Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Đê cương ôn tập môn thể chế chính trị việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.24 KB, 24 trang )

Đê cương ôn tập môn thể chế chính trị Việt Nam
Câu 1: phân tích cơ sở hình thành văn hóa chính trị truyền thống việt nam.
• Khái niêm văn hóa :
Văn hóa chính trị là 1 bộ phận hữu cơ của văn hóa nói chug. Vì vậy để hiểu
được văn hóa chính trị trước hết cần có 1 quan niệm thống nhất về văn hóa.
Văn hóa là một khái niệm phức tạp và đa nghĩa, gắn liền con người với đời sống
Xh loài người. từ lâu vh đã trở thành lĩnh vực n/c của nhiều ngành khoa học. Hiện
nay đã và đang tồn tại nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa.
Hiện nay nhiều nhà n/c của VN và tg sử dụng khái niệm văn hóa of unessco: Theo
nghĩa rộng thì “Văn hóa là một phức hệ- tổng hợp các đặc trưng diện mạo về tinh
thần, vật chất, tri thức và tình cảm… khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng gia
đình, xóm làng, vùng, miền, quốc gia, xã hội… Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ
thuật, văn chương mà còn cả lối sống, những quyền cơ bản của con người, những
hệ thống giá trị, những truyền thống, tín ngưỡng…
còn hiểu theo nghĩa hẹp thì “Văn hóa là tổng thể những hệ thống biểu trưng (ký
hiệu) chi phối cách ứng xử và giao tiếp trong cộng đồng, khiến cộng đồng đó có
đặc thù riêng”
• tóm lại văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất lẫn tinh thân do con người
tạo ra trong qua trình lao động (từ lao động trí óc đến lao động chân tay),
được chi phối bởi môi trường xung quanh.
• Văn hóa chính trị là một bộ phận, một phương diện trong XH có giai cấp.
Văn hóa chính trị là sự thẩm thấu, xâm nhập vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau
giữa văn hóa với chính trị, giữa chính trị với văn hóa.
 Cơ sở hình thành văn hóa chính trị truyền thống việt nam.
• Địa lí tự nhiên:
- việt nam có vị trí địa lí quan trọng là nơi giao thoa của nhiều nền văn hóa
(văn minh trung hoa, văn minh ấn hằng…)
Có khi hậu nhiệt đới gió mùa, là xứ nóng có nhiều hệ thống sông ngòi dày đặc,
mưa nhiều đó chính là điều kiện thuận lợi để phát triển nền văn minh lúa nước.
Điều kiện tự nhiên (nhiệt, ẩm, gió mùa, sông nước, nông nghiệp trồng lúa nước...)
đã tác động không nhỏ đến đời sống văn hoá vật chất và tinh thần của dân tộc, đến


tính cách, tâm lý con người Việt Nam.
- Xã hội nông nghiệp có đặc trưng là tính cộng đồng làng xã với nhiều tàn dư
nguyên thuỷ kéo dài đã tạo ra tính cách đặc thù của con người Việt Nam. Đó
1


là một lối tư duy lưỡng hợp , một cách tư duy cụ thể, thiên về kinh nghiệm
cảm tính hơn là duy lý, ưa hình tượng hơn khái niệm, nhưng uyển chuyển
linh hoạt, dễ dung hợp, dễ thích nghi. Đó là một lối sống nặng tình nghĩa,
đoàn kết gắn bó với họ hàng, làng nước (vì nước mất nhà tan, lụt thì lút cả
làng). Đó là một cách hành động theo xu hướng giải quyết dung hoà, quân
bình, dựa dẫm các mối quan hệ, đồng thời cũng khôn khéo giỏi ứng biến đã
từng nhiều lần biết lấy nhu thắng cương, lấy yếu chống mạnh trong lịch sử.
Tuy nhiên điều kiện xã hội và lịch sử lại là những yếu tố chi phối rất lớn đến văn
hoá và tâm lý dân tộc. Cho nên cùng là cư dân vùng trồng lúa nước, vẫn có những
điểm khác biệt về văn hoá giữa Việt Nam với Thái Lan, Lào, Indonesia, Ấn Độ
v.v... Cùng cội nguồn văn hoá Đông Nam á, nhưng do sự thống trị lâu dài của nhà
Hán, cùng với việc áp đặt văn hoá Hán, nền văn hoá Việt Nam đã biến đổi theo
hướng mang thêm các đặc điểm văn hoá Đông Á.
-

Nhân sinh quan, vũ trụ quan:
Lúc đầu chỉ là những yếu tố tự nhiên nguyên thuỷ thô sơ về duy vật và biện
chứng, tư tưởng người Việt trộn lẫn với tín ngưỡng. Tuy nhiên, xuất phát từ
gốc văn hóa nông nghiệp, khác với gốc văn hoá du mục ở chỗ trọng tĩnh hơn
động, lại có liên quan nhiều với các hiện tượng tự nhiên, tư tưởng triết học
Việt Nam đặc biệt chú tâm đến các mối quan hệ mà sản phẩm điển hình là
thuyết âm dương ngũ hành và biểu hiện cụ thể rõ nhất là lối sống quân bình
hướng tới sự hài hoà.




Nền văn hóa rất riêng biệt:

Tín ngưỡng dân gian Việt Nam từ cổ xưa đã bao hàm:
Tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên và tín ngưỡng sùng bái con
người. Con người cần sinh sôi, mùa màng cần tươi tốt để duy trì và phát triển sự
sống, nên đã nảy sinh tín ngưỡng phồn thực. ở Việt Nam, tín ngưỡng đó tồn tại lâu
dài, dưới hai dạng biểu hiện: thờ sinh thực khí nam và nữ (khác với ấn Độ chỉ thờ
sinh thực khí nam) và thờ cả hành vi giao phối (người và thú, ngay ở Đông Nam á
cũng ít có dân tộc thờ việc này). Dấu tích trên còn để lại ở nhiều di vật tượng và
chân cột đá, trong trang trí các nhà mồ Tây Nguyên, trong một số phong tục và
điệu múa, rõ nhất là ở hình dáng và hoa văn các trống đồng cổ.

2


Tôn giáo: phật giáo được du nhập từ ấn độ qua đường biển(tiểu thừa), nho giáo du
nhập từ trung quốc từ thời bắc thuộc. đạo giáo Đạo giáo thâm nhập vào Việt Nam
khoảng cuối thế kỉ 2. Do thuyết vô vi mang tư tưởng phản kháng bọn thống trị, nó
được người dân dùng làm vũ khí chống phong kiến phương Bắc. Ki-tô giáo đến
Việt Nam vào thế kỉ 17.

Các tôn giáo bên ngoài du nhập vào Việt Nam không làm mất đi tín ngưỡng dân
gian bản địa mà hoà quyện vào nhau làm cho cả hai phía đều có những biến thái
nhất định. Ví dụ Nho giáo không hạ thấp được vai trò người phụ nữ, việc thờ Mẫu
ở Việt Nam rất thịnh hành. Tính đa thần, dân chủ, cộng đồng được thể hiện ở việc
thờ tập thể gia tiên, thờ nhiều cặp thần thánh, vào một ngôi chùa thấy không chỉ
thờ Phật mà thờ cả nhiều vị khác, thấn linh có mà người thật cũng có. Và có lẽ chỉ
ở Việt Nam mới có chuyện con cóc kiện cả ông Trời, cũng như môtíp người lấy

tiên trong các chuyện cổ tích. Đây chính là những nét riêng của tín ngưỡng Việt
Nam.
• Điều kiện lịch sử:
Dân tộc Việt Nam hình thành sớm và luôn luôn phải làm các cuộc chiến tranh
giữ nước, từ đó tạo nên một đặc trưng văn hoá nổi bật: tư tưởng yêu nước thấm sâu
và bao trùm mọi lĩnh vực. Các yếu tố cộng đồng có nguồn gốc nguyên thuỷ đã sớm
được cố kết lại, trở thành cơ sở phát triển chủ nghĩa yêu nước và ý thức dân tộc.
Chiến tranh liên miên, đó cũng là lý do chủ yếu khiến cho lịch sử phát triển xã hội
Việt Nam có tính bất thường, tất cả các kết cấu kinh tế - xã hội thường bị chiến
tranh làm gián đoạn, khó đạt đến điểm đỉnh của sự phát triển chín muồi. Cũng vì
chiến tranh phá hoại, Việt Nam ít có được những công trình văn hoá-nghệ thuật đồ
sộ, hoặc nếu có cũng không bảo tồn được nguyên vẹn.
Cũng vì lịch sử đấu tranh bảo vệ giữ nước từ cổ chí kim đã hình thành nên chủ
nghĩa yêu nước_một truyền thống quý báo của dân tộc việt nam.
• Con người:
Việt Nam gồm 54 dân tộc cùng chung sống trên lãnh thổ, mỗi dân tộc một sắc
thái riêng, cho nên văn hoá Việt Nam là một sự thống nhất trong đa dạng. Ngoài
văn hoá Việt - Mường mang tính tiêu biểu, còn có các nhóm văn hoá đặc sắc khác
như Tày - Nùng, Thái, Chàm, Hoa - Ngái, Môn - Khơme, H’Mông - Dao, nhất là

