Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của nhật bản đối với đông nam á từ sau chiến tranh lạnh đến năm 2001

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.05 KB, 94 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo
trờng đại học Vinh
----------***---------

Đậu thị hoa

Sự đIều chỉnh chính sách đối ngoại của
nhật bản đối với đông nam á từ sau
chiến tranh lạnh đến năm 2001

Luận văn thạc sĩ lịch sử

Vinh 2007

1


Bộ giáo dục và đào tạo
trờng đại học Vinh
----------***---------

Đậu thị hoa

Sự đIều chỉnh chính sách đối ngoại của
nhật bản đối với đông nam á từ sau
chiến tranh lạnh đến năm 2001
Chuyên ngành: Lịch sử thế giới
Mã số
: 60.22.50

Luận văn thạc sĩ lịch sử



Ngời hớng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Công Khanh

Vinh 2007

2


A. Mở đầu

1. Lý do chọn đề tài
Nh chúng ta đã biết, trong những năm cuối của thập kỷ 80 đến

những

năm đầu của thập kỷ 90, tình hình thế giới có những chuyển biến to lớn tác
động đến chính sách đối nội, đối ngoại của nhiều nớc trên thế. Đó là sự sụp đổ
của Cộng hoà dân chủ Đức hiện thân của Chiến tranh lạnh kéo dài hàng
thập kỷ, đó là sự sụp đổ của Liên Xô và các nớc chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu.
Chiến tranh lạnh chấm dứt, loài ngời đang chứng kiến sự đổi thay của thế giới
hai cực đối lập sang một thế giới đa cực mang tính cạnh tranh và hợp tác,
ở đó xu hớng toàn cầu hoá, hiện đại hoá đang chiếm u thế tuyệt đối, tạo ra
những cơ hội song lại chứa đựng những thách thức, đòi hỏi sự nỗ lực của mỗi
quơốc gia phải đề ra những chính sách phù hợp ứng với mỗi giai đoạn của lịch
sử.
Điểm đáng lu ý là cùng với sự kết thúc của Chiến tranh lạnh, khu vực
châu á - Thái Bình Dơng nói chung và Đông Nam á nói riêng đang có những
chuyển biến cơ bản trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, an ninh và xã hội.
Trong đó, Đông Nam á nổi lên nh một trung tâm kinh tế phát triển sôi động,
nơi đây không chỉ tập trung nhiều bạn hàng buôn bán, đầu t có khả năng tạo ra

nguồn thu lợi ích kinh tế chủ yếu mà còn chứa đựng nhiều tiềm năng phát
triển, giàu khoáng sản, nguồn lao động dồi dào và mang đậm bản sắc văn hoá
độc đáo. Không những thế, Đông Nam á còn là khu vực rất quan trọng về địa
lý, chính trị vì có thể nói rằng, bất kỳ một sự biến động nào của khu vực này
đều có ảnh hởng trực tiếp và sâu sắc đến lợi ích an ninh chính trị và ngoại giao
trong khu vực châu á - Thái Bình Dơng.

3


Xuất phát từ những yếu tố đó, từ sau Chiến tranh lạnh cùng với những
chuyển biến cơ bản của tình hình thế giới và khu vực, hầu hết mọi quốc gia đều
ra sức hoạch định chiến lợc, từng bớc có chính sách phù hợp để thích ứng với
điều kiện trong nớc và ngoài nớc nhằm tăng cờng, củng cố vai trò, vị trí của
mình. Có thể nói, nét nổi bật trong nền chính trị thế giới kể từ khi Chiến tranh
lạnh chấm dứt là sự điều chỉnh của tất cả các nớc, nhất là các nớc lớn, nhằm dành
cho mình một vị trí tối u trong hệ thống quan hệ quốc tế đang đợc cơ cấu lại.
Nhật Bản không nằm ngoài xu hớng chung đó của thế giới.
Nhật Bản là một cờng quốc kinh tế trong khu vực, lại có những mối
quan hệ sâu rộng về lịch sử, kinh tế, văn hoá lâu đời với Đông Nam á. Nhật
luôn coi đây là khu vực thân thiết, gắn bó với sự sống còn và phát triển của
mình. Vì thế, ngay từ khi mới bớc ra khỏi hơi nóng của cuộc chiến tranh lạnh,
Nhật Bản đã nhanh chóng hoạch định và thực thi chính sách đối ngoại của
mình với quốc tế và khu vực Đông Nam á. Nhật chú trọng đến Đông Nam á,
coi đó là tiểu khu vực trọng điểm có ảnh hởng đến vai trò nớc lớn của
Nhật. Xuất phát từ mối quan hệ giữa Nhật Bản với Đông Nam á trong suốt
thời kỳ Chiến tranh lạnh, có thể thấy chính sách đối ngoại của Nhật Bản thời
kỳ này đạt đợc những kết quả đáng kể, đáp ứng đợc phần nào lợi ích của cả
hai bên. Với một nớc Nhật đang trong quá trình lựa chọn chiến lợc hậu Chiến
tranh lạnh của mình để vơn lên trở thành một cờng quốc toàn diện, tìm sức

mạnh chính trị tơng xứng với sức mạnh kinh tế đã có, thì nhân tố Đông Nam
á lại càng trở nên có ý nghĩa. Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam á, lại
là một thành viên của tổ chức ASEAN, từ lâu đã xây dựng đợc mối quan hệ tốt
đẹp với Nhật Bản và đang phát triển thuận lợi. Do đó, việc nghiên cứu chính
sách đối ngoại của Nhật Bản đối với Đông Nam á thời kỳ sau Chiến tranh
lạnh trong lúc hợp tác khu vực đang gia tăng là một yêu cầu cấp thiết đối với
Việt Nam, với các nớc trong khu vực. Việc nghiên cứu này cũng giúp Việt

4


Nam đề ra chính sách đối ngoại đúng đắn, đồng thời tìm hiểu những tác động
qua lại, trớc hết là đối với Nhật Bản để vừa đảm bảo an ninh, vừa phát triển
kinh tế, văn hoá và giáo dục, đảm bảo mối quan hệ tốt đẹp ba bên giữa Việt
Nam Nhật Bản ASEAN trong bối cảnh mới ở khu vực và trên thế giới.
Với suy nghĩ đó, tôi mạnh dạn chọn đề tài Một số điều chỉnh trong chính
sách đối ngoại của Nhật Bản đối với Đông Nam á sau Chiến tranh lạnh đến
năm 2001 làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ sau Chiến tranh lạnh, các nớc trong khu vực Đông Nam á vừa hợp
tác vừa đấu tranh rất phức tạp, cùng với xu hớng khu vực hoá ngày càng gia
tăng mạnh mẽ với các hoạt động kinh tế sôi nổi, các nớc NIES và các nớc
ASEAN vẫn tiếp tục đạt tăng trởng kinh tế cao. Nhật Bản cũng nh các nớc lớn,
đều có sự điều chỉnh rất quan trọng theo hớng tăng cờng hơn nữa sự có mặt về
kinh tế, chính trị an ninh, quốc phòng, tăng cờng sự hợp tác và đầu t nhằm
nhanh chóng xác định vị trí của mình trong khu vực. Trong những năm gần
đây, do sự phát triển trong quan hệ hợp tác giữa Nhật Bản với các nớc trong
khu vực Đông Nam á ngày một tốt đẹp, cho nên nghiên cứu sự điều chỉnh đờng lối đối ngoại của Nhật Bản đối với Đông Nam á sau Chiến tranh lạnh đã
đợc nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nớc chú ý.
ở Việt Nam, do nhu cầu tìm hiểu diễn biến sự điều chỉnh chính sách

của các nớc lớn trong khu vực, Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản tại Hà Nội đã
xuất bản cuốn sách Chính sách đối ngoại của Nhật Bản thời kỳ sau Chiến
tranh lạnh, xuất bản năm 2000, do Ngô Xuân Bình chủ biên, nhng mang
tính chất tạo ra cái nhìn tổng thể về chính sách đối ngoại của Nhật. Bên cạnh
đó, có cuốn Quan hệ của Nhật Bản với các nớc Đông Nam á sau chiến
tranh thế giới thứ II năm 1945 1975 do Dơng Lan Hải (chủ biên), Nhà xuất
bản KHXH, Hà Nội, năm 2000, đã đề cập đến một số mối quan hệ ngoại giao

