Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính của tòa án nhân dân từ thực tiễn tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (901.97 KB, 101 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THỊ THU PHƢƠNG

THÈM QUYÒN XÐT Xö C¸C Vô ¸N HµNH CHÝNH
CñA TßA ¸N NH¢N D¢N - Tõ THùC TIÔN TØNH THANH HãA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THỊ THU PHƢƠNG

THÈM QUYÒN XÐT Xö C¸C Vô ¸N HµNH CHÝNH
CñA TßA ¸N NH¢N D¢N - Tõ THùC TIÔN TØNH THANH HãA
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp - Luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ MINH HÀ

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Trần Thị Thu Phƣơng


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ CÁC
VỤ ÁN HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN ..................... 8
1.1.

Quan niệm chung về thẩm quyền xét xử các vụ án hành
chính của tòa án nhân dân................................................................. 8

1.1.1. Khái quát chung về vụ án hành chính .................................................. 8
1.1.2.


Khái niệm thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính của Tòa án .......... 11

1.2.

Thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính ở một số nƣớc trên
thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam ........................................... 15

1.2.1. Thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính theo mô hình Tòa án
hành chính chuyên trách và độc lập hoàn toàn với tòa án tư pháp .... 15
1.2.2. Thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính của tòa án hành chính
chuyên trách nhưng không độc lập hoàn toàn so với tòa án tư pháp..... 16
1.2.3. Mô hình và thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính của tòa án
thường có chức năng tài phán hành chính.......................................... 18
1.2.4. Thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính của tòa án theo mô
hình trung gian ................................................................................... 21
1.3.

Cơ sở quy định thẩm quyền xét xử vụ án hành chính ở Việt Nam .... 23

1.3.1. Cơ sở lý luận ...................................................................................... 23
1.3.2. Cơ sở thực tiễn ................................................................................... 28


Chƣơng 2: THẨM QUYỀN XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THEO LUẬT TỐ TỤNG HÀNH
CHÍNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG Ở TỈNH THANH HÓA ... 32
2.1.

Pháp luật về thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính ................ 32


2.1.1. Lược sử về thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính trước khi
ban hành Luật Tố tụng hành chính 2015 ............................................ 32
2.1.2. Pháp luật hiện hành về thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính
của Tòa án nhân dân ........................................................................... 39
2.2.

Đánh giá chung về thực tiễn áp dụng quy định của Luật tố
tụng hành chính về thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính ở
tỉnh Thanh Hóa ................................................................................. 54

2.3.

Những vƣớng mắc nổi bật trong áp dụng pháp luật về thẩm
quyền xét xử các vụ án hành chính tại tỉnh Thanh Hóa............... 57

2.3.1.

Xác định không đúng đối tượng khởi kiện của vụ án hành chính ......... 58

2.3.2. Xác định thẩm quyền giải quyết vụ án trong trường hợp vụ án có
yếu tố nước ngoài ............................................................................... 63
2.3.3. Nhập, tách vụ án không đúng ............................................................. 66
2.4.

Nguyên nhân của những khó khăn, hạn chế trong áp dụng
pháp luật về thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính của Tòa
án nhân dân ....................................................................................... 68

Chƣơng 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG QUY

ĐỊNH CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH VỀ THẨM
QUYỀN XÉT XỬ XÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN
Ở TỈNH THANH HÓA ...................................................................... 72
3.1.

Quan điểm hoàn thiện các quy định của pháp luật về thẩm
quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án ................................... 72


3.2.

Giải pháp cụ thể nâng cao chất lƣợng áp dụng các quy định
của pháp luật về thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính
của Tòa án nhân dân ở tỉnh Thanh Hóa ........................................ 73

3.2.1. Vấn đề hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền xét xử vụ án hành
chính của Tòa án ................................................................................ 73
3.2.2. Tăng cường nguồn lực và phương tiện cho hoạt động xét xử án
hành chính ở tòa án hai cấp tỉnh Thanh Hóa ...................................... 77
3.2.3. Đảm bảo tính độc lập và quyền giải thích pháp luật của Tòa án ....... 81
KẾT LUẬN .................................................................................................... 87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 89


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TTHC:

Tố tụng hành chính

UBND:


Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam từ những
năm đầu của thập kỷ 90, thế kỷ XX đã đặt ra vấn đề cần phải có một cơ chế
kiểm soát hữu hiệu hoạt động của cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức
trong quá trình quản lý, điều hành xã hội, khắc phục những biểu hiện cửa
quyền, lạm quyền, lộng quyền hoặc trốn tránh trách nhiệm. Để thực hiện được
điều này Nhà nước ta đã tạo ra cơ chế kiểm tra, giám sát, giải quyết khiếu nại
hành chính và giải quyết các tranh chấp hành chính bằng con đường tư pháp.
Theo đó, Tòa án có thẩm quyền phán quyết tính hợp pháp hoặc bất hợp pháp
của quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính của cơ quan nhà nước và
cán bộ, công chức, khi những quyết định và hành vi đó xâm hại đến quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức. Đây cũng chính là một chủ trương lớn
của Đảng ta gắn liền với công cuộc đổi mới, cải cách nền hành chính quốc
gia, cải cách hệ thống tư pháp. Trong khi đó, Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của
công dân năm 1991 thay thế cho Pháp lệnh năm 1981, tuy có những tiến bộ
nhất định, nhưng mới chỉ là việc giải quyết theo cấp hành chính, cơ quan hành
chính vừa là người bị kiện, vừa là người phán quyết, chưa có một cơ quan xét
xử độc lập, theo một trình tự tố tụng và chỉ tuân theo pháp luật. Đáp ứng nhu
cầu đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá VII đã quyết định và nhấn mạnh: “xúc tiến việc thiết lập hệ thống toà
hành chính” trong hệ thống Toà án nhân dân để xét xử các khiếu kiện hành
chính. Tại kỳ họp thứ 8, khoá IX, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ
sung Luật tổ chức Toà án nhân dân, trong đó giao cho Toà án nhân dân chức
năng xét xử những vụ án hành chính. Từ đó, hệ thống Toà hành chính đã
chính thức được thành lập bên cạnh các Toà chuyên trách khác, một kênh