3


văn hoá các dân tộc Tây Nguyên giữ được những truyền thống khá phong phú và
toàn diện cuả một xã hội thuần nông nghiệp gắn bó với rừng núi tự nhiên.
 Những văn hóa chính trị truyền thống việt nam.
 Chủ nghĩa yêu nước:
Khái niệm: Tinh thần yêu nước được bắt nguồn từ những tình cảm bình dị, đơn sơ
của mỗi người dân. Tình cảm đó, mới đầu, chỉ là sự quan tâm đến những người
thân yêu ruột. thịt, rồi đến xóm làng, sau đó phát triển cao thành tình yêu Tổ quốc.

Tình yêu đất nước không phải là tình cảm bẩm sinh, mà là sản phẩm của sự phát
triển lịch sử, gắn liền với một đất nước nhất định.
Yêu nước là hành vi tích cực của con người đối với quê hương đất nước , đối
với nơi chôn rau cắt rốn. có lòng căm thù giặc sâu sắc, BV chủ quyền quốc gia, yêu
que hương đất nước, tham gia hội nhập kt quốc tế 1 cách công bằng.
Đối với dân tộc Việt Nam, lòng yêu nước không chỉ là một tình cảm tự
nhiên, mà nó còn là sản phẩm của lịch sử từ chính đau thương của dân tộc Việt
Nam. Lịch sứ mấy nghìn năm của dân tộc Việt Nam là lịch sử đất tranh giành lại và
bảo vệ nền độc lập tử tay kẻ thù xâm lược trên 12 thế kỷ. Chính vì vậy mà tinh
thần yêu nước đã ngầm sâu vào tình cảm, vào tư tưởng của mỗi người dân Việt
Nam qua tất cả các thời kì giúp cho dân tộc đánh thắng hết kẻ thù này đến kẻ thù
khác cho dù chúng có hùng mạnh đến đâu.
Hình thành từ sớm, lại được thử thách, khẳng định qua bao nhiêu thăng trầm
của lịch sử, được bổ sung, phát triển qua từng thời kỳ, theo yêu cầu phát triển của
dân tộc và thời đại, tinh thần yêu nước đó trở thành chủ nghĩa yêu nước, trở thành
một trong những giá trị truyền thống cao quý nhất, bền vững nhất của dân tộc ta.
 Lấy dân làm gốc.
Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc đã khẳng
định ở bất kỳ thời kỳ nào nếu tranh thủ được sự đồng thuận từ dân, dân ấm no thì
nước mới bền vững. Và bài học "Lấy dân làm gốc" tiếp tục được minh chứng trong
suốt quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng ta, là cơ sở, niềm tin để giành mọi
thắng lợi.
 Lòng khoan dung độ lượng.
Đối với dân tộc Việt Nam, tinh thần và thái độ khoan dung đã hình thành từ rất
sớm và thể hiện trong sinh hoạt cộng đồng, trong cách ứng xử, trong quan hệ bang
giao với các nước, trong việc tiếp thu những tinh hoa văn hóa của các dân tộc khác.
Ở phương diện đạo đức hay sinh hoạt tôn giáo, quần chúng nhân dân đôi khi chủ
động đón nhận cái mới (chứ không chỉ thụ động chờ đợi tín hiệu từ nhà cầm
4



quyền), sàng lọc và cải biến cho phù hợp với đạo đức, lối sống, phong tục tập quán
của mình; đồng thời, sẵn sàng, bằng cách này hay cách khác, phản ứng các chuẩn
mực đạo đức, các tiêu chí chính trị có tính áp đặt, cứng nhắc của ngoại bang.
Có thể tìm thấy bằng chứng sinh động của thái độ khoan dung này trong quá
trình người Việt tiếp cận Nho giáo và Phật giáo.
Trong thời trung đại, tinh thần đó thể hiện ở tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn
Trãi và về sau, trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, tinh
thần ấy được thể hiện, phát huy và nâng lên một chất lượng mới ở tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh. Ngày nay, Đảng ta đã tiếp tục phát huy truyền thống khoan dung
Việt Nam mà đỉnh cao là tư tưởng khoan dung Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi
mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Kết luận:
Văn hóa chính trị truyền thống việt nam được hình thành bởi nhiều yếu tố có cả
yếu tố tự nhiên lẫn yếu tố xã hội. điệu kiện địa lí tự nhiên, khí hậu đã tạo nên ở việt
nam có nền văn minh lúa nước, giao thoa tiếp xúc với các nền văn hóa. Tạo nên
nên văn hóa riêng biệt mà đặc sắc của dân tộc việt nam. văn hóa của những cư dân
trồng lúa nước.
Xã hội nông nghiệp mang tính cộng đồng, tình nghĩa đồng bào, và nó mang tính
dân chủ khác với xh tây phương chú trọng chủ nghĩa cá nhân
Là đất nước với 54 dân tộc cùng chug sống trên lãnh thổ việt nam. mỗi dân tộc
đều có nét văn hóa riêng những lại thống nhất trong đa dạng.
Điều kiện lịch sử xuyên suốt từ thời lập quốc cho đến xây đất nước nhân dân ta
luôn phải đối đầu với sự khắc nghiệt của tự nhiên và mỗi đe dọa ngoại xâm. Trong
xuốt quá trình dựng nước và giữ nước đã hình thành nên chủ nghĩa yêu nước, lấy
dân làm gốc và lòng khoan dung và độ lượng trở thành những truyền thống quý
báu của dân tộc ta. Đó cũng chính là cơ sở để hình thành văn hóa chính truyền
thống việt nam.
Câu 2: phân tích cơ sở kinh tế của hệ thống chính trị việt nam.

Hệ thống chính trị là gì?
Trong mọi xã hội có giai cấp, quyền lực của giai cấp cầm quyền được thực hiện
bằng một hệ thống thiết chế và tổ chức chính trị nhất định. Đó là hệ thống chính trị.
Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị hợp pháp trong xã hội,
-

5


bao gồm các đảng chính trị, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội được liên
kết với nhau trong một hệ thống tổ chức, nhằm tác động vào các quá trình của đời
sống xã hội; củng cố, duy trì và phát triển chế độ chính trị phù hợp với lợi ích của
giai cấp cầm quyền. Hệ thống chính trị xuất hiện cùng với sự thống trị của giai cấp,
nhà nước nhằm thực hiện đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền. Do đó, hệ
thống chính trị mang bản chất giai cấp. Trong chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân
và nhân dân lao động là chủ thể thực sự của quyền lực, tự mình tổ chức và quản lý
xã hội, quyết định nội dung hoạt động của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam
và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp khác được thành lập, hoạt dộng trên cơ
sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và dội ngũ trí thức,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện và bảo đảm quyền làm
chủ đầy đủ của nhân dân.
- Hệ thống chính trị Việt Nam như thế nào?
Mang tính nhất nguyên chính trị; tính thống nhất; Gắn bó mật thiết với nhân
dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân; Sự kết hợp giữa tính giai cấp và
tính dân tộc của hệ thống chính trị là phương thức thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân,

Chính vì những đặc điểm của hệ thống chính trị Việt Nam mang tính đặc điểm
của 1 hệ thống chính trị chuyên chính vô sản nên cơ sở kinh tế của hệ thống
chính trị Việt Nam mang bản chất chuyên chính vô sản.

