Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

“Phân tích và đánh giá vấn đề mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.5 KB, 20 trang )

MỞ ĐẦU
Trước thời điểm Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 ban hành
thì vấn đề về mang thai hộ chưa được thừa nhận ở Việt Nam. Việc
nhà nước ta không thừa nhận đã làm vấn đề này xảy ra nhiều
hành vi xấu, gây ra không ít tranh chấp do không có sự quản lý và
dư luận vì thế càng nảy sinh nhiều ý kiến trái chiều. Cho đến khi
Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 ra đời, thì mang thai hộ trở
thành một chế định mới lần đầu tiên được quy định trong pháp
luật Việt Nam mà nhà nước chỉ cho phép mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo chứ không cho phép mang thai hộ vì mục thương mại;
cũng vì thế các quy định này không tránh khỏi những kẽ hở, bất
cập và có những nội dung chưa giải thích rõ ràng khiến cho việc
áp dụng luật gặp nhiều khó khăn trong thực tiễn. Nhận thức được
điều đó, đồng thời muốn tìm hiểu rõ hơn quy định pháp luật, đánh
giá thực trạng để từ đó đưa ra những giải pháp khắc phục hạn chế
còn tồn đọng của vấn đề mang thai hộ. Em xin trình bày đề tài:
“Phân tích và đánh giá vấn đề mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo.”
NỘI DUNG
I- KHÁI QUÁT CHUNG VỀ MANG THAI HỘ VÌ MỤC ĐÍCH NHÂN ĐẠO.
1. Một số khái niệm liên quan
Khoản 21,22,23, Điều 3, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 giải
thích các khái niệm liên quan đến mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo như sau:
- Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sinh con bằng kỹ
thuật thụ tinh nhân tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm.
- Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự
nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ
chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi



áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ
và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau
đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để
người này mang thai và sinh con.
- Mang thai hộ vì mục đích thương mại là việc một người phụ nữ
mang thai cho người khác bằng việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh
sản để được hưởng lợi về kinh tế hoặc lợi ích khác.
2. Ý nghĩa của việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
- Thứ nhất, việc quy định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo trước
hết nó giữ vững được tính nhân văn, mang thai hộ là vì mục đích
sản sinh con người đáp ứng nguyện vọng của những cặp vợ chồng
không có khả năng sinh đẻ mong muốn có con, chứ không phải để
đem ra trao đổi mua bán.
- Thứ hai, chế định này đặt ra trở thành khung pháp lý an toàn
trong các giao dịch mang thai hộ và có cơ chế phân biệt được với
trường hợp mang thai hộ vì mục đích thương mại như hiện nay.
- Thứ ba, bảo vệ quyền lợi của bà mẹ và trẻ em.
- Thứ tư, các cơ quan chức năng phần nào đó có thể kiểm soát
được nhu cầu mang thai hộ đang diễn ra trong xã hội.
- Thứ năm, pháp luật điều chỉnh thì các bên sẽ có cơ sở pháp lý
chặt chẽ hơn để ràng buộc lẫn nhau, tránh tình trạng vi phạm như
không chịu trả con hoặc không chịu nhận con, có những căn cứ để
giải quyết các tranh chấp.
II- PHÂN TÍCH VẤN ĐỀ MANG THAI HỘ VÌ MỤC ĐÍCH NHÂN ĐẠO
THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014.
1. Điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
1.1 Thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên và lập thành văn
bản.



