Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Sự điều chỉnh chính sách của nhật bản sau chiến tranh lạnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.47 KB, 8 trang )

Nghiên cứu Quốc tế số 1 (88), 3/2012: 169-183.

Các vấn đề Quốc tế
thiết đối với các nước, trong đó có Việt Nam. Bài viết này muốn nhìn lại
và làm rõ những sự thay đổi lớn trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản
sau Chiến tranh lạnh.

NHÌN LẠI SỰ ĐIỀU CHỈNH
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA NHẬT BẢN
SAU CHIẾN TRANH LẠNH

Bối cảnh khu vực và thế giới có nhiều thay đổi
Chiến tranh lạnh kết thúc làm cho cục diện thế giới nói chung và
khu vực châu Á - Thái Bình Dương (CA - TBD) nói riêng có những biến
đổi to lớn. Trước hết và quan trọng nhất là sự sụp đổ của trật tự thế giới
hai cực Xô-Mỹ. Cùng với đó là sự thay đổi rất căn bản trong đời sống
chính trị, kinh tế thế giới. Mỹ trở thành một siêu cường duy nhất cả về
quân sự và kinh tế. Điều này đã đưa chính quyền Mỹ đi đến nhận định đã
đến lúc Mỹ phải vươn lên lãnh đạo thế giới, Mỹ cho rằng: “Sự lãnh đạo
và can dự của Mỹ vào công việc thế giới có ý nghĩa quan trọng đối với an
ninh của Mỹ, nhờ sự lãnh đạo và sự can thiệp đó mà đất nước chúng ta và
cả thế giới cảm thấy an ninh và thịnh vượng hơn”.1 Mặc dù vậy, khả
năng của Mỹ cũng có giới hạn và ngày càng suy yếu tương đối trước sự
vươn lên của các cường quốc khác, đặc biệt là Trung Quốc và nhiều nước
mới nổi khác. Cuộc chiến chống khủng bố hết sức tốn kém, đặc biệt là
hai cuộc chiến tranh tại Áp-ga-ni-xtan và I-rắc, cùng nhiều sai lầm trong
chính sách kinh tế - xã hội dưới thời Tổng thống Bush đã đẩy nhanh hơn
quá trình suy yếu của Mỹ, đặt nước này trước hàng loạt khó khăn lớn: Nợ
công tăng cao đến mức báo động và nước Mỹ trở thành con nợ lớn nhất
thế giới; thâm hụt thương mại lớn; tỷ lệ thất nghiệp cao; bất công và bất
ổn xã hội cũng gia tăng với hàng loạt các cuộc biểu tình, bãi công. Tình


thế ngày càng khó khăn của Mỹ đã khiến cho tương quan lực lượng giữa
Mỹ và các nước lớn khác có sự thay đổi mạnh. Nhật Bản tiếp tục vươn

Ths. Nguyễn Quốc Toàn*
Tóm tắt
Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, những biến động của tình hình
thế giới cũng như trong nội tại đã tạo ra những cơ hội và thách thức to
lớn, buộc Nhật Bản phải có một số điều chỉnh về chính sách đối ngoại:
Thực hiện chiến lược “trở lại châu Á”. Xử lý hài hòa quan hệ với các
nước láng giềng; Tích cực tham gia các định chế toàn cầu, đa phương
hóa quan hệ, xác lập vị thế trên trường quốc tế… Nhìn chung, Nhật Bản
đã đạt được một số thành công nhất định, qua đó tăng cường sức mạnh,
nâng cao vị thế, vai trò, phát huy được ảnh hưởng to lớn đối với thế giới.

Nhật Bản là cường quốc và là một trong những đối tác chiến lược
hàng đầu của Việt Nam. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, nhu cầu hiểu biết
lẫn nhau để cùng phát triển trở nên rất cần thiết. Việc theo dõi những
động thái, điều chỉnh về chính sách đối ngoại để kịp thời rút ra những đặc
điểm có tính quy luật trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản, qua đó đề
ra đường lối đối ngoại phù hợp trở thành công việc thường xuyên và cấp

1
*

TTXVN (1999), “Chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ cho thế kỉ XXI”, TLTKĐB,
ngày 04/01, tr.3-10.

Giảng viên, Trường THPT Chuyên Hoàng Lê Kha - Tây Ninh.