5


giữa Nhật Bản với Đông Nam á ngay sau khi Chiến tranh thế giới thứ II kết
thúc. Tác phẩm An ninh kinh tế ASEAN và vai trò của Nhật Bản của Nhà
xuất bản CTQG, Hà Nội, năm 2001 đã nêu lên sự phát triển kinh tế và an ninh
của các nớc châu á - Thái Bình Dơng, trong đó có nói đến sự tác động của
Nhật Bản đối với khu vực này. Cuốn sách Chiến lợc quốc gia của Nhật Bản
trong thế kỷ XXI, Nhà xuất bản Thông tấn Hà Nội, năm 2004 nêu lên những
yếu tố và nội dung chính mà Nhật Bản sẽ đa ra trong thế kỷ XXI
Ngoài ra, trên Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc á có các bài
viết Tìm hiểu chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với các nớc ASEAN
(4/2004), An ninh châu á và chính sách đối ngoại của Nhật Bản trong thời
kỳ sau Chiến tranh lạnh của Kamao Kaneko (1995), Chiến lợc đối ngoại
của Nhật Bản trong những thập niên đầu thế kỷ XXI của Hồ Châu (4/2005 ),
Điều chỉnh chính sách đối ngoại và an ninh của Nhật Bản thời kỳ sau Chiến
tranh lạnh khía cạnh đa phơng hoá và quan hệ với Hoa Kỳ của Ngô Xuân
Bình (10/1999), Quan hệ Việt Nhật thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh những
dấu ấn ngoại giao đậm nét của Nguyễn Thanh Hiền (2003)
Trên tạp chí Nghiên cứu Quốc tế có những bài: Nhật Bản điều chỉnh
chính sách Đông á của Võ Sơn Thuỷ (1883), Vai trò an ninh của Nhật Bản
thời kỳ sau Chiến tranh lạnh của Lê Linh Lan (1995 ), Sự điều chỉnh của

một số nớc lớn sau Chiến tranh lạnh của Phan Doãn Nam (1997 ).
Đồng thời, trên Tạp chí Đông Nam á có bài: Thách thức và triển
vọng vị thế chính trị của Nhật Bản trong quan hệ Nhật Bản ASEAN và NIEs
Đông á của Trần Anh Phơng (2000), Nhật Bản và Đông Nam á của Phạm
Đức Thành (2003).
Tất cả những đề tài trên đều nghiên cứu những khía cạnh khác nhau
trong quá trình điều chỉnh chính sách của Nhật đối với khu vực châu á Thái

6


Bình Dơng nói chung và Đông Nam á nói riêng.Vì vậy, nghiên cứu đề tài này
chúng tôi muốn tìm hiểu rõ hơn sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Nhật
Bản đối với khu vực Đông Nam á, tìm hiểu sự tác động của những chính sách
đó đến quan hệ giữa Việt Nam với Nhật Bản. Tuy nhiên, trong giới hạn của
luận văn, do khả năng còn hạn chế của ngời viết, khó khăn trong quá trình
nghiên cứu và thu thập tài liệu nên bài viết rất còn có nhiều thiếu sót, rất mong
đựoc sự đóng góp của Quý thầy cô và các học viên.
3. Đối tợng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tợng
Từ sau Chiến tranh lạnh, Nhật Bản đã có những sự điều chỉnh trong
chính sách đối ngoại của mình đối với các nớc trên thế giới và trong khu vực
Đông Nam á. Sự điều chỉnh đó nhằm mục đích có lợi cho sự tồn tại và phát
triển của Nhật Bản, cho nên Nhật đã đề ra những chính sách vừa linh hoạt vừa
phức tạp, quan hệ đa phơng với nhiều nớc.
Trong giới hạn của luận văn, chúng tôi chỉ nghiên cứu một số sự điều
chỉnh cụ thể trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với Đông Nam á,
chính sách của Nhật Bản tác động đến Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ
Luận văn phân tích sự điều chỉnh trong chính sách đối ngoại của Nhật

Bản đối với khu vực Đông Nam á sau Chiến tranh lạnh trên các lĩnh vực kinh
tế, chính trị, an ninh, văn hoá. Từ đó nêu lên bản chất, mục tiêu và tác động
của việc điều chỉnh những chính sách của Nhật đối với Việt Nam, nhằm phát
huy những thuận lợi trong quá trình hợp tác, phục vụ cho quá trình đổi mới,
đồng thời thực hiện đúng phơng châm hợp tác hai bên cùng có lợi, cảnh
giác với những hoạt động xấu, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.
3.3. Phạm vi nghiên cứu

7


Thông qua những nguồn tài liệu thu thập đợc, chúng tôi đã tổng hợp và
mạnh dạn đa ra những phân tích một số điều chỉnh trong chính sách đối ngoại
của Nhật Bản đối với khu vực Đông Nam á sau Chiến tranh lạnh đến năm
2001. Chủ yếu đề cập sự điều chỉnh của Nhật xung quanh lĩnh vực kinh tế,
chính trị an ninh và văn hoá chung cho toàn khu vực chứ cha đi sâu vào khía
cạnh của từng quốc gia, chỉ phần nào cố gắng nói đến tác động của những
chính sách đó đến mối quan hệ hai nớc Việt Nam Nhật Bản.
4. Nguồn tài liệu
Để hoàn thành luận văn, chúng tôi đã tham khảo các Tạp chí Nghiên
cứu Nhật Bản, Tạp chí Ngiên cứu Quốc tế, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Tạp
chí của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Tạp chí Kinh tế thế
giới, Tạp chí của Học viện Quan hệ quốc tế.
Bên cạnh đó, còn sử dụng sách của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Nhà xuất bản Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia, Học viện chính trị quốc
gia, Nhà xuất bản Thông tấn xã
5. Phơng pháp nghiên cứu
Đây là một đề tài khoa học chuyên ngành lịch sử, từ đặc điểm riêng của
đề tài là sử dụng phơng pháp nghiên cứu tổng hợp, kết hợp phơng pháp lịch sử
và lô gích để nghiên cứu sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối

với Đông Nam á sau Chiến tranh lạnh. Ngoài ra, còn sử dụng phơng pháp su
tầm chọn lọc, xử lý t liệu, diễn giải, quy nạp, phân tích, tổng hợp so sánh, đối
chiếu, với hy vọng làm cho đề tài có tính chất khoa học, chặt chẽ và thuyết
phục. Sử dụng phơng pháp thời sự hoá để khai thác từng giai đoạn phát triển
của lịch sử. Trên cơ sở sự kiện, số liệu đã có, chúng tôi sử dụng phơng pháp
suy luận lôgic để đa ra những dự báo khoa học trong quan hệ giữa Nhật Bản
với khu vực Đồng Nam á, giữa Nhật Bản với Việt Nam.
6. Đóng góp của luận văn

