Tải bản đầy đủ (.pdf) (141 trang)

Áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân (Qua thực tiễn Tỉnh Thanh Hóa )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1000.22 KB, 141 trang )


1

2

1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



ĐẢM CẢNH LONG



ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
(QUA THỰC TIỄN TỈNH THANH HÓA)

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số : 60 38 01



TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



HÀ NỘI - 2012
Công trình đƣợc hoàn thành
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội




Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Hoàng Thị Kim Quế



Phản biện 1:


Phản biện 2:



Luận văn đƣợc bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi giờ , ngày tháng năm 2012.





Có thể tìm hiểu luận văn
tại Trung tâm tƣ liệu - Thƣ viện Đại học Quốc gia Hà Nội Trung
tâm tƣ liệu - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội


4
MỤC LỤC




Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các từ viết tắt


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
11
1.1.
Khái niệm, đặc điểm áp dụng pháp luật
11
1.1.1.
Áp dụng pháp luật trong hệ thống các hình thức thực hiện
pháp luật
11
1.1.2.
Đặc điểm của áp dụng pháp luật

20
1.2.
Khái niệm, đặc điểm, các giai đoạn áp dụng pháp luật hình
sự của Tòa án nhân dân
23
1.2.1.
Khái niệm áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân
23
1.2.2.
Đặc điểm của áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân
25
1.2.3.
Các giai đoạn áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân
35
1.2.3.1.
Giai đoạn xét xử sơ thẩm
37
1.2.3.2.
Áp dụng pháp luật trong giai đoạn xét xử phúc thẩm
46
1.2.3.3.
Áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án trong giai đoạn thi
hành bản án hình sự
51
1.2.3.4.
Áp dụng pháp luật của Tòa án trong giai đoạn giám đốc
thẩm, tái thẩm các vụ án hình sự
54



5
1.3.
Vai trò áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân
60
1.4.
Các tiêu chí đánh giá chất lượng áp dụng pháp luật hình sự
của Tòa án nhân dân
63
1.4.1.
Xét xử thấu tình, đạt lý
64
1.4.2.
Việc áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án phải thực sự dân
chủ, minh bạch, bảo vệ các quyền lợi chính đáng hợp pháp
của công dân
65
1.4.3.
Việc áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án phải góp phần
nâng cao ý thức pháp luật của người dân
66
1.4.4.
Việc áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án phải góp phần
tích cực vào việc thực hiện đường lối chính sách của Đảng
và nhà nước
67

Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ CỦA
TÒA ÁN QUA THỰC TIỄN TỈNH THANH HÓA
69
2.1.

Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Thanh Hóa; cơ
cấu tổ chức của tòa án nhân dân ở tỉnh Thanh Hóa - những
yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động áp dụng pháp luật hình sự
của tòa án
69
2.1.1.
Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Thanh Hóa - ảnh
hưởng đến hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án
69
2.1.2.
Tình hình tội phạm ở tỉnh Thanh Hóa
71
2.1.3.
Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân ở tỉnh Thanh Hóa
72
2.2.
Kết quả áp dụng pháp luật hình sự của tòa án nhân dân ở
tỉnh Thanh Hóa
74
2.2.1
Áp dụng pháp luật trong xét xử án hình sự sơ thẩm
74
2.2.2.
Áp dụng pháp luật trong xét xử án hình sự phúc thẩm
75
2.2.3.
Áp dụng pháp luật trong giai đoạn thi hành án hình sự
76
2.2.4.
Áp dụng pháp luật trong giám đốc thẩm, tái thẩm

77


6
2.3.
Những hạn chế trong áp dụng pháp luật hình sự của tòa án
nhân dân ở tỉnh Thanh Hóa
78
2.3.1.
Những hạn chế
78
2.3.2.
Nguyên nhân của những hạn chế
87

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP CƠ BẢN VỀ BẢO
ĐẢM CHẤT LƢỢNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
95
3.1.
Các quan điểm cơ bản về về nâng cao chất lượng áp dụng
pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân
95
3.2.
Các giải pháp bảo đảm chất lượng áp dụng pháp luật hình
sự của Tòa án nhân dân
102
3.2.1.
Các giải pháp chung
102

3.2.2.
Các giải pháp cụ thể
114

KẾT LUẬN
127

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
129

PHỤ LỤC
136



7



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ADPL
: Áp dụng pháp luật
BLHS
: Bộ luật hình sự
BLTTHS
: Bộ luật tố tụng hình sự
TAND
: Tòa án nhân dân
TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa



8
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam là con đường phát triển tất
yếu, phù hợp với xu thế chung của thời đại. Nhà nước pháp quyền, giá trị cao
quý của nhân loại, là nhà nước có khả năng cao nhất trong việc bảo vệ, bảo đảm
các quyền con người. Trong Nhà nước pháp quyền, quyền tư pháp là một bộ
phận của quyền lực nhà nước luôn gắn bó chặt chẽ với quyền lập pháp và quyền
hành pháp trong tổng thể quyền lực nhà nước thống nhất và giữ một vai trò
đặc biệt quan trọng. Quyền tư pháp được thực hiện thông qua hoạt động của các
cơ quan tư pháp, trong đó hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân (TAND) thể
hiện tập trung nhất của quyền tư pháp, thể hiện nền công lý, sự công bằng và bình
đẳng của các chủ thể trước pháp luật. Vì vậy, mục tiêu của chiến lược cải cách tư
pháp ở nước ta đến năm 2020 đã được chỉ ra trong Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị (gọi tắt là Nghị quyết số 49-NQ/TW) là:
"Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ
công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được
tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao" [8].
Trong hệ thống các cơ quan tư pháp Việt Nam, Tòa án được xác định
là trung tâm, xét xử là trọng tâm của nền tư pháp; việc nâng cao chất lượng
hoạt động xét xử của Tòa án được coi là khâu đột phá của quá trình cải cách tư
pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN)

trong giai đoạn hiện nay. Trong thời gian qua, các Tòa án đã có nhiều cố gắng
trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình theo tinh thần Nghị quyết số
08-NQ/TW ngày 02/01/2002 "Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới" (gọi tắt là Nghị quyết số 08-NQ/TW) là:


9
Khi xét xử phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng
trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan, Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết
của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa
trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm
sát viên, của người bào chữa, bị cáo, để ra những bản án, quyết
định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật
quy định [7].
Trong những năm qua, thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về cải
cách tư pháp, chất lượng công tác tư pháp được đánh giá có nhiều chuyển
biến rõ rệt. Công tác giải quyết án trọng điểm và đấu tranh phòng chống tội
phạm được đẩy mạnh và thu được nhiều kết quả. Nhiều vụ án tham nhũng gây
hậu quả nghiêm trọng bị khám phá mà không gặp trở ngại như trước đây.
Tình hình thi hành án phạt tù cũng được thực hiện nghiêm túc, chủ trương đặc
xá được đánh giá đúng đắn thể hiện chính sách nhân đạo của Việt Nam. Công
tác kiểm sát được triển khai toàn diện và sâu rộng hơn, nhất là trong việc bắt
giam. Hệ thống tư pháp được củng cố, kiện toàn về bộ máy và nhân sự.
TAND đã có nhiều thay đổi như: trước đây bầu Thẩm phán được thay thế
bằng chế độ bổ nhiệm, thành lập thêm một số Tòa án chuyên trách để giải
quyết tranh chấp mới phát sinh, tăng thêm quyền cho Tòa án cấp huyện, chú
trọng việc tranh tụng tại Tòa, Viện kiểm sát được xác định là cơ quan thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, xác định trách nhiệm và
quyền hạn rõ ràng hơn. Đội ngũ cán bộ tư pháp cũng được rà soát, bảo đảm

vững vàng về chính trị, đạo đức, chuyên môn. Bên cạnh những thành tựu to
lớn đã đạt được, vẫn còn nhiều hạn chế, tiến trình cải cách tư pháp vẫn còn
chậm so với yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn. Tầm quan trọng của công tác tư
pháp chưa được nhận thức đầy đủ nên thiếu sự quan tâm đến việc xây dựng
đội ngũ cán bộ tư pháp và cơ sở vật chất. Chính sách hình sự chưa theo kịp
tiến trình đổi mới của xã hội. Hoạt động của cơ quan tư pháp và bổ trợ tư


10
pháp chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới, chưa bắt kịp và phục vụ sự phát
triển kinh tế - xã hội.
Thanh Hóa là một tỉnh nằm ở cực Bắc miền Trung, cách Thủ đô Hà
Nội 150 km về phía Nam, cách Thành phố Hồ Chí Minh 1.560km. Phía Bắc
giáp với ba tỉnh Sơn La, Hòa Bình và Ninh Bình, phía Nam giáp tỉnh Nghệ
An, phía Tây giáp tỉnh Hủa Phăn (Nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào),
phía Đông là Vịnh Bắc Bộ. Thanh Hóa có diện tích: 1.112.033 ha; dân số gần
4 triệu người, với 7 dân tộc anh em sinh sống. Cơ cấu tổ chức của ngành Tòa
án tỉnh thanh Hóa gồm: TAND tỉnh Thanh Hóa có 05 Tòa chuyên trách, 03
phòng giúp việc và 27 TAND cấp huyện. Toàn ngành TAND tỉnh Thanh Hóa
có 353 công chức, trong đó có 287 người có trình độ đại học luật và sau đại
học. Trong những năm qua, cùng với ngành Tòa án toàn quốc, TAND tỉnh
Thanh Hóa đã không ngừng nỗ lực hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được Đảng,
Nhà nước và nhân dân giao phó. Chất lượng hoạt động xét xử đã được nâng
lên từng bước, góp phần giải quyết tốt các tranh chấp phát sinh trong đời sống
xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương, tạo
môi trường ổn định, thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc
tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, công tác áp dụng pháp luật (ADPL) của cơ
quan tư pháp nói chung và tại ngành Tòa án nói riêng vẫn còn bộc lộ nhiều
hạn chế, đó là:

Chất lượng công tác tư pháp nói chung, chất lượng xét xử nói riêng
chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân; Chính sách hình sự, chế
định pháp luật dân sự…và pháp luật về tố tụng tư pháp còn nhiều bất cập,
chậm được sửa đổi, bổ sung. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế
hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý. Trình độ nghiệp vụ và bản
lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một số cán bộ sa
sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Vẫn còn tình trạng


11
oan sai, bỏ lọt tội phạm trong điều tra, giam, giữ, truy tố, xét xử…, các bản án
bị hủy, cải sửa lớn do lỗi chủ quan. Mặc dù các bản án sai sót không nhiều,
nhưng ảnh hưởng không tốt đến uy tín của thẩm phán, tính công bằng, công lý
của Tòa án; xâm hại đến quyền lợi chính đáng, hợp pháp của công dân, làm
giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp.
Mặt khác cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường,
tình hình tội phạm diễn ra ngày càng đa dạng phức tạp, liều lĩnh, táo bạo với
nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, trong nhiều lĩnh vực, không chỉ xâm phạm
an ninh quốc gia, tính mạng sức khỏe, danh dự nhân phẩm, quyền sở hữu tài
sản, mà còn xuất hiện nhiều loại tội phạm mới trong quản lý kinh tế, trật tự
hành chính, bảo vệ môi trường… Đặc biệt tội phạm có tổ chức hoạt động
dưới dạng các băng nhóm xã hội đen, tội phạm về ma túy, tham nhũng, vi
phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, trong thời
gian gần đây đã và đang gây ra những tác hại nghiêm trọng về an ninh trật tự
và đời sống xã hội.
Để xây dựng nhà nước pháp quyền thực sự của dân, do dân và vì dân,
một trong những nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng Tòa án thực sự là cơ quan
bảo vệ công lý, công bằng, lẽ phải và quyền lợi chính đáng, hợp pháp của mỗi
người dân trước nguy cơ bị xâm hại trái pháp luật của các cá nhân, tổ chức
khác, cũng như từ chính các cơ quan tiến hành tố tụng, góp phần duy trì trật