3/2012


169

1

170

3/2012


Nghiên cứu Quốc tế số 1 (88)

Các vấn đề Quốc tế

lên và củng cố vị trí nền kinh tế thứ hai2 thế giới sau Mỹ, triển khai nhiều
nỗ lực nhằm tăng cường vị thế cường quốc của mình, giảm bớt sự phụ
thuộc vào Mỹ. EU tăng cường liên kết nội khối và thực thi nhiều biện
pháp nhằm hạn chế tối đa sự can thiệp của Mỹ vào công việc nội bộ của
mình, đồng thời mở rộng ảnh hưởng ra bên ngoài. Trung Quốc trỗi dậy
mạnh mẽ, thu hẹp dần khoảng cách quyền lực với Mỹ và cạnh tranh lại
Mỹ khá quyết liệt trên nhiều lĩnh vực, ngày càng mở rộng vị thế cường
quốc ra khu vực và thế giới. Nga có nhiều chuyển biến khả quan, kinh tế
được hồi phục và phát triển, chính trị và xã hội dần ổn định, vị thế quốc
tế được nâng cao. Ấn Độ cũng ngày càng vươn lên mạnh mẽ cả về kinh
tế và tiềm lực an ninh quốc phòng, phát huy vai trò vị trí quốc tế của một
nước lớn, có tiếng nói ngày càng quan trọng trên các diễn đàn quốc tế.

Ngày càng có nhiều vấn đề toàn cầu nổi lên như sự phổ biến các loại vũ
khí giết người hàng loạt, buôn bán ma túy, khủng bố, tội phạm có tổ
chức… Ngày nay, các vấn đề này không chỉ là những thách thức của

từng quốc gia mà đòi hỏi sự phối hợp hành động của mọi quốc gia trên
thế giới mới có thể giải quyết được.

Bên cạnh sự thay đổi lớn trong tương quan lực lượng giữa các
cường quốc, từ sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, cũng diễn ra sự thay
đổi mạnh trong quan hệ liên minh kinh tế, chính trị và quân sự của các
nước. Quan hệ đối đầu, liên minh/liên kết giữa nước này chống lại nước
kia ở thời kỳ Chiến tranh lạnh nay đã chuyển sang quan hệ vừa hợp tác
vừa đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình, hình thành nhiều khuôn khổ
quan hệ đối tác mang tính chiến lược. Các nước tăng cường đối thoại và
hợp tác để giải quyết các vấn đề.

Về kinh tế, Chiến tranh lạnh chấm dứt đã mang lại nhiều tác động
tích cực đối với tiến trình phát triển kinh tế thế giới. Nếu trước đây các
quốc gia tập trung vào việc duy trì an ninh quân sự, thì hiện nay mối
quan tâm về kinh tế đã trở thành ưu tiên hàng đầu. Bên cạnh đó, cuộc
cách mạng khoa học công nghệ đã mở ra một giai đoạn mới cho quá trình
cạnh tranh và hợp tác kinh tế giữa các nước. Những chuyển biến to lớn
về khoa học công nghệ cùng với chính sách ưu tiên phát triển kinh tế của
các nước đã làm cho sản xuất thế giới phát triển vượt bậc.

Tuy Chiến tranh lạnh đã kết thúc, nhưng xung đột về sắc tộc, tôn
giáo, lãnh thổ, kinh tế... trong mỗi nước và giữa các quốc gia vẫn tiếp
diễn, có lúc leo thang thành chiến tranh, điển hình là các cuộc chiến tranh
tại vùng Vịnh Péc-xích, Kosovo, Áp-ga-ni-xtan, nội chiến ở Haiti, Ru-anđa… cho thấy an ninh thế giới vẫn tiềm ẩn những bất ổn đáng lo ngại.

Sự phát triển mạnh mẽ của xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa trong
thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh cũng đã có nhiều tác động to lớn tới tình
hình và xu hướng quan hệ giữa các nước trong khu vực, khiến các nước
phải có những điều chỉnh chính sách phù hợp. Tại khu vực CA-TBD, rất


Tại khu vực CA - TBD, môi trường an ninh cũng có nhiều thay đổi
sâu sắc theo hướng bớt căng thẳng và đối đầu hơn, song vẫn còn nhiều
vấn đề tiềm ẩn nguy cơ gây bất ổn khu vực, đặc biệt là vấn đề hạt nhân
trên bán đảo Triều Tiên; vấn đề Đài Loan; tranh chấp biển đảo giữa các
nước trong khu vực... Rõ ràng sau Chiến tranh lạnh, “ở khu vực châu Á,
nguy cơ đe dọa quân sự đã giảm hẳn, nhưng chưa phải đã biến mất hoàn
toàn”.3

3

Báo cáo của nhóm nghiên cứu thuộc Trung tâm nghiên cứu cơ bản châu Á về các vấn
đề châu Á - Thái Bình Dương (1993), Vai trò của Hoa Kỳ ở châu Á, quyền lợi và chính
sách, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.43.

