và cải thiện nguồn nhân lực:
Hiện tại, các dự án có vốn FDI tại Việt Nam đang sử dụng khoảng 730 ngàn
lao động, chỉ chiếm 1,5% tổng lao động có việc làm tại Việt Nam so với tỷ trọng
này năm 1996 là 0,7%. Điều đó cho thấy FDI vẫn xuất hiện chủ yếu trong các
ngành tập trung vốn và sử dụng lao động có trình độ kỹ năng cao. Đó cũng là một
cách lý giải cho mức thu nhập trung bình của lao động trong khu vực này cao gấp
2 lần so với các doanh nghiệp khác cùng ngành. Hơn nữa, số lao động này được
tiếp cận với công nghệ hiện đại, có kỷ luật lao động tốt, học hỏi được các phương
thức lao động tiên tiến.
Đặc biệt, một số chuyên gia Việt Nam làm việc tại các doanh nghiệp FDI đã
có thể thay thế dần các chuyên gia nước ngoài trong việc đảm nhiệm những chức
vụ quản lý doanh nghiệp và điều khiển các qui trình công nghệ hiện đại.
Bên cạnh số việc làm trực tiếp do FDI tạo ra nói trên, khu vực FDI còn gián
tiếp tạo thêm việc làm trong lĩnh vực dịch vụ và có thể tạo thêm lao động trong
các ngành công nghiệp phụ trợ trong nước với điều kiện tồn tại mối quan hệ mua
bán nguyên vật liệu hoặc hàng hóa trung gian giữa các doanh nghiệp này. Tuy
nhiên, cho đến nay chưa có số liệu thống kê chính thức về số lao động gián tiếp
được tạo ra bởi khu vực FDI tại Việt Nam.
_FDI với nguồn thu ngân sách Nhà nước và các cân đối vĩ mô:

Cùng với sự phát triển, khu vực có vốn FDI đóng góp ngày càng tăng vào
nguồn thu ngân sách của Nhà nước. Theo tính toán của Tổng cục Thuế, năm
2002, khu vực FDI đóng góp khoảng 480 triệu USD vào ngân sách Nhà nước,
tăng 4,2 lần so với năm 1994. Tính riêng giai đoạn 1996-2002, khu vực này
đóng góp (trực tiếp) vào ngân sách trung bình ở mức khoảng 6%. Tỷ trọng đóng
góp nhỏ là do các doanh nghiệp FDI được hưởng chính sách khuyến khích của
Chính phủ thông qua giảm thuế thu nhập trong những năm đầu hoạt động. Tuy
nhiên, nếu tính cả thu từ dầu thô thì tỷ trọng này ước khoảng 20%.
Bên cạnh đó, FDI đã góp phần quan trọng vào việc tăng thặng dư của tài
khoản
vốn, góp phần cải thiện cán cân thanh toán nói chung. Động thái của cán
cân vốn trong
thời kỳ 1994-2002 cho thấy có mối quan hệ khá rõ giữa số dư tài
khoản vốn và dòng vốn FDI đổ vào Việt Nam hàng năm.
III. Hoạt động của dòng vốn FDI tại Việt Nam trong 2010:
Tính đến 21/12/2010, cả nước có 12.213 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng
ký 192,9 tỷ USD.
Các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 18/21 ngành trong hệ thống phân
ngành kinh tế quốc dân, trong đó lĩnh vực công nghiệp chế biến và chế tạo vẫn là
lĩnh vực thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất, với 7.305 dự án, tổng vốn đăng
ký 93,97 tỷ USD, chiếm 59,8% số dự án và 49% vốn đăng ký tại Việt Nam. Đầu
tư vào kinh doanh bất động sản đứng thứ hai trong thu hút đầu tư nước ngoài với
348 dự án, tổng vốn đăng ký 47,99 tỷ USD, chiếm 2,8% số dự án và 25% tổng vốn
đăng ký tại Việt Nam. Tiếp theo là các lĩnh vực xây dựng, dịch vụ lưu trú và ăn
uống, sản xuất, phân phối điện, nước, khí, điều hòa.
Đến nay, 92 quốc gia và vùng lãnh thổ đã có đầu tư tại Việt Nam, trong đó Đài
Loan là nhà đầu tư số 1 với trên 2.146 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký 22,8
tỷ USD. Hàn Quốc đứng thứ 2 với trên 2.650 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký
22,1 tỷ USD. Tiếp theo là nhà đầu tư Singapore, Nhật Bản và Malaysia.
Đầu tư nước ngoài đã có mặt ở 63 tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó

thành phố Hồ Chí Minh vẫn là nơi thu hút nhiều nhà dầu tư nước ngoài nhất với
trên 3.500 dự án còn hiệu lực, vốn đăng ký 29,9 tỷ USD, chiếm 29% tổng số dự án
và 16,4% tổng vốn đăng ký cả nước. Bà Rịa – Vũng Tàu đang vươn lên rất sát với
thành phố Hồ Chí Minh với quy mô vốn đăng ký 26,3 tỷ USD, chiếm 14,2% tổng
vốn đăng ký của cả nước. Tiếp theo lần lượt là Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương,
Ninh Thuận, Hà Tĩnh, Phú Yên, Thanh Hóa, và Hải Phòng. 10 tỉnh, thành phố thu
hút ĐTNN lớn nhất này đã chiếm tới 75,6% tổng vốn đăng ký của cả nước (145,9
tỷ USD). 53 tỉnh, thành còn lại chỉ chiếm 24,4% tổng vốn đăng ký.
3 điểm sáng của hoạt động đầu tư nước ngoài năm 2010: FDI thực hiện
vượt kế hoạch, FDI đăng ký chuyển biến về chất, hoạt động sản xuất kinh doanh
khu vực FDI diễn ra sôi động.
Trong cuộc họp báo cuối năm 2010 (30/12), Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu
tư Đặng Huy Đông cho rằng, những điểm sáng nói trên cho thấy FDI tiếp tục có
những đóng góp quan trọng vào kết quả chung của nền kinh tế Việt Nam.
Việt Nam vẫn là điểm đến hấp dẫn:
Theo Bộ KH-ĐT, trong điều kiện suy thoái kinh tế toàn cầu chưa được phục
hồi thì kết quả thực hiện nguồn vốn FDI năm nay là một thành công, khẳng định
Việt Nam tiếp tục là điểm đến hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Cụ thể, vốn FDI thực hiện đạt 11 tỷ USD, tăng 11% so với năm 2009, trong đó,
vốn thực hiện của các nhà đầu tư nước ngoài đạt khoảng 8 tỷ USD, tăng 9,5% so
với năm 2009 và vượt mức dự kiến của năm 2010.
Một điểm sáng khác hoạt động sản xuất, kinh doanh của khu vực FDI. Cụ thể,
vốn FDI chiếm 25,8% tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2010, cao hơn con số
25,5% năm 2009. Xuất khẩu của khu vực FDI đạt 38,8 tỷ USD, kim ngạch nhập
khẩu đạt 36,4 tỷ USD. Như vậy, khu vực này xuất siêu 2,35 tỷ USD, góp phần
quan trọng vào việc cải thiện cán cân thương mại, giảm nhập siêu cho nền kinh tế.
Ngoài ra, vốn FDI đăng ký cũng chuyển biến tích cực về chất, dù nếu xét về
lượng thì chỉ gần đạt mục tiêu với xấp xỉ 18,6 tỷ USD. Cụ thể, công nghiệp chế
biến chế tạo chiếm tỷ trọng cao với 385 dự án cấp mới, tổng vốn đầu tư đăng ký
mới và tăng thêm là 5,1 tỷ USD, chiếm 27,3% lượng vốn đăng ký.

Thứ trưởng Đặng Huy Đông cho rằng, đầu tư FDI đã diễn ra sự chuyển dịch từ
công nghệ thấp sang công nghệ cao. Việt Nam đã có những nhà máy sản xuất các
thiết bị tiên tiến “Made in Viet Nam”, ví dụ những thiết bị lọc nước biển thành
nước ngọt cho các đô thị hàng vạn dân, dàn cần cẩu tải trọng cao… Samsung Việt
Nam đã trở thành một trong những nhà máy sản xuất điện thoại di động và linh
kiện lớn của thể giới với khoảng 1 tỷ USD xuất khẩu.
Nhìn rộng hơn, dòng FDI đổ vào các lĩnh vực chế biến, chế tạo duy trì ở mức
cao, đều đặn trong nhiều năm trở lại đây và xu hướng này sẽ tiếp tục trong thời
gian tới.
Sẽ không chạy theo số lượng:
Để đạt được mục tiêu vốn FDI thực hiện trong năm 2011 đạt 11-12,5 tỷ USD,
vốn FDI đăng ký năm 2011 đạt khoảng 20 tỷ USD, công tác chỉ đạo điều hành của
Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương sẽ chú trọng và nâng cao chất lượng các
dự án FDI mà không chạy theo số lượng.
Theo đó, sẽ theo hướng chọn lọc hơn với trọng tâm là thu hút các dự án cơ sở
hạ tầng, dự án sử dụng công nghệ cao, công nghệ sạch và có khả năng tạo ra các
sản phẩm có sức cạnh tranh; các dự án sản xuất hàng xuất khẩu; các dự án phát
triển ngành công nghiệp hỗ trợ; các dự án có khả năng tham gia vào chuỗi giá trị
toàn cầu.
Về việc nhiều doanh nghiệp FDI sử dụng biện pháp “chuyển giá”, báo lỗ
nhưng vẫn mở rộng sản xuất, Thứ trưởng Đặng Huy Đông nhìn nhận đây là hiện
tượng đã diễn ra ở nhiều quốc gia trên thế giới, song hoàn toàn có thể ứng phó
được.
Tại phiên chất vấn Quốc hội hôm 23/11, Bộ trưởng Tài chính Vũ Văn Ninh
cũng giải trình về vấn đề này. Trong 3 năm gần đây, Bộ đã thực hiện thanh tra 127
doanh nghiệp FDI kêu lỗ và đã thực hiện truy thu 1.450 tỷ đồng tiền thuế đối với
các doanh nghiệp này.
Bộ KH-ĐT tin tưởng thời gian tới sẽ xử lý được vấn đề này với sự phối hợp
với các cơ quan chức năng, các cơ quan kiểm toán, thẩm định quốc tế. Đồng thời,
sau khi một số doanh nghiệp bị xử lý, bản thân cộng đồng cách doanh nghiệp quốc