Trước thời kỳ đổi mới, cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta là cơ chế kế hoạch hóa tập
trung với những đặc điểm chủ yếu là:
Thứ nhất, nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính. Các
doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Tất cả phương hướng sản xuất, nguồn
vật tư, tiền vốn, định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền lương… đều do
các cấp có thẩm quyền quyết định. Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch, cấp phát vốn,

6


vật tư cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho Nhà nước. Lỗ thì
Nhà nước bù, lãi thì Nhà nước thu.
Thứ hai, các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh
doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất đối
với các quyết định của mình. Những thiệt hại vật chất do các quyết định không
đúng gây ra thì ngân sách Nhà nước phải gánh chịu.
Thứ ba, quan hệ hàng hóa – tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là
chủ yếu. Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ “cấp phát – giao nộp”. Hạch
toán kinh tế chỉ là hình thức.
Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém năng động vừa
sinh ra đội ngũ quản lý kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu.
Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức chủ yếu sau:
+ Bao cấp qua giá:
+ Bao cấp qua chế độ tem phiếu (tiền lương hiện vật
+ Bao cấp qua chế độ cấp phát vốn của ngân sách, nhưng không có chế tài ràng

buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn.

Trong thời kỳ kinh tế còn tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng thì cơ chế này
có tác dụng nhất định, nó cho phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế vào
mục đích chủ yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể, đặc biệt trong quá
trình công nghiệp hóa theo xu hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng.
Nhưng nó lại thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học – công nghệ, triệt
tiêu động lực kinh tế đối với người lao động, không kích thích tính năng động,
sáng tạo của các đơn vị sản xuất, kinh doanh. Khi nền kinh tế thế giới chuyển
sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu dựa trên cơ sở áp dụng các thành tựu của
cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại thì cơ chế quản lý này càng bộc lộ

7


những khiếm khuyết của nó, làm cho kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa trước đây,
trong đó có nước ta, lâm vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng.

Trước đổi mới, do chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường,
chúng ta xem kế hoạch hóa là đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế xã hội chủ
nghĩa, phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu; coi thị trường chỉ là một
công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch. Không thừa nhận trên thực tế sự tồn tại của
nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ, lấy kinh tế quốc doanh và tập
thể là chủ yếu, muốn nhanh chóng xóa sở hữu tư nhân và kinh tế cá thể tư nhân;
xây dựng nền kinh tế khép kín. Nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng.
những ngành công nghiệp nặng như sản xuất máy móc, thiết bị, sản xuất
năng lượng hoặc vận tải hàng không, vận tải hàng hải loại vừa và lớn, xây dựng kết
cấu hạ tầng... cho đến lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm đều do kinh tế nhà nước sở
hữu và độc quyền kinh doanh.
Ngày nay, với tư duy đổi mới và xu hướng toàn cầu hóa đang diên ra Đại hội

IX của Đảng (4-2001) xác định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội.
Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là
bước chuyển quan trọng từ nhận thức kinh tế thị trường như một công cụ, một cơ
chế quản lý, sang coi kinh tế thị trường như một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của sự
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường nghĩa là chịu sự tác động của các quy
luật sản xuất và lưu thông hàng hóa, thông qua sự biến động của giá cả thị trường.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo sự điều tiết của cơ chế thị trường,
lấy sự tồn tại và phát triển của quan hệ hàng hóa, tiền tệ làm cơ sở, là nền kinh tế
hàng hóa đạt đến trình độ xã hội hóa cao và trình độ kỹ thuật cao, trong đó toàn bộ
hay hầu hết yếu tố đầu vào hay đầu ra của nền sản xuất đều phải thông qua thị
trường.
8


Đại hội Đảng lần thứ X xác định nước ta hiện nay có 5 thành phần kinh tế cụ thể
là:
- Kinh tế nhà nước: là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu nhà nước về tư
liệu sản xuất, bao gồm ác doanh nghiệp nhà nước, ngân sách nhà nước, ngân hàng
nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm nhà nước và các tài sản thuộc
sở hữu nhà nước có thể đưa vào vòng chu chuyển kinh tế, trong đó doanh nghiệp
nhà nước là bộ phận nòng cốt.
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước
định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành
phần kinh tế khác cùng phát triển. Các doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí
then chốt, đi đầu trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, nêu gương về
năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật.

- Kinh tế tập thể: là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu tập thể về tư liệu
sản xuất. Bao gồm các cơ sở kinh tế do người lao động tự nguyện góp vốn, cùng
kinh doanh, quản lý theo nguyên tắc tập trung dân chủ, bình đẳng, cùng có lợi.
Kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng mà nòng cốt là hợp tác xã dựa
trên sở hữu của các thành viên và cớ hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao
động, các hộ sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc các thành
phần kinh tế, không giới hạn quy mô và địa bàn, phân phối theo lao động, theo vốn
góp và mức độ tham gia dịch vụ, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách
nhiệm. Kinh tế tập thể cùng với kinh tế nhà nước có vai trò ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
- Kinh tế tư nhân: là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất. Nó bao gồm kinh tế cá thể, tiểu thủ và tư bản tư nhân.
+ Kinh tế cá thể, tiểu chủ: là hình thức dựa trên hình thức tư hữu nhỏ về tư liệu sản
xuất và khả năng lao động của bản thân người lao động và gia đình người sở hữu,
tồn tại chủ yếu dưới hình thức hộ sản xuất kinh doanh. Nó đang có vị trí rất quan
trọng trong nhiều ngành nghề, ở nông thôn và thành thị, có điều kiện phát huy
nhanh và hiệu quả tiềm năng về vốn, sức lao động, tay nghề của từng gia đình,
9


từng người lao động.
+ Kinh tế tư bản tư nhân là hình thức kinh tế dựa trên cơ sở sở hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và sử dụng lao động làm thuê, hình thức tồn tại chủ
yếu là doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần tư
nhân. Hiện nay nó có vai trò đáng kể trong phát triển lực lượng sản xuất, xã hội
hóa sản xuất, giải quyết việc làm, tăng thu nhập.
Kinh tế tư bản nhà nước: là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu hỗn hợp
về tư liệu sản xuất, do kinh tế nhà nước góp vốn với tư nhân tư bản trong và ngoài
nước thông qua các hình thức hợp tác, liên doanh.
- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở

hữu vốn của người và tổ chức nước ngoài được pháp hoạt động tại Việt Nam. Nó
bao gồm những doanh nghiệp được thành lập trên cơ sở vốn đầu tư nước ngoài và
phần vốn đầu tư nước ngoài vào các cơ sở sản xuất kinh doanh ở nước ta thông qua
các hình thức công ty 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh, hợp tác kinh
doanh chuyển giao, hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Văn kiện Đại hội XI của Đảng cũng chỉ rõ: “Nhà nước quản lý nền kinh tế, định
hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bằng pháp luật, chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất”

Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần có
thể được cụ thể hoá trên một số mặt chủ yếu sau:
o Một là, kinh tế nhà nước có tác dụng mở đường cho sự phát triển các

thành phần kinh tế khác.
o Hai là, kinh tế nhà nước nêu gương, tạo động lực cho các doanh

nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác phát triển. Điều này biểu
hiện ở chỗ kinh tế nhà nước và các thành phần kinh tế khác đều bình
đẳng tronh kinh doanh, bình đẳng trong cạnh tranh, nhưng doanh
nghiệp nhà nước đi đầu trong thực hiện pháp luật, chính sách, chế độ,
10


gương mẫu trong việc nộp thuế đã nêu gương và tạo động lực thúc
đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển.
o Ba là, vai trò chủ dạo của kinh tế nhà nước còn đước thể hiện ở vai trò

hợp tác, tạo điều kiện giúp đỡ các thành phần kinh tế khác phát triển.
o Bốn là, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước còn biểu hiện ở chỗ kinh


tế nhà nước tạo nền tảng cho việc xây dựng chế độ xã hội mới- chế độ
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nan. Như vậy, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước nói lên vai trò trung tâm, quyết định xu hướng vận động, phát
triển của nền kinh tế.

với tư duy đổi mới, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, kể cả đầu tư
nước ngoài đều có thể tham gia sản xuất kinh doanh và có thể sở hữu một phần
hoặc toàn bộ tùy theo tính chất và quy mô tư liệu sản xuất mà trước đây hoàn toàn
thuộc về nhà nước. Đảng và Nhà nước bằng luật pháp và chính sách khuyến khích
việc làm này, coi đó là thể hiện phương châm dân chủ trong hoạt động kinh tế, là
phương hướng quan trọng huy động các nguồn lực trong xã hội, của mọi thành
phần kinh tế để phát triển sản xuất kinh doanh, vì "dân giàu nước mạnh". Ngày
nay, các thành phần kinh tế đã được thừa nhận là những bộ phận quan trọng của
nền kinh tế quốc dân. Sự tham gia của các thành phần kinh tế được thực hiện bằng
nhiều con đường, song hình thức phổ biến là cổ phần hóa.