tự xã hội và tạo môi trường ổn định, lành mạnh, thuận lợi cho cuộc sống của
người dân, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Áp dụng pháp luật là một hình thức quan trọng của thực hiện pháp
luật, do các cơ quan nhà nước thực hiện. Hoạt động xét xử của Tòa án thực
chất là hoạt động ADPL. Nâng cao chất lượng ADPL của các cơ quan tư pháp
nói chung, Tòa án nói riêng đang là đòi hỏi cấp thiết và lâu dài. Bởi bản án
của Tòa án là kết quả của các giai đoạn tố tụng trước đó, là phán quyết chính
thức của Nhà nước làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý quan trọng


12
đối với các cá nhân, tổ chức. Đặc biệt xét xử các vụ án hình sự ảnh hưởng
trực tiếp đến tính mạng, quyền tự do, danh dự nhân phẩm của công dân, cần
được tiến hành một cách hết sức thận trọng, khách quan, công tâm, tuân theo
trình tự, thủ tục pháp luật chặt chẽ để đưa ra các bản án đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, thấu tình đạt lý, không kết án oan người vô tội, không bỏ lọt
tội phạm, đủ tác dụng giáo dục cải tạo người phạm tội thành công dân có ích
cho xã hội và răn đe đấu tranh, phòng chống tội phạm.
Nhận thức đúng tầm quan trọng của ADPL hình sự tại Tòa án, chú
trọng phát huy những thành tựu đã đạt được, quyết tâm khắc phục những tồn
tại, góp phần nâng cao chất lượng ADPL hình sự của TAND, xứng đáng với
niềm tin của nhân dân, Đảng và Nhà nước trong tiến trình cải cách tư pháp.
Tôi chọn đề tài "Áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân (qua thực
tiễn tỉnh thanh Hóa)" để làm luận văn cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Ở nước ta hiện nay, vấn đề ADPL nói chung và ADPL trong hoạt
động giải quyết án hình sự nói riêng của TAND luôn luôn là đề tài thu hút sự
quan tâm của nhiều nhà khoa học pháp lý và đã có những bài viết có giá trị.
Những bài viết đó góp phần làm sáng tỏ mối liên hệ giữa lý luận khoa học
pháp lý với thực tiễn, vì vậy trực tiếp hoặc gián tiếp góp phần quan trọng

trong việc bảo đảm ADPL của TAND.
Gần đây có một số công trình nghiên cứu về ADPL trong hoạt động
giải quyết, xét xử của TAND đã được công bố như:
- Luận án tiến sĩ của tác giả Lê Xuân Thân: "Áp dụng pháp luật trong
hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay", năm 2004.
- Luận án tiến sĩ của tác giả: Chu Thị Trang Vân: "Hoạt động áp dụng
pháp luật hình sự của các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án Việt
Nam", năm 2009.


13
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Đức Hiệp: "Áp dụng pháp luật
trong hoạt động xét xử án hình sự của Tòa án nhân dân ở tỉnh Ninh Bình",
năm 2004.
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Thị Kim Chung: "Vi phạm pháp luật
trong hoạt động giải quyết các vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay", năm 2005.
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Mạnh Tiến: "Tranh tụng tại
phiên Tòa - một số vấn đề lý luận và thực tiễn", năm 2005.
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Văn Kiểm: "Áp dụng pháp luật
trong hoạt động xét xử án hình sự của Tòa án nhân dân ở tỉnh Nam Định",
năm 2010.
- Tác giả Lưu Tiến Dũng với bài: "Bàn về áp dụng pháp luật trong
công tác xét xử", Tạp chí TAND, số tháng 5/2005.
- Tác giả Đàm Cảnh Long với bài: "Bàn về tính pháp quyền trong
pháp luật hình sự ở nước ta hiện nay", Tạp chí TAND, số 22, tháng 11/2010.
- Tác giả Chu Thi Trang Vân với bài: "Vai trò sáng tạo của Tòa án trong
thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự", Tạp chí Lập pháp, số 27, tháng 9/2007.
- Tác giả Nguyễn Ngọc Trí với bài: "Chức năng của Tòa án trong tố
tụng hình sự trước yêu cầu cải cách tư pháp", Tạp chí Khoa học, Đại học
quốc gia Hà Nội, năm 2009

- Kết luận của chánh án Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) tại hội
nghị tổng kết công tác năm 2009 và triển khai nhiệm vụ công tác năm 2010
của ngành TAND.
- Tác giả Đinh Văn Quế - nguyên Chánh tòa hình sự - TANDTC với
bài: "Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, những vấn đề lý luận và thực tiễn".
Những công trình nghiên nêu trên đã đề cập đến việc ADPL, ADPL
trong xét xử của TAND nói chung, ADPL trong xét xử các vụ án hình sự nói
riêng. Luận văn này tập trung nghiên cứu toàn bộ hoạt động ADPL hình sự