1


giám sát cơ quan quản lý Nhà nước từ bên ngoài - một thiết chế mới có thể
bảo vệ hữu hiệu quyền, lợi ích hợp pháp của người dân trong mối quan hệ
giữa Nhà nước và người dân.
Lần đầu tiên trong lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật tố tụng
hành chính Việt Nam, quyền khởi kiện vụ án hành chính của người dân để yêu
cầu Toà án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình đã được ghi nhận tại Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996. Văn bản này đã ghi nhận
Toà án có thẩm quyền giải quyết 8 loại khiếu kiện; đến năm 1998 được sửa đổi,
bổ sung thêm 2 loại khiếu kiện. Quá trình này, Đảng ta tiếp tục xác định trong
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020" là "... mở rộng thẩm quyền xét xử của Toà án đối với
các khiếu kiện hành chính; đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện
hành chính tại Toà án; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng,
bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước Toà án...".
Trên cơ sở chủ trương đó của Đảng, ngày 05/4/2006, Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội khoá XI đã ban hành Pháp lệnh số 29/2006/PL-UBTVQH11 sửa
đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính. Theo đó, số lượng các khiếu kiện thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án
đã được mở rộng lên tới 22 loại việc. Như vậy, qua những lần sửa đổi, bổ
sung thẩm quyền xét xử của Toà án đối với các khiếu kiện hành chính đã liên
tục được mở rộng nhưng vẫn hạn chế thẩm quyền xét xử của Tòa án, không
đáp ứng được sự phát triển của điều kiện kinh tế xã hội và nhu cầu của thực
tiễn. Ngày 24/11/2010, Quốc hội khoá XII, Kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật
Tố tụng hành chính, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2011. Luật Tố tụng
hành chính 2010 đã khắc phục hạn chế của các Pháp lệnh trước đây bằng việc
quy định mang tính loại trừ - một phương pháp rất mở và bao quát, bao gồm

tất cả các quyết định hành chính, hành vi hành chính (loại trừ các quyết định

2


hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh
vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy định
và các quyết định, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức).
Quá trình thi hành Luật Tố tụng hành chính năm 2010 cho thấy, mặc dù
số lượng các vụ án hành chính ngày càng gia tăng nhưng chất lượng giải
quyết, xét xử các vụ án hành chính chưa thực sự bảo đảm; số lượng các bản
án, quyết định về vụ án hành chính bị huỷ, sửa chưa giảm mạnh; thời hạn giải
quyết, xét xử các vụ án hành chính theo quy định của Luật trong một số
trường hợp vẫn còn bị vi phạm. Từ thực tế trên đòi hỏi cần phải có sự sửa đổi,
bổ sung đối với Luật Tố tụng hành chính. Vì vậy, ngày 25/11/2015, Quốc hội
đã thông qua Luật Tố tụng hành chính năm 2015 với nhiều quy định mới,
trong đó có các quy định liên quan đến thẩm quyền của Tòa án. Thẩm quyền
của Tòa án trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính được quy định tại
Chương II Luật Tố tụng hành chính năm 2015, gồm có 6 điều (từ Điều 30 đến
Điều 35), với nhiều nội dung đã được sửa đổi, bổ sung về thẩm quyền xét xử
của từng cấp Tòa án cho phù hợp với mô hình, tổ chức Tòa án theo Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2014; bảo đảm tính khách quan, hiệu quả và khả
thi trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính.
Việc đi sâu tìm hiểu về thẩm quyền giải quyết các vụ án hành chính của
Tòa án thực hiện trên phạm vi địa bàn một tỉnh như tỉnh Thanh Hóa còn có ít
công trình nghiên cứu. Thanh Hóa là một tỉnh đang phát triển, số lượng các
vụ án hành chính khởi kiện ra Tòa án ngày càng gia tăng. Việc nghiên cứu,
tìm hiểu và đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng công tác xét xử các vụ
án hành chính xem xét trong phạm vi một tỉnh cụ thể như tỉnh Thanh Hóa là
một việc làm có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. Với ý nghĩa đó, tôi lựa

chọn đề tài "Thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân Từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa" làm luận văn thạc sĩ luật học.

