Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Suy nghĩ về vấn đề dạy tập làm văn cho học sinh lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.25 KB, 17 trang )

Hoàng Thị Huyên – GV tiểu học số 2 An Thủy
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Phương pháp nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu
PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Về phía học sinh.
2. Về phía giáo viên.
II. THỰC TRẠNG ĐẶT RA:
III. BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC – GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
1. Đối với giáo viên.
2. Các giải pháp cụ thể.
IV. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1. Những kết quả đạt được.
2. Bài học kinh nghiệm.
KẾT LUẬN

----------  ----------

PHẦN MỞ ĐẦU
1
Suy nghĩ về vấn đề dạy tập làm văn cho học sinh lớp 3


Hoàng Thị Huyên – GV tiểu học số 2 An Thủy
1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong suốt thời gian dạy lớp 3, một vấn đề có tính nổi cộm đó là việc các em học sinh
thường rất ngán học môn Tập Làm Văn. Tại sao vậy?


Để làm được một bài tập làm Văn học sinh phải huy động vốn kiến thức từ nhiều mặt
như: các hiểu biết về cuộc sống, tri thức về văn học, khoa học, xã hội. Học sinh lại còn phải
biết kết hợp hài hòa nhiều kĩ năng như: dùng từ đặt câu, dựng đoạn, tạo văn bản, kĩ năng
phân tích đề, tím ý, lập dàn ý. Do đó Tập Làm Văn mang tính tích cực thành toàn diện, tổng
hợp. Ngoài ra Tập Làm Văn mang còn đòi hỏi mang tính sáng tạo của Học sinh. Nhiều em
không biết bắt đầu từ đâu, phải nói và viết những gì, viết như thế nào! Chính vì vậy mà trong
các tiết học phân môn này các em thường rất lúng túng có thì em viết lan man không đúng
trọng tâm đề yêu cầu, em thì ý nghèo nàn bài viết chỉ mang tính liệt kê khô khan không biết
liên kết câu và lồng cảm xúc của người viết vào...và khi nhận được bài trả thì với những con số
khô khan 3,4...điểm chẳng nói lên được điều gì, có chăng chỉ là một vài câu nhận xét quá cụt
ngủn: lạc đề, văn nghèo ý, không biết liên hết câu, bài viết lan man...từ phía giáo viên mà
thôi. Điều đó đã làm cho các em ngày càng chán nản, lo sợ, mất tự tin, ngại nói và cuối cùng
là học yếu môn này.
Thế thì nguyên nhân do đâu? Làm thế nào để khắc phục tình trạng này, giúp các em
lấy lại tự tin học tốt môn Tập Làm Văn? Đấy chính là lí do khiến tôi trăn trở.
Chương trình Tập làm văn lớp Ba đóng vai trò quan trọng đối với các em. Người giáo
viên trong quá trình dạy học cần phải có sự tìm tòi sáng tạo và tích cực tìm ra những biện

2
Suy nghĩ về vấn đề dạy tập làm văn cho học sinh lớp 3


Hoàng Thị Huyên – GV tiểu học số 2 An Thủy
pháp thích hợp giúp học sinh rèn viết văn một cách có ý thức, tự chủ và năng động góp
phần học tốt những môn học khác.
Xuất phát từ những lí do trên, từ những kinh nghiện được rút ra trong quá trình
dạy học ở Trường TH số 2 An Thủy, ở phạm vi của sáng kiến kinh nghiệm này, chúng tôi
mạnh dạn đưa ra một số suy nghĩ dạy tập làm văn cho học sinh lớp 3. Từ đó giúp học
sinh hình thành và phát triển tốt các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt để học tập và giao tiếp
trong các môi trường hoạt động, đặc biệt là môi trường học tập; góp phần nâng cao chất

lượng phong trào "Vở sạch - chữ đẹp" trong nhà trường và nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện cho các em.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng bộ môn tập làm văn lớp 3, góp phần làm tốt
phong trào Vở sạch – chữ đẹp cho học sinh Trường tiểu học số 2 An Thủy.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Điều tra khảo sát thực tế nhằm tìm hiểu thực trạng học sinh học tập làm văn lớp 3.
- Phân tích, tổng hợp và nghiên cứu lí luận để tìm hiểu cơ sở khoa học của đề tài.
- Tổng kết kinh nghiệm dạy phân môn tập làm văn .
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Thời gian: Bắt đầu từ năm học 2010-2011
- Đề tài đề cập đến một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng môn tập làm văn lớp 3.