2

Từ nửa cuối năm 2010, Nhật Bản đã phải nhường vị trí nền kinh tế thứ hai thế giới cho
Trung Quốc.

3/2012

171

2

172

3/2012



Nghiên cứu Quốc tế số 1 (88)

Các vấn đề Quốc tế

nhiều các dàn xếp khu vực dựa trên các nguyên tắc liên minh/liên kết
được hình thành và phát triển, trong đó đặc biệt nổi bật là ASEAN và các
liên kết ASEAN với các đối tác bên ngoài, APEC, ASEM... Vị trí, vai trò
của các tổ chức này ngày càng gia tăng khiến cho các hoạt động kinh tế
của nhiều khu vực trên thế giới, đặc biệt là khu vực Đông Á ngày càng
trở nên sôi động.

thực hiện “mô thức đàn nhạn bay”, tạo dựng cơ sở vững chắc để giữ vai
trò chủ đạo trong nền kinh tế khu vực CA - TBD.
Đông Nam Á (ĐNA) là một lựa chọn và là minh chứng rõ nét nhất
cho sự thực hiện chiến lược này. Bởi vì, nơi đây không chỉ là nơi cung
cấp nguồn tài nguyên thiên nhiên, thị trường với nguồn nhân công rẻ mà
còn là địa điểm hấp dẫn mạnh nguồn đầu tư và buôn bán. Đặc biệt, Đông
Nam Á án ngữ tuyến giao thông huyết mạch của Nhật Bản sang Trung
Cận Đông, Vùng Vịnh, Địa Trung Hải, Tây Âu và xuống Nam Thái Bình
Dương. Do đặc điểm như vậy, nên việc duy trì hòa bình và ổn định ở khu
vực này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với lợi ích an ninh và kinh tế
của Nhật Bản. Trong bối cảnh sau Chiến tranh lạnh vừa có nhiều thuận
lợi song cũng không ít thách thức của khu vực, đặc biệt là với sự nổi lên
mạnh mẽ và nhanh chóng của Trung Quốc, đồng thời với sự lớn mạnh
không ngừng của ASEAN, Nhật Bản buộc phải quan tâm nhiều hơn tới
khu vực châu Á nói chung và Đông Nam Á nói riêng. Ngoài việc tích cực
góp phần giải quyết vấn đề hòa bình ở Cam-pu-chia vào đầu thập niên
1990, Nhật Bản còn tích cực tham gia Diễn đàn an ninh khu vực ASEAN
(ARF), có nhiều đóng góp đáng kể tạo cơ sở để xây dựng Đông Nam Á

thành khu vực hòa bình, ổn định và phát triển.

Tóm lại, sự sụp đổ của trật tự thế giới hai cực, sự biến đổi của tình
hình chính trị, an ninh khu vực và thế giới cùng với sự ra đời và phát
triển của những xu thế mới đòi hỏi mọi quốc gia phải xem xét, đánh giá
lại chiến lược, chính sách và các mối quan hệ của mình với các quốc gia
khác. Bên cạnh đó, khủng hoảng kinh tế kéo dài suốt thập niên 1990, vấn
đề già hóa dân số, chính trị - xã hội không ổn định… cũng đã đặt Nhật
Bản trước những khó khăn lớn. Những yếu tố đó đã buộc Nhật Bản phải
có những điều chỉnh trong chính sách đối ngoại.
Những điều chỉnh chủ yếu trong chính sách đối ngoại của Nhật
Bản
Thực hiện Chiến lược “trở về châu Á”

Sự điều chỉnh chính sách Đông Nam Á của Nhật Bản được thể hiện
tương đối toàn diện trong Học thuyết Miyazawa được công bố nhân
chuyến thăm các nước ASEAN tháng 1/1993, bao gồm hai nội dung then
chốt: Thứ nhất, Nhật Bản chủ trương cùng các nước tập trung hợp tác ổn
định tình hình khu vực, thiết lập trật tự an ninh và hòa bình ở khu vực.
Thứ hai, Nhật Bản kêu gọi hợp tác, phối hợp chặt chẽ với ASEAN để tái
thiết Đông Dương, xác lập “Diễn đàn phát triển toàn diện Đông Dương”.
Hai nội dung then chốt này, xét cho cùng, đều hướng tới một mục tiêu
nhất quán là xác lập ảnh hưởng toàn diện và áp đảo của Nhật Bản ở Đông
Nam Á.