3


2. Tình hình nghiên cứu
Từ khi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 ra
đời cho đến khi có Luật tố tụng hành chính năm 2015 thì tài phán hành chính
nói chung, tố tụng hành chính nói riêng là đối tượng nghiên cứu cho nhiều
học giả. Có thể kể đến một số bài viết và đề tài nghiên cứu liên quan đến thẩm
quyền xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân như:
- Luận án Tiến sĩ luật học của tác giả Trần Kim Liễu “Tòa hành chính
trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì
dân” bảo vệ năm 2011;
- Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thanh Bình “Thẩm quyền của
Tòa án nhân dân trong việc giải quyết khiếu kiện hành chính” bảo vệ năm 2003;
- Luận án Tiến sĩ luật học của tác giả Nguyễn Quốc Hồng “Đổi mới tổ
chức và hoạt động của Tòa hành chính đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước
pháp quyền Việt nam hiện nay” bảo vệ năm 2007;
Ở cấp độ Luận văn thạc sỹ, có thể kể đến luận văn có liên quan đến
thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án như:
- Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng về “Thẩm
quyền xét xử hành chính của Tòa án nhân dân” bảo vệ năm 2002;
- Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Hồng Bách “Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn trong hoạt động xét xử các vụ án hành chính ở nước ta
hiện nay” bảo vệ năm 2003.
Những công trình nói trên tập trung nghiên cứu ở khía cạnh có liên
quan đến những vấn đề chung về tài phán hành chính, thẩm quyền xét xử án
hành chính của Tòa án, cơ cấu tổ chức và hoạt động của Tòa hành chính.
Liên quan đến vấn đề thẩm quyền xét xử vụ án hành chính có thể kể

đến cuốn “Quyết định hành chính, hành vi hành chính - Đối tượng xét xử
hành chính của Tòa án” do TS Phạm Hồng Thái làm chủ biên, xuất bản

4


năm 2011. Cuốn sách đề cập đến những quan điểm lý luận về đối tượng
của xét xử hành chính, thẩm quyền xét xử hành chính; đánh giá những quy
định của pháp luật hiện hành ở thời điểm nghiên cứu về đối tượng của xét
xử hành chính, thẩm quyền xét xử hành chính ở Việt Nam đồng thời đưa ra
những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định này và nâng cao hiệu quả
của công tác xét xử hành chính.
Có thể thấy rằng, ở Việt Nam việc nghiên cứu về thẩm quyền xét xử vụ
án hành chính là một đề tài không mới. Ngoài các công trình nghiên cứu tiêu
biểu kể trên, vấn đề thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án cũng
được đặt ra trong các bài đăng trên báo, tạp chí. Tuy nhiên vẫn chưa có
nghiên cứu thực sự cập nhật những vấn đề liên quan đến thẩm quyền xét xử
các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân xuất phát từ pháp luật và thực tế
một địa phương. Việc nghiên cứu chuyên sâu về thẩm quyền xét xử các vụ án
hành chính là rất cần thiết bởi từ khi Luật tố tụng hành chính 2015 ra đời đã
đặt ra rất nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn nhất là trong bối cảnh một địa bàn
cụ thể như tỉnh Thanh Hóa.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận chung
về thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính của Tòa án trong tố tụng hành
chính, tìm hiểu quy định này đặt trong lịch sử Luật Tố tụng hành chính Việt
Nam; đánh giá thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về thẩm quyền xét
xử các vụ án hành chính của tòa án tại tỉnh Thanh Hóa. Làm rõ những điểm
hạn chế, thiếu sót, những quy định đã phù hợp của pháp luật trong quy định
về thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính của Tòa án, phân tích những tồn

tại, hạn chế trong thực tiễn áp dụng quy định đó.
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn là:
- Nghiên cứu làm rõ khái niệm chung về thẩm quyền xét xử các vụ án hành
chính của Tòa án trong tố tụng hành chính, rút ra đặc điểm, lịch sử phát triển.
5


- Phân tích, đánh giá từng trường hợp cụ thể về thẩm quyền xét xử các
vụ án hành chính của Tòa án theo Luật tố tụng hành chính.
- Tìm hiểu thực tiễn thi hành quy định về thẩm quyền xét xử các vụ án
hành chính của Tòa án trong Luật tố tụng hành chính thông qua việc tổng hợp
số liệu giải quyết và đánh giá một số bản án sơ thẩm bị Tòa án cấp phúc thẩm
hủy, sửa của tỉnh Thanh Hóa. Đồng thời làm rõ những hạn chế xung quanh
việc áp dụng và những nguyên nhân của nó.
- Đề ra những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng trên thực tiễn quy
định pháp luật về thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính của Tòa án trong
Luật tố tụng hành chính.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật tố
tụng hành chính Việt Nam về thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính của
Tòa án; thực tiễn thi hành quy định của Luật Tố tụng hành chính về thẩm
quyền xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Thanh
Hóa trong khoảng thời gian từ năm 2010 đến nay. Trong khuôn khổ hạn chế
của luận văn, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu khái quát về thẩm quyền xét xử
các vụ án hành chính của tòa án ở cấp sơ thẩm (không nghiên cứu về thẩm
quyền xét xử vụ án hành chính ở cấp phúc thẩm, thẩm quyền phán quyết của
hội đồng xét xử và trình tự, thủ tục giải quyết, xét xử của Tòa án trong giải
quyết vụ án hành chính), tìm hiểu những hạn chế trong các quy định của pháp
luật cũng như những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng những quy
định pháp luật vào thực tiễn xét xử tại Tòa án hai cấp tỉnh Thanh Hóa để đưa

ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền xét xử các vụ án hành
chính của Tòa án nhân dân.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-