tế sẽ phải tự điều chỉnh.
Về phân cấp quản lý FDI giữa TW và địa phương, Bộ KH-ĐT cho rằng, đã đến
lúc cần có những sự điều chỉnh để phân cấp đi đôi với quản lý hiệu quả hơn. Bởi
thực tế là nhiều địa phương chạy theo thành tích, thu hút FDI tràn lan, không quan
tâm đúng mức đến tính đến hiệu quả của dự án.
Việc điều chỉnh này không có nghĩa là TW sẽ thu lại quyền của các địa phương
nhưng sẽ quản lý chặt hơn ở một số lĩnh vực, như những dự án đầu tư quy mô lớn,
đặc biệt là các dự án có sử dụng đất lớn, có khả năng gây ô nhiễm môi trường, sử
dụng nhiều tài nguyên khoáng sản mà không chế biến sâu, các dự án tiêu tốn nhiều
năng lượng
IV. Một số giải pháp để tăng cường thu hút vốn FDI vào Việt Nam:
Theo FIA Việt Nam có các giải pháp cần thực hiện để tăng cường vốn FDI
vào Việt Nam như sau:
1. Nhóm giải pháp về luật pháp, chính sách:
- Tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách về đầu tư, kinh doanh để sửa đổi các
nội dung không đồng bộ, thiếu nhất quán, bổ sung các nội dung còn thiếu; sửa đổi
các quy định còn bất cập, chưa rõ ràng liên quan đến thủ tục đầu tư và kinh doanh.
- Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực: phát triển đô thị,
phát triển hạ tầng kỹ thuật, phát triển nhà ở xã hội và nhà ở cho người có thu nhập
thấp; xây dựng công trình phúc lợi cho người lao động làm việc trong các khu
công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế; các dự án đầu tư trong
lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn.
- Thực hiện các biện pháp thúc đẩy giải ngân; không cấp phép cho các dự án
công nghệ lạc hậu, dự án tác động xấu đến môi trường; thẩm tra kỹ các dự án sử
dụng nhiều đất, giao đất có điều kiện theo tiến độ dự án; cân nhắc về tỷ suất đầu
tư/diện tích đất, kể cả đất Khu Công nghiệp. Tiến hành rà soát các dự án đã cấp
giấy chứng nhận đầu tư trên địa bàn cả nước để có hướng xử lý đối với từng loại
dự án.
2. Nhóm giải pháp về quy hoạch:
- Làm tốt công tác xây dựng quy hoạch và quản lý quy hoạch, đặc biệt là quy

hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch lãnh thổ, quy hoạch sử dụng
đất chi tiết, quy hoạch ngành và các sản phẩm chủ yếu; rà soát điều chỉnh cho phù
hợp và kịp thời đối với các quy hoạch đã lạc hậu; có kế hoạch cụ thể để thực hiện
các quy hoạch đã được duyệt.
- Công bố rộng rãi các quy hoạch đã được phê duyệt, đẩy nhanh tiến độ giải
phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư; rà soát, kiểm tra, điều chỉnh quy hoạch sử
dụng đất một cách hiệu quả, nhất là đối với các địa phương ven biển nhằm đảm
bảo phát triển kinh tế và môi trường bền vững.
- Quán triệt và thực hiện thống nhất các quy định của Luật Đầu tư trong công
tác quy hoạch, đảm bảo việc xây dựng các quy hoạch ngành, lĩnh vực, sản phẩm
phù hợp với các cam kết quốc tế, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
3. Nhóm giải pháp về cải thiện cơ sở hạ tầng:
- Tiến hành tổng rà soát, điểu chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về
kết cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng.
Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là
nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; ưu tiên các lĩnh vực cấp, thoát nước, vệ sinh
môi trường; hệ thống đường bộ cao tốc; nâng cao chất lượng dịch vụ đường sắt;
sản xuất và sử dụng điện từ các loại năng lượng mới như sức gió, thủy triều, nhiệt
năng từ mặt trời; các dự án lĩnh vực bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin.
- Mở rộng hình thức cho thuê cảng biển, mở rộng đối tượng cho phép đầu tư
dịch vụ cảng biển, đặc biệt dịch vụ hậu cần để tăng cường năng lực cạnh tranh của
hệ thống cảng biển Việt Nam; kêu gọi vốn đầu tư các cảng lớn của các khu vực
kinh tế như hệ thống cảng Hiệp Phước-Thị Vải, Lạch Huyện
- Xem xét việc ban hành một số giải pháp mở cửa sớm hơn mức độ cam kết
của ta với WTO đối với một số lĩnh vực dịch vụ mà nước ta có nhu cầu về văn
hóa-y tế-giáo dục, bưu chính - viễn thông, hàng hải, hàng không.
4. Nhóm giải pháp về nguồn nhân lực:
- Việc nâng cấp đầu tư hệ thống các trường đào tạo nghề hiện có lên ngang tầm
khu vực và thế giới, sẽ phát triển thêm các trường đào tạo nghề và trung tâm đào
tạo từ các nguồn vốn khác nhau.

- Thực hiện các giải pháp nhằm đưa Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ
luật Lao động vào thực tế cuộc sống để ngăn ngừa tình trạng đình công bất hợp
pháp, lành mạnh hóa quan hệ lao động theo tinh thần của Bộ luật Lao động.
5. Nhóm giải pháp về quản lý nhà nước:
- Phối hợp chặt chẽ giữa Trung ương và địa phương trong việc cấp phép và
quản lý các dự án đầu tư nước ngoài.
- Tăng cường đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý đầu tư nước ngoài; nâng cao
năng lực thực thi và hiệu quả quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài của các cơ
quan chức năng.
- Tiến hành tổng kết, đánh giá việc phân cấp trong quản lý nhà nước đối với
hoạt động đầu tư nước ngoài trong thời gian qua, phát hiện những bất cập, kịp thời
điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp.
6. Nhóm giải pháp về xúc tiến đầu tư:
- Nghiên cứu, đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập đoàn
đa quốc gia cũng như có chính sách riêng đối với từng tập đoàn và các đối tác
trọng điểm như các quốc gia thành viên EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản, ; chú trọng và
đẩy nhanh tiến độ đàm phán các Hiệp định đầu tư song phương giữa Việt Nam và
các đối tác lớn.
- Xây dựng danh mục gọi vốn đầu tư nước ngoài cho giai đoạn 2011 - 2015 và
những năm tiếp theo.
- Tổ chức khảo sát, nghiên cứu và xây dựng mô hình cơ quan xúc tiến đầu tư ở
Trung ương và địa phương; xây dựng văn bản pháp quy về công tác Xúc tiến đầu
tư nhằm tạo hành lang pháp lý thống nhất trong công tác quản lý nhà nước, cơ chế
phối hợp và tổ chức thực hiện các hoạt động xúc tiến đầu tư.
- Triển khai nhanh việc thành lập bộ phận xúc tiến đầu tư tại một số địa bàn
trọng điểm. Tiếp tục kết hợp các hoạt động xúc tiến đầu tư trong các chuyến thăm
và làm việc tại các nước của lãnh đạo cấp.
- Tăng cường đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư.
7. Một số giải pháp khác:
_Thực hiện hiệu quả chương trình sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản giai