Trong Chiến tranh lạnh, với chiến lược “thoát Á, nhập Mỹ”, Nhật
Bản chủ yếu chỉ quan hệ với phương Tây, đặc biệt là với Mỹ. Sau Chiến
tranh lạnh, thực lực kinh tế Nhật Bản tăng lên nhanh chóng. Nhật không
cam chịu làm người “bạn nhỏ” của Mỹ nữa, mà mưu toan dựa vào châu
Á, giảm bớt sự phụ thuộc và giành vị trí bình đẳng với Mỹ. Bởi vậy,

trong khi tiếp tục là “một thành viên của phương Tây”, vẫn lấy liên minh
Mỹ - Nhật làm “trụ cột”, Nhật Bản bắt đầu thực hiện chiến lược “thoát
Mỹ, nhập Á”, “trở lại châu Á”. Lấy đầu tư trực tiếp là chính, thực hiện
“tam vị nhất thể”: buôn bán - đầu tư - viện trợ kinh tế. Nhật Bản đã ra sức
3/2012

173

3

174

3/2012


Nghiên cứu Quốc tế số 1 (88)

Các vấn đề Quốc tế

Bước vào nửa cuối thập kỷ 1990, trước những chuyển biến mạnh
mẽ của tiến trình liên kết Đông Nam Á với triển vọng hiện thực của
ASEAN mở rộng ra toàn Đông Nam Á và trước xu hướng mở rộng ảnh
hưởng của các nước lớn khác tại đây, Học thuyết Hashimoto đã ra đời
vào tháng 1/1997 gồm ba điểm chính: Thứ nhất, tăng cường đối thoại
Nhật Bản - ASEAN, đặc biệt thiết lập Hội nghị cấp cao Nhật Bản ASEAN; Thứ hai, Nhật Bản tiếp tục khẳng định sự hiện diện quân sự của
Mỹ ở Đông Á thông qua dàn xếp an ninh Mỹ - Nhật, có tác dụng “như
một cơ sở hạ tầng cho sự ổn định và thịnh vượng kinh tế ở CA - TBD” và
cuối cùng là ủng hộ nỗ lực của Trung Quốc tham gia cộng đồng quốc tế
với tư cách là một đối tác xây dựng.


chính trị có lợi cho Nhật Bản, đặt cơ sở để Nhật Bản có thể trở thành một
nước có vị trí quan trọng không chỉ về kinh tế mà còn về chính trị trên
thế giới”.4
Việc tăng cường đa phương hóa quan hệ, điều chỉnh chính sách của
Nhật Bản ở Đông Nam Á nhằm thực hiện chiến lược “trở về châu Á”
chứng tỏ vị trí quan trọng của khu vực. Đồng thời, điều đó cũng cho thấy
những nỗ lực to lớn trong quyết tâm phát huy ảnh hưởng của Nhật Bản.
Qua đó, Nhật Bản đã tạo dựng cho mình một chỗ đứng khá ổn định và
chắc chắn trong đời sống chính trị khu vực.
Tích cực tham gia các định chế toàn cầu, đa phương hóa quan
hệ, xác lập vị thế trên trường quốc tế

Tháng 1/2002, trong chuyến thăm Xinh-ga-po, Thủ tướng Koizumi
đã đề xuất ý tưởng xây dựng “Cộng đồng Đông Á”, mong muốn tăng
cường hợp tác với các nước ASEAN trên nhiều lĩnh vực, xúc tiến quá
trình nhất thể hóa khu vực. Để thực hiện điều này, Nhật Bản tăng cường
quan hệ với năm nước thành viên sáng lập ASEAN. Tháng 12/2003, Hội
nghị cấp cao ASEAN - Nhật Bản đã thông qua “Tuyên ngôn Tokyo”,
nhấn mạnh trên cơ sở hợp tác kinh tế sẽ phát triển thành hợp tác chính trị
và an ninh.

Với tiềm lực kinh tế sẵn có và thời cơ thuận lợi sau Chiến tranh
lạnh, Nhật Bản đã và đang tập trung nỗ lực để xác lập vị thế quốc tế, tập
trung vào một số hoạt động cụ thể sau:
Mở rộng quan hệ quốc tế của Nhật Bản trên phạm vi toàn cầu, đặc
biệt tích cực thiết lập và củng cố các mối quan hệ hợp tác song phương
với các nước ở khắp các châu lục. Đặc điểm mới của các quan hệ đó là
không chỉ dừng ở lĩnh vực kinh tế mà đã mở rộng sang nhiều lĩnh vực
khác như chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật… nhưng sôi động nhất
vẫn là kinh tế vì đó là thế mạnh và cũng là nhằm phục vụ cho sự phát

triển kinh tế Nhật Bản nhằm khắc phục khủng hoảng suy thoái trong thập
niên 90.