- Khoản 1 Điều 95 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định:
“Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải được thực hiện trên
cơ sở tự nguyện của các bên và được thành lập thành văn bản”.
Đây là điều kiện chung đối với người nhờ mang thai hộ và người
mang thai hộ, họ phải thỏa thuận với nhau xuất phát từ ý chí tự
nguyện từ cả hai bên và thỏa thuận đó phải được lập thành văn
bản. Văn bản quy định trong Khoản 1 Điều 95 là thỏa thuận mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo được quy định tại Điều 96 của Luật
Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
- Khoản 1, Điều 96 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định
thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo giữa vợ chồng
nhờ mang thai hộ phải có các nội dung sau đây: Thông tin đầy đủ
về bên nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ theo các điều kiện
có liên quan quy định tại Điều 95 của Luật này; Cam kết thực hiện
các quyền, nghĩa vụ quy định tại Điều 97 và Điều 98 của Luật này;
Việc giải quyết hậu quả trong trường hợp có tai biến sản khoa; hỗ
trợ để đảm bảo sức khỏe sinh sản cho người mang thai hộ trong
thời gian mang thai và sinh con, việc nhận con của bên nhờ mang
thai hộ, quyền và nghĩa vụ của hai bên đối với con trong trường
hợp con chưa được giao cho bên nhờ mang thai hộ và các quyền,
nghĩa vụ khác có liên quan; Trách nhiệm dân sự trong trường hợp
một hoặc cả hai bên vi phạm cam kết theo thỏa thuận.
- Thỏa thuận về việc mang thai hộ phải được lập thành văn bản có
công chứng. Trong trường hợp vợ chồng bên nhờ mang thai hộ ủy
quyền cho nhau hoặc vợ chồng bên mang thai hộ ủy quyền cho
nhau về việc thỏa thuận thì việc ủy quyền phải lập thành văn bản
có công chứng. Trong trường hợp thỏa thuận về mang thai hộ giữa
bên mang thai hộ và bên nhờ mang thai hộ được lập cùng với cơ
sở y tế thực hiện việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì
thỏa thuận này phải có xác nhận của người có thẩm quyền của cơ

sở y tế này. Thỏa thuận mang thai hộ được xác lập giữa bố mẹ đứa


trẻ và người mang thai hộ, đồng thời làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ của các bên. Vì vậy, những vấn đề pháp lý liên quan đến
thỏa thuận này cũng được quy định cụ thể. Khi văn bản này, được
công chứng hoặc chứng thực thì đồng nghĩa với việc nhà nước thể
hiện ý chí chấp nhận và bảo vệ văn bản này, đảm bảo việc thực
hiện văn bản này của các bên.
- Mặt khác, thỏa thuận này cũng quy định các nghĩa vụ đối với các
bên trong việc thực hiện thỏa thuận mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo khi các bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
theo thỏa thuận đã cam kết. Các nghĩa vụ được quy định tại Điều
97 và Điều 98 của Luật Hôn nhân và Gia đình. Xuất phát từ tính
đặc thù của giao dịch, đối tượng của giao dịch không phải là một
loại hàng hóa hoặc dịch vụ mà là một con người. Vì vậy, trong
thỏa thuận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo không thể đặt ra
các điều kiện về giới tính (đứa trẻ phải là trai hay gái), về trọng
lượng, màu da, cũng như các điều kiện khác về tình trạng sức
khỏe.
1.2 Điều kiện đối với người nhờ mang thai hộ
- Có giấy xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người
vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật
hỗ trợ sinh sản. Tổ chức y tế có thẩm quyền xác nhận người vợ
không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ
trợ sinh sản đó là các cơ sở khám, chữa bệnh đủ điều kiện thụ tinh
trong ống nghiệm. Điều kiện này đặt ra thì việc áp dụng biện pháp
mang thai hộ xảy ra khi người phụ nữ nhờ mang thai hộ không thể
mang thai và sinh con dù họ đã áp dụng các biện pháp hỗ trợ sinh
sản, đối với họ mang thai hộ là biện pháp cuối cùng có con. Điều

kiện về cơ sở y tế kể trên là phải có ít nhất 01 năm kinh nghiệm
thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và tổng số chu kỳ
thụ tinh trong ống nghiệm trong năm tối thiểu là 300 ca. Chưa vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực khám bệnh, chữa bệnh liên quan