6


Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể và đặc thù như: phương pháp phân tích tổng
hợp, phân tích các tình huống, vụ án cụ thể; phương pháp so sánh; phương
pháp thống kê…để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề
nghiên cứu trong luận văn.
6. Điểm mới của luận văn
Luận văn nghiên cứu một cách chuyên sâu về thẩm quyền xét xử các vụ
án hành chính của Tòa án nhân dân theo Luật Tố tụng hành chính. Phân tích
và đánh giá thực tế áp dụng các quy định của pháp luật về thẩm quyền xét xử
các vụ án hành chính của Tòa án thông qua các vụ án cụ thể đã được giải
quyết tại địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa
quan trọng về phương diện lý luận và thực tiễn, góp phần nhận thức đúng đắn,
thống nhất về nội dung thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính của Tòa án
theo Luật tố tụng hành chính, đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả về thẩm
quyền xét xét xử các vụ án hành chính.
7. Bố cục của luận văn
Luận văn có bố cục:
* Mở đầu
* Chương 1: Cơ sở lý luận về thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính
của Tòa án nhân dân.

* Chương 2: Thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân
dân theo Luật tố tụng hành chính và thực tiễn áp dụng ở tỉnh Thanh Hóa.
* Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành quy định của Luật
tố tụng hành chính về thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính của Tòa án.
* Kết luận.
* Danh mục tài liệu tham khảo.
7


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN
HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1. Quan niệm chung về thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính
của tòa án nhân dân
1.1.1. Khái quát chung về vụ án hành chính
Nhà nước pháp quyền khác với nhà nước khác ở mối quan hệ giữa công
quyền với người dân. Trong nhà nước phong kiến mối quan hệ giữa Nhà nước
và công dân là mối quan hệ một chiều thể hiện ở việc thần dân chịu trách
nhiệm trước Nhà nước mà không có chiều ngược lại: chính Nhà nước cũng
phải chịu trách nhiệm trước người dân. Trong Nhà nước pháp quyền, mối
quan hệ giữa Nhà nước và công dân là mối quan hệ qua lại hai chiều. Nhà
nước hoàn toàn có thể và có nguy cơ bị công dân của mình khởi kiện ra Tòa
án nếu các quyết định của cơ quan thực hiện quyền hành pháp, hành vi công
vụ của công chức xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
Bên cạnh đó khi nói đến Nhà nước pháp quyền là nói đến một Nhà
nước mà ở đó quyền con người, quyền công dân được ghi nhận trong Hiến
pháp và pháp luật, đồng thời được bảo đảm thực hiện và bảo vệ trên thực tế
bằng các chế định pháp lý khác nhau. Khi quyền công dân bị xâm phạm bởi
cơ quan hành chính thì một trong những chế định pháp lý bảo vệ quyền công
dân hiệu quả nhất là việc giải quyết khiếu kiện bằng con đường Tòa án. Như

vậy, giải quyết khiếu kiện hành chính là một chế định pháp lý hướng đến mục
đích cuối cùng là bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Chúng ta đang
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân, vì vậy việc nâng cao vai trò, hiệu quả của giải quyết khiếu kiện
hành chính tại Tòa án là cần thiết.
Khi thực hiện chức năng quản lý hành chính, Nhà nước không thể tránh

8


khỏi vấn đề xung đột lợi ích giữa một bên là cơ quan nhà nước với một bên là
những người trực tiếp bị tác động bởi các quyết định hành chính, hành vi
hành chính. Trong các quyết định và hành vi đó không hiếm những quyết
định hành chính, hành vi hành chính trái pháp luật, xâm phạm hoặc tiềm ẩn
nguy cơ xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Khi cho rằng
quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm từ phía công quyền, người dân
luôn có nhu cầu đến một cơ quan độc lập, vô tư và khách quan để phán quyết
trên cơ sở pháp luật. Về phía Nhà nước, trước yêu cầu chính đáng của công
dân, luôn đặt ra nhiệm vụ phải xây dựng hệ thống pháp luật, tạo cơ sở để giải
quyết những khiếu kiện đó của công dân.
Theo từ điển Tiếng Việt, “vụ” được hiểu là việc, sự việc không hay, rắc
rối cần phải giải quyết, còn “án” là tranh chấp quyền lợi cần được xét xử
trước tòa án. Như vậy xét về mặt thuật ngữ, “vụ án” là công việc phát sinh
trên cơ sở tranh chấp về quyền lợi thuộc nhiệm vụ xét xử của Tòa án. Trên cơ
sở đó, vụ án hành chính có thể hiểu là “vụ việc tranh chấp hành chính được
tòa án có thẩm quyền thụ lý theo yêu cầu khởi kiện của cá nhân, tổ chức đối
với quyết định hành chính, hành vi hành chính để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của họ [31, tr. 217].
Như vậy vụ án hành chính chỉ phát sinh khi có yêu cầu khởi kiện của cá
nhân, tổ chức đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính. Đây là căn

cứ đầu tiên để Tòa án xem xét thụ lý đơn khởi kiện nhưng không phải trường
hợp nào Tòa án thụ lý đơn khởi kiện cũng phát sinh vụ án hành chính. Việc
nhận đơn và thụ lý đơn khởi kiện phải tuân theo trình tự tố tụng nhất định.
Có thể nói các tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội rất đa dạng và
phong phú. Pháp luật quy định cụ thể về từng loại tranh chấp trong lĩnh vực
dân sự, kinh doanh thương mại, hành chính, do đó tùy từng loại tranh chấp cụ
thể mà xác định thẩm quyền giải quyết của Tòa án hay các cơ quan hành