Bên cạnh đó, Tokyo còn chủ trương duy trì đối thoại và xây dựng
lòng tin giữa Nhật Bản với các đối tác thông qua hoạt động của Diễn đàn
ASEAN+3; ủng hộ tiến trình thiết lập khu vực mậu dịch tự do Đông Nam
Á (AFTA); xúc tiến xây dựng Quỹ Tiền tệ châu Á (AMF) theo mô hình
IMF thu nhỏ; củng cố và xúc tiến ký kết các hiệp định tự do mậu dịch
song phương với các quốc gia ngoài khu vực Đông Nam Á… Những
hoạt động này nằm trong chính sách nhất quán của Nhật Bản đối với khu
vực CA - TBD, đó là: “thông qua hoạt động ngoại giao một cách tích
cực, linh hoạt và có hiệu quả nhằm tạo ra một môi trường kinh tế và
3/2012

175

Hoàn thành một cách tốt nhất nghĩa vụ thành viên của các định chế
quốc tế, nhất là ở phương diện đóng góp các nguồn lực theo các nguyên
4

Trần Quang Minh, Quan điểm của Nhật Bản về liên kết Đông Á trong bối cảnh toàn
cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007, tr.80.

4

176

3/2012



Nghiên cứu Quốc tế số 1 (88)

Các vấn đề Quốc tế

tắc đã cam kết với Liên Hợp Quốc, với ADB, WB, IMF và các tổ chức
khác. Trên thực tế, Nhật Bản là quốc gia được tín nhiệm cao về vấn đề
này. Những trở ngại về mặt pháp lý trong việc gửi quân đội ra nước
ngoài để tham gia các hoạt động có tính chất quân sự đã từng bước được
tháo gỡ thông qua hàng loạt đạo luật cho phép đưa quân ra nước ngoài
tham gia vào việc giải quyết vấn đề Cam-pu-chia, Áp-ga-ni-xtan, I-rắc...
Đây là phép thử đối với cả công luận Nhật Bản và quốc tế về sự hiện diện
của quân đội Nhật Bản ở nước ngoài và cũng là chiến thuật thích nghi
từng bước để tiến tới việc sửa đổi Hiến pháp Nhật Bản, thành lập Bộ
Quốc phòng. Một trong những điểm nổi bật trong quá trình tham gia các
hoạt động quốc tế của Nhật Bản thời gian gần đây là việc từng bước nâng
cao vai trò chính trị của Nhật Bản trong tổ chức Liên Hợp Quốc (LHQ).
Bên cạnh việc đóng góp ngân sách rất lớn cho LHQ,5 Nhật Bản còn ráo
riết vận động tiến hành cải tổ cơ chế tổ chức của LHQ theo hướng mở
rộng nhóm nước ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an (HĐBA) để tạo cơ
hội cho Nhật Bản tham gia. Mong muốn này thể hiện rất rõ qua tuyên bố
đầy thất vọng của Bộ trưởng Ngoại giao Yoriko Kawaguchi (2002 2004) trước việc Nhật Bản không có được một ghế thường trực trong
HĐBA LHQ: “Đó không phải là mong muốn và cũng là không công
bằng đối với các nước đã và đang đóng góp cho hòa bình thế giới và tài
chính của LHQ vốn không được trao một cơ hội đủ để tham gia vào các
quá trình ra phán quyết của HĐBA”.6

Bên cạnh đó, Nhật Bản còn chủ động và độc lập với Mỹ trong việc
giải quyết vấn đề môi trường sinh thái, đặc biệt là việc thực hiện các cam
kết trong Nghị định thư Kyoto về giảm hiệu ứng nhà kính. Chính Thủ
tướng Koizumi đã khẳng định lại lập trường “Nhật Bản quyết tâm cùng