Đường lỗi xd nền kinh tế thị trường định hướng xhcn của Đảng ta đã:
- Chuyển đổi thành công từ thể chế kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu, bao cấp
sang thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Chế độ sở hữu đối với nhiều hình thức và cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được
hình thành.
- Các loại thị trường cơ bản đã ra đời và từng bước phát triển thống nhất trong cả
nước, gắn với thị trường khu vực và thế giới.
- Gắn với việc phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, xóa đói giảm
11


nghèo đạt nhiều kết quả tích cực.
Ý nghĩa: Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã hình thành và
từng bước hoàn thiện, thay cho thể chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp;

tạo ra những tiền đề cần thiết đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển.
(Quan hệ sản xuất: Sự hình thành PTSXXHCN là một quá trình lịch sử quá độ từ
xã hội tư bản chủ nghĩa (hay xã hội thuộc địa nửa phong kiến) lên chủ nghĩa xã
hội. Vì vậy, bên cạnh hình thức sở hữu công cộng xã hội chủ nghĩa, còn tồn tại xen
kẽ những hình thức sở hữu tư nhân. Nhưng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa với
các hình thức sở hữu đa dạng chiếm địa vị chủ đạo, xoá bỏ dần dần những trở ngại
và bảo đảm sự phát triển nhanh lực lượng sản xuất. Sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất quy định mục đích của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa bảo đảm phúc
lợi và sự phát triển toàn diện của các thành viên trong xã hội. Sự phân phối cho
tiêu dùng cá nhân tuỳ thuộc vào số lượng và chất lượng lao động mà mỗi người đã
đóng góp vào nền sản xuất xã hội. Sự phát triển của sản xuất được thực hiện một
cách có kế hoạch trên cơ sở dự đoán khoa học. Trong PTSXXHCN còn sản xuất
hàng hoá, còn thị trường và nền kinh tế còn bị chi phối bởi cơ chế thị trường,
nhưng thị trường mất dần tính tự phát mù quáng như dưới chủ nghĩa tư bản, mà nó
vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch).
Kinh tế Việt Nam được chia thành 3 khu vực (hay còn gọi 3 ngành lớn) kinh tế, đó
là:
1) nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản;
2) công nghiệp (bao gồm công nghiệp khai thác mỏ và khoáng sản, công nghiệp
chế biến, xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất và phân phối khí, điện,
nước);
3) thương mại, dịch vụ, tài chính, du lịch, văn hóa, giáo dục, y tế.
 Kinh tế có vài trò quan trọng đến hình thái, tính chất nội dung của chính

trị.

12



-

Tiềm năng kinh tế của một quốc gia làm tiền đề cho uy tín trong nước và
quan hệ quốc tế của một chính quyền, một đảng và các tổ chức xh. Thật vậy,
nếu có tiêm năng kinh tế thì sẽ là “một miếng đất màu mỡ” cho các nhà kinh
tế trong nước và các nhà đầu tư nươc ngoài vào đầu tư phát triển, cùng với
đó là tầm quốc gia đó trong quan hệ quốc tế được nâng lên đáng kể.

-

Chính trị là tiền đề cho kinh tế vận động và phát triển , chính trị có thể tiên
đoán kinh tế, vạch đường phát triển kinh tế. điều này được thể hiện thông
qua các quyết định của đảng chính trị, của nhà nước. chính trị có thể điều
chỉnh cơ cấu các thành phần kinh tế trong 1 phạm vi 1 quốc gia. Ngoài ra
chính trị có thể tiên đoán kinh tế vì các nhà lãnh đạo quốc gia thì phải có tầm
nhìn xa trông rộng, mà ta gọi là tầm nhìn chiến lược để đưa ra những giải
pháp hiện tại và tương lai để phát triển kinh tế xã hội.

-

Sự ổn định về chính trị là tiền đề, là điều kiện để phát triển kinh tế. Một nền
kinh tế muốn phát triển mạnh mẽ và ổn định đòi hỏi phải có sự ổn định về
chính trị. Ngược lại kinh tế mà phát triển mạng sẽ tác động tích cực đến
chính trị.

Câu 3: quan niệm của anh chị về tư tưởng "dân là gốc"? vai trò và ý nghĩa
của "dân" qua các giai đoạn lịch sử của dân tộc ta.
Dân là gốc trong các truyền thuyết lịch sử?
-


Quan niệm về tư tưởng “dân là gốc”

Tư tưởng coi trọng vị trí, vai trò của dân, coi dân là gốc và lấy dân làm gốc là
một trong những tinh hoa giá trị của chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam và
truyền thống văn hoá nhân loại. Là một quốc gia nhỏ bé, dân thưa, qua hàng nghìn
năm lịch sử luôn luôn phải chống chịu với thiên tai bão lũ và nhất là dã tâm thôn
tính, đồng hoá của các thế lực phong kiến phương Bắc hùng mạnh, Việt Nam muốn
đứng vững và phát triển được thì nhất thiết phải khơi dậy và phát huy được tinh
thần yêu nước, thương nòi, tình cảm cố kết của mỗi người dân, tạo thành sức mạnh
tổng lực. Nói cách khác, thực tiễn lịch sử đã quy định, muốn duy trì sự trường tồn
13


của dân tộc và quyền điều hành đất nước, những người lãnh đạo dân tộc Việt Nam
phải biết dựa vào dân, coi dân là gốc và lấy dân làm gốc. Những luận đề tiến bộ
của Nho giáo như “Dân là gốc của nước nhà, gốc vững thì nước mới yên” (Dân vi
bang bản, bản cố bang ninh), “Cái gì mà dân muốn thì trời cũng phải thuận theo”
(Dân chi sở dục, thiên tất tòng chi), “Dân là quan trọng, xã tắc tiếp sau, vua chỉ coi
nhẹ” (Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh) … đã được ông cha ta tiếp thu và
ứng dụng trong phép chống giặc, đạo trị quốc. Trần Hưng Đạo trước khi qua đời đã
dặn lại Vua Trần Anh Tông “khoan thư sức dân làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng
sách để giữ nước”. Nguyễn Trãi chỉ rõ hơn “chở thuyền và lật thuyền cũng là dân”,
“Lật thuyền mới biết dân như nước”, …. Đó đều là những nhà tư tưởng kiệt xuất
của dân tộc đã nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của nhân dân trong sự tồn vong, lẽ
thịnh suy của quốc gia, dân tộc.
Trong các triều đại phong kiến, thuận theo “mệnh trời” và hợp với “ý dân” là hai
yếu tố có sức thuyết phục nhất, thường được viện dẫn nhất để bảo đảm cho sự
“chính danh” và bền lâu của một vương triều, đồng thời cũng là chỗ dựa, giải thích
cho các quyết định quan trọng như thay đổi ngôi vua, dời đô, chiến tranh .... Bởi
vậy, các vương triều tiến bộ luôn chú trọng đến các chính sách kinh tế xã hội để

yên lòng dân và được lòng dân.
Kế thừa nét đẹp truyền thống dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại, Hồ Chí Minh
đặc biệt coi trọng vị trí, vai trò của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng của dân
tộc. Chính vì nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò gốc rễ của quần chúng nhân dân mà
sau khi được ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười Nga soi đường và có “cẩm
nang thần kỳ” là chủ nghĩa Lênin chỉ dẫn, Người đã khẳng định “Đối với tôi, câu
trả lời đã rõ ràng” và nóng lòng được “trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh
họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc
lập”4
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn luôn quán triệt
sâu sắc trong tư duy và hành động bài học dân là gốc và lấy dân làm gốc của người
xưa. Người khẳng định nước lấy dân làm gốc và sự ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân
là nguồn gốc, nền móng mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng:
“Nước lấy dân làm gốc.
14


Gốc có vững cây mới bền,
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”

Hồ Chí Minh đã vượt lên trên các nhà yêu nước trước đó ở khả năng sáng tạo thiên
tài. Trong khi trân trọng hấp thụ, kế thừa truyền thống “trọng dân”, “coi dân là
gốc”, “lấy dân làm gốc” của cha ông, Người đã có những bổ sung, phát triển làm
nên một diện mạo mới, một bản chất mới của quan niệm này.