8


Luận văn phần nào phản ánh đợc sự cần thiết của Nhật Bản cần phải
điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình đối với Đông Nam á sau chiến
tranh lạnh đến năm 2001.
Nội dung của sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của nhật bản bao gồm:
kinh tế, an ninh chính trị và văn hoá. Đồng thời, thấy đợc thực tế quan hệ Việt
Nam Nhật Bản để rút ra những kinh nghiệm, bài học cho quá trình thúc đẩy
quan hệ tốt đẹp giữa hai nớc.
7. Bố cục của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và mục lục, Luận văn
gồm 3 chơng:
Chơng 1. Những nhân tố tác động đến sự điều chỉnh chính sách đối
ngoại của Nhật bản đối với Đông Nam á sau Chiến tranh lạnh.
Chơng 2. Sự điều chỉnh trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối
với Đông Nam á từ 1991- 2001.
Chơng 3. Chính sách đối ngoại của Nhật bản tác động đến quan hệ Việt
Nam Nhật bản sau Chiến tranh lạnh.

9



Chơng 1
Những nhân tố tác động đến sự điều chỉnh chính sách
đối ngoại của Nhật Bản đối với Đông Nam á sau chiến
tranh lạnh
1.1. Nhân tố quốc tế
Bớc vào những năm cuối cùng của thế kỷ XX, loài ngời đang chứng
kiến những thay đổi lớn lao đang diễn ra trong nền chính trị và kinh tế thế
giới. Cái bắt tay lịch sử giữa hai nhà lãnh đạo Xô - Mỹ trên đảo Malta và sự
sụp đổ của bức tờng Beclin năm 1989 đã đánh dấu cuộc kết thúc của cuộc
chiến tranh lạnh kéo dài suốt gần nửa thế kỷ. Nh vậy, sự thay đổi lớn vào cuối
thế kỷ XX là sự sụp đổ của trật tự hai cực và sự chấm dứt chiến tranh lạnh,
chấm dứt sự đối đầu của hai hệ thống chủ nghĩa t bản - chủ nghĩa xã hội về
quân sự, chính trị, t tởng và ngoại giao. Sự sụp đổ nhanh chóng, bất ngờ của
Liên Xô và các nớc Đông âu đã làm nảy sinh nhiều vấn đề mà cộng đồng
quốc tế phải quan tâm. Có thể nói, những sai lầm trong xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bệnh duy ý chí là một trong những nguyên nhân sâu xa và trực tiếp đẩy
Liên Xô, các nớc xã hội chủ nghĩa rơi vào một cuộc khủng hoảng toàn diện
mà lối thoát duy nhất là tiến hành phát triển kinh tế thị trờng. Song điều đáng
buồn là khi chuyển sang nền kinh tế thị trờng, họ đã thiếu đi những điều kiện
cần thiết mà ở đó sự nhận thức của giới lãnh đạo đất nớc cha nhận thức kịp
thời, ít nhất những điều kiện này gồm tự do hoá sản xuất và lu thông, sự ổn
định chính trị, những điều tiết vĩ mô nền kinh tế và sự trợ giúp quốc tếChính
thiếu những điều kiện đó nên cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị đã diễn ra
sâu nặng kéo dài và mới chấm dứt trong thời gian gần đây.

10



Liên Xô và Đông âu sụp đổ làm cho Mỹ trở thành siêu cờng duy nhất,
điều đó không đồng nghĩa với việc xem trật tự thế giới sau Chiến tranh lạnh là
trật tự một cực bởi lẽ rất đơn giản Mỹ không còn đủ sức mạnh kinh tế và chính
trị để điều khiển thế giới theo ý muốn của mình. Mỹ đã suy yếu tơng đối khi
bớc ra khỏi Chiến tranh lạnh, biểu hiện sa sút của Mỹ từ những năm 50 khi
Mỹ đứng trớc những vấn đề nan giải: chiến tranh Triều Tiên, Liên Xô phóng
vệ tinh đầu tiên đi đầu thế giới trong chinh phục vũ trụ năm 1957, chiến tranh
Việt Nam và hội chứng của nó đối với nớc Mỹ, cuộc khủng hoảng dầu mỏ
năm 1973, Liên Xô vơn lên cân bằng với Mỹ về quân sự đầu thập kỷ 70, Nhật
Bản vơn lên nửa sau thập kỷ 80, sự suy thoái của kinh tế Mỹ sau Chiến tranh
vùng vịnhRõ ràng trong suốt thời kỳ Chiến tranh lạnh, Mỹ gặp phải những
thách thức hữu hình và vô hình. Những bế tắc trầm trọng cơ bản mà Mỹ phải
cần một thời gian dài để khắc phục gồm ba vấn đề có liên quan chặt chẽ với
nhau: kinh tế, xã hội, tinh thần. Các nớc trớc đây phụ thuộc Mỹ muốn khẳng
định sự độc lập trong việc thực hiện chủ quyền của họ. Bên cạnh đó, những nớc vốn bị coi là lạc hậu nay đã dành đợc địa vị bình đẳng về chính trị. Các
quốc gia mới độc lập từ con số 50 sau Chiến tranh thế giới thứ hai nay đã lên
hơn 180 và tiếng nói của họ không thể làm ngơ. Ngoài ra, các đối thủ của Mỹ
tiếp tục mở rộng và củng cố ảnh hởng của mình nh Nhật Bản, Trung Quốc,
Tây ÂuRõ ràng, bức tranh thế giới đang trong thời kỳ chuyển tiếp, trật tự
mới vẫn cha hình thành rõ trong khi trật tự hai cực đã tan rã. Tuy nhiên, trong
điều kiện này không đơn giản là Mỹ sẽ nắm vai trò lãnh đạo cả thế giới trong
trật tự một cực. Hàng loạt trung tâm nh Nhật Bản, Trung Quốc, Tây Âu có vai
trò ngày càng quan trọng trong trật tự quan hệ quốc tế. Nh vậy, quan hệ quốc
tế có những thay đổi to lớn, sự phát triển của xu thế vừa hợp tác vừa đấu tranh
cùng tồn tại hoà bình đã thay thế cho thái độ thù địch giữa các nớc thuộc hai
hệ thống chính trị trớc kia. Những xung đột nh bất đồng đều đợc giải quyết
bằng những giải pháp chính trị hoà bình. Mặt khác, ý thức độc lập tự cờng và