với các quốc gia ký hiệp định và thúc đẩy thực hiện hiệp định này một
cách toàn diện và trên quy mô toàn cầu”.7
Chính sách tài trợ phát triển (ODA) cũng được Nhật Bản thay đổi
một số nguyên tắc và mục tiêu tài trợ theo hướng ưu tiên cho các nước
nghèo hơn, với một khối lượng ODA lớn hơn; toàn cầu hóa tài trợ ODA;
khuyến khích các khoản vay ODA hướng tới sự phát triển bền vững…
Gắn liền mục tiêu ODA với việc thúc đẩy ảnh hưởng chính trị và nhằm
đạt được các lợi ích thương mại với Nhật Bản là những lý do căn bản làm
cho Nhật Bản điều chỉnh chính sách ODA sau Chiến tranh lạnh...
Có thể thấy với những nỗ lực không ngừng, ở một chừng mực nhất
định, vai trò quốc tế của Nhật Bản đã được cải thiện hơn, vị thế của Nhật
Bản đã được nâng cao và coi trọng hơn trong các tổ chức quốc tế và khu
vực. Nhìn chung điều đó cũng hoàn toàn phù hợp với vị thế kinh tế của
Nhật Bản và nhận được phần lớn sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế.
Xử lý hài hòa quan hệ với các nước lớn láng giềng
Nhật Bản cho rằng “mặc dù Chiến tranh lạnh đã kết thúc, sự bất ổn
và không chắc chắn vẫn tồn tại trong khu vực. Vì vậy việc duy trì hòa
bình và ổn định ở các khu vực xung quanh Nhật Bản có vai trò lớn hơn
đối với an ninh Nhật Bản”.8 Chính vì vậy, xây dựng mối quan hệ hợp tác

5

Đến năm 2005, tỷ lệ đóng góp của Nhật Bản vẫn còn chiếm đến 19,47% toàn ngân
sách đóng góp cho Liên Hợp Quốc, nguồn: index.asp?
id=150
6
William E. Rapp, “Paths diverging? The next Decade in the U.S - Japan Security
Alliance”, tại địa chỉ />pubid=367

3/2012


177

7

Phạm Minh Sơn (2008), Chính sách đối ngoại của một số nước lớn trên thế giới, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.253.
8
Học viện Quan hệ quốc tế (2003), Quan hệ của Mỹ với các nước lớn ở khu vực châu Á
- Thái Bình Dương, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.178.

5

178

3/2012


Nghiên cứu Quốc tế số 1 (88)

Các vấn đề Quốc tế

và đối thoại với các nước lớn láng giềng, góp phần xử lý các vấn đề tồn
tại trong khu vực đã trở thành một trong những mối quan tâm hàng đầu
của Nhật Bản.

Quốc và Nhật Bản đều vẫn cần đến nhau, cho nên hai nước vẫn phải cố
gắng dàn xếp những bất đồng và thúc đẩy quan hệ phát triển hơn.
Đối với Nga: Quan hệ chính trị và an ninh được Nhật Bản đặc biệt
chú trọng. Điều này hoàn toàn khác với chính sách của Nhật trước đây là

chú trọng hợp tác với Nga trên lĩnh vực kinh tế. Do đó, trong bảy lĩnh
vực cụ thể mà Nhật Bản chủ trương hợp tác với Nga thì ít nhất có đến
năm lĩnh vực thuần tuý thuộc về an ninh - chính trị. Vấn đề lãnh thổ vẫn
được Nhật Bản xếp vào hàng đầu trong quan hệ song phương Nhật - Nga.
Bên cạnh đó, Nhật Bản cũng nhấn mạnh đến việc hợp tác với Nga chứ
không quá chú trọng đến vấn đề kiềm chế Nga bằng mọi cách như trước
đây.

Đối với Trung Quốc: Từ cuối những năm 1990 trở đi, Bắc Kinh đã
có nhiều cố gắng tạo ra môi trường an ninh ổn định, tạo thêm sức hấp dẫn
của thị trường khổng lồ nhằm thu hút thêm viện trợ, đầu tư nước ngoài để
tập trung vào việc phát triển kinh tế. Việc Trung Quốc thay đổi chính
sách theo chiều hướng tích cực như vậy là có lợi cho Nhật Bản, bởi cho
dù quan hệ Mỹ - Nhật vẫn là trục chính trong chiến lược đối ngoại thì
một nước Trung Quốc khổng lồ vẫn luôn là nỗi ám ảnh của Nhật Bản. Vì
vậy, một mặt, Nhật Bản tăng cường cảnh giác đối với Trung Quốc, mặt
khác Nhật Bản vẫn phải xác định xây dựng mối quan hệ hữu hảo với
Trung Quốc, giúp Trung Quốc phát triển ổn định và tham gia một cách
tích cực vào các diễn đàn như: APEC, ASEM, ASEAN+3… do “quan hệ
Nhật - Trung là một trong những mối quan hệ song phương quan trọng
nhất, việc phát triển hơn nữa quan hệ Nhật - Trung có ý nghĩa cực kì
quan trọng đối với hòa bình, phồn vinh của khu vực CA - TBD và thế
giới”.9

Trên những nét mới đó, Nhật Bản tìm kiếm sự ủng hộ của Nga
nhằm phục vụ mục tiêu trở thành cường quốc chính trị. Để trở thành Ủy
viên thường trực HĐBA LHQ và phát huy ảnh hưởng thực sự trong vai
trò cường quốc chính trị trong tương lai, Nhật Bản không thể bỏ qua việc
đối thoại và hợp tác với Nga. Hiện nay, Nhật Bản đang đặc biệt chú trọng
xây dựng mối quan hệ đó và có rất nhiều cơ hội thuận lợi cho Nhật Bản.