9


chính Nhà nước. Để phân biệt tranh chấp hành chính với các loại tranh chấp
khác cần xác định tranh chấp hành chính là “tranh chấp phát sinh trong các
lĩnh vực khác nhau của hoạt động hành chính nhà nước” [35, tr.124-125].
Tranh chấp giữa chủ thể quản lý hành chính nhà nước với đối tượng quản lý
hành chính nhà nước phát sinh khi chủ thể quản lý hành chính nhà nước sử
dụng quyền lực nhà nước xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của đối
tượng quản lý nhà nước. Việc giải quyết tranh chấp này phải theo trình tự thủ
tục giải quyết khiếu nại hành chính hoặc giải quyết tại Tòa án theo thủ tục tố
tụng hành chính. Nếu các tranh chấp hành chính được giải quyết tại Tòa án thì
phát sinh vụ án hành chính, việc giải quyết vụ án hành chính sẽ tiến hành theo
trình tự thủ tục tố tụng do pháp luật quy định.
Mục đích của giải quyết khiếu kiện hành chính của công dân không chỉ
nhằm khôi phục, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân bị xâm
phạm từ phía các cơ quan hành chính nhà nước và các cán bộ, công chức hành
chính Nhà nước, mà còn góp phần phát hiện những hạn chế, khiếm khuyết
trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước các cấp,
những hành vi sai phạm của cán bộ, công chức khi thi hành công vụ.
Không phải mọi tranh chấp hành chính khi có yêu cầu khởi kiện thì đều
phát sinh vụ án hành chính mà điều quan trọng là tranh chấp hành chính đó

phải được Tòa án có thẩm quyền thụ lý giải quyết.
Hiện nay khái niệm vụ án hành chính chưa được quy định cụ thể trong
một văn bản quy phạm pháp luật nào. Tuy nhiên, khi đề cập đến khái niệm
này, ta có thể hiểu như sau: “Vụ án hành chính là vụ việc tranh chấp phát
sinh do cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện yêu cầu Tòa án có thẩm quyền
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại bởi quyết định hành
chính, hành vi hành chính”

10


1.1.2. Khái niệm thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính của Tòa án
Thuật ngữ “thẩm quyền” bắt nguồn từ tiếng la tinh “competentia” có
hai nghĩa là:
- Phạm vi các quyền hạn của cơ quan hoặc người có chức vụ nào đó.
- Phạm vi những kiến thức và kinh nghiệm mà ai đó có.
Ý nghĩa đầu trong khoa học pháp lý và quản lý thường được biểu thị
bằng thuật ngữ “thẩm quyền pháp lý”, ý nghĩa thứ hai “thẩm quyền chuyên
môn”. Cả hai ý nghĩa của khái niệm đều rất quan trọng đối với quản lý nhà
nước, bên cạnh thẩm quyền pháp lý còn rất coi trọng thẩm quyền chuyên môn
của người quản lý, của cơ quan nhà nước. “Thẩm quyền pháp lý” và “thẩm
quyền chuyên môn” đều quan trọng đối với quan lý nhà nước và có quan hệ
với nhau rất chặt chẽ. Thẩm quyền chuyên môn của cơ quan thực chất được
bảo đảm thông qua việc đào tạo, bồi dưỡng, chọn lựa, bố trí, sắp xếp cán bộ
theo các tiêu chí, yêu cầu nhất định và cũng dần dần được thể chế hóa thành
pháp luật ở một mức độ nào đấy. Tuy nhiên trong khoa học, pháp luật và thực
tiễn thuật ngữ “thẩm quyền” thường vẫn được hiểu với nghĩa là thẩm quyền
pháp lý và đó cũng là giới hạn xem xét trong mục này của luận văn.
“Thẩm quyền” với nghĩa thẩm quyền pháp lý cũng không đơn nhất mà
do tính phức tạp và tồn tại nhiều khái niệm gần gũi, quan hệ chặt chẽ với nó

nên có rất nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm thẩm quyền.
Theo từ điển tiếng Việt: “Thẩm quyền là quyền xem xét để kết luận và
định đoạt một vấn đề theo pháp luật” [51, tr.992].
Theo từ điểm Luật học thì Thẩm quyền được hiểu là: “Quyền chính thức
được xem xét để kết luận và định đoạt, quyết định một vấn đề” [53, tr.701]
Theo các khái niệm này, thẩm quyền gắn liền với quyền và nghĩa vụ
mà pháp luật quy định cho cơ quan nhà nước, người nắm giữ những chức vụ
lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan đó để thực hiện chức năng và nhiệm vụ