Với Hồ Chí Minh thì nhân dân có vị trí quý nhất trong bầu trời và là lực
lượng mạnh nhất trong thế giới: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân.
Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân".
Vận dụng quan điểm quần chúng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh khẳng
định, nhân dân là những người sáng tạo ra lịch sử, họ có thể và cần phải nỗ lực chủ

động quyết định vận mệnh của dân tộc, cuộc sống của chính mình theo tinh thần
“Đem sức ta mà tự giải phóng cho ta.
Với Hồ Chí Minh, dựa vào dân, coi dân là gốc và lấy dân làm gốc hoàn toàn không
phải là một khẩu hiệu, một “nghệ thuật” chính trị, mà đó là một chiến lược cách
mạng xuyên suốt trong các thời kỳ, các giai đoạn lịch sử. Người cũng không coi
dân là phương tiện, công cụ để phục vụ riêng lợi ích của Đảng và Nhà nước, mà
xem đây chính là động lực vĩ đại và vĩ đại nhất của cách mạng, là mục đích cao
nhất của Đảng và Nhà nước. “Đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân”
chính là có ý nghĩa như vây.
Dân là gốc rễ, cũng là cán cân của đất nước, hợp lòng dân ý dân thì cân bằng,
giang sơn không nghiêng ngả. Nhân dân chính là chỗ dựa cho Đảng, trí tuệ của
nhân dân là cái mà Đảng có thể dựa vào. Bác Hồ từng nói, Đảng ta là Đảng của cả
dân tộc, trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân... Chúng ta càng thấu hiểu
tầm cao trí tuệ, tư tưởng lấy dân làm gốc, lấy sức dân mà chăm lo cho dân.

15


-

Tư tưởng dân là gốc là 1 giá trị văn hóa chính trị truyền thống. Từ thời dựng
quốc – thời các vua hùng tư tưởng dân là gốc đã bắt đầu tồn tại nó thể hiện
trong các truyền thuyết lịch sử như là sơn tinh- thủy tinh, thánh gióng, sự
tích bánh chưng bánh giầy, sự tích quả dưa hấu…cho đến thời trung đại qua
các tư tưởng của các nhà tư tưởng tiến bộ như của nguyễn trãi, trần hưng
đạo, phan bội châu..đến thời hiện đại hồ chí mình đã kế thừa và phát huy,
sáng tạo làm mới tư tương dân là gốc và trong chính ngày nay dân chính là
động lực, là mục tiêu của các chủ trương chính sách của đảng, của nhà nước.
từ đó có thể khẳng định “dân làm gốc” là 1 giá trị văn hóa chính trị truyền
thống.




Trong các truyền thuyết.

o Không nên giới hạn lịch sử ở công cuộc đấu tranh chống ngoại xâm mà cần

nhìn lịch sử ở những phương diện quan trọng khác như lịch sử văn hoá, lịch
sử xây dựng đất nước. Chính những truyền thuyết Trầu cau, Bánh chưng
bánh dày, Quả dưa đỏ… đã tạo nên những nền tảng lịch sử đầu tiên của dân
tộc. Câu chuyện tình yêu - tình nghĩa trong một gia đình lao động bình dị đã
sáng tạo ra biểu tượng trầu cau trong phong tục hôn nhân và văn hoá giao
tiếp của người Việt. Hoàng tử Lang Liêu không dùng cao lương mỹ vị của
cung đình mà biết tận dụng cơm gạo bình dị của nhân dân để làm nên những
chiếc bánh tượng trưng cho cả đất trời, nhân gian này để dâng vua. An Tiêm
từ chối lộc vua với câu nói bất hủ “của cho là của nợ”, điều mà Nguyễn Trãi
sau này tự răn mình: “lưng khôn uốn, lộc nên từ”. Lao động từ chính bàn tay
của mình và niềm vinh quang mà An Tiêm có quyền được kiêu hãnh hơn là
sống vinh thân phì gia ở cung đình. An tiêm là con nuôi của vùa Hùng như
vậy An Tiêm chẳng khác nào là hoàng tử, lại được vua yêu quý nhưng vi câu
nói “của cho là của nợ” đã bị đầy ra hoang đảo, với 2 bàn tay trắng An Tiêm
đã lao động cất lực như 1 người dân lao động với hi vọng cuốc sống của họ
sẽ tốt hơn. An tiêm chính là người phát hiện ra quả dưa đỏ mà ta gọi là dưa
hấu. phát triển dưa hấu và tìm cách lưu thông vào đất liền nhờ đó mà vua
biết được và cho triệu an tiêm trở về. từ đó ta có thể thấy quần chúng nhân
dân chính là chủ thể tạo ra mọi của cải vật chất đảm bảo sự tồn tại cho sự tồn
tại xh. Đó chính là việc an tiêm tìm ra và phát triển, phổ biến trên cả nước
quả dưa hấu. Và quả dưa hấu trở nên quan trọng trong văn hóa của việt nam.
16



Ngày lễ quan trọng nhất trong năm, tết nguyên đán là phải có dưa hấu. tạo ra
giá trị văn hóa dân tộc, người việt thường đặt dưa hấu lên bàn thờ tổ tiên.
Dưa hấu có màu đỏ, màu của con tim, của tinh yêu, của nhiệt huyết, của cả tấm
lòng trung can tiết nghĩa. Mấy trái cây Việt Nam có bên trong đẹp hồng như dưa
hấu? Không những chỉ có màu sắc, mà còn ngọt ngào mát mẻ. Nghĩa là đẹp cả
hình thức lẫn nội dung.
Như vậy, dưa hấu là biểu tượng của con người tâm huyết trung nghĩa vẹn toàn.
Nhưng con người đó âm thầm khiêm tốn, không hề tỏ lộ tấm lòng ra ngoài bao giờ.
Khi người khác bổ ra, tìm hiểu lòng mình, họ mới thổ lộ chân tình.
Xanh vỏ, đỏ lòng.
Chính vì biểu tượng trung nghĩa âm thầm đó, mà dân Việt Nam say mê ưa chuộng
quả dưa hấu, và dưa hấu được dùng đến trong mỗi đầu năm. Dân Việt Nam ưa
chuộng thầm lặng và khiêm tốn trong lòng. Như vậy, dân Việt ta vì yêu chuộng
thầm lặng khiêm tốn mà thành ra yêu chuộng dưa hấu, và đưa dưa hấu lên hàng
đầu trong văn hóa Việt Nam.
Ngoài ra việc an tiêm bị đầy ra đảo sinh sống cũng chính là thể hiện chủ quyền
biển đảo của việt nam.
o Thánh gióng