Bởi lẽ sau Chiến tranh lạnh, thực lực của Nga tương đối giảm sút. Thêm
nữa, Nga lại xúc tiến thực thi chính sách “ngoại giao sang phương
Đông”, nhu cầu hợp tác với các nước lớn châu Á đối với Nga đang trở
nên cần thiết và quan trọng hơn bao giờ hết để giải tỏa bớt “áp lực” của
việc mở rộng NATO sang phía Đông.

Chính vì những lý do trên mà quan hệ Nhật - Trung đã dần bước
vào giai đoạn ổn định. Nhật Bản chủ trương duy trì chính sách hợp tác
thân thiện với Trung Quốc trên các lĩnh vực kinh tế và chính trị; phối hợp
giải quyết theo phương pháp hòa bình các vấn đề tranh chấp lãnh thổ trên
biển với Trung Quốc và Đài Loan về đảo Diaoyo và Senkoku… Dù rằng
vẫn còn những va chạm về lợi ích chiến lược chứa đựng nhiều tiềm ẩn
bất ổn, đặc biệt là vấn đề Đài Loan nhưng có thể nhận thấy cả Trung

Đối với việc giải quyết vấn đề Triều Tiên, cả Nhật Bản và Nga
cũng có những đồng thuận. Tuy bề ngoài ủng hộ Hội nghị bốn bên (Mỹ,
Trung Quốc, CHDCND Triều Tiên, Hàn Quốc) để giải quyết vấn đề bán
đảo Triều Tiên, nhưng thực chất Nhật Bản rất muốn tham gia vào tiến
trình này. Nga cũng đề nghị cần có Hội nghị 4+2 (Nga, Nhật) nhằm khôi
phục ảnh hưởng của họ ở bán đảo Triều Tiên. Sự tương đồng này đã tạo

9

Nguyễn Thanh Bình, Quan hệ Nhật - Trung từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến
nay, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004, tr. 145.

3/2012

179


6

180

3/2012


Nghiên cứu Quốc tế số 1 (88)

Các vấn đề Quốc tế

ra khả năng hiện thực cho việc Nhật Bản tìm kiếm sự hợp tác với Nga.
Ngoài ra, thông qua quan hệ tác động với các nước lớn ở CA - TBD,
trong đó có Nga là cách tốt nhất kiềm chế Trung Quốc.

trường giống nhau và cùng là đồng minh của Mỹ, cùng có mục đích
chung là đối phó với CHDCND Triều Tiên. Về đối ngoại, tăng cường
quan hệ với Hàn Quốc còn nhằm để đối phó với sự lớn mạnh của Trung
Quốc. Trước mắt, hai nước đang xúc tiến ký kết Hiệp định xây dựng khu
vực tự do song phương (FTA). Khi hoàn thành được việc đó, kinh tế và
cả ý thức hệ tư tưởng sẽ được nhất thể hóa, đồng thời cũng giải quyết
được những vấn đề do lịch sử để lại.

Cải thiện quan hệ Nhật - Nga sẽ tạo điều kiện mở rộng và phát triển
hợp tác kinh tế. Điều dễ nhận thấy là kinh tế Nhật Bản tiến vào thế kỷ 21
sẽ có những cơ hội và động lực mới thông qua việc tiếp tục thúc đẩy sự
hình thành “Vòng cung kinh tế Đông Bắc Á”, đẩy mạnh tiến trình hợp
tác khai thác vùng Viễn Đông Nga với nguồn tài nguyên giàu có. Tất cả
những điều đó đòi hỏi phải có sự hợp tác, phối hợp chặt chẽ và tích cực
từ hai phía. Mặt khác, Nhật Bản cũng phải ủng hộ tiến trình dân chủ hóa

và xây dựng cơ chế kinh tế thị trường của Nga. Từ đó tạo được điều kiện
và khả năng mới cho sự hợp tác kinh tế, chính trị giữa hai nước.