11



dân chủ hoá ở các nớc ngày một tăng lên, không chấp nhận các nớc lớn áp đặt
ý chí đối với họ.
Song song với những thay đổi lớn trong bức tranh chính trị thế giới là
xu hớng mới xuất hiện trong nền kinh tế thế giới. Chiến tranh lạnh kết thúc đã
phá vỡ bức tờng ngăn cách chia kinh tế thế giới thành hai nền kinh tế song
song và đối lập nhau. Kinh tế thế giới giờ đây đã trở thành một thị trờng thống
nhất cùng với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật đã giải phóng
sức sản xuất của toàn thế giới, thúc đẩy xu hớng liên kết kinh tế, toàn cầu hoá
và khu vực hoá. Hợp tác và giao lu kinh tế đợc đẩy mạnh, làm cho sự phụ
thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ ngày càng trở nên chặt chẽ
hơn. Vấn đề kinh tế trở thành mối u tiên hàng đầu của mọi quốc gia và là nhân
tố quyết định sự hng vong của mỗi dân tộc.
Sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nớc xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, nền
kinh tế thế giới đã trở thành một thị trờng duy nhất. ở đó hình thành một nền
kinh tế đa cực với ba trung tâm cạnh tranh là Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản. Đồng
thời, trên thế giới cũng đã hình thành các khối kinh tế mang tính chất khu vực,
thậm chí tiểu khu vực. Điểm nổi bật trong thơng mại quốc tế những năm sau
Chiến tranh lạnh là sự chuyển dịch của bảo hộ mậu dịch sang tự do hoá thơng
mại. Tuy nhiên, sự chuyển dịch này là kết quả của sự đấu tranh lâu dài giữa
các nhà buôn quốc gia trên thơng trờng quốc tế thông qua vòng thơng lợng
Uragoay. Sau 7 năm thơng lợng và tranh cãi (1986-1993), cuối cùng 116 nớc
thành viên GATT ký thoả ớc tiến tới tự do hoá thơng mại toàn cầu. Một điểm
nữa trong thơng mại quốc tế là sự cố kết của các khối liên kết theo khu vực.
Đây là một xu thế tất yếu vì các quốc gia muốn khai thác tới mức cao nhất
tiềm năng hợp tác của các nớc láng giềng. Đáng chú ý là sự xuất hiện của
APEC - tổ chức hợp tác kinh tế châu á - Thái Bình Dơng. Các cuộc gặp thợng
đỉnh thờng niên của APEC phản ánh nhu cầu mở rộng nền thơng mại khu vực
sau chiến tranh lạnh ở một trình độ cao hơn trớc rất nhiều, dờng nh đánh dấu


12


một bớc mới của các nớc trong cộng đồng châu á - Thái Bình Dơng là sẵn
sàng chấp nhận những thách thức mới đối với liên minh tiền tệ châu âu. Cũng
cần nhấn mạnh rằng, sự xuất hiện và phát triển của các khối kinh tế thơng mại
mới sau thời kỳ Chiến tranh lạnh kết thúc là một nhu cầu thực tế của các nớc
nhằm tìm kiếm và khai thác những cơ hội hợp tác kinh tế mới. Nh vậy, ta thấy
thế giới đang bớc vào một thời kỳ mới với chất xúc tác là cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật, đặc biệt là sự bùng nổ sau cuộc công nghệ thông tin, nền
kinh tế thế giới bớc vào thời kỳ hậu công nghiệp phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy
nhanh quá trình quốc tế hoá và t bản, xuất hiện những hình thức chuyên môn
hoá cao gắn với những hình thức hợp tác đa dạng vợt qua khuôn khổ một nớc
nhất định. Vì thế, đòi hỏi phải có sự hợp tác của các quốc gia, do đó xu hớng
toàn cầu hoá của nền kinh tế thế giới đòi hỏi phải có sự thống nhất của nền
kinh tế thị trờng thế giới. Toàn thế giới trở thành một thị trờng chung gồm các
quốc gia có trình độ phát triển cũng nh chế độ chính trị khác nhau. Xu thế khu
vực hoá, toàn cầu hoá cũng nh u tiên cho phát triển kinh tế trong chính sách
của các nớc ngày đang phát triển rộng khắp. Thế giới trở nên phụ thuộc lẫn
nhau, mối quan hệ giữa các quốc gia trở nên đa dạng và phức tạp hơn bao giờ
hết. Sức mạnh kinh tế đang trở thành nhân tố nổi trội hơn sức mạnh quân sự và
trở thành an ninh vững chắc cho mọi quốc gia.
Về an ninh chính trị, chúng ta thấy một trật tự thế giới mới đang hình
thành thay thế trật tự thế giới cũ, sự mất đi của trật tự cũ hai cc Xô - Mỹ, sự
đối đầu Đông - Tây với ý thức là giới tuyến đã dẫn đến một loạt nhng thay đổi
có tính chất xu thế, xu thế hoà hảo, hoà dịu và hợp tác ngày càng chiếm u thế
trong các quan hệ quốc tế. Trật tự thế giới cũ mất đi yêu cầu thành lập một trật
tự thế giới mới đang đợc hình thành. Bên cạnh Mỹ, còn có tâu Âu, Nhật Bản,
Trung Quốc tuy còn kém Mỹ về kinh tế, quân sự nhng cũng có tốc độ phát
triển mạnh mẽ. Mặt khác, trong lĩnh vực an ninh, ngời ta cảm thấy tin cậy

hơn, yên tâm hơn vì nguy cơ bùng nổ chiến tranh hạt nhân đã bị đẩy lùi, dờng

13


nh các quốc gia đều hớng tới sự liên kết chặt chẽ hơn trong các diễn đàn an
ninh. Đây là cơ hội cho đối thoại và hợp tác, các nớc lớn nh Trung Quốc, Mỹ,
Nhật Bản ngày càng muốn có một vị thế lớn hơn trên diễn đàn quốc tế. Bên
cạnh đó, những bất ổn trong lĩnh vực an ninh khu vực vẫn còn tồn tại, nhiều
lúc vẫn còn nổi cộm trở thành mối quan tâm của nhiều quốc gia. Các dân tộc
lần lợt nâng cao ý thức độc lập tự chủ, đấu tranh chống lại sự áp đặt và can
thiệp của nớc ngoài, bảo vệ văn hoá dân tộc. Các lực lợng xã hội chủ nghĩa
cách mạng và tiến bộ trên thế giới kiên trì đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, các nớc có chế độ chính trị xã hội khác nhau
vừa hợp tác vừa đấu tranh cùng tồn tại hoà bình.
Có thể nói Chiến tranh lạnh kết thúc đã tạo ra một diện mạo mới cho
các quan hệ quốc tế, ở đó tồn tại nhiều xu hớng mang tính đa dạng, phụ thuộc
lẫn nhau, bổ sung cho nhau, thậm chí đối lập nhau. Đặc biệt là các xu hớng đó
thể hiện rõ trong các quan hệ song phơng và đa phơng, trong các quan hệ kinh
tế, chính trị và an ninh quốc tế. Chính sự chuyển dịch của thế giới hai cực
đối lập sang thế giới đa cực mang tính chất cạnh tranh và hợp tác đã tạo nên
một môi trờng quốc tế mới ẩn chứa nhiều cơ hội và không ít những thách thức.
Nh vậy, Liên Xô tan rã, Chiến tranh lạnh kết thúc làm thay đổi so sánh lực lợng trên thế giới, trong thời kỳ hình thành trật trự thế giới mới hậu chiến tranh
lạnh, mọi quốc gia đều phải điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình cho
phù hợp với điều kiện mới. Chính những đặc điểm chung nổi bật của tình hình
thế giới trên đây, buộc các nớc lớn phải điều chỉnh chiến lợc phát triển và
chiến lợc đối ngoại của mình, đặc biệt sẽ có tác động sâu sắc đến chính sách
ngoại giao của Nhật Bản thời kỳ sau Chiến tranh lạnh, trong đó có sự điều
chỉnh chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với Đông Nam á.
1.2. Tình hình khu vc Đông Nam á

Chiến tranh lạnh kết thúc đã thiết lập một trật tự thế giới mới đa cực,
trong đó các nớc vừa hợp tác vừa đấu tranh để phát triển. Những thay đổi