11


của họ. Mỗi cơ quan Nhà nước có chức năng và thẩm quyền được phân định
theo lĩnh vực, ngành, khu vực hành chính, cấp hành chính. Thực hiện chức
năng này, Tòa án có thẩm quyền xét xử.
Xét xử là hoạt động xem xét, đánh giá bản chất pháp lý của vụ việc
nhằm đưa ra một phán xét về tính chất, mức độ pháp lý của vụ việc, từ đó
nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết phù hợp với bản chất, mức độ trái
hay không trái pháp luật của vụ việc... Theo pháp luật hiện hành, Tòa án nhân
dân tối cao, Tòa án nhân dân các địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa
án khác do luật định là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Nghĩa là thẩm quyền xét xử là thẩm quyền chuyên biệt của Tòa án
mà không phải của bất kỳ một cơ quan nhà nước nào khác. Đó là quyền của
Tòa án được xem xét, đánh giá, đưa ra phán xét về tính chất, mức độ pháp lý
của một vụ việc, nhưng quan trọng nhất chính là được nhân danh Nhà nước
đưa ra một phán quyết để giải quyết vụ việc về mặt pháp lý.
Theo từ điển Luật học: “Thẩm quyền xét xử của Tòa án là quyền xem
xét và định đoạt trong hoạt động xét xử của Tòa án theo quy định của pháp
luật” [53, tr. 701].
Để làm rõ khái niệm này, Từ điển Luật học đưa ra hai cách hiểu cụ thể:

Thứ nhất: “Thẩm quyền xét xử của Tòa án” được hiểu là một quyền
chuyên biệt được trao riêng cho Tòa án, khác với thẩm quyền của các cơ quan
khác. Thẩm quyền xét xử là quyền chung của các Tòa án không phân biệt,
phân cấp, phân vùng lãnh thổ.
Theo cách hiểu này, thẩm quyền xét xử được khẳng định là thẩm quyền
chuyên biệt của Tòa án mà không một cơ quan Nhà nước nào khác có thẩm
quyền này.
Thứ hai: “Thẩm quyền xét xử của Tòa án” còn được hiểu là thẩm
quyền riêng của từng Tòa án cụ thể được phân định theo cấp, theo lãnh thổ
và theo vụ việc.
12


Theo đó, phân định theo cấp xét xử có: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm và
thẩm quyền xét xử phúc thẩm; Phân định theo vụ việc có thẩm quyền của Tòa
án xét xử vụ án, vụ việc dân sự, hình sự, hành chính, lao động...; Phân định
theo lãnh thổ có vụ án, vụ việc thuộc thẩm quyền xét xử của từng Tòa án nhân
dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện theo địa giới hành chính.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài “Thẩm quyền xét xử các vụ án
hành chính của Tòa án nhân dân - từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa”, tác giả
làm rõ thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính của Tòa án theo cách hiểu thứ
hai. Nghĩa là ở đây, khái niệm “Thẩm quyền xét xử” được phân tích dựa trên
các quy định của pháp luật nhằm làm rõ thẩm quyền xét xử của Tòa án theo
vụ việc, theo cấp (thẩm quyền xét xử theo thủ tục sơ thẩm và phúc thẩm),
theo lãnh thổ.
Như vậy, một cách khái quát, thẩm quyền xét xử của Tòa án có thể hiểu
là quyền của Tòa án được xác định trên cơ sở phân định vụ việc, cấp xét xử,
trong phạm vi địa giới hành chính nhất định, nhằm thực hiện việc xem xét,
đánh giá, đưa ra kết luận và định đoạt các vấn đề pháp lý của vụ việc thông
qua hoạt động xét xử.

Xác định thế nào là một tranh chấp hành chính thuộc thẩm quyền xét
xử của Tòa án là một vấn đề khá phức tạp. Về nguyên tắc, nên coi tất cả các
tranh chấp có tính chất hành chính (trừ một số lĩnh vực nhất định) thuộc thẩm
quyền xét xử của Tòa án. Tuy nhiên, cần có những quy định rõ ràng trong văn
bản pháp luật để tạo thuận lợi cho công dân và cả Tòa án xác định được
những vụ việc thuộc thẩm quyền của mình. Tòa án có thẩm quyền giải quyết
các khiếu kiện đối với hoạt động của cơ quan hành chính Nhà nước hoặc cán
bộ, công chức trong cơ quan hành chính Nhà nước khi thi hành công vụ. Như
vậy đối tượng chủ yếu của xét xử hành chính là các quyết định hành chính,
hành vi hành chính trong hoạt động quản lý hành chính của cơ quan nhà nước,
giải quyết các tranh chấp hành chính giữa Nhà nước và công dân.
13


Khái niệm thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính là căn cứ để phân
biệt với thẩm quyền xét xử các vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia
đình... và cũng là một trong những căn cứ để phân định ngành Luật tố tụng
hành chính với các ngành luật quy định về tố tụng khác trong hệ thống pháp
luật Việt Nam. Vì vậy không được nhầm lẫn thẩm quyền xét xử các vụ án hành
chính được quy định cho Tòa án nói chung với quyền hạn của Tòa án ở các giai
đoạn trong quá trình giải quyết vụ án (như quyền quyết định đối với yêu cầu
của người khởi kiện tại cấp sơ thẩm, quyền quyết định đối với kháng cáo ở cấp
phúc thẩm, quyền quyết định đối với kháng nghị giám đốc thẩm,....).
Việc trao cho Tòa án chức năng xét xử các vụ án hành chính tạo ra cơ
chế riêng, độc lập, khách quan, công khai, dân chủ, công bằng hơn để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức trước khả năng bị
xâm hại bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước,
người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước.
Trong hệ thống pháp luật nói chung và đặc biệt là pháp luật về quản lý
(luật hành chính) hiện nay ở nước ta chưa phát triển, chúng ta không phân