Tóm lại, từ sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, trước những thay đổi
to lớn của tình hình thế giới và trong nước, Nhật Bản đã có một loạt các
động thái điều chỉnh chính sách đối ngoại: Lấy châu Á làm điểm tựa; đa
phương, đa dạng hóa quan hệ; tham gia các hoạt động của LHQ; cung

Đối với bán đảo Triều Tiên, Do xuất phát từ yếu tố địa lý, xử lý
trước những biến động an ninh, chính trị trên bán đảo Triều Tiên là một
trong những nội dung quan trọng trong chính sách đối ngoại của Nhật
Bản. Từ sau Chiến tranh lạnh, Nhật Bản đã tăng cường quan tâm và tham
dự nhằm góp phần giải quyết vấn đề này. Chủ trương tổ chức Hội nghị

cấp viện trợ cho các nước đang phát triển; tích cực tham gia giải quyết
các vấn đề khác như môi trường, bệnh dịch, an ninh… Nhìn chung, mục
tiêu của những điều chỉnh chiến lược đối ngoại của Nhật Bản sau Chiến
tranh lạnh là nhằm tăng cường sức mạnh, nâng cao vị trí, vai trò quốc tế,
phát huy hơn nữa ảnh hưởng của mình đối với thế giới, xúc tiến việc trở
thành Ủy viên thường trực HĐBA LHQ. Tất nhiên, dù có những thay đổi

4+2 là một minh chứng rõ nét cho mong muốn đóng góp tiếng nói và ảnh
hưởng của Nhật Bản trong việc giải quyết hòa bình vấn đề Triều Tiên.

nhưng củng cố và duy trì quan hệ liên minh Mỹ - Nhật vẫn là “hòn đá
tảng” xuyên suốt trong chính sách đối ngoại của Nhật trong thời kỳ mới.

Bên cạnh đó, Nhật Bản còn chủ động cải thiện quan hệ với hai
miền Triều Tiên. Đối với CHDCND Triều Tiên, việc đi tìm tiếng nói
chung vẫn còn rất nhiều trở ngại. Trong khi điều mà Tokyo quan tâm

nhất là dừng mọi chương trình hạt nhân, cũng như giải quyết dứt điểm
vấn đề hồi hương của các con tin (bị Bình Nhưỡng bắt cóc hồi năm 80),
thì kinh tế mới là trọng tâm mà CHDCND Triều Tiên nhắm tới. Đối với
Hàn Quốc, Nhật Bản xác định phát triển quan hệ với Xơ-un là phù hợp
với lợi ích chiến lược của hai nước vốn có nền dân chủ và kinh tế thị

Nhật Bản là đối tác chiến lược của nước ta và có ảnh hưởng to lớn
đối với thế giới. Việc nhận định, phân tích và dự báo một cách đúng đắn
về chính sách đối ngoại của Nhật Bản có vai trò cực kỳ quan trọng. Thực
hiện tốt được việc đó sẽ tạo thêm cơ sở lý luận và thực tiễn để góp phần
hình thành những quan điểm chính sách của Việt Nam trong thời kỳ mở
cửa, nhằm xây dựng đúng đắn chiến lược đối ngoại và đa dạng hóa các
mối quan hệ quốc tế, góp phần thực hiện thành công sự nghiệp Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

3/2012

181

7

182

3/2012


Nghiên cứu Quốc tế số 1 (88)

Các vấn đề Quốc tế


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo của nhóm nghiên cứu thuộc Trung tâm nghiên cứu cơ bản
châu Á về các vấn đề châu Á - Thái Bình Dương (1993), Vai trò của
Hoa Kỳ ở châu Á, quyền lợi và chính sách, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
2. Nguyễn Thanh Bình, Quan hệ Nhật - Trung từ sau Chiến tranh thế
giới thứ hai đến nay, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004.
3. Ngô Xuân Bình, Chính sách đối ngoại của Nhật Bản thời kỳ sau
Chiến tranh lạnh, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000.
4. Hồ Châu, “Chiến lược đối ngoại của Nhật Bản trong những thập niên
đầu thế kỷ XXI”, Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, (2), 2005, tr.
21 - 24.
5. Học viện Quan hệ quốc tế, Quan hệ của Mỹ với các nước lớn ở khu
vực châu Á - Thái Bình Dương, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2003.
6. Trần Quang Minh, Quan điểm của Nhật Bản về liên kết Đông Á trong
bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội, 2007.
7. Phạm Minh Sơn, Chính sách đối ngoại của một số nước lớn trên thế
giới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008.
8. TTXVN, “Chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ cho thế kỉ XXI”,
TLTKĐB, ngày 04/01, 1999, tr. 3-10.
9. William E. Rapp, Paths diverging? The next decade in the U.S - Japan
Security Alliance, available at y.
mil/pubs/display.cfm?pubid=367

3/2012

183


8

184

3/2012



×