14


trong khu vực diễn ra nhanh chóng với nhiều triển vọng, song cũng không
kém phần thách thức với những mâu thuẫn gay gắt mới nảy sinh. Thời kỳ mới
với sự phát triển của cách mạng khoa học công nghệ đã góp phần mở ra một
cục diện mới cho tình hình quốc tế nói chung và khu vực nói riêng. Cùng với
những diễn biến của tình hình quốc tế thì ở Đông Nam á về kinh tế, chính trị
an ninh cũng có những chuyển mới hết sức tích cực, đa dạng.
Bản đồ chiến lợc ở khu vực Đông Nam á có những thay đổi cơ bản đáng
kể từ sau khi trật tự hai cực sụp đổ. Trong suốt hai thế kỷ cũng nh trong hơn
40 năm Chiến tranh lạnh diễn ra, các cờng quốc ngoài khu vực đã đóng một
vai trò chi phối toàn khu vực Đông Nam á. Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc,
có thể thấy sự hiện diện của các cờng quốc lớn đã giảm dần đi, đó là việc rút
các căn cứ quân sự ở Philippin tháng 12/1992 của Mỹ, sự giảm sút ảnh hởng
của Nga, điều này tạo nên một khoảng trống quyền lực và đa đến sự dòm
ngó, tìm cách lấp khoảng trống quyền lực của các thế lực lớn từ bên ngoài.
Hoàn cảnh này đã tạo cho Nhật những cơ hội và thách thức mới, cục diện
chính trị tại Đông Nam á có những chuyển biến rõ nét, trên bán đảo Đông Dơng, vấn đề Campuchia đang trong quá trình tháo gỡ thuận lợi. Việc Việt Nam
rút quân khỏi Campuchia và có những đóng góp tích cực trong việc ký kết,
thực hiện hiệp định hoà bình tháng 10/1991 đã tạo ra những tiền đề quan
trọng cho việc cải thiện quan hệ giữa các nớc Đông Dơng và ASEAN. Tháng
10/1994 tại Bang Kok, lần đầu tiên trong lịch sử khu vực, Bộ trởng ngoại giao
10 nớc Đông Nam á đã gặp gỡ nhau dới cùng một mái nhà - một sự kiện đợc
đánh giá nh một minh chứng mạnh mẽ cho quá trình hoà nhập hai khối Đông
Dơng và ASEAN, hội nghị mở đờng cho việc hình thành một tổ chức toàn khu
vực. Tháng 7/1995 Việt Nam gia nhập ASEAN, sau đó là Lào, Myanma,

Campuchia. Một Đông Nam á đoàn kết hơn, độc lập và tự chủ hơn đang đợc
hình thành, không còn chia cắt giữa hai khối thù địch ASEAN và Đông Dơng
nh trớc. Trên phơng diện an ninh, ASEAN đã xây dựng đợc cho mình những

15


cơ chế đối thoại song phơng cũng nh một diễn đàn an ninh đa phơng với tất cả
các cờng quốc trên thế giới. Rõ ràng, vai trò và vị thế quốc tế của các nớc
Đông Nam á đợc nâng cao trong thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh. Hơn ba thập kỷ
vừa qua đã chứng minh ASEAN luôn đạt mức tăng trởng kinh tế thuộc vào
loại cao trên thế giới. Giá trị tổng sản phẩm quốc dân cũng nh kim nghạch
buôn bán so với các khu vực khác trên thế giới đang tăng nhanh. Tuy nhiên,
những thành tích này không chỉ dừng lại ở lĩnh vực kinh tế. Chỉ cha đầy nửa
thập kỷ sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc và hiệp định Pari về vấn đề
Campuchia đợc ký kết, ASEAN đã thành công trong việc nâng cao vị trí và vai
trò của mình ở khu vực, ASEAN cũng đẩy mạnh quan hệ với Nhật thông qua
cơ chế song phơng và đa phơng. Có thể thấy trong quan hệ với các nớc lớn,
ASEAN ngày một tự chủ hơn.
Trớc những bài học kinh nghiệm do lịch sử để lại, các nớc ASEAN
cũng lo ngại trớc bất kỳ sự lớn mạnh nào của Trung Quốc và Nhật Bản. Mặt
khác, mối quan hệ giữa các nớc Đông Nam á cũng có ảnh hởng trực tiếp đến
tình hình các nớc Đông Nam á. Tuy nhiên, thái độ của ASEAN với Nhật Bản
cũng có những cải thiện đáng kể, bên cạnh thái độ tôn trọng, các nớc Đông
Nam á cũng hoan nghênh việc Nhật Bản đóng vai trò mở rộng các vấn đề
chính trị anh ninh trong khuôn khổ Liên Hợp Quốc, coi Nhật Bản là nhân tố
chủ chốt góp phần quan trọng trong thế cân bằng quyền lực ở khu vực.
Với tình hình quốc tế và khu vực nh trên, Nhật Bản đã nhanh chóng
nhận thấy và có những chính sách phù hợp đúng đắn của mình ở khu vực châu
á - Thái Bình Dơng nói chung và Đông Nam á nói riêng, nhanh chóng lấp

khoảng trống quyền lực ở Đông Nam á. Vấn đề điều chỉnh chiến lợc trong
chính sách Đông Nam á của Nhật ngày càng trở nên cấp thiết, hơn nữa với sự
hùng mạnh về kinh tế của Nhật Bản là điều kiện thuận lợi để triển khai chính
sách của mình ở khu vực Đông Nam á.
1.3. Nhật Bản sau năm 1991

16


Có thể nói tình hình kinh tế, chính trị xã hội Nhật Bản cũng là những cơ
sở trọng yếu tạo lập nền tảng cho Nhật Bản điều chỉnh và thực thi chính sách
đối ngoại, bởi sự điều chỉnh trớc hết và căn bản phải phục vụ cho nhu cầu nội
tại của Nhật Bản.
Về kinh tế, bớc vào thập kỷ 90 cũng là lúc nền kinh tế bong bóng ở
Nhật Bản sụp đổ, nền kinh tế rơi vào đình trệ kéo dài. Từ năm 1991, tốc độ
tăng trởng kinh tế của Nhật Bản nhiều năm chỉ đạt dới 1%. Tốc độ tăng trởng
kinh tế thực tế đã giảm 2,9% năm 1991 xuống còn 0,4% năm 1992 và bốn
năm liền từ 1992-1995 mức trung bình chỉ đạt 0,6%, mặc dù đã khôi phục lại
mức trung bình 2,9% năm 1996 song đến năm 1997 âm 0,5% [49;371]. Sự sụp
đổ của nền kinh tế bong bóng vào đầu những năm 90 đã đẩy nền kinh tế
Nhật Bản vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng. Nhiều ngành kinh tế bị tác
động nghiêm trọng, nhất là các ngân hàng và các công ty tín dụng. Hầu hết
các tổ chức tín dụng và ngân hàng đều làm ăn kém hiệu quả hoặc thua lỗ, tình
trạng cho vay trái mục đích và đối tợng khiến cho nợ khó đòi lên tới hàng
trăm tỷ đôla. Ngân hàng Hyogo ở Kôbê với khoản vay không trả đợc lên tới 8
tỷ đô la. Hiệp hội tín dụng Nhật Bản (Kizu Credit CoopErative) rơi vào rối
loạn, thậm chí 11 ngân hàng mạnh nhất Nhật Bản và gần nh cả thế giới lần
đầu tiên sau chiến tranh lạnh phải giảm khả năng hoạt động còn 9% năm
1994-1995. Riêng ngân hàng Sumitomo lớn nhất thế giới tuyên bố lỗ 3 tỷ
USD vào năm 1993. Bên cạnh đó, sự tăng giá đồng Yên là một khó khăn rất

lớn cho nền kinh tế Nhật, bởi nền kinh tế ngoại thơng rất nhạy cảm với mọi
biến động trên thị trờng quốc tế, đặc biệt là thị trờng tài chính. Trong 3 năm
1993 - 1995 giá đồng yên liên tục tăng, năm 1994: 94,38 yên/USD, năm 1995
đồng yên Nhật Bản đạt mức tăng cha từng thấy 95 yên/ USD [36;96]. Do đồng
yên tăng giá liên tục làm cho hàng xuất khẩu của Nhật bản tính theo đôla trở
nên quá đắt và làm giảm sự cạnh tranh trên thị trờng thế giới, đồng thời gây
cản trở cho các ngành công nghiệp xuất khẩu của Nhật Bản, đồng Yên tăng