Quan điểm quần chúng thể hiện sâu sắc nhất ở một số truyền thuyết lớn ở
Việt Nam. Đó là những truyền thuyết đánh giặc giữ nước. Chiến tranh xâm lược
làm cho lịch sử đất nước này trải qua bao đau thương, gánh nặng lịch sử bao giờ
cũng đè lên sự sống của quần chúng. Không phải ngẫu nhiên mà trong truyền
thuyết Thánh Gióng, khi đất nước lâm nguy, không thấy quan lại nào đứng ra
gánh vác mà sứ mệnh lịch sử lại đặt lên vai một đứa bé chưa biết nói cười.
Không biết ai đã lập nên cái đền thờ Phù Đổng với cách gọi Thiên Vương hay
Thiên Tử cho Gióng. Trong truyền thuyết, nguồn gốc và cả cái tên Gióng rất
dân dã. Sự xuất hiện của bàn chân khổng lồ trên đồng ruộng không phải xác lập
cái ngôi thiên tử cho Gióng mà chỉ là một biểu tượng cho sự hoà hợp giữa đất

và trời, giữa thần linh và người mẹ nông dân đã cho ra đời một anh hùng quần
17


chúng. Gióng thầm lặng như cái bản nhiên của người lao động, chỉ nói một câu
“xin đi đánh giặc”. “Gióng ăn ba nong cơm bảy nong cà” với bao công sức gom
góp từ quần chúng. Gióng đánh giặc xong bay về trời. Về trời không chỉ mang
nghĩa là về với cõi bất tử mà còn mang nghĩa về với cõi hư không. Cả đánh giặc
lẫn bay về trời đều nhằm mục đích tránh hiểm hoạ cho dân. Bởi cái to lớn
khổng lồ của Gióng là cái hùng, cái cao cả của thời chiến nhưng cũng có thể là
cái bi hay cái hài khi cuộc chiến đã đi qua, theo cách nói của Mac. Gióng là lẽ
sống hồn nhiên vô tư của người lao động. Cái “hoang đường” trong truyền
thuyết chẳng bao giờ là hoang đường mà luôn đứng trên đôi chân của hiện thực.
Ngay từ những lời đầu khi nhắc tới Gióng, truyện đã toát lên được một vẻ
đẹp hào hùng, kỳ lạ: Cha Gióng là ông thần Khổng Lồ. Ông Khổng Lồ này đi hái
cà trong cơn lốc, để lại dấu chân trong vườn cà, để rồi mẹ nó đặt chân lên dấu mà
thụ thai sinh ra nó – một đứa bé không tên ở làng Gióng. Đứa trẻ này không tên vì
nó là mọi người. Cha nó là một ông Khổng Lồ - một ông Khổng Lồ rất dân giã khi
ra đồng hái cà để ăn. Như vậy, đứa bé là con của một dân tộc vĩ đại.
Những gì xảy ra tiếp theo lại càng lạ lẫm và thú vị hơn: Đứa trẻ làng Gióng
sinh ra đã mấy năm rồi mà cứ nằm trong nôi, không nói không cười. Nhưng khi sứ
giả Hùng Vương thứ sáu đi truyền rao cần nhân tài cứu nước, đánh giặc Ân thì đứa
bé liền thông cảm và biết nói, lời nói đẩu tiên của nó là xin tình nguyện ra đi đánh
giặc, bảo vệ quê hương. Như vậy, lòng yêu nước của Gióng đã được ủ sẵn từ rất
sớm mà có lẽ không phải từ khi mới sinh ra mới có mà là từ trước khi sinh, khi còn
nằm trong bụng mẹ, khi được nghe những lời mẹ ru, khi được nghe bằng đôi tai,
nhìn bằng cặp mắt,… của mẹ,… Và lòng yêu nước này cứ lớn dần, lớn dần lên khi
con người ta ngày một trưởng thành.
Và thế là, đứa bé mới ngày nào còn nằm trong nôi, hôm nay đã lãnh trọng
trách đánh giặc. Khi lãnh trọng trách đánh giặc, cứu nước thì vừa vươn vai một cái,

nó đã hóa thành một ông Khổng Lồ, to lớn và khỏe mạnh phi thường. Thế là dân
làng đem cà mắm thật nhiều, Gióng ăn cà mắm lại càng lớn mạnh hơn nữa, có sức
nhổ cả một bụi tre để làm vũ khí đánh giặc. Lột cái dáng vẻ thần thoại ra thì ta có
thể nhận thấy ngay rằng, sức mạnh này là sức mạnh của toàn dân, sức mạnh của
lòng người – của lòng yêu nước – một sức mạnh lớn lao, phi thường đang lớn lên
cực kỳ nhanh chóng mà không gì, không một thế lưc hắc ám nào có thể đánh bại.
Và tư tưởng “toàn dân chung sức, đồng lòng đánh giặc” và cũng là một lối đánh
truyền thống nhưng không bao giờ lỗi thời qua thời gian, năm tháng đã được thể
18


hiện rất rõ tại đây. Mỗi con người đất Việt tuy bình thường trông có vẻ nhỏ bé
nhưng đến khi đất nước lâm nguy thì đều trở nên vĩ đại, phi thường, đều đóng một
vai trò quan trọng trong công cuộc bảo vệ đất nước. Chắc hẳn nhân dân sáng tác và
trau dồi truyện thánh Gióng muốn nói rằng dân tộc ta một khi đứng trước một
nhiệm vụ lịch sử nặng nề, tưởng chừng như quá sức gánh vác của mình, thì, bởi
sẵn lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần quả cảm, lạc quan, biết chung sức với nhau
và có nhiều mưu trí và sáng tạo mà vươn lên mau chóng cho kịp nhiệm vụ được
giao. Thật vậy, suốt mấy ngàn năm sau, Văn Lang, Âu Lạc đã dám đánh thắng và
thắng những kẻ xâm lược lớn mạnh hơn mình gấp mấy chục lần.
Về thực tế, khi giặc tan thì Gióng cũng đã bị thương rất nặng, chạy vào rừng
và hy sinh nhưng nhân dân quyết không để cho Gióng chết mà đã sáng tạo ra hình
ảnh vị anh hùng làng Gióng không về triều lĩnh thưởng mà giục ngựa lên núi Sóc,
về trời, hẹn khi nào đất nước lâm nguy thì sẽ trở lại giúp dân đánh quân xâm lược.
Hình ảnh này có hai ý nghĩa chính:
Ý nghĩa thứ nhất: truyện muốn ca ngợi một chủ nghĩa yêu nước hoàn toàn
trong trắng không một hạt bụi danh vị hay một chút tư lợi cá nhân, ca ngợi một
tinh thần phục vụ vô điều kiện cho Tổ quốc, cho đồng bào. Ngoài ra, đứng trên
phương diện nhân vật Gióng, ta cũng có thể cảm nhận được một góc khác trong
tấm lòng của người anh hùng mà sâu xa hơn là chính mỗi người dân xứ sở: bảo vệ

đất nước là trách nhiệm, là bổn phận của mỗi người dân và độc lập, tự chủ chính là
phần thưởng lớn nhất, cao quý nhất mà không ai có thể ban cho ngoài chính bản
thân mỗi người. Sau này, khi nói: “cứu nước, cứu dân trước”, “Tổ quốc trên hết”,
“Tôi chỉ có một ước muốn, một ý muốn tột bậc, là giải phóng nước nhà, làm cho
dân ấm no hạnh phúc”,… thì tư tưởng này đã có sẵn trong truyện Thánh Gióng
ngàn xưa rồi.
Ý nghĩa thứ hai: điều này thể hiện tinh thần lạc quan của dân tộc: Việc ông
thánh hy sinh cũng đồng nghĩa với sự thực là nhiều người anh hùng đã ngã xuống
cho độc lập, tự do của nước nhà, với những mất mát đau thương trong các quá
trình bảo vệ đất nước. Thế nhưng, ai ai cũng biết rằng chìm đắm trong đau buồn,
xót xa không làm cho Tồ quốc thêm giàu mạnh nên đã tạo ra hình ảnh đẹp đẽ, cao
quý này và rồi Thánh Gióng đã trở thành bất tử trong tâm thức người Việt (một
trong tứ bất tử), được muôn đời thờ phụng. Đi khắp cùng trung châu đều có dấu vết
của bước chân, vó ngựa Thánh Gióng: Làng Mát: Kể chuyện Gióng dừng chân
uống nước rồi đổi tên làng từ Kẻ Khó, sang Kẻ Mát; Làng Mã; Kể chuyện Gióng
dừng ngựa nên làng có tên làng Mã; …
19