3
Suy nghĩ về vấn đề dạy tập làm văn cho học sinh lớp 3


Hoàng Thị Huyên – GV tiểu học số 2 An Thủy
PHẦN NỘI DUNG
I. CỞ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN:
1. Về phía học sinh:
 Học sinh thường lười đọc sách báo hoặc tìm tòi sưu tầm những tài liệu phục vụ cho
kiến thức có liên quan đến môn học dẫn đến tình trạng nghèo vốn từ, nghèo vốn sống để có
thể đưa bài văn vào viết.
 Thiếu sự quan tâm, hỗ trợ động viên của phụ huynh.
 Học sinh chỉ quan tâm đến những sở thích không phục vụ cho môn học như : đọc sách
báo, truyện tranh nhảm nhí, chơi điện tử, xem phim ảnh không phù hợp với lứa tuổi nên vốn
văn học rất hạn chế.
2.Về phía giáo viên:
 Giáo viên còn lúng túng khi vận dụng phương pháp dạy Tập Làm Văn:

Lập dàn bài rập khuôn dẫn đến bài làm của HS giống nhau về ý tưởng, nội dung.
 Chưa rèn cho học sinh có thói quen đọc các bài văn mẫu, văn hay từ đó rút ra ý hay;
bên cạnh đó một số giáo viên còn cho học sinh học thuộc những bài văn mẫu điều đó đã làm
mất đi sự sáng tạo và óc tưởng tương phong phú của học sinh.
 GV chưa linh động sáng tạo khi tổ chức các giờ dạy trên lớp, hình như tổ chức dạy học
đơn điệu: GV hỏi – HS trả lời, chỉ những em khá giỏi mới có thể tham gia trả lời còn những học
sinh trung bình hoặc yếu thì cảm thấy lo sợ nếu bị gọi đến tên! Từ đó làm cho HS cảm thấy
nhàm chán, mất hứng thu học tập.
 Chưa xử lý kịp thời, chính xác các phát sinh dẫn đến tình trạng giáo viên đánh giá
chưa đúng ý kiến của học sinh.

4
Suy nghĩ về vấn đề dạy tập làm văn cho học sinh lớp 3


Hoàng Thị Huyên – GV tiểu học số 2 An Thủy
 Trên đây là một số những tồn tại mà tôi thường thấy ở nhiều GV khi day Tập Làm Văn.
Thế thì làm thế nào để lhắc phục hiện trạng trên. Cá nhân tôi sau nhiều lần thí nghiệm tại lớp
mình và nhân rộng một số lớp khác đã thấy rất khả thi.
II. THỰC TRẠNG ĐẶT RA:
Nhiều em trong lớp không biết viết, tư duy bắt đầu từ đâu, phải nói và viết những gì, viết như
thế nào! Chính vì vậy mà trong các tiết học phân môn này các em thường rất lúng túng có thì
em viết lan man không đúng trọng tâm đề yêu cầu, em thì ý nghèo nàn bài viết chỉ mang tính
liệt kê khô khan không biết liên kết câu và lồng cảm xúc của người viết vào...Kết quả môn tập
làm văn không cao theo yêu cầu đặt ra của nhà trường và không tạo được điều kiện tốt nhất
để các em lên lớp 4, lớp 5 và đặc biệt lên THCS.
Mặt khác trong lúc các phương tiện nghe nhìn phát triển, văn hóa đọc sách của các em
hiện nay bị hạn chế nên ảnh hưởng ít nhiều đến phân môn tập làm văn. Điều đó đã làm cho
các em ngày càng chán nản, lo sợ, mất tự tin, ngại nói và cuối cùng là học yếu môn này.
* Sau đây là một số biện pháp giải quyết.

III.BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC – GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Đối với Giáo viên:
* Người Giáo viên có vai trò rất quan trọngvà ảnh hưởng vô cùng to lớn đối với HS vì họ là
những người chủ đạo tổ chức việc học của HS, chính vì thế bản thân người Giáo viên cần phải:



Luôn học hỏi đồng nghiệp và tự học để nâng cáo trình độ bản thân và nâng cao tay

nghề.