17


giá làm tổn hại đến lòng tin của các nhà đầu t vào kinh doanh. Tình trạng phá
sản, đổ vỡ kinh doanh diễn ra nhiều nhất là các công ty vừa và nhỏ, đặc biệt là
các công ty có tỷ lệ xuất khẩu cao. Theo báo cáo ngày 14/4/1995 của cơ quan
điều tra ở Nhật Bản về vấn đề tài chính của các doanh nghiệp cho thấy, sự phá
sản của các doanh nghiệp này với các món nợ của họ đến kỳ phải thanh toán
từ 10 triệu Yên trở lên mà họ không có đủ khả năng thanh toán đã diễn ra
trong suốt năm tài chính 1994. Theo báo cáo này tổng số các doanh nghiệp bị
phá sản là 14.201vụ, tổng giá trị 6.171,5 tỷ Yên. Mặt khác, Nhật Bản là một
trong những nớc cho vay lớn nhất thế giới, việc đồng Yên tăng giá liên tục
làm cho các khoản nợ phải trả cũng tăng lên tơng ứng. Chính những khó khăn
trên đã khiến cho Nhật phải thận trọng hơn trong khi giải quyết những quan hệ
thanh toán với các nớc nợ Nhật. Hơn nữa, các công ty nợ Nhật phải nhanh
chóng giảm chi phí sản xuất xuống mức thấp nhất hoặc chuyển sản xuất ra nớc ngoài, tăng nhập khẩu các sản phẩm công nghiệp nớc ngoài, nhất là các sản
phẩm từ các cơ sở chế tạo của Nhật Bản ở nớc ngoài, điều này đòi hỏi Nhật
Bản phải có những điều chỉnh chính sách thơng mại, đầu t quốc tế của mình
để thích ứng với tình hình kinh tế trong nớc.
Bên cạnh đó, tỉ lệ thất nghiệp ngày một cao, năm 1995 khoảng 3,1%,
tháng 10/1997 lên 3,5%, tháng 3/1998 tỉ lệ thất nghiệp ở Nhật Bản lên đến
mức kỷ lục 3,9%, so với các quốc gia công nghiệp khác thì đây là một tỉ lệ

nhỏ song đối với Nhật Bản - một đất nớc tự hào là có chế độ đảm bảo việc làm
suốt đời cho ngời lao động thì đây thực sự là một sự tồi tệ hơn 30 năm qua.
Những cơ hội tìm kiếm công ăn việc làm tại các công sở nhà nớc lẫn khu vực
t nhân cho mọi ngời dân Nhật ở độ tuổi lao động, sinh viên mới và đang chuẩn
bị ra trờng đều trở nên khó khăn. Tỉ lệ thất nghiệp cao nh vậy là do sự phá sản
của nhiều công ty, còn những công ty khác để đối phó với tổn thất về tài chính
do nền kinh tế bong bóng vỡ gây nên và sự đột biến trên thị trờng tiền tệ,

18


các công ty này đã chuyển dịch cơ cấu sản xuất, tiến hành cắt giảm các chi phí
sản xuất trớc hết là chi phí lao động.
Đầu t t nhân vào kinh doanh sản xuất trong nớc là một trong những cấu
thành quan trọng của nhu cầu trong nớc và thờng có tác dụng thúc đẩy mạnh
quá trình phục hồi kinh tế Nhật Bản. Năm 1995, nhu cầu đầu t t nhân chỉ tăng
1%, lợi nhuận của các công ty giảm mạnh, khả năng sinh lợi của ngành công
nghiệp xuất khẩu đã giảm xuống. Tháng 9/1995, lãi suất chiết khấu đã giảm
xuống mức thấp cha từng có là 0,5%, các xí nghiệp rất thận trọng không dám
đi vay để đầu t. Do đó, nhu cầu trong nớc của Nhật Bản đầu những năm 1990
rất yếu, nếu từ năm 1986 - 1990 nhu cầu trong nớc tăng với tốc độ trung bình
hàng năm 5,4% thì năm 1992 tăng 0,9%, năm 1994 tăng 1,6%, năm 1995 tăng
1,5%. Đầu năm 1998, nhiều chơng trình kích thích kinh tế trong đó cắt giảm
thuế đợc đa ra khoảng 30 tỷ đôla (320 USD/ ngời) với thời hạn hai năm song
nhu cầu nội địa tiếp tục giảm. Sự giảm sút quá mức của nhu cầu t nhân khiến
cho các chơng trình kích thích kinh tế của Nhật Bản đầu những năm 1990 có
tác dụng rất hạn chế.
Những khó khăn của nền kinh tế Nhật Bản trong năm 1997 trầm trọng
hơn, do tác động trực tiếp và gián tiếp của cuộc khủng hoảng tài chính Đông
Nam á và tiền tệ. Theo tính toán của tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế

(OECP), ảnh hởng của khủng hoảng tiền tệ ở Đông Nam á khiến cho GDP ở
châu á và Mỹ giảm 0,1 - 0,2% trong năm 1997 và của Nhật Bản 0,4%. Còn
theo tính toán của viện nghiên cứu Nikko ( Nhật Bản) thì cuộc khủng hoảng
này sẽ làm cho GDP của Nhật Bản giảm 0,7%.
Chính do nhu cầu đầu t và tiêu dùng cá nhân ở Nhật Bản tăng chậm
trong bối cảnh quốc tế đầu thập niên 90, nền kinh tế của các nớc phát triển
bắt đầu phải cơ cấu lại, chuyển từ trạng thái cứng sang mềm, thời đại cơ
khí sang thời đại tin học viễn thông, nền kinh tế dựa vào trí tuệ con ngời là
chính chứ không phải vào thế mạnh tài nguyên và nguồn nhân công rẻ. Trong