14
của TAND qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa, nơi học viên đã có nhiều năm công
tác nhằm rút ra những kết luận trong hoạt động ADPL hình sự của TAND.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Nghiên cứu góp phần làm rõ cơ sở lý luận của ADPL trong hoạt động
giải quyết án hình sự.
Phân tích, đánh giá thực trạng ADPL hình sự của TAND ở tỉnh Thanh
Hóa. Từ đó luận văn đề xuất quan điểm và giải pháp bảo đảm ADPL trong hoạt
động giải quyết án hình sự, khắc phục những hạn chế ADPL hình sự của TAND.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về việc ADPL trong hoạt động giải quyết
án hình sự của TAND dưới góc độ lý luận Mác - Lênin về Nhà nước và pháp
luật. Làm rõ những đặc trưng riêng của hoạt động giải quyết án hình sự và các
tiêu chí để đánh giá chất lượng ADPL trong hoạt động xét xử án hình sự của
TAND hiện nay.
- Phân tích thực trạng ADPL hình sự của TAND ở tỉnh Thanh Hóa
trong thời gian 05 năm (từ 2006 đến 2010), làm rõ các nguyên nhân dẫn đến
việc các bản án, quyết định còn oan, sai, bị hủy, cải sửa lớn do lỗi chủ quan,
không đúng pháp luật.

- Đề xuất các quan điểm và giải pháp cơ bản bảo đảm chất lượng ADPL
trong hoạt động giải quyết án hình sự của TAND góp phần thực hiện có hiệu quả
công cuộc cải cách tư pháp, nâng cao uy tín của nền tư pháp nước nhà trong
tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là việc ADPL hình sự, trong quá
trình giải quyết các vụ án hình sự của TAND qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa.


15
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi luận văn thạc sĩ luật học thuộc chuyên ngành lý luận
và lịch sử Nhà nước và pháp luật, luận văn bao gồm những nội dung lý luận
và thực tiễn có liên quan đến vấn đề ADPL hình sự của TAND. Để giải quyết
một vụ án hình sự có thể phải áp dụng nhiều loại văn bản pháp luật có liên
quan, như: Bộ luật dân sự, luật thi hành án dân sự, Pháp lệnh về án phí và lệ
phí Tòa án… nhưng chủ yếu là pháp luật hình sự. Vì vậy luận văn tập trung
nghiên cứu ADPL hình sự của TAND qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa.
Nghiên cứu toàn bộ hoạt động ADPL hình sự của TAND ở tỉnh
Thanh Hóa từ năm 2006 đến năm 2010, gồm: Hoạt động xét xử sơ thẩm các
vụ án hình sự của TAND cấp huyện thuộc tỉnh và của TAND tỉnh; Hoạt động
xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự; hoạt động giám đốc thẩm các vụ án hình
sự; hoạt động ADPL hình sự của Tòa án trong thi hành án hình sự, nhằm phát
hiện những tồn tại, hạn chế cũng như những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động
ADPL hình sự của Tòa án, từ đó đưa ra các giải pháp khắc phục nguyên nhân,
phát huy những thành tựu, đáp ứng một cách tốt nhất các yêu cầu của hoạt
động ADPL hình sự của TAND địa phương, đồng thời đề xuất các giải pháp
để bảo đảm cho ADPL hình sự của TAND đúng pháp luật, phù hợp với tiến
trình xây dựng nhà nước pháp quyền.

Luận văn nghiên cứu những vấn đề chung của quy trình ADPL trong
hoạt động giải quyết án hình sự từ việc nghiên cứu vụ án đến việc chọn quy
phạm pháp luật, ban hành bản án và ra các quyết định thi hành bản án hình sự.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
về Nhà nước và pháp luật; tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp
quyền; đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp


16
quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Đặc biệt là các quan điểm chỉ đạo
cải cách tư pháp, theo tinh thần nghị quyết 48NQ/TW; 49NQ/TW của Bộ
Chính trị về vấn đề cải cách tổ chức và hoạt động của TAND và các cơ quan
tư pháp trong giai đoạn hiện nay, nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu của lộ trình
cải cách tư pháp.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể đó là: Phân tích,
tổng hợp, so sánh, lịch sử và lôgic, phương pháp thống kê, trong đó chú trọng
các phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về ADPL
trong hoạt động xét xử nói chung và ADPL trong hoạt động giải quyết án
hình sự của TAND qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa nói riêng, luận văn đề xuất
một số phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm góp phần nâng cao chất
lượng giải quyết các vụ án hình sự của TAND đáp ứng nhu cầu công cuộc cải
cách Tư pháp hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về mặt lý luận: Luận văn góp phần làm sáng tỏ lý luận về ADPL,
làm sáng tỏ các đặc điểm của ADPL hình sự của TAND trong việc giải quyết

các vụ án hình sự.
- Về mặt thực tiễn: Luận văn có ý nghĩa thực tiễn đối với việc nâng
cao trình độ lý luận, chuyên môn cho thẩm phán, thư ký Tòa án, những người
trực tiếp làm công tác giải quyết án hình sự tại các TAND, góp phần nâng cao
chất lượng giải quyết án hình sự của TAND. Luận văn có thể sử dụng làm tài
liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu khoa học pháp lý, học tập trong các
trường Đại học ngành luật.


17
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án
nhân dân
Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân
qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa.
Chương 3: Các quan điểm và giải pháp cơ bản về bảo đảm chất lượng
áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân.