đến thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm. Đáp ứng nhu
cầu và bảo đảm thuận lợi cho người dân.
- Vợ chồng đang không có con chung. Quy định đặt ra điều kiện
này thì những cặp vợ chồng đã có con chung với nhau nhưng
muốn có thêm đứa con nữa nhưng người vợ không thể mang thai
và sinh con được họ muốn nhờ người mang thai hộ thì nhà nước ta
không cho phép vì việc quy định mang thai hộ vào trong Luật Hôn
nhân và Gia đình năm 2014 là để cho các cặp vợ chồng không có
con mà họ có nguyện vọng có con, quy định mang thai hộ đáp ứng
nguyện vọng cho những người không có con để thỏa khát khao có
con của họ chứ không dành cho những cặp vợ chồng đã có con
nhưng lại muốn có thêm đứa con nữa.
- Bên nhờ mang thai hộ cũng cần được tư vấn một số vấn đề về y
tế, pháp lý, tâm lý như sau: Các phương án khác ngoài việc mang
thai hộ hoặc xin con nuôi; Quy trình thực hiện mang thai hộ; Các
khó khăn có thể có khi thực hiện mang thai hộ; Tỷ lệ thành công
của kỹ thuật có thể rất thấp nếu dự trữ buồng trứng thấp hay trên
35 tuổi; Chí phí điều trị cao; Các vấn đề về tâm lý trước mắt và lâu
dài của việc nhờ mang thai hộ lên cặp vợ chồng, người thân và
bản thân đứa trẻ sau này; Khả năng đa thai. Người mang thai hộ
có thể có ý muốn giữ đứa trẻ sau sinh; Khả năng đứa trẻ bị dị tật
bẩm sinh; Nguy cơ các hành vi, thói quen của người mang thai hộ
có thể ảnh hưởng đến sức khỏe đứa trẻ.
1.3 Điều kiện đối với người mang thai hộ

- Người được nhờ mang thai hộ phải là người thân thích cùng hàng
của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ. Quy định đối tượng
người mang thai hộ là người thân thích cùng hàng thì nhà nước ta
đã giới hạn lại những người được phép mang thai hộ để tránh việc
biến tướng của việc mang thai hộ mất đi giá trị nhân văn vốn có
của nó. Người không quen biết mà họ nhận giúp thì rõ ràng rất


khó có thể vì sự chia sẻ, giúp đỡ, đa phần họ nhận giúp vì lợi ích
kinh tế hoặc một lợi ích khác. Người thân thích cùng hàng ở đây là
chị hoặc em của bên vợ hoặc chồng nhờ mang thai hộ gồm: chị
ruột, em ruột, chị họ, em họ trong phạm vi ba đời và kể cả có
quan hệ nuôi dưỡng. Quy định “cùng hàng” với vợ hoặc chồng
tránh việc làm đảo lộn thứ bậc, khó phân biệt thứ bậc gây khó
khăn trong xưng hô giữa các thành viên trong gia đình, họ hàng.
- Người được nhờ mang thai hộ đã từng sinh con và chỉ được mang
thai hộ một lần. Người phụ nữ muốn mang thai hộ thì họ phải đã
từng sinh con, không giới hạn số lần s
đối với đứa trẻ được thực hiện theo quy định của Luật này và Bộ
Luật Dân sự. Bởi lẽ, người mang thai hộ có những điều kiện phù
hợp nhất để nuôi dưỡng đứa trẻ để có thể phát triển một cách tốt
nhất và có quan hệ huyết thống nên có sự gần gũi với đứa trẻ hơn
ai hết. Trường hợp bên mang thai hộ không có nhu cầu nhận nuôi
đứa bé thì người giám hộ của đứa bé phải có trách nhiệm nuôi
dưỡng, trong trường hợp cả hai vợ chồng bên nhờ mang thai hộ
chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì đứa bé thuộc trường
hợp được giám hộ quy định tại Điều 47 Bộ luật Dân sự: “Người
chưa thành niên không còn cha, mẹ, không xác định được cha, mẹ
hoặc cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự”. Vì điều kiện của mang thai hộ là bên nhờ