19


bối cảnh các nền kinh tế phụ thuộc lẫn nhau, sự phục hồi của nền kinh tế Nhật
Bản là điều không thể thiếu đợc trong việc khôi phục nền kinh tế châu á. Mặt
khác, sự phục hồi nền kinh tế châu á cũng hết sức quan trọng đối với sự hồi
sinh kinh tế Nhật Bản. Sự khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam á còn đẩy
Nhật Bản đối diện với nhiều vấn đề nan giải nh xuất khẩu suy giảm, tăng nợ
khó thu hồi, tỉ giá hối đoái và giá cổ phiếu biến động mạnh khiến Nhật Bản
phải có những biến động linh hoạt trong chính sách đối ngoại của mình bên
cạnh những cải cách kinh tế trong nớc.
Về chính trị ngoại giao - an ninh quân sự, từ cuối thập niên 80 cùng với
việc thay đổi cơ cấu kinh tế, nền chính trị Nhật Bản cũng có những xáo động
lớn, mở đầu bằng việc đảng Dân chủ tự do (LPD) bị trở thành đối lập trong
giai đoạn 1993-1996. Tuy đã quay trở lại thành đảng cầm quyền nhng chắc
chắn sức mạnh của đảng Dân chủ tự do không còn đợc nh trớc. Thủ tớng
Hashimoto trong diễn văn nhận chức cũng đã nói rất nhiều đến cải cách hành
chính ở Nhật Bản. Điều quan trọng hơn trong thời gian qua, cách suy nghĩ của
giới cử tri Nhật Bản đối với vấn đề chính trị có những thay đổi đáng kể. Từ
cuối thập kỷ 80 đến đầu thập kỷ 90, tỉ lệ của nhóm cử tri thụ động (bỏ phiếu

trắng và dao động) chiếm gần nửa số lợng cử tri của Nhật Bản. Trong các năm
1988-1989, sự không hài lòng trong dân chúng tăng lên, nguyên nhân là do hệ
thống thuế mới năm 1988 làm cho các nhà nội trợ bị kích động, nhân dân và
nhiều ngời buôn bán nhỏ bị đe doạ không đợc đảm bảo từ phía đảng Dân chủ
tự do. Trong tình thế bị khủng hoảng vì các vụ xcăngdan tài chính xảy ra liên
tục và có nhiều thay đổi trong cơ cấu đảng phái, các cuộc đấu tranh dành
quyền kiểm soát của các phe phái chủ chốt trong đảng Dân chủ tự do đã gây
ra nhiều cuộc khủng hoảng, làm cho đảng Dân chủ tự do không nắm đợc đa số
phiếu tại các cuộc bầu cử. Hơn nữa, trong điều kiện mới nảy sinh do toàn cầu
hoá kinh tế, đảng Dân chủ tự do đã tỏ ra yếu kém trong việc đáp ứng yêu cầu
của quần chúng và giảm đi khả năng quản lý, giải quyết các hậu quả của kinh

20


tế. Tình hình trong nớc và quốc tế ngày càng phức tạp, năm 1992 đảng Dân
chủ tự do tiếp tục lãnh đạo và liên kết với các đảng trung gian hoặc với đảng
Xã hội Nhật Bản để nắm đa số trong thợng nghị viện. Một mặt, đảng Dân chủ
tự do thực hiện các biện pháp nhằm cải cách chính trị và cải cách hành chính,
mặt khác lợi dụng mọi tình huống quốc tế có lợi để thể hiện uy tín đối với thế
giới. Thủ tớng Kaifu đã lợi dụng cuộc khủng hoảng vùng vịnh để gửu ra nớc
ngoài đội quân của lực lợng phòng vệ Nhật Bản dới hình thức quét mìn trên
biển sau vụ xung đột tháng 4/1991. Năm 1992, ôngMiyazawa đã làm cho các
đảng phái trung gian phải chấp nhận đạo luật của lực lợng giữ gìn hoà bình,
chính thức xóa bỏ điều cấm kỵ trong hiến pháp thành việc cho phép lính của
quân đội phòng vệ Nhật Bản đợc tham gia vào sứ mệnh của Liên Hợp Quốc.
Tuy nhiên, những lục đục trong nội bộ và những tính toán sai lầm làm cho quá
trình điều chỉnh những trách nhiệm của Nhật với quốc tế trở nên xấu đi. Bối
cảnh quốc tế đã có những thay đổi sau chiến tranh lạnh và do sự yếu kém của
đảng Dân chủ tự do trong quá trình ra quyết định, cũng là một yếu tố dẫn đến

sự thất bại của đảng Dân chủ tự do. Trong những năm đầu sau chiến tranh,
Nhật Bản là một nớc kém quan trọng trên thế giới, phụ thuộc hoàn toàn vào
Mỹ về an ninh quân sự và không tham gia vào công việc quốc tế. Các nhà
lãnh đạo Nhật lúc đó chỉ tập trung chú ý vào công việc trong nớc, đặc biệt là
vào các khu vực bỏ phiếu của cá nhân mình. Đây cũng là một trong những lý
do giải thích vì sao đảng Dân chủ tự do đã không dành đợc thành công lớn về
kinh tế và giữ quyền thống trị của mình đợc lâu dài.
Qua phân tích trên ta thấy, nền chính trị Nhật Bản nh đang đứng trớc
ngã ba đờng, nên đi theo hớng nào để vừa ổn định đựơc tình hình chính trị
trong nớc, vừa phát huy đựơc vai trò quốc tế của mình. Về kinh tế, làm sao để
nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế, vừa không làm mất cân bằng cán cân
buôn bán với các nớc đặc biệt là với Mỹ. Về xã hội, giải quyết nh thế nào về
vấn đề xã hội, ngời già, thất nghiệpHàng loạt câu hỏi đặt ra cho đảng cầm

21


quyền hiện nay để làm sao có sự phù hợp về chính sách đối nội, đối ngoại và
chính sách an ninh. Do những điều kiện mới trong nớc và trên thế giới, Nhật
Bản đang phải tiến hành cải cách hành chính theo hớng dân chủ hoá, quốc tế
hoá và hiện đại hóa. Ngợc lại, tình hình chính trị trong nớc cũng là một trong
những yếu tố quan trọng tạo cơ sở cho việc điều chỉnh chính sách đối ngoại
của Nhật Bản. Cần nhấn mạnh rằng, chính những thay đổi của tình hình quốc
tế sau chiến tranh lạnh đã tạo ra cả những cơ hội và thách thức buộc Nhật Bản
phải tính đến trong việc hoạch định chính sách đối ngoại. Bên cạnh tình hình
chính trị, kinh tế trong nớc cũng đặt ra nhiều vấn đề mà muốn giải quyết có
hiệu quả những vấn đề này không có cách nào khác hơn là Nhật Bản phải đặt
chúng trong mối quan hệ với các vấn đề quốc tế có liên quan.

22



Chơng 2
Sự điều chỉnh trong chính sách đối ngoại
của Nhật bản đối với đông nam á từ 1991 - 2001