5
Suy nghĩ về vấn đề dạy tập làm văn cho học sinh lớp 3


Hoàng Thị Huyên – GV tiểu học số 2 An Thủy




Phải đầu tư thật kĩ bài dạy trước khi lên lớp.

Phải hết sức nhạy bén và ứng xử kịp thời các tình huống phát sinh khi giảng dạy

bằng cách chú ý lắng nghe ý kiến của HS khi biểu đề tim ra ưu khuyết điểm chính của học
sinh để nhận xét tổ chức sửa chữa , góp ý đánh giá.



GV cũng cần rến cho HS kĩ năng nhận xét bài bạn để từ đó nhận biết được những chỗ


hay hoặc chưa hay khi làm bài của mình. Ví dụ chỉ cần rõ bài ban hay là vì ban biết dùng từ
ngữ liên kết câu, ban biết sử dụng các hình ảnh so sánh, nhân hóa..., bạn biết lồng cảm xúc
của mình vào bài viết và điều quan trọng là GV cần phải giúp HS chỉ rõ ra những từ ngữ, câu
hay cho lớp tham khảo. Điều này vừa động viên được những em làm bài hay, vừa khơi dậy
chop HS những ý tưởng, sáng tạo mới, HS cảm thấy có thêm nguồn động lựcđể thi đua học
tập, để bài của mình được cô và các bạn đọc trước lớp như vậy. Bên cạnh đó những hạn chế
trong bài của HS, GV cũng cần tế nhị khi nhận xét. Tuyệt đối không dùng những câu đại loại; ý
nghéo nàn quá, bài đủ ý, bài yếu hoặc em không có chuẩn bị bài sao...Điều đó sẽ làm cho các
em như bị dội gáo nước lạnh vào mặt. Người GV cần thận trọng, trước tiên cần tìm cho bằng
được những ưu điểm trong bài làm của bé dù nó chỉ là nhỏ nhoi để tuyên dương trước lớp rồi
từ từ cho các em chỉnh sửa, bổ sung cho câu văn hay hơn, hoàn chỉnh hơn.



Người GV cần thay đổi nhiều hình thức học tập để tạo cơ hội cho nhiều HS cùng được

tham gia trình bày ý kiến của mình.
VD: Tổ chức học nhóm 4 để các em được nói cho nhau nghe ý kiến của mình ( vì có
những em rất ngại nói trước lớp và ngại nói cho GV nghe, trái lại khi cùng tham gia vói các bạn
6
Suy nghĩ về vấn đề dạy tập làm văn cho học sinh lớp 3


Hoàng Thị Huyên – GV tiểu học số 2 An Thủy
mình thì các em rất tích cực ). Trong lúc này GV cần đến tận nơi, từng bàn để lắng nghe và gợi
ý, định hướng cho các em xây dựng bài...Được tham gia phát biểu, dần dần những em nhút
nhát sẽ cảm thấy mạnh dạn và tự tin hơn khi đứng nói trước lớp. Bên cạnh đó phương tiện trực
quan, các hình thức tổ chức trò chơi, thi đua... cũng không kém phần lôi cuốn HS học tập tích
cực hơn.



Khi chấm bài GV cũng cần có sự nhận xét cụ thể về những lỗi sai của HS để định hướng

cho HS khắc phục trong lần sau.


Nên tập cho các em có thói quenhọc tập các ý hay trong bài văn mẫu, đoạn hay, bài

làm hay của bạn, từ sách báo tham khảo và được tạo thói quen ghi chép lại trong sổ tay văn
học của mình.
2. Các giải pháp cụ thể:
a. Dạy Tập làm văn qua giờ Luyện từ & câu.
- Các em ít tham gia phát biểu trong giờ học TLV là do không biết thể hiện ý tưởng của
mình bằng những câu như thế nào bởi lẽ vốn từ của các em quá ít.
- Phạm vi vốn từ cần cung cấp cho học sinh ở tiểu học chủ yếu xoay quanh các chủ đề
về thế giớ xung quanh công việc của học sinh ở trường và ở nhà, tình cảm gia đình và vẻ đẹp
của thiên nhiên, đất nước, con người...chúng ta cần làm giàu nhận thức, mở rông tầm mắt cho
HS, giúp em nhận thấy vẻ đẹp của quê hương, đất nước, con người, dạy các em biết yêu quí
và trân trọng tình cảm đó.
- Ở chương trình SGK mới này không cung cấp sẵn vốn từ mới cho các em mà thông
qua hệ thống bài tập học sinh phải cùng suy luận và cùng nhau tìm tòi, bổ sung và làm giàu
vống từ cho mình. Sau đó GV có thể cung cấp thêm tư liệu cho HS ( tư liệu cung cấp cần thực