chia hệ thống pháp luật ra làm luật công và luật tư. Mặt khác, có một số vấn
đề đặt ra khá nan giải là trong hệ thống chính trị của chúng ta, ngoài các cơ
quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội còn có một số hoạt động gắn với
hoạt động quản lý nhà nước, có nghĩa là ngoài các quy tắc, điều lệ của tổ
chức, họ cũng áp dụng các quy phạm pháp luật hành chính. Vì vậy, xác định
thế nào là một tranh chấp hành chính thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án là
một vấn đề khá phức tạp, cần có những quy định rõ ràng trong văn bản pháp
luật để tạo thuận lợi cho công dân và cả Tòa án xác định được những vụ việc
thuộc thẩm quyền của mình.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu: “Thẩm quyền xét xử vụ án hành chính
của Tòa án nhân dân là phạm vi quyền của Tòa án trong việc thụ lý và giải
quyết các vụ án hành chính”.
14


1.2. Thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính ở một số nƣớc trên
thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam
1.2.1. Thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính theo mô hình Tòa án
hành chính chuyên trách và độc lập hoàn toàn với tòa án tư pháp
Điển hình cho mô hình này là Pháp và một số nước theo mô hình Pháp
(Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, Bỉ, Italia, Ai Cập, Côlômbia…).
Theo mô hình này thì Tòa án có thể xem xét tính hợp pháp của các quy
phạm pháp luật hành chính, như trường hợp ở Pháp, các tòa án có thể phán
quyết từ những quyết định nhỏ nhất của chính quyền địa phương đến các
Nghị định được ban hành bởi Tổng thống, ngoại trừ những văn bản đặc biệt
của Chính phủ. Ngoại lệ này xuất phát từ lý luận về đạo luật của Chính phủ và
sự phân biệt rõ ràng giữa chức năng quản lý và chức năng điều hành. Theo
các học giả Pháp, một số đạo luật bảo vệ lợi ích công như chống khủng bố,
bạo loạn, thiên tai, dịch bệnh..., mặc dù có thể xâm hại đến quyền riêng tư của
cá nhân nhưng nhằm bảo vệ các lợi ích của quốc gia, cộng đồng, Chính phủ

vẫn có thể ban hành. Việc xem xét lại các đạo luật này chỉ có thể là Nghị viện
mà không thể là Hội đồng Nhà nước.
Hai là, tòa án không giới hạn xem xét các vấn đề hành chính được liệt
kê cũng như không công nhận điều khoản dự phòng (trong trường hợp pháp
luật có quy định khác). Luật hành chính Pháp chỉ đưa ra một nguyên tắc ngoại
lệ là tòa án sẽ không xem xét, giải quyết các vụ việc liên quan đến quá trình
lập pháp của cơ quan Nghị viện, các mối quan hệ luật pháp quốc tế, các hoạt
động hành chính nhưng mang bản chất dân sự như hợp đồng hành chính... Về
nguyên tắc, người dân có thể kiện bất kỳ một quyết định hay hành vi công
quyền nào ra tòa án có thẩm quyền nếu không thuộc những trường hợp ngoại
lệ. Chính phủ không thể tự ý trao cho tòa án quyền xét xử một vụ việc nào
đấy thông qua điều khoản dự phòng như Việt Nam đã từng có.

15


Ba là, Tòa án hành chính Pháp có thể giải quyết các vụ kiện đòi bồi
thường thiệt hại do hành chính gây ra.
Bốn là, về căn cứ để đưa ra phán quyết, luật của các nước này đều cho
phép tòa án phán quyết tính hợp pháp của các quyết định và hành vi bị kiện.
Tuy nhiên, họ quy định rõ việc xem xét tính hợp pháp về hình thức và nội dung
của đối tượng khởi kiện, chẳng hạn: luật của Pháp quy định rõ hai căn cứ để
xem xét về hình thức là: 1) không đúng thẩm quyền; 2) vi phạm các quy định
về thủ tục; và hai căn cứ để xem xét về nội dung là: 1) vi phạm nội dung luật;
2) sự lạm dụng quyền lực. Bên cạnh đó, xuất phát từ học thuyết về giới hạn
quyền tự định đoạt, hành chính có những quyền tự quyết định trong phạm vi
của mình. Như vậy, trong một số trường hợp, tòa án có thể xem xét các quyết
định hay hành vi này có vượt ngưỡng của quyền tự định đoạt hay không.
Năm là, tòa án có thể xem xét tính hợp pháp của các quyết định, hành
vi công quyền bất kể khi nào khi có yêu cầu khởi kiện mà không cần trải qua

giai đoạn tiền tố tụng. Điều này lý giải cho số lượng vụ kiện hành chính ở các
nước này tăng cao đáng kể, đặc biệt là tâm lý không quá nặng nề của cơ quan
hay người đứng đầu khi bị kiện ra tòa án. Hiện nay theo quy định tại khoản 3,
4 Điều 30 Luật tố tụng hành chính 2015 của Việt Nam vẫn quy định trước khi
khởi kiện vụ án hành chính, đương sự phải trải qua giai đoạn tiền tố tụng.
1.2.2. Thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính của tòa án hành
chính chuyên trách nhưng không độc lập hoàn toàn so với tòa án tư pháp
Điển hình cho mô hình này là: Cộng hòa Liên bang Đức, Thụy Điển,
Phần Lan, Áo, Bồ Đào Nha, Mê hi cô, Thái Lan… Ở các nước này, các cơ
quan xét xử hành chính được tổ chức thành một hệ thống độc lập song song
với các tòa án tư pháp. Mặc dù có sự phân chia nhưng giữa hai ngành luật
công và luật tư nhưng các thẩm phán được đào tạo chung, không có sự phân
biệt giữa thẩm phán tư pháp và thẩm phán hành chính. Đặc biệt ở tầm cao
nhất, tòa án hành chính hay tòa án tư pháp đều trực thuộc tòa án tối cao.
16