18
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
1.1.1. Áp dụng pháp luật trong hệ thống các hình thức thực hiện
pháp luật
Pháp luật chỉ có ý nghĩa thực sự khi các quy định pháp luật được thực

hiện trên thực tế. ADPL hình sự có tầm quan trọng đặc biệt, vừa có những đặc
điểm chung như các dạng ADPL khác, vừa có những đặc điểm riêng của
mình.Do vậy, trước khi nghiên cứu về ADPL hình sự, chúng ta cần phân tích
về ADPL trong hệ thống các hình thức thực hiện pháp luật nói chung.
Pháp luật XHCN Việt Nam là hệ thống các quy tắc xử sự thể hiện ý
chí, lợi ích của nhân dân lao động, do nhà nước ban hành (hoặc thừa nhận), có
tính bắt buộc chung, được nhà nước đảm bảo thực hiện trên cơ sở kết hợp
giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế; thu hút sự tham gia tích cực của toàn xã hội
vào hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã
hội vì mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Pháp luật là phương tiện ghi nhận, bảo đảm và bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân. Mọi hành vi xâm phạm đến các quyền và lợi ích
hợp pháp, lợi ích chính đáng của công dân đều bị xử lý nghiêm minh. Pháp
luật không chỉ quy định các quyền, nghĩa vụ pháp lý của công dân mà còn
quy định cơ chế pháp lý, các quy định pháp luật thủ tục để thực hiện các
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công dân. Các quyền và lợi ích
chính đáng của công dân được pháp luật quy định, bảo vệ trong tất cả các lĩnh
vực quan hệ xã hội. Công cuộc cải cách mạnh mẽ bộ máy nhà nước mà trọng
tâm là cải cách nền hành chính quốc gia, thủ tục hành chính đều hướng đến


19
mục tiêu bảo vệ một cách tốt nhất các quyền và lợi ích chính đáng của công
dân. Pháp luật là phương tiện ghi nhận và bảo đảm thực hiện dân chủ với các
hình thức phong phú của dân chủ trong điều kiện đổi mới đất nước hiện nay.
Pháp luật phải quy định rõ ràng, minh bạch vấn đề quyền và nghĩa vụ, trách
nhiệm của các cá nhân và tổ chức trong dân chủ hóa các lĩnh vực hoạt động
của cá nhân và xã hội. "Dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, phải được thể
chế hóa bằng pháp luật và được pháp luật đảm bảo quyền đi đôi với nghĩa
vụ và trách nhiệm" [5, tr. 19]. Dân chủ không thể thực hiện được nếu thiếu

pháp luật. Dân chủ là động lực, mục tiêu và tiền đề hoàn thiện của pháp luật.
Trên cơ sở đóng góp ý kiến của nhân dân, chất lượng và hiệu quả các quy
định pháp luật ở nước ta ngày càng được nâng cao.
Trong mối quan hệ với Đảng lãnh đạo, pháp luật là phương tiện thể
chế hóa đường lối của Đảng, làm cho đường lối đó có hiệu lực thực thi bắt
buộc chung trên quy mô toàn xã hội. Pháp luật là phương tiện để Đảng kiểm
tra đường lối của mình trong thực tiễn. Mối quan hệ giữa pháp luật và đường
lối của Đảng là biểu hiện cơ bản nhất trong mối quan hệ giữa pháp luật và
chính trị. Pháp luật thể hiện đường lối của đảng theo đặc thù của mình, dưới
dạng các quy định pháp luật, hướng dẫn, kiểm tra, đánh giá các hành vi xã
hội, các hoạt động xã hội. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, vai trò của
pháp luật đối với đạo đức và ngược lại ngày càng gia tăng. Xử sự theo pháp
luật, phù hợp với đạo đức xã hội đã trở thành nguyên tắc pháp luật. Xu hướng
hiện nay là pháp luật ngày càng ghi nhận nhiều hơn các nguyên tắc, chuẩn
mực đạo đức truyền thống và đạo đức tiến bộ. "Quy phạm đạo đức có vai trò
làm định hướng cho nhà làm luật trong việc xác định tội phạm hóa hay phi tội
phạm hóa các hành vi" [79, tr. 88]. Pháp luật của nhà nước ta là một trong
những hình thức bảo vệ, phát huy đạo đức, tạo điều kiện cho sự hình thành
những quan niệm mới những chuẩn mực đạo đức mới, tiến bộ loại bỏ dần
những quan niệm đạo đức cũ tiêu cực.


20
Một trong những đặc điểm, yêu cầu cơ bản của nhà nước pháp quyền
là pháp luật phải vì con người, giá trị cao quý nhất. Xu hướng nhân đạo thể
hiện sự tôn trọng giá trị, danh dự, lợi ích chính đáng của con người. Hoàn
thiện các bảo đảm, bảo vệ lợi ích của người sản xuất, người tiêu dùng, các đối
tượng dân cư, đặc biệt là những đối tượng thiệt thòi, mở rộng các quyền tự do
dân chủ, nâng cao trách nhiệm của cá nhân và nhà nước. Luật hình sự ở nước ta
ngày càng thể hiện đậm nét nguyên tắc và xu hướng nhân đạo trên cơ sở bảo