7
Suy nghĩ về vấn đề dạy tập làm văn cho học sinh lớp 3


Hoàng Thị Huyên – GV tiểu học số 2 An Thủy
tế và gần gũi nằm trong sự hiểu biết của các em ). Sau đó GV cũng cần giúp các em HS làm rõ

một số từ cần thiết, đó là nhiệm vụ sống còn trong sự phát triển ngôn ngữ của trẻ. Việc dạy
nghĩa từ được tiến hành trên tất cả các giờ học, bất cứ ở đâu cũng cung cấp từ ngữ thì ở đó có
dạy nghĩa của từ đòi hỏi GV phải nắm rõ nghĩa của từ và giải thích cho phù hợp với ngữ cảnh,
với nội dung bài học với hoàn cảnh thực tế với đối tượng học sinh. Tuy nhiên việc giải nghĩa
hết tất cả các từ là không thể và không cần thiết, GV phải có sự chọn lọc từ để giải nghĩa.
Những từ được chọn lọc phải là những từ trung tâm có vai trò quan trọng trong hoạt động nói
của HS trên một đề tài đã xác định, phải để cho các em giải nghĩa lấy ( kích thích tư duy HS
làm cho HS lúc nào cũng cảm thấy mới lạ – Tạo hứng thú cho HS trong học tập ) cũng cần lưu
ý rằng: từ nào GV nắm rõ nghĩa thì hãy giải thích còn nếu từ nào chưa rõ nghĩa thì không nên
giải thích vì giải thích qua loa, sơ sài sẽ làm cho HS chán nản vì không đáp ứng nhu cầu tò mò
của trẻ thậm chí làm cho trẻ hiểu sai lệch nghĩa của từ và khi vận dụng vào bài viết của mình
sẽ không hiệu quả, làm sai lệch ý muốn diễn đạt.
* GV có thể áp dụng một số phương pháp giải nghĩa của từ sau đây:
-

Giải nghĩa bằng trực quan: đưa ra các vật thật, hình ảnh, sơ đồ...

-

Giải nghĩa thông qua ngữ cảnh: GV cần được giải nghĩa vào câu hoàn
chỉnh để làm rõ nghĩa từ đó.

-

Giải nghĩa bằng cách đối chiếu: GV so sánh nghĩa từ cần được làm rõ
nghĩa với từ khác.
VD: giải nghĩa từ “ ao” bằng cách so sánh với từ “hồ” -> ao nhỏ hơn hồ.

-


Giải nghĩa từ bằng cách tìm từ đồng nghĩa, trái nghĩa:
VD : Gần nghĩa với “lười biếng” là “biếng nhác”

8
Suy nghĩ về vấn đề dạy tập làm văn cho học sinh lớp 3


Hoàng Thị Huyên – GV tiểu học số 2 An Thủy
Trái nghĩa với thông minh là “đần độn”
-

Giải nghĩa từ bằng cách phân tích từ thành các từ tố ( tiếng )
VD : giải nghĩa từ “tâm sự” – (tâm:lòng ; sự:nỗi ) -> tâm sự:nỗi lòng của một người.

-

Giải nghĩa bằng định nghĩa: là biện pháp giải nghĩa bằng cách nêu
nội dung nghĩa, bằng một định nghĩa:
VD : Quê hương là nơi sinh mình ra và lớn lên.