đoạn III; tiếp tục hợp tác tích cực với các cơ quan, tổ chức nước ngoài trong việc
xúc tiến đầu tư và hỗ trợ doanh nghiệp triển khai dự án.
_Duy trì cơ chế đối thoại thường xuyên giữa lãnh đạo Chính phủ, các Bộ,
ngành với các nhà đầu tư, đặc biệt là Diễn đàn doanh nghiệp hàng năm để xử lý
kịp thời các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện chính sách và phát luật
hiện hành, đảm bảo các dự án hoạt động hiệu quả, nhằm tiếp tục củng cố lòng tin
của các nhà đầu tư đối với môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam, tạo hiệu
ứng lan tỏa và tác động tích cực tới nhà đầu tư mới.
_Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra: theo chức năng và nhiệm vụ của
mình, Thanh tra Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương có kế hoạch tăng cường
thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ các quy định của chính sách, pháp luật về đầu tư
nước ngoài nói chung và việc thực hiện Nghị quyết này của Chính phủ.
V. Kết luận và ý kiến cá nhân về vốn FDI tai Việt Nam:
Phải nói rằng dòng vốn FDI đã đóng góp vào quá trình tăng trưởng kinh tế tại
Việt Nam, góp phần thúc đẩy xuất khẩu các hàng hóa sản xuất tại Việt Nam ra
nước ngoài, và tạo được thặng dư trong cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam.
Tuy nhiên, những tác động tiêu cực của dòng vốn FDI cần phải được nhận diện.
Trong khoảng gần 20 năm kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài được ban hành Việt
Nam đó thu được những kết quả khá ấn tượng về thu hút FDI . Cùng với sự tăng
trưởng nhanh về GDP chung của cả nền kinh tế, khu vực có vốn FDI chiếm tỷ
trọng ngày càng tăng trong GDP. Thành quả trên được đánh giá là kết quả của cải
cách chính sách kinh tế ở Việt Nam thực hiện trong giai đoạn vừa qua, đồng thời
kết quả đó cũng gợi mở về quan hệ hai chiều giữa tăng trưởng kinh tế và đầu tư
trực tiếp nước ngoài.
Trong thời gian qua chính sách đầu tư nước ngoài của Việt Nam không kém
hấp dẫn so với một số nước trong khu vực và trên thế giới, nhưng hiệu lực và tính
thực thi chính sách thấp làm giảm dũng vốn FDI đăng ký và gây khó khăn cho giải
ngân nguồn vốn này. Dù xét dưới góc độ nào, biến động thất thường về FDI đăng
ký sẽ bất lợi cho tăng trưởng kinh tế, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế và
cạnh tranh trong khu vực về thu hút FDI ngày càng gay gắt hơn.

Mức thu nhập cao phản ánh năng suất lao động cao của khu vực có vốn FDI là
một biểu hiện bình thường ở các nước đang phát triển. Năng suất lao động cao từ
khu vực FDI thường mong đợi sẽ lan toả ra các khu vực khác, và thực tế ở một số
quốc gia điều đó đó được kiểm định là có xảy ra. Tuy nhiên, trong trường hợp của
Việt Nam cũng cần phải xem xét. Khu vực có vốn FDI tập trung trong các ngành
sản xuất thay thế nhập khẩu, tức được bảo hộ và trong chừng mực nào đó có sức
mạnh thị trường. Do vậy, khả năng sinh ra tác động tràn tích cực hay tác động lan
toả chắc chắn bị hạn chế. FDI tập trung cao trong các ngành được bảo hộ, tập
trung vốn có thể ngăn cản quá trỡnh di chuyển lao động giữa các doanh
nghiệp FDI. Như vậy, khả năng xuất hiện tác động tràn tích cực do di chuyển lao
động là rất hạn chế.
Cũng như nhiều nước khác, trong giai đoạn đầu đầu tư nước ngoài, Việt Nam
chưa có môi trường đầu tư thuận lợi và đầu tư nước ngoài cũng gây nhiều phiền
phức trong quá trình quản lý nền kinh tế. Do vậy chính phủ cần tạo môi
trường đầu tư thuận lợi tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư ở
Việt Nam nhưng đồng thời cần chú ý tới tác động tràn của FDI tới khu vực kinh
tế trong nước để nền kinh tế tăng trưởng và phát triển hơn nữa.
Hiện nay dòng vốn FDI đầu tư vào Việt Nam có tình trạng bị chảy lệch tức là
“nơi cần không có” (hoặc bội thực). Theo đánh giá chung, các cơ quan chức năng
và địa phương vẫn bị động trong lựa chọn dự án FDI. Mặt khác, nhiều lĩnh vực
vẫn còn rất nhiều rào cản. Chẳng hạn, lĩnh vực dịch vụ phải hàng loạt quy định
hạn chế, lĩnh vực nông nghiệp lại có nhiều rủi ro, đầu tư lâu, sinh lời ít Chính
phủ ta cần đưa ra những biện pháp để khắc phục tình trang trên.
Tài liệu tham khảo:



www.cpv.org.vn
/>ruong_KTvietnamese_233.pdf

×