đảm lợi ích chính đáng của cá nhân, lợi ích cộng đồng, xã hội. Trong bộ luật
hình sự (BLHS) năm 1999 đã thể hiện xu hướng giảm các biện pháp xử lý hình
sự vừa đảm bảo sự nghiêm minh vừa có tính giáo dục mở đường cho người
phạm tội hoàn lương. Pháp luật có vai trò to lớn trong việc phát huy truyền
thống khoan dung, nhân ái của dân tộc ta. Với tư cách là các quy tắc hành vi,
pháp luật vừa có vai trò hướng dẫn, vừa có vai trò đánh giá, kiểm tra, kiểm
nghiệm các quá trình, các hiện tượng xã hội. Đồng thời, pháp luật còn là công cụ
ghi nhận các quá trình xã hội, nhận thức xã hội, định hướng các hoạt động xã
hội theo những tiêu chí, mục đích nhất định. Nhận thức đúng vai trò, giá trị xã
hội của pháp luật. Các Mác đã viết: "Pháp luật phải lấy xã hội làm cơ sở, pháp
luật phải là sự biểu hiện của lợi ích và nhu cầu chung của xã hội" [31, tr. 332]
và "chừng nào bộ luật không còn thích hợp với xã hội nữa thì nó sẽ biến thành
mớ giấy lộn" [31, tr. 333].
Pháp luật với tư cách là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, luôn tác
động và ảnh hưởng tới các quan hệ xã hội, cũng như các yếu tố của thượng
tầng kiến trúc pháp lý; duy trì trật tự xã hội có lợi cho giai cấp thống trị.
Trong quan hệ với Nhà nước, vai trò của pháp luật luôn gắn liền với việc thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, phát huy được vai trò của Nhà
nước trong việc thực hiện chức năng, quản lý, đưa xã hội phát triển. Đối với
chính Nhà nước, pháp luật vừa là cơ sở tổ chức, hoạt động vừa là sức mạnh
của quyền lực chính trị, đồng thời nó cũng ràng buộc Nhà nước, tránh cho
Nhà nước khỏi tình trạng hoạt động tùy tiện, vi phạm quyền và tự do của công


21
dân. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật nói chung và pháp luật
XHCN nói riêng, pháp luật luôn có vai trò, giá trị xã hội và tính pháp quyền
mà không một công cụ, phương tiện điều chỉnh nào có thể thay thế được.
Pháp luật chỉ thực sự phát huy được hiệu quả khi các quy định của
pháp luật do Nhà nước đặt ra được chính các cơ quan nhà nước, tổ chức xã

hội và công dân thực hiện một cách chính xác, nghiêm minh và tự giác. Mỗi
chủ thể trong quan hệ pháp luật có thể thực hiện pháp luật bằng nhiều cách
khác nhau phụ thuộc vào từng loại chủ thể và trong từng trường hợp được các
quy phạm pháp luật ghi nhận. Chỉ khi pháp luật được thực hiện đầy đủ,
nghiêm túc, triệt để, sâu rộng trong đời sống xã hội thì mới đảm bảo được
quyền lợi chính đáng của công dân, vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, duy
trì được trật tự xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển.
Áp dụng pháp luật là một trong bốn hình thức thực hiện pháp luật cơ
bản, có tính chất đặc biệt. Sự phân định thành bốn hình thức thực hiện pháp
luật cũng chỉ mang tính tương đối, trên thực tế, giữa các hình thức thực hiện
pháp luật luôn có mối quan hệ mật thiết.
Các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành cần được thực hiện
trong cuộc sống thì chúng mới có ý nghĩa. Mục đích của việc ban hành văn
bản pháp luật chỉ có thể đạt được khi các quy phạm pháp luật do Nhà nước
đặt ra được các tổ chức và cá nhân trong xã hội thực hiện một cách chính xác,
đầy đủ. Do vậy, vấn đề không phải chỉ là xây dựng và ban hành thật nhiều các
văn bản pháp luật, điều quan trọng là phải thực hiện pháp luật, làm cho những
yêu cầu, quy định của chúng trở thành hiện thực. Là biểu hiện của việc thực
hiện các quy phạm pháp luật.
Dưới góc độ pháp lý, thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp. Hành vi
đó không trái mà phù hợp với quy định của pháp luật và có lợi cho xã hội, cho
Nhà nước, cho cá nhân. Hành vi hợp pháp có thể được thực hiện trên cơ sở
nhận thức của chủ thể là cần thiết phải xử sự theo đúng quy định của pháp


22
luật. Cũng có thể chúng được thực hiện do chủ thể bị ảnh hưởng của những
người xung quanh chứ bản thân người thực hiện hành vi đó chưa hoặc không
nhận thức được đầy đủ tại sao phải làm như vậy. Còn có thể có những hành vi
hợp pháp được thực hiện do kết quả của việc áp dụng những biện pháp cưỡng

chế nhà nước hoặc do sợ bị áp dụng những biện pháp đó.
"Thực hiện pháp luật, là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho
những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực
tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật" [27, tr. 494].
Khi các qui phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội thì các
quan hệ xã hội đó trở thành các quan hệ pháp luật với các chủ thể mang quyền
và nghĩa vụ pháp lý tương ứng. Thực hiện pháp luật không chỉ là nghĩa vụ
pháp lý mà còn là trách nhiệm của tất cả cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị -
xã hội, tổ chức kinh tế và mọi công dân, nhằm giữ vững an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ,
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Thực hiện pháp luật là
hiện thực hóa các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể pháp luật trong đời sống
xã hội.
Căn cứ vào tính chất của các hoạt động thực hiện pháp luật, khoa học
pháp lý đã phân chia thực hiện pháp luật thành những hình thức cụ thể như:
Tuân thủ pháp luật; thi hành pháp luật; sử dụng pháp luật và ADPL.
- "Tuân thủ pháp luật, còn gọi là tuân theo pháp luật (xử sự thụ động),
là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế
không tiến hành những hoạt động mà pháp luật ngăn cấm" [27, tr. 495].
Tức là các chủ thể pháp luật không thực hiện những điều mà pháp luật
không cho phép làm. Thông qua hình thức tuân thủ pháp luật của các chủ thể
pháp luật, các qui phạm pháp luật ngăn cấm được tôn trọng và thực hiện trên thực
tế. Chủ thể thực hiện hình thức tuân thủ pháp luật là tất cả các cơ quan nhà
nước, nhân viên nhà nước, các tổ chức, cá nhân và mọi công dân trong xã hội.


23
"Thi hành pháp luật, còn gọi là chấp hành pháp luật, là một hình thức
thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý
của mình bằng hành động tích cực" [27, tr. 495].