mang thai hộ phải chưa có con chung nên người giám hộ đương
nhiên của đứa trẻ sẽ là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là


người giám hộ; nếu không có ai trong số những người thân thích
này có đủ điều kiện làm người giám hộ thì bác, chú, cậu, cô, dì là
người giám hộ (Điều 52 Bộ luật Dân sự). Nếu đứa bé không còn ai
thân thích là người giám hộ đương nhiên thì ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn nơi cư trú của người được giám hộ có trách nhiệm
cử người giám hộ hoặc đề nghị một tổ chức đảm nhận việc giám
hộ.
III- ĐÁNH GIÁ VẤN ĐỀ MANG THAI HỘ VÌ MỤC ĐÍCH NHÂN ĐẠO
THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH.
1.Thực trạng vấn đề mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay.
Vấn đề về kỹ thuật y khoa không còn là vấn đề khó khăn. Chỉ
khó về mặt thủ tục pháp lý. Tuy mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo đã được thừa nhận cùng với sự ra đời của Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2014 và Nghị định 10/2015/NĐ-CP của Chính phủ
ngày 28 tháng 01 năm 2015 quy định về sinh con bằng kỹ thuật
thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo. Nhưng trên thực tế vẫn có nhiều cặp vợ chồng hiếm
muộn gặp phải vấn đề nan giải về mặt pháp lý.
Một số tình huống cụ thể như sau:
- Trường hợp của chị T và anh H ở Hà Nội, lấy nhau được 5 năm
nhưng không có con, chị T sức khỏe lại yếu, hai vợ chồng đã đi
đến nhiều bệnh viện để thực hiện thụ tinh nhân tạo nhưng qua
nhiều năm vẫn không thành công và tiêu tốn nhiều tiền bạc cũng
như thời gian. Khi Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 ra đời sửa
đổi, quy định thừa nhận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo,
anh chị rất mừng rỡ khi được thắp lên hi vọng về một đứa con.

Nhưng, sau khi tìm kiếm hết những người thân thích trong họ đáp
ứng được quy định của pháp luật thì không có, nhà ít anh chị em,
người thì vừa kết hôn chưa sinh nở bao giờ, người thì quá độ tuổi


quy định, trong khi có một số người họ hàng xa và bạn bè của vợ
chồng chị T đồng ý có ý định giúp đỡ.
- Hay như trường hợp chị N ở thành phố Hồ Chí sau khi kết hôn
10 năm, chị không có con. Qua thăm khám các bác sĩ phát hiện,
chị không có tử cung bẩm sinh, tức là không thể mang thai. Tuy
nhiên, buồng trứng của chị vẫn có chức năng tốt, có thể đáp ứng
điều kiện mang thai hộ. Thật may mắn khi đúng lúc đó quy định
về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo ra đời cùng Nghị định
hướng dẫn về điều kiện mang thai hộ. Chị đã nộp hồ sơ đăng ký
để đợi xét duyệt. Sau khi hoàn tất các thủ tục pháp lý, vợ chồng
chị N cùng với chị M (chị họ của chị N) đã khám và theo dõi tại
bệnh viện. Ngay lần chuyển phôi đầu tiên, sản phụ may mắn đậu
thai với kết quả siêu âm song thai. Sau đó, sản phụ được theo dõi
kỹ lưỡng tại bệnh viện. 9 tháng sau chị M sinh một bé trai kháu
khỉnh. Không may mắn, vợ chồng chị N đều qua đời sau một tai
nạn giao thông, gia đình lại neo người, bố mẹ hai bên đều nhiều
tuổi, điều kiện kinh tế đều không ổn định, khó có thể nhận nuôi
bé. Chị M vừa cảm thông với hoàn cảnh của em mình lại rất mực
yêu quý cháu bé muốn nhận nuôi cháu nhưng lại không đủ điều
kiện được nhận nuôi vì chị đang chấp hành quyết định xử phạt
hành chính nên không tiến hành được thủ tục nhận nuôi.
- Bên cạnh một vài trường hợp gặp vướng mắc thì những niềm
hạnh phúc của những gia đình, của cặp vợ chồng hiếm muộn khi
thực hiện thành công mang thai hộ khó có thể diễn tả. Dưới đây là
một trường hợp điển hình của đôi vợ chồng ở Khánh Hòa. Sáng