Vậy đó, tư tưởng yêu nước đã được toát lên trên toàn bộ truyện, đẹp trong
từng chi tiết. Tuy nhiên, lòng yêu nước không chỉ được thể hiện trong câu chuyện
mà còn được thể hiện một cách rõ nét ngay từ quá trình sáng tác: Truyện thuộc thể
loại văn học truyền miệng. Truyền miệng mà đẹp được như vậy thì quả là kỳ tài.
Mà kỳ tài ở đây không chỉ ở một người mà là ở cả dân tộc, khi mà mỗi con người
xứ sở - ai cũng muốn góp mình xây dựng một bản hùng ca vĩ đại nên đã trau dồi,
gọt đẽo câu chuyện qua mỗi lời kể truyền miệng của mình để rồi qua thời gian,
truyện càng trở nên đẹp hơn, ý nghĩa hơn, phản ánh tình cảm và ý thức của cả dân
tộc.
Nếu so với các nước khác, đặc biệt là những nước vốn nổi tiếng về thể loại
thần thoại như Hy Lạp, Ấn Độ thì quả thực chúng ta không thể nói chúng ta có nền

văn học thần thoại đặc sắc, phong phú nhưng thần thoại của chúng ta lại đặc sắc ở
chính là nét đẹp của chủ nghĩa yêu nước được khắc họa nên trên nền văn học thần
thoại để ca ngợi và truyền lại cho con cháu mai sau truyền thống, nét đặc sắc trong
tinh thần, cách lối dựng nước và giữ nước của mình và cũng chính vì có lòng cốt là
tinh thần yêu nước mà truyện đã trở thành truyện hay nhất, ý nghĩa nhất trong nền
văn học yêu nước của dân tộc, là một câu chuyện sống mãi với thời gian, mang
tính nhân văn và giáo dục sâu sắc với Gióng là hiện thân của nhân dân kháng chiến
anh hùng, tập trung các đức tính của cả dân tộc: yêu nước thiết tha, vì nước quên
mình, anh dũng tuyệt vời, trí tuệ sáng suốt.
o Sơn tinh thủy tinh
Với hai nhân vật chính của là Sơn Tinh – đại diện cho núi rừng, con người và
Thủy Tinh – đại diện cho nước lũ, câu chuyện đã phản ánh và lý giải hiện tượng lụt
bão diễn ra hằng năm ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ, lãnh thổ chủ yếu của nước
Văn Lang cổ đại, tiền thần của nước Việt Nam bây giờ cũng như thái độ, tình cảm
của con người với các hiện tượng và thế lực tự nhiên: núi rừng và lũ lụt.
Sơn Tinh, về mặt tự nhiên thì tượng cho núi rừng. Núi rừng chẳng những đã
cung cấp đồ ăn, vật dụng hằng ngày cho người Việt cổ mà còn giúp họ thoát chết
khi lũ lụt lên cao. Đồng thời, nhân vật Sơn Tinh cũng biểu trưng cho con người
nước Văn Lang hiền lành, chân chất, chăm chỉ lao động, làm ăn thời bấy giờ. Do
đó mà trong truyện, Sơn Tinh được miêu tả như một vị thánh hiền hòa, tài ba.
Trái lại, Thủy Tinh lại đại diện cho thiên tai, bão lũ, gây hại đến đời sống
nhân dân – những tai họa khủng khiếp hàng đầu, đáng sợ nhất trong bốn thứ tai
20


họa lớn: "Thủy, hỏa, đạo, tặc" khi mà thời đó, chúng ta chưa có đủ điều kiện và
phương tiện trị thủy nên được miêu tả như một vị thần cũng rất tài giỏi nhưng lại
có vẻ bề ngoài hung dữ, đáng sợ.
Do đó, Hùng Vương có cảm tình với Sơn Tinh hơn. Thế nhưng việc từ chối
việc cầu hôn của Thủy Tinh đâu phải dễ. Và xét lại thì vào giai đoạn cuối cùng này

của nước Văn Lang, việc hôn nhân, cưới hỏi đã có quy củ, nền nếp, có lệ luật hẳn
hoi và trong các tục thì có tục thách cưới có thể tạo điều kiện cho người ta lựa chọn
chàng rể theo ý muốn. Do đó mà sau khi Hùng Vương cùng các Lạc Hầu bàn bạc
thì một cuộc thách đố đã được đặt ra với với điều kiện thách cưới thì mọi thứ
dường như có vẻ nghiêng về phía Sơn Tinh: voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín
hồng mao đều là những sản vật của rừng núi – quê hương của Sơn Tinh.
Kết quả là Sơn Tinh đến sớm hơn và cưới được công chúa. Thủy Tinh đến
chậm một bước, không cưới được vợ thì tức giận và đuổi đánh Sơn Tinh. Trong
truyện này, Sơn Tinh không hề có lỗi, rõ ràng, mọi thứ là do Vua Hùng đã có ý
muốn gả con gái cho thần thế nhưng Thủy Tinh không dám trách cứ gì vua. Điều
này có thể được lý giải bởi Sơn Tinh là thần núi nhưng không phải thần núi nói
chung mà là thần núi Tản Viên, Thủy Tinh là thần nước, nhưng cũng không phải
thần Nước nói chung hay nói cách khác, đó là thần núi và thần nước trên lãnh thổ
nước Văn Lang nên cả hai đều thần phục, tôn kính vua.
Thủy Tinh vẫn cứ muốn đòi bằng được công chúa từ tay Sơn Tinh và cơn
giận lưu niên "năm năm báo oán, đời đời đánh ghen" của Thủy Tinh là sự phản ánh
và lý giải vô cùng độc đáo, tài tình, hiện tượng bão lụt hằng năm (mang tính chu
kỳ) của thiên nhiên.
Thế nhưng, con người vẫn luôn giữ thế chủ động, Thủy Tinh dâng nước cao
lên bao nhiêu, Sơn Tinh cũng nâng núi Tản Viên cao lên bấy nhiêu. Đó thật là một
hình ảnh độc đáo và cũng ít nhiều thể hiện tính hiện thực: trừ nạn hồng thủy ra,
không có trận lụt nào có thể dâng nước lên cao hơn núi Ba Vì thế nhưng con người
không bị thiên nhiên làm ngã. Nhờ có ý chí, khả năng và thành quả chống bão lụt
của nhân dân thời bấy giờ mà người Việt có thể tồn tại được đến ngày nay.
Đúc kết lại thì có thể nói, chuyện Sơn Tinh, Thuỷ Tinh thể hiện sự sáng tạo,
dũng cảm của nhân dân ta trong quá trình chinh phục và cải tạo thiên nhiên, xây
dựng đất nước.
→ dân làm chủ, dân bảo vệ đất nước, giữ gìn truyền thống dân tộc. qua các truyền
thuyết lịch sử trên ta có thể khẳng định dân chính gốc, là chủ thể tạo ra của cải vật
21



chất cho xh, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng nếu chỉ dựa vào giai cấp thống trị mà k
có dân thi làm sao có thể chiến thắng đc quân xl. Dân tham gia bảo vệ tổ quốc
nhiều hình thức khác nhau trong TT thánh gióng đó chính là dân nuôi, cung cấp
lương thực cho gióng có sức khỏe mà đánh giắc. đó chính là hình ảnh tượng trưng
cho việc dân tăng gia sản xuất cung cấp quân lương nuôi dưỡng quân đội cho nhà
nước… truyện sơn tinh- thủy tinh thể hiện sự đoàn kết của dân chống lại sự khắc
nghiệt của thiên nhiên. Và các giá trị văn hóa do chính dân gìn giữ và truyền lại từ
đời này qua đời khác.
Vài trò của dân trong các giai đoạn lịch sử;
Thuở Hùng Vương dựng nước, sức dân kết đoàn thành một khối mạnh hơn sắt
thép: Thánh Gióng. Truyền thuyết anh hùng kể lại rằng, một thiếu niên khi nước
nhà có giặc, đã vươn mình đứng dậy, nhấc bổng ngàn cân, ăn như rồng cuốn,
đánh tan quân xâm lược. Hình tượng người anh hùng Thánh Gióng là hình
tượng của sức mạnh toàn dân. Vận nước lâm nguy, thế giặc hùng mạnh, nhưng
đã phải thất bại trước sức mạnh tựa thánh thần: sức dân.