Những quy phạm pháp luật bắt buộc (những quy phạm quy định nghĩa
vụ phải thực hiện những hành vi tích cực nhất định) được thực hiện dưới hình
thức này.
Pháp luật quy định chủ thể pháp luật phải thực hiện trong những hoàn
cảnh, những quan hệ pháp luật mà pháp luật đã dự liệu cụ thể. Đây là hình
thức thực hiện pháp luật chủ động và tích cực bằng các hành vi cụ thể của các
chủ thể quan hệ pháp luật. Chủ thể thực hiện hình thức thi hành pháp luật này
là tất cả các cơ quan nhà nước, nhân viên Nhà nước, các cá nhân, tổ chức và
mọi công dân trong xã hội.
"Sử dụng pháp luật, là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các
chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình (thực hiện những hành vi
mà pháp luật cho phép)" [27, tr. 495].
Những quy định về các quyền tự do, dân chủ của công dân được thực
hiện dưới hình thức này. Hình thức sử dụng pháp luật khác với hình thức chấp
hành pháp luật ở chỗ chủ thể pháp luật có thể thực hiện hoặc không thực hiện
quyền được pháp luật cho phép theo ý chí của mình chứ không bị bắt buộc
phải thực hiện. Đây cũng là hình thức thực hiện pháp luật chủ động và tích
cực bằng các hành vi cụ thể của các chủ thể pháp luật. Do hình thức thực hiện
pháp luật này là việc sử dụng các quyền năng pháp lý được pháp luật trao
quyền, nên các chủ thể quan hệ pháp luật có quyền thực hiện hoặc không thực
hiện các quyền của mình, pháp luật không bắt buộc các chủ thể phải thực hiện
như hai hình thức tuân thủ pháp luật và chấp hành pháp luật. Chủ thể thực
hiện hình thức sử dụng pháp luật là tất cả các cơ quan nhà nước, nhân viên
Nhà nước, các cá nhân, tổ chức và mọi công dân trong xã hội.
Áp dụng pháp luật, là một hình thức thực hiện pháp luật,
trong đó nhà nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà


24
chức trách tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy

định của pháp luật, hoặc tự mình căn cứ vào các quy định của pháp
luật ra các quyết định áp dụng pháp luật vào trong những trường
hợp cụ thể của đời sống xã hội [27, tr. 500-501].
Nếu tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật là
những hình thức phổ biến mà mọi chủ thể pháp luật đều có thể thực hiện thì
ADPL là hình thức đặc thù bởi luôn có sự tham gia của Nhà nước, thông qua
các cơ quan hoặc người có thẩm quyền. ADPL là hình thức thực hiện pháp
luật diễn ra trong hoạt động hành pháp và tư pháp của Nhà nước. Ví dụ, trong
hoạt động điều hành như: Cấp giấy phép đăng ký kinh doanh, cấp giấy phép
xây dựng, quyết định cấp đất…Trong hoạt động tư pháp như: quyết định khởi
tố vụ án, quyết định truy tố, xét xử ra bản án.
ADPL thể hiện tính quyền lực nhà nước, mang tính tổ chức chặt chẽ
theo những thủ tục và trật tự đã được pháp luật quy định và là hoạt động
mang tính sáng tạo, mặc dù được thực hiện thông qua cơ quan nhà nước, cụ
thể là những người có thẩm quyền. Vì vậy hoạt động ADPL có thể bị ảnh
hưởng bởi ý chí chủ quan của người ADPL, nhưng hoàn toàn phải theo ý chí
của Nhà nước là quy định của pháp luật. Tức là người có thẩm quyền phải lựa
chọn những xử sự theo yêu cầu luật định chứ không phải ý muốn của mình.
Ví dụ: công dân A đủ dấu hiệu cấu thành tội cướp tài sản theo Điều 133
BLHS thì thẩm phán phải áp dụng hình phạt tương xứng được quy định tại
điều luật này, không được phép xử cao hơn hoặc thấp hơn.
ADPL thể hiện sự khác biệt so với các hình thức thực hiện pháp luật
khác qua việc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cá nhân hay nhóm cá
nhân được Nhà nước trao quyền luôn luôn chủ động trong việc ADPL, nghĩa
là việc thực hiện ADPL là nghĩa vụ của chủ thể có quyền, ví dụ: khi có vụ
việc xảy ra mang dấu hiệu của tội phạm thì thủ trưởng cơ quan điều tra có
trách nhiệm khởi tố vụ án hình sự và thực hiện những công việc theo quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS). So sánh với hình thức sử dụng pháp



25
luật thì chủ thể thực hiện có quyền thực hiện hay không thực hiện tùy thuộc ý
chí chủ quan của người đó, chẳng hạn như quyền khiếu nại, tố cáo trong tố
tụng hình sự, pháp luật không bắt buộc mọi công dân phải sử dụng quyền
khiếu nại, tố cáo của mình.
Xem xét dưới góc độ chủ động tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ
quan, người có thẩm quyền thì ADPL có đặc điểm gần giống với các hình
thức thi hành pháp luật vì việc thực hiện pháp luật ở đây là trách nhiệm, nghĩa
vụ của các cơ quan, người có thẩm quyền. Do vậy ADPL nếu xem xét ở góc
độ chủ thể áp dụng luôn là cơ quan hay cá nhân có thẩm quyền với những
quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể thì ADPL còn được xem như là việc thi
hành pháp luật của các cơ quan người có thẩm quyền trong việc tổ chức thực
hiện quyền lực nhà nước nói chung.
Như vậy, sự phân loại các hình thức thực hiện pháp luật chỉ là tương
đối. Nếu phân tích trên nhiều góc độ tiếp cận thì bản thân ADPL cũng chứa
đựng dấu hiệu, đặc điểm của các hình thức thực hiện pháp luật khác là tuân
thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật. Do vậy các hình thức
thực hiện pháp luật luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại
với nhau, thấy rõ mối quan hệ này chúng ta có các biện pháp bảo đảm cho
việc thực hiện pháp luật đạt hiệu quả cao nhất.
Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật quan trọng, thông
qua hình thức này ý chí của Nhà nước được trở thành hiện thực, Nhà nước
thực hiện được chức năng tổ chức, quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội,
kết hợp với trật tự xã hội, bảo đảm cho việc tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước, các công chức nhà nước trong khuôn khổ pháp luật. Điều này có lý
do bởi trong nhiều trường hợp, các quy định của pháp luật không thể thực
hiện nếu chỉ bằng các hình thức tuân theo pháp luật, thi hành pháp luật hoặc
sử dụng pháp luật. Lý do có thể các chủ thể không muốn thực hiện hoặc
không đủ khả năng thực hiện nếu thiếu sự thông qua của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Do đó rất cần hoạt động ADPL của cơ quan nhà nước có