b. Dạy tập làm văn qua giờ tập đọc:
Trong giờ tập đọc, GV phải làm cho HS hiểu nghĩa một số từ cần thiết trong bài. Hiểu
được nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa “văn chương” của từ ngữ, điều này sẽ có ích cho HS khi
vân dụng từ. GV có thể kết hợp với những bài tập điền từ thích hợp.
VD : chọn từ “náo nức” hay từ “rộn ràng” điền vào chỗ trống cho thích hợp:
Chúng em..................chào đón ngày khai trường.
Trong phần tìm hiểu bài, GV gợi ý khuyến khích HS trả lời câu hỏi theo ý mình, hạn chế
dần cách trả lời rập khuôn câu văn trong SGK. Nhất là đối với những bài học dãng thơ, nên cho
HS sinh diễn đạt thành lời văn hoàn chỉnh ( nếu đề không yêu cầu tìm câu thơ ). Điều này tạo
điều kiện cho HS vận dụng tối đa vốn từ sẵn có của mình, đồng thời giúp GV lắm được lượng từ

có được ở mỗi HS để từ đó có biện pháp thích hợp cung cấp từ mới cho các em.
c. Dạy Tập Làm Văn qua giờ Chính Tả
Để viết đúng chính tả HS phải nắm được nghĩa của từ.
Học sinh phải phân biệt được nghĩa của từ “lượng” và “lượn”
-

Lượn : bay lượn, lượn lờ.....

-

Lượng : trọng lượng, khối lượng, chất lượng.....

9
Suy nghĩ về vấn đề dạy tập làm văn cho học sinh lớp 3


Hoàng Thị Huyên – GV tiểu học số 2 An Thủy
Giáo viên nên vận dụng những bài tập để mở rọng vốn từ cho HS. Ví dụ bài tập ghép
từ.
VD : Tìm từ ghép với “ mến” : mến yêu, mến thương, thân mến...
Trong những giờ dạy Chính Tả so sánh là lúc GV khai thác và cung cấp thêm nguồn từ
mới cho HS. Đối với dạng bài này, HS càng phải nắm rõ nghĩa của từ để phân biệt các từ
phát âm sai của địa phương so với chuẩn.
VD : Người Hà Nội phát âm thiếu chính xác các cặp từ có âm đầu là l/n ; ch/tr;
d/gi/r...
d. Dạy tập làm văn qua giờ kể chuyện:
Khi nghe chuyện HS phải hiểu truyện, muốn thế trước hết HS phải hiểu từ. Chỉ cố diễn
đạt câu truyện qua giọng nói, điệu bộ không thì chưa đủ mà GV cần cho HS nêu ra những từ
ngữcác em chưa hiểu và hãy để các em đi tìm câu giải đáp cho chính mình, tất nhiên phải có
sự gợi ý của GV. Nếu là những từ có nghĩa không rõ ràng GV có thể đưa vào ngữ cảnh để từ đó

HS có thể nắm được nghĩa của từ đó.
VD : Trong truyện “ Lời hứa của sâu róm” ( truyện đọc lớp 3 ), các em cần hiểu nghĩa
của các từ : sâu róm, kén, sửng sốt. GV có thể giải thích nghĩa của từ “ sửng sốt” bằng
cách đưa ra một câu trong đó có từ “ sửng sốt”.
- Tôi vô cùng sửng sốt về kết quả học tập của cậu ấy.
Từ VD này, HS sẽ dễ hiểu hơn nghĩa của từ “sửng sốt”: hết sức ngạc nhiên, lấy làm lạ...
e. Vận dụng các phương pháp theo hướng chủ động khi dạy Tập Làm văn:
- Sử dụng mạng ý nghĩa trong viết đoạn: Học sinh sẽ tìm ý dưới dạng sơ đồ hình
tròn. Mạng ý nghĩa thường dùng trong giai đoạn trước khi viết văn. Những từ ngữ học sinh tìm

10
Suy nghĩ về vấn đề dạy tập làm văn cho học sinh lớp 3


Hoàng Thị Huyên – GV tiểu học số 2 An Thủy
được thường tập trung ở phần thân bài nên đây là một lợi điểm cho việc phát triển ý từ thành
đoạn văn hoàn chỉnh.
Ví dụ:

Lá rập rình lay động
Cao lớn

Cây
phượn
g

Từng cánh

Thân sần sùi bạc


hoa rực lửa

phếch theo tháng năm

- Sử dụng sơ đồ khung trong viết đoạn : Thường được dùng trong miêu tả cây cối
(tả bộphận hay tả từng giai đoạn phát triển). Sơ đồ khung sẽ giúp cho học sinh dễ nhận ra cấu
trúc của mỗi kiểu bài.
- Dùng thẻ từ phối hợp với tranh ảnh : Thường được sử dụng khi học sinh lựa chọn
những chủ đề chưa tận mắt thấy hay chưa từng được quan sát.
- Trong bài “ Cấu tạo bài văn miêu tả đồ vật” thay vì trả lời đơn thuần các câu hỏi:
+ Tìm các phần mở bài, kết bài. Mỗi phần ấy nói điều gì?
+ Phần thân bài tả cái cối theo trình tự nào?
 Giáo viên sẽ dùng những thẻ từ cho HS ghi vào đó những từ chỉ đặc điểm của từng
phần trước khi nêu ý nghĩa của các phần đó.
- Giáo viên có thể kết hợp sơ đồ khung để xác định bài văn miêu tả đồ vật.
- Chúng ta thường đặt câu hỏi “Vì sao lại có những bài văn giống nhau?”ở đây chúng ta
không bàn đến vấn đề GV bắt học sinh học thuộc mà chúng ta sẽ phân tích theo hai sơ đồ
dưới đây :
+ GV nêu từ  Gợi ý đặt câu mẫu  Sản phẩm của học sinh đa phần sẽ giống nhau.

11
Suy nghĩ về vấn đề dạy tập làm văn cho học sinh lớp 3


Hoàng Thị Huyên – GV tiểu học số 2 An Thủy
+ Học sinh tìm từ  Đặt nhiều câu khác nhau  Sẽ có nhiều đoạn văn khác nhau.
- So sánh hai cách làm trên, chúng ta sẽ dễ dàng nhận thấy việc làm mẫu của giáo viên
sẽ làm cho học sinh dễ hiểu nhầm đó là mẫu hay nhất. Tuy nhiên, không vì thế mà giáo viên
không làm mẫu, do đó phải yêu cầu và nhắc nhở học sinh khi tả chọn mẫu câu, đề tài khác
giáo viên.

- Giáo viên cần tập cho học sinh thí quen lập dàn ý trước khi viết bài và cần phải viết
nháp trước, sau đó chỉnh sửa trước khi viết bài hoàn chỉnh. Trên thực tế, vì sợ thiếu giờ nên
chính giáo viên không yêu cầu học sinh làm nháp. Điều này dễ làm mất khả năng tư duy và
khả năng nhớ của trẻ. Trong quá trình làm bài nháp, giáo viên cần luôn nhắc học sinh chú
trọng ý tưởng mới nảy sinh không quá tập trung vào lỗi chính tả, ngữ pháp ở giai đoạn này.
- Quá trình chỉnh sửa nên tạo điều kiện cho học sinh làm theo nhóm đôi (hoặc có thể
làm theo trình độ của học sinh ...) để các em phát huy hết khả năng nhận xét, cũng như có
điều kiện để giúp đỡ và học tập lẫn nhau. Học sinh được đọc nhiều đoạn văn khác, điều này
cũng sẽ làm nảy sinh ý tưởng mới cho các em khi được lắng nghe và đọc bài của bạn. Giai
đoạn này cần được trau dồi về ngữ pháp và trình bày bài viết để học sinh có thể lưu trữ sản
phẩm của mình.
- Việc tổ chức các phong trào hỗ trợ cho việc viết văn như dành một góc học tập để các
em có thể trưng bày những sản phẩm của mình (những bài văn hay) để cả lớp cùng tham
khảo.
- Rèn cho học sinh kỹ năng nó trong Tập Làm Văn rất quan trọng. Giáo viên cần khuyến
khích HS “tự do nói”, nghĩ được điều gì thoải mái diễn đạt ra điều ấy, điều này giúp HS mạnh
dạn phát biểu đưa ra ý kiến của mình. Thường thì các em mang nặng tâm lý đứng lên lỡ nói

12
Suy nghĩ về vấn đề dạy tập làm văn cho học sinh lớp 3


Hoàng Thị Huyên – GV tiểu học số 2 An Thủy
sai sẽ bị cô mắng hoặc các bạn chê cười. Để giải tỏa gánh nặng tâm lý này, tôi thường để các
em tự do đưa ra ý kiến của mình dù cho ý kiến đó chưa sát với yêu cầu của câu hỏi đặt ra.
Đừng bao giờ phủ nhận sạch trơn những suy nghĩ của các em mà nên động viên để các em tự
tin hơn khi phát biểu.
Việc thực hiện “Sổ tay văn học” hay tạo “Thư viện nhỏ cho lớp” là rất cần và thiết
thực. Nó còn giúp các em hạn chế việc mắc lỗi chính tả khi làm bài. Có nhiều giáo viên đặt ra
câu hỏi tại sao có những em khi viết chính tả không hề mắc lỗi nào nhưng khi viết bài văn lại