Đức đã xây dựng mô hình tòa án hành chính độc lập tồn tại song song
với hệ thống tòa án thường. Hiện nay các Tòa án hành chính ở Cộng hòa liên
bang Đức được tạo thành một hệ thống độc lập bao gồm ba cấp Tòa án. Cơ
quan xét xử hành chính cao nhất là Tòa án hành chính Liên bang. Tòa án cấp
hai là các Tòa án hành chính tối cao của bang (trong một số bang theo truyền
thống còn gọi là Viện xét xử hành chính). Mỗi bang chỉ có một tòa án hành
chính tối cao nhưng trong một số trường hợp ngoại lệ hai bang hợp nhất với
nhau và thành lập một Tòa án cấp hai chung như trường hợp của bang
Xlécvích– Gônxtanh và Hạ Saxon. Tòa án hành chính tối cao chỉ có nhiệm vụ
xét xử các vụ kiện hành chính mà không có chức năng tư vấn cho Chính phủ
như mô hình của Pháp. Bên cạnh đó, khác với tòa án hành chính Pháp có thể
xem xét các vụ việc bồi thường thiệt hại, tòa án Đức chỉ xem xét tính hợp
pháp của các quyết định, hành vi, còn việc yêu cầu bồi thường sẽ do tòa án

dân sự giải quyết. Tòa thấp nhất là Tòa án sơ cấp thuộc các bang, gọi chung là
Tòa án hành chính. Mỗi bang có nhiều Tòa án hành chính sơ cấp.
Cộng hòa liên bang Đức cũng như Cộng hòa Pháp, có hệ thống cơ quan
tài phán hành chính hoàn toàn độc lập với Tòa án tư pháp, nhưng khác với cơ
quan tài phán hành chính ở Pháp, cơ quan tài phán hành chính ở Đức không
có thêm chức năng tư vấn pháp lý. Trong hệ thống Tòa án hành chính có 52
Tòa án hành chính khu vực, 16 Tòa án chính liên khu vực và một Tòa án hành
chính liên bang. Quyền về bảo vệ pháp luật “triệt để” của công dân trước
quyền lực hành pháp phát sinh từ khoản 4 điều 19 của Hiến pháp. Tính triệt
để này được thể hiện ở chỗ công dân được bảo vệ trước tất cả các văn bản
hành chính hay nói cách khác, các Tòa án phải bảo đảm sự bảo vệ pháp luật
về mặt nguyên tắc chống lại tất cả những hành vi vi phạm pháp luật của cơ
quan hành pháp. Các thẩm phán hành chính có nghĩa vụ phải nghiên cứu nội
dung, làm rõ việc tranh chấp và trong trường hợp cần thiết có thể đưa ra ý

17


kiến của mình về cách giải quyết vụ việc. Tòa án không bị ràng buộc bởi các
bằng chứng và giải trình của các bên. Bằng nguyên tắc này, Tòa án hành
chính có thể bù đắp sự không cân bằng giữa công dân và cơ quan hành chính
và có thể giúp đỡ công dân trong quá trình tố tụng.
1.2.3. Mô hình và thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính của tòa
án thường có chức năng tài phán hành chính
Hệ thống này với những hình thức khác nhau được áp dụng ở nhiều
nước như ở các nước Anglo-saxon như Anh Quốc, Hoa Kỳ, Ailen, Na Uy,
Đan Mạch, Canada, Síp, Nhật Bản…
Ở những nước theo hệ thống này dường như không tồn tại khái niệm
về lợi ích công trong phân biệt với lợi ích cá nhân nên Luật hành chính
không phải là một ngành luật phát triển. Các quan hệ xã hội chủ yếu được

điều chính bởi luật Dân sự, Thương mại. Cũng không có sự phân biệt giữa
luật công và luật tư.
Các nước theo hệ thống này giao hoàn toàn việc xét xử các khiếu kiện
hành chính cho các tòa án tư pháp. Cơ quan hành chính không được hưởng
bất cứ sự ưu ái nào trước cơ quan tài phán.
Nhật Bản có Luật Kiện tụng hành chính ban hành ngày 16/5/1962,
được sửa đổi gần đây nhất ngày 19/6/2004. Các quy định liên quan đến thẩm
quyền và thủ tục giải quyết được sửa đổi với nhiều điểm tiến bộ, góp phần
bảo vệ triệt để các quyền tự do cá nhân, có giá trị tham khảo đối với Việt Nam
trong việc pháp điển hóa luật tố tụng hành chính. Một vài kinh nghiệm có thể
tham khảo như:
Một là, Tòa án Nhật Bản không bị giới hạn bởi các vụ việc hành chính
mang tính liệt kê. Tuy nhiên, các quyết định hành chính có thể được kiện ra
tòa phải thỏa mãn các đặc trưng của một quyết định hành chính như: tính
quyền lực công; hiệu lực pháp lý, có sự tác động trực tiếp và chính xác với

18


×