26
thẩm quyền hoặc cá nhân có thẩm quyền để tạo điều kiện cho các chủ thể
khác thực hiện đầy đủ các quy phạm pháp luật. Tuy vậy ADPL chỉ được tiến
hành trong các trường hợp sau:
Khi áp dụng các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước bằng các chế tài
thích hợp đối với các chủ thể vi phạm pháp luật. Ví dụ công dân A đã thực hiện
hành vi trộm cắp tài sản theo quy định của BLHS, nhưng không phải ngay sau
đó trách nhiệm hình sự tự động phát sinh và công dân A tự giác chấp hành các
chế tài tương xứng. Vì vậy cần phải có hoạt động ADPL của các cơ quan tiến
hành tố tụng để ra bản án đối với A và buộc A phải chấp hành hình phạt đó.
Khi những quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể không mặc nhiên
phát sinh, thay đổi, chấm dứt nếu thiếu sự can thiệp của Nhà nước. Ví dụ,
Hiến Pháp 1992 quy định công dân có quyền tự do kinh doanh, nhưng quyền
này chỉ phát sinh khi công dân làm thủ tục đăng ký kinh doanh và được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Quyền đó có thể bị chấm dứt nếu công dân đó vi phạm pháp luật.
Khi xảy ra tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các
bên tham gia quan hệ pháp luật mà các bên đó không tự giải quyết được.
Trường hợp này đòi hỏi Nhà nước phải can thiệp nhất định để bảo đảm cho
việc thực hiện pháp luật. Ví dụ, các bên tham gia hợp đồng kinh tế hay dân sự
nhưng xảy ra tranh chấp phải nhờ đến trọng tài hay Tòa án giải quyết.
Khi Nhà nước xét thấy cần thiết phải tham gia để kiểm tra, giám sát hoạt
động của các bên tham gia vào quan hệ đó, hoặc xác nhận sự tồn tại hay không
tồn tại một số sự việc, sự kiện thực tế. Ví dụ, Nhà nước chứng thực hợp đồng
mua bán nhà giữa hai công dân, chứng nhận việc đăng ký kết hôn, chứng thực di
chúc hợp pháp, cấp giấy khai sinh hoặc chứng tử cho một công dân nào đó
Hiện nay có những quan niệm khác nhau của các nhà khoa học pháp
lý về ADPL nhưng cơ bản các nhà khoa học pháp lý đều thừa nhận rằng:

ADPL là hình thức hoạt động mang tính tổ chức quyền lực của Nhà nước


27
được thực hiện thông qua những cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền
(hoặc được nhà nước trao quyền) theo thủ tục, trình tự do pháp luật quy định
nhằm cá biệt hóa những qui phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể đối với
các cá nhân, cơ quan và tổ chức cụ thể.
Như vậy, ADPL là hình thức thực hiện pháp luật đặc thù, do cơ quan
nhà nước, công chức nhà nước được trao quyền tiến hành theo một thủ tục do
pháp luật quy định; nhằm thực hiện các biện pháp cưỡng chế khi có hành vi vi
phạm pháp luật hoặc hành vi phạm tội; khi phải giải quyết các tranh chấp về
quyền chủ thể và các nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể trong một quan hệ
pháp luật nhất định; hoặc khi Nhà nước thấy cần phải can thiệp, cần phải
tham gia để bảo đảm việc thực thi trên thực tế của các chủ thể trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội theo quy định của pháp luật.
Các trường hợp ADPL nêu trên luôn luôn tồn tại trong hiện thực của
đời sống xã hội, tuy nhiên trong các trường hợp trên chỉ có trường hợp thứ
nhất là chứa đựng nội dung hoạt động giải quyết án hình sự của TAND mà
luận văn này đề cập và nghiên cứu.
1.1.2. Đặc điểm của áp dụng pháp luật
Áp dụng pháp luật vừa là hình thức thực hiện pháp luật của các cơ quan
nhà nước hoặc công chức có thẩm quyền vừa là cách thức Nhà nước tổ chức
cho các chủ thể thực hiện pháp luật. Vì vậy ADPL có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, ADPL là hoạt động mang tính tổ chức, thể hiện quyền lực
nhà nước, cụ thể là:
Áp dụng pháp luật về nguyên tắc chỉ do cơ quan nhà nước hay nhà
chức trách có thẩm quyền tiến hành. Mỗi cơ quan nhà nước hay nhà chức
trách trong phạm vi thẩm quyền được tiến hành những hoạt động ADPL nhất
định, hay các cơ quan nhà nước khác nhau có thẩm quyền ADPL khác

nhau.Ví dụ: Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền truy tố bị can; TAND có
thẩm quyền xét xử.

×