2.1. Tổng quan về chính sách đối ngoại của Nhật Bản sau Chiến tranh lạnh
Với sự sụp đổ của Liên Xô và các nớc xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vào
đầu những năm 1990, ngời ta coi cuộc Chiến tranh lạnh mà thực sự là sự đối
đầu về t tởng, chính trị và quân sự giữa Liên Xô và Hoa Kỳ đã chấm dứt. Thế
giới bớc sang một kỷ nguyên mới, ở đó hợp tác và cạnh tranh trở thành mối
quan tâm lớn nhất của tất cả các quốc gia. Thế giới đang chứng kiến sự đổi
thay và chuyển dịch từ đối đầu của hai cực sang hợp tác và cạnh tranh của
một thế giới đa cực. Để thích nghi với những biến đổi của tình hình quốc tế,
nhiều quốc gia đặc biệt là những nớc lớn đã buộc phải điều chỉnh chính sách
đối ngoại và an ninh của mình.
Trớc hết, Nhật Bản chủ trơng đa phơng hoá chính sách đối ngoại và
giảm sự phụ thuộc vào Hoa Kỳ. Ngay từ đầu những năm 90, Nhật Bản đã từ
bỏ chính sách đối ngoại phiến diện để chuyển sang một chính sách đối
ngoại đa phơng, nắm giữ một vai trò quan trọng hơn trên thế giới phù hợp với
thực tế kinh tế của họ. Thông qua đó sẽ vơn lên trở thành một cờng quốc chính
trị. Từ khi chiến tranh lạnh chấm dứt cho đến nay, nhiều chính quyền kế tiếp
của Nhật Bản đã đề cao chính sách đối ngoại đổi mới dựa trên nền tảng đối
thoại và hợp tác. Nếu nh trớc kia, chính sách đối ngoại dựa trên sức mạnh tên
lửa và vũ khí chiến lợc, thì ngày nay đợc thay thế bằng mở rộng đối thoại và
tăng cờng hợp tác. Suốt mấy thập niên qua, Nhật Bản đều coi mối quan hệ
của họ với Hoa Kỳ là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại. Tuy nhiên, càng
ngày Nhật Bản càng tỏ ra độc lập hơn và chủ động hơn trong các quan hệ
quốc tế. Đây là một biểu hiện mới trong chính sách đối ngoại của Nhật sau
Chiến tranh lạnh của Nhật và là một dấu hiệu cho thấy sự lệ thuộc vào Mỹ đã

giảm xuống. Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, Nhật Bản chỉ tập trung xây dựng

23


các mối quan hệ với phơng Tây, thì sau Chiến tranh lạnh ngời ta thấy ở Nhật
Bản xuất hiện xu hớng tìm cách mở rộng quan hệ quốc tế của họ ra toàn thế
giới, khai thông quan hệ với nhiều nớc thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa trớc
đây. Đặc trng của quan hệ song phơng giữa Nhật Bản với các đối tác mới này
là hợp tác trên cơ sở tin cậy lẫn nhau hai bên cùng có lợi, Nhật Bản và đối tác
sẵn sàng chấp nhận những khác biệt về chính trị, vuợt lên tất cả những khác
biệt để mở rộng quan hệ song phơng, đặc biệt là quan hệ kinh tế và hợp tác
văn hoá, khoa học kỹ thuật. Đây là một biểu hiện rất mới của chính sách đối
ngoại của Nhật Bản sau Chiến tranh lạnh. Có thể nói, tiếp tục duy trì mối quan
hệ với phơng Tây, coi quan hệ Nhật Bản - Hoa Kỳ là hòn đá tảng trong chính
sách đối ngoại, trên cơ sở đó thúc đẩy và mở rộng quan hệ với các nớc Đông
Âu, các nớc Đông Dơng, các quốc gia ở châu Phi là một điểm nổi bật trong
quá trình điều chỉnh chính sách đối ngoại của Nhật Bản sau Chiến tranh lạnh.
Đồng thời, chính sách đối ngoại của Nhật Bản cũng đợc điều chỉnh theo hớng
tích cực tăng cờng tham gia hoạt động trong khuôn khổ Liên Hợp Quốc, thể
hiện thông qua hoạt động giữ gìn hòa bình dới sự bảo trợ của Liên Hợp Quốc
tại Campuchia, Môdămbich, Zaia, BosniaTháng 6/1992, quốc hội Nhật Bản
đã thông qua một đạo luật cho phép lợng phòng vệ Nhật Bản tham gia vào cac
hoạt động của lực lợng giữ gìn hoà bình. Điều này tạo cơ sở pháp lý và chính
trị trong nớc cũng nh nớc ngoài để binh lính Nhật có thể phục vụ ở nớc ngoài
dới sự bảo trợ của Liên Hợp Quốc. Nhật Bản còn tham gia giải quyết các vấn
đề tranh chấp khu vực, cắt giảm vũ khí chiến lợc và chống khủng bố, phối hợp
quốc tế nhằm giúp các quốc gia đang phát triển giải quyết vấn đề lơng thực,
năng lợng, môi trờng, giảm nghèo khổ và đào tạo nguồn nhân lực. Mặt khác,
do hạn chế của hiến pháp Nhật, việc sử dụng khuôn khổ Liên Hợp Quốc cho

các hoạt động trên là điều đợc Nhật khai thác tối đa. Bản thân Nhật cũng cho
rằng, vai trò của Liên Hợp Quốc sau Chiến tranh lạnh đợc mở rộng ra nhiều
nên tất yếu vũ đài hoạt động của Nhật cũng cần đợc triển khai mở rộng hơn,

24


một nớc Nhật co mình lại trớc đây đã thay đổi thành một nớc Nhật tự tin,
mạnh dạn trên vũ đài quốc tế.
Nhật Bản còn tăng cờng hợp tác an ninh với Hoa Kỳ trong bối cảnh
mới, cho rằng sự gia tăng quan hệ an ninh với Hoa Kỳ là điều rất quan trọng
đối với tình hình an ninh của Nhật Bản và đối với hoà bình an ninh trong khu
vực. Nh chúng ta đã biết, hợp tác an ninh Nhật Bản - Hoa Kỳ là một bộ phận
trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản. Mối quan hệ trong lĩnh
vực này đã tạo ra chiếc ô đảm bảo an ninh cho Nhật trong suốt hơn 50 năm
qua và Nhật đã rảnh tay tập trung vào phát triển kinh tế. Trên thực tế, những
điều chỉnh chiến lợc hợp tác an ninh đợc các giới lãnh đạo cấp cao Nhật Bản Hoa Kỳ trong suốt thời kỳ Chiến tranh lạnh vẫn thiên về học thuyết lấy phòng
vệ làm phơng châm chỉ đạo, sẵn sàng đáp ứng lại đối phơng nếu Nhật Bản
bị tấn công. Tuy nhiên, sau khi Chiến tranh lạnh chấm dứt, những điều chỉnh
trong chiến lợc hợp tác an ninh đợc giới lãnh đạo cao cấp Nhật Bản - Hoa Kỳ
đề cập trong các cuộc thăm viếng lẫn nhau, đặc biệt trong cuộc viếng thăm
Nhật Bản của tổng thống Mỹ G.Bush (năm 1991) và của tổng thống Mỹ
B.Clitơn (tháng 4/ 1996) tại Tokyo. Tuyên bố chung về an ninh Nhật Bản Hoa Kỳ hớng tới thế kỷ XXI đợc thủ tớng Nhật Bản và tổng thống Mỹ ký tại
Tokyo tháng 4/1996, hai quốc gia coi việc tăng cờng hợp tác an ninh của họ
trong thế kỷ XXI có tầm quan trọng đối với khu vực châu á - Thái Bình Dơng, có tác động tới sự phát triển kinh tế ở khu vực này chứ không bó hẹp
trong khuôn khổ lợi ích của hai quốc gia. Nhật Bản và Hoa Kỳ cam kết tham
gia giải quyết những tình huống có thể xảy ra xung quanh Nhật Bản. Đây là
điểm mới mà cha bao giờ ngời ta đề cập trong hợp tác an ninh song phơng
trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Trong phơng hớng hợp tác phòng vệ Nhật Bản Hoa Kỳ đợc hai nớc ký kết ngày 23/9/1997 xác định khu vực phòng vệ chung
là khu vực xung quanh Nhật Bản, bao gồm châu á - Thái Bình Dơng, thậm

chí còn cả ấn độ Dơng và vịnh Ba T. Mặt khác, cho phép quân đội Nhật Bản

25


×