sai nhiều lỗi như thế ? Nguyên nhân chính là do khi viết bài văn các em không được nghe cô
giáo phát âm từng tiếng như khi viết chính tả mà bản thân các em phải vận dụng tư duy để
diễn đạt lại thành ý (Đối với lứa tuổi của các em, nhất là HS lớp 2, 3 cùng một lúc các em khó
có thể tập trung làm tốt được nhiều việc), do đó, đa số các em thường viết theo những ngôn
ngữ phát âm giao tiếp hằng ngày, hoặc cũng có khi do viết vội, viết câu dài gặp những từ khó
thì lười đánh vần từ đó viết sai chính tả. Nếu được chuẩn bị bài trước ở nhà (các em có thời
gian kiểm tra chính tả, không bị khống chế thời gian làm bài) HS sẽ tự tin hơn và đỡ sai chính
tả hơn khi làm bài.
* Để hỗ trợ cho HS, chúng ta cũng cần cung cấp thêm cho các em một số từ (theo dạng
chủ đề đang học) để các em tham khảo.
VD1: Đối với dạng văn tả người
- Tả vóc dáng : cao, lùn, gầy, mảnh mai, bụ bẫm, lụ khụ, yểu điệu …
- Tả khuôn mặt, diện mạo : bầu bỉnh, rám nắng, xanh xao, trái xoan, hốc hác, đần độn,
ủ rủ, cau có …

13
Suy nghĩ về vấn đề dạy tập làm văn cho học sinh lớp 3


Hoàng Thị Huyên – GV tiểu học số 2 An Thủy
- Tả làn da : nhăn nheo, xanh như tàu lá chuối, trắng trẻo, chai cứng, mốc thếch, da
bánh mật…
- Tả mắt : đen huyền, đen láy, bồ câu, ti hí, mắt ốc bươu…
VD2: Đối với dạng tả cây
- Thân cây: sần sùi, ram ráp, trơn lùi. Đầy gai …
- Lá cây: xanh thẳm, xanh mượt, xanh uá …
* Nói tóm lại, muốn giúp cho học sinh có được vốn từ tích cực, bền vững phải luyện cho
các em vận dụng từ ngữ vào những dạng bài tuân theo nguyên tắc xác định và phải vận dụng
thường xuyên trong cuộc sống.
3. Đối với học sinh:

- Hết sức chú ý nghe giảng, có sự chuẩn bị bài trước khi đến lớp.
- Cụ thể hoá những ý nghĩ chung của bạn thành ý riêng của mình bằng cách tự lập một
hệ thống dàn bài riêng của mình phù hợp với yêu cầu của đề.
- Mạnh dạn, tự tin phát biểu ý kiến để các bạn xây dựng cho mình.
- Tập cho mình có thói quen đọc sách báo hàng ngày để cập nhật thông tin bổ sung
cho bài làm của mình thêm sâu sắc hơn. Tuyệt đối tránh máy móc rập khuôn theo bài mẫu.

IV. KẾTQỦA ĐẠT ĐƯỢC VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
1. Kết quả đạt được:
Trong năm học vừa qua, khi vận dụng những phương pháp trên vào giảng dạy cho HS,
tôi nhận thấy rất khả quan khi dạy phân môn này. Thành tích học tập của các em cao hơn,
chất lượng hơn và học sinh học tập cũng tích cực hơn.
Bảng thống kê dưới đây đã chứng minh được điều đó:

14
Suy nghĩ về vấn đề dạy tập làm văn cho học sinh lớp 3


Hoàng Thị Huyên – GV tiểu học số 2 An Thủy
Điểm

Tổng
Thời gian

số HS

Giỏi (9 – 10)

Khá (7 – 8 )


TB (5 – 6)

Dưới TB (1-4)