Người dân Văn Lang, tiền thân của người dân nước Việt, không chỉ đoàn kết
để thắng thù, mà còn phải đoàn kết “lá lành đùm lá rách”, thương yêu, đùm bọc,
giúp đỡ lẫn nhau lúc thiên tai. Truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh đã dựng lại
hình tượng người anh hùng sức mạnh như khí phách của núi non, bảo vệ người
yêu và cơ đồ của các vua Hùng, chống lại giặc nước - Thủy tặc hoành hành.

Bài học từ chống thiên tai, trụ vững bên biển Đông- thỉnh thoảng lại nổi cơn
thịnh nộ - của người dân đất Việt cũng là bài học từ sức dân.
Từ sức dân, vang vọng tiếng cha ông:

“… Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư…”

22


(Lũ giặc kia cớ sao xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tan tành)
(Nam Quốc Sơn Hà)

Đến: Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần muôn đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương.
Là kết quả từ:
Nhân dân bốn cõi một nhà
Dựng cần trúc, ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử
Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào
(Cáo Bình Ngô - Nguyễn Trãi)

Bài học từ những thất bại trong lịch sử dân tộc cũng từ sức dân. Ba lần thất
bại điển hình phải kể đến đó là bài học từ thất bại của Thục Phán - An Dương
Vương cùng truyền thuyết Cổ Loa thành gắn liền với chiếc nỏ thần bắn một lần
vạn phát. Bí quyết của lẫy nỏ là chiếc móng rùa vàng (Kim Quy thần). Nhờ có
bí quyết - thực chất là lòng dân, yên dân và sức dân, An Dương Vương xây
thành Cổ Loa- kinh đô của nước Âu Lạc, nối tiếp Văn Lang của các Vua Hùng.
Nhờ có bí quyết “lẫy nỏ - vuốt rùa”, An Dương Vương và Âu Lạc đánh tan
quân xâm lược Triệu Đà. Truyền thuyết kể lại thiên tình sử Mỵ Châu - Trọng
Thủy, con gái An Dương Vương và con trai Triệu Đà. Đằng sau chuyện tình là
hai bài học lớn, bài học cảnh giác từ Mỵ Châu “Trái tim lầm chỗ để trên đầu”,
rồi trao bí quyết nỏ thần vào tay Trọng Thủy. Vô tình Mỵ Châu trở thành người
tiếp tay cho gian tế cướp nước là chồng mình. Nhưng bài học thứ hai là bài học
sâu sắc hơn - Bài học lòng dân và sức dân. Nỏ thần là hình tượng của sức dân
được biểu hiện thành sức mạnh đồng tâm, nhất trí như vạn mũi tên bật đi từ

chiếc “lẫy thần”. Nhưng khi thắng giặc rồi, An Dương Vương thực hiện chính
sách sưu cao, thuế nặng đánh vào dân, còn bản thân triều chính của mình thì ăn
chơi, sa đọa trên mồ hôi và nước mắt của những người vừa theo mình giành và
23


giữ giang sơn. Lòng dân không yên. Lòng dân không tin vào An Dương Vương,
không nghe hiệu lệnh từ tiếng trống Đồng - đồng lòng, đồng tâm, đồng sức nữa.
Chiếc nỏ thần mất hết linh nghiệm. Bật một phát từ lẫy nỏ giả, An Dương
Vương và Mỵ Châu đã đánh mất lẫy nỏ thật. Đánh mất sự thật là đánh mất lòng
dân. Và khi không có sức dân, không có sức mạnh đồng lòng, chỉ còn bóng
ngựa hồng chở An Dương Vương và công chúa Mỵ Châu lạc lõng trên đường
chạy giặc, thất thủ. Đất nước rơi vào thời kỳ Bắc thuộc ngàn năm…
Rồi dân tộc ta vùng lên giành độc lập, cho đến thời “Hào khí Đông A”, các
vua Trần cùng toàn dân đồng tâm “Sát Thát” từ những “Diên Hồng”; ba lần
đánh cho giặc Nguyên đại bại, chém đầu đại tướng Ô Mã Nhi, hoàng tử Thoát
Hoan bạt vía kinh hồn. Tiếng trống đồng lại âm vang thời giữ nước… Rồi lại
theo vết xe đổ của An Dương Vương - Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần. Lòng
dân không yên, nhân dân ca thán, nội bộ lục đục, Hồ Nguyên Trừng, con trai
Hồ Quý Ly, một đại tướng dũng mãnh đã có tầm nhìn từ lịch sử: con không sợ
đánh, chỉ sợ lòng dân không yên. Thế giặc Minh rất mạnh tràn vào khi lòng dân
và quan quân ly tán. Triều đình của Hồ Quý Ly bị giặc bắt, nhốt vào cũi, chở về
Trung Quốc… Một thất bại đắng cay, từ bài học sức dân, bài học lịch sử…
Năm 1802, Nguyễn Ánh - Gia Long thống nhất đất nước, lập nước Việt Nam.
Nhưng cũng lại “tiền thịnh, hậu suy”. Hậu triều Tự Đức với Vạn niên thành xây
từ xương lính, hào đào máu dân. Thực dân Pháp tấn công, không có sức dân,
triều đình với quyết tâm chiến đấu nửa vời, đất nước sa vào tay giặc.
Bài học sức dân. Bài học đại đoàn kết toàn dân, tự lực, tự cường là bài học từ
truyền thống lịch sử dân tộc hết sức sâu sắc.
Hồ Chí Minh sinh ra khi thực dân Pháp cơ bản đã hoàn thành công cuộc xâm

lược nước ta, chế độ thống trị thuộc địa đã được thiết lập. Lớn lên trên quê
hương nghèo khó nhưng giàu truyền thống yêu nước và cách mạng, sớm được
tiếp thu những tư tưởng cứu nước, đánh đuổi kẻ thù xâm lược từ các bậc cha,
anh. Nước mất, dân nô lệ, các phong trào yêu nước, chống Pháp của dân tộc ta
cứ bùng lên ở một vài vùng trong đất nước, rồi lại tắt lịm trước sự đàn áp dã
man của kẻ thù. Từ một ý chí cứu nước, cứu dân, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm
đường cứu nước, tìm con đường đi cho dân tộc phù hợp với tất yếu của thời đại.
Bác đã tìm đến với chủ nghĩa Mác-Lênin để rồi sau đó, Người có những kết
24


luận khẳng định đường đi cho dân tộc: Các cuộc cách mạng Anh, cách mạng
Mỹ, cách mạng Pháp đều là các cuộc cách mạng không đến nơi, chỉ có cách
mạng Tháng Mười Nga là cuộc cách mạng đến nơi, bởi vì, nó định hướng giải
phóng triệt để cho người lao động... Bây giờ, chủ nghĩa nhiều, học thuyết nhiều,
nhưng tin tưởng nhất, chắc chắn nhất là chủ nghĩa Lênin… con đường giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản.
Suy cho cùng, những kết luận của Bác về con đường giải phóng dân tộc là con
đường theo chủ nghĩa Mác-Lênin, con đường cách mạng vô sản, con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa Mác-Lênin có những luận điểm về vai trò và sức mạnh của nhân
dân, của quần chúng đúng với sự tổng kết lịch sử dân tộc ta. Quần chúng nhân
dân có vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển của lịch sử, trong mối quan hệ
biện chứng với lãnh tụ, vĩ nhân và giai cấp cầm quyền. Ông cha ta chưa chỉ rõ
điều này, nhưng đã thể hiện rõ trong ý tưởng: Chở thuyền cũng là dân và làm lật
thuyền cũng là dân (Nguyễn Trãi) cho nên khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ,
bền gốc. Có phải chăng đó là kế sách ngàn đời cho đất nước trường tồn.
Ở Bác, chủ nghĩa Mác-Lênin được tiếp thu nhuần nhuyễn với truyền thống
dân tộc. Cả yếu tố dân tộc và nhân loại đều hướng tới sức mạnh của nhân dân
được tổ chức hướng tới mục tiêu giải phóng cho chính nhân dân và do chính

nhân dân là người thực hiện công cuộc giải phóng ấy. Nhân dân sẽ tạo thành
sức mạnh to lớn nếu được tổ chức, nếu được xây dựng thành một khối đoàn kết,
đồng lòng, đồng tâm. Nhân tố tổ chức sẽ là một trong những nhân tố quyết định
cho thành công …

25


×