Đầu năm

27

5

11

7

4

Giữa HKI

27

6

12

8

3

Cuối HKI


27

8

12

6

1

Như vậy, cho đến thời điểm này các em đã biết cách trình bày bài văn hợp lí về bố cục,
diễn đạt ý trọn vẹn, câu văn giàu hình ảnh. Một số các em yếu cũng đã diễn đạt khá tốt ý của
mình. Tuy còn một số bài viết còn mang tính liệt kê nhưng bước đầu các em đã biết vận dụng
các biện pháp tu từ đã được học để vận dụng vào bài viết của mình làm cho câu văn trở nên
sinh động hơn.
Tôi hy vọng với một chút kinh nghiệm nhỏ bé này sẽ phần nào giúp cho đồng nghiệp gỡ
rối trong công tác giảng dạy của mình (nhất là với phân môn Tập Làm Văn).
2.Bài học kinh nghiệm:
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của BGH trường tiểu học số 2 An Thủy, sự tham gia hoạt động
tích cực của giáo viên, học sinh và phụ huynh, qua một thời gian kiên trì thực hiện những biện
pháp, giải pháp để duy trì và nâng cao hiệu quả của việc dạy môn tập làm văn tôi rút ra các
bài học kinh nghiệm sau:
2.1.Thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục trong đội ngũ giáo
viên, phụ huynh, học sinh để nâng cao nhận thức về yêu cầu, tầm quan trọng của việc
học phân môn tập làm văn trong tình hình giáo dục hiện nay.
2.2. Xây dựng kế hoạch thực hiện cụ thể, phù hợp với tình hình thực tiễn theo từng giai
đoạn, học kì và năm học. Kịp thời động viên những học sinh chăm ngoan học phân môn này.
2.3. Thường xuyên tự bồi dưỡng và nâng cao trình độ hiểu biết của mình qua các
kênh thông tin hoặc các chương trình tự học trên internet.
2.4. Rèn luyện kỹ năng viết văn cho các em ở mọi nơi mọi lúc, tập cho các em một thói

quen tốt “ ăn nên đọi, nói nên lời”.
2.5. Khuyến khích các em mua thêm nhiều tài liệu, nhiều sách tham khảo hay đang có
trên thị trường, dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
2.6. Đánh giá chính xác, khen chê kịp thời là động lực vô cùng quan trọng học sinh
phát huy tốt ưu điểm, khắc phục nhược điểm; góp phần khích lệ việc phát triển môn tập làm
văn ở học sinh.
15
Suy nghĩ về vấn đề dạy tập làm văn cho học sinh lớp 3


Hoàng Thị Huyên – GV tiểu học số 2 An Thủy

KẾT LUẬN
Chúng ta có thể dạy tốt – học tốt môn Tập Làm Văn khi có sự phối hợp đồng bộ giữa
thầy và trò với những yêu cầu cần đạt đã nêu trên.
Cũng cần lưu ý rằng, dạy các em viết văn không có nghĩa là dạy các em trở thành nhà
văn mà là dạy sao để các em có thể viết được những điều mình nghĩ đến và những điều mình
muốn nói một cách mạch lạc, gãy gọn, hay nói cách khác là rèn cho HS kỹ năng xâu kết
những ý nghĩ thành một đoạn văn chặt chẽ thể hiện rõ ý mình muốn diễn đạt, đây là một công
việc khá khó khăn, tuy nhiên Bác Hồ đã từng nói:
“Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền …”
Sau cùng, tôi xin kết thúc bằng một câu nói của giáo sư Roach Van Allen để thay cho lời
kết : “Em có thể viết được những gì em nghĩ .Em có viết được những gì em nói. Em có
thể đọc được những gì em viết và em có đọc được những gì người khác viết cho
em”. Đó chính là dạy cho học sinh cách làm Tập Làm Văn .
Bồi dưỡng, rèn luyện cho học sinh có chữ viết đúng viết hay và không nhàm chán với
tập làm văn là một trong các hoạt động góp phần giáo dục toàn diện cho người học sinh trong
sự nghiệp đổi mới, bồi dưỡng nhân tài cho nhà trường, cho ngành góp phần vào sự nghiệp
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước trong giai đoạn hiện nay!


16
Suy nghĩ về vấn đề dạy tập làm văn cho học sinh lớp 3


Hoàng Thị Huyên – GV tiểu học số 2 An Thủy
An Thủy, 3/ 2011
Người viết
Hoàng Thị Huyên

17
Suy nghĩ về vấn đề dạy tập làm văn cho học sinh lớp 3



×