ngày 18 tháng 3, bác sĩ Trần Ngọc Hải, Trưởng phòng Kế hoạch
Tổng hợp, Bệnh viện Từ Dũ cho biết, hai bé trai chào đời vào ngày
16 tháng 3. Mặc dù sinh non, chào đời ở tuần thai thứ 35, nhưng
hai bé đều có sức khỏe tốt. Đây là một trong những thành tựu của
thành phố Hồ Chí Minh cả về góc độ y khoa lẫn xã hội. Theo bác sĩ
Hải, cha mẹ ruột của 2 em bé ngụ ở Khánh Hòa. Cả hai vợ chồng


còn rất trẻ. Người mang thai là chị N (34 tuổi) cũng ngụ ở tỉnh
Khánh Hòa, là chị họ của cha em bé. Chị đã có chồng và sinh được
2 con. Vì thương em nên chị tự nguyện mang thai hộ giúp đỡ em
mình.
2. Một số bất cập, hạn chế trong vấn đề mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo
- Việc cho phép vợ chồng chỉ được nhờ mang thai hộ khi chưa có
con chung có phần bất hợp lí bởi sẽ có những trường hợp con đầu
của họ mắc một số chứng bệnh, dị tật khiến những đứa trẻ đó
không có khả năng nuôi sống bản thân và thực hiện trách nhiệm
phụng dưỡng cha, mẹ lúc về già. Sau khi có đứa con chung, vì
nguyên nhân đó khiến cho hai vợ chồng vô sinh, thì theo quy định
hộ không thể nhờ mang thai hộ đáp ứng nguyện vọng của họ.
- Quy định người mang thai hộ chỉ có thể là người thân thích để
hạn chế mang thai hộ vì mục đích thương mại là không khả quan.
Vừa hạn chế đối tượng mang thai hộ, gây thiệt thòi cho những
người mà không có người thân thích để nhờ hoặc người thân thích
không muốn hộ thì họ vẫn sẽ tiến tới con đường thuê mang thai .
Càng không có gì để đảm bảo giữa những người thân thích không
phát sinh mang thai hộ vì mục đích thương mại.
- Luật Hôn nhân gia đình quy định về điều kiện được nhờ người
mang thai hộ của là phải có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm

quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả
khi áp dụng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản. Tức là, trước khi nhờ mang
thai hộ phải sử dụng biện pháp áp dụng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản
nhưng không thành công. Chi phí cho một ca thụ tinh nhân tạo,
thụ tinh trong ống nghiệm không phải con số nhỏ, rơi vào mức vài
chục triệu đồng, cộng thêm chi phí tiếp đó mang thai hộ tổng chi
phí phải lên đến cả trăm triệu đồng. Như vậy, sẽ có rất nhiều gia


đình không đủ khả năng chi trả, điều luật không khả thi với người
nghèo, chỉ tác động lên số ít trong xã hội.
- Mặc dù lên án vấn đề mang thai hộ vì mục đích thương mại, cấm
mang thai hộ vì mục đích thương mại. Nhưng chế tài xử phạt cho
hành vi này không được đề ra, hậu quả là các hành vi không bị
ngăn chặn mà vẫn tiếp diễn, không có tính răn đe đối với người
dân dẫn đến khó áp dụng pháp luật.
3. Các giải pháp khắc phục hạn chế của vấn đề mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo
- Sớm ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể quy định này, tránh
tình trạng áp dụng không thống nhất do cách hiểu khác nhau. Có
lẽ quy định này nên được hướng dẫn thực hiện theo hướng vợ
chồng người nhờ mang thai hộ họ không có con chung hoặc từng
có con chung nhưng ở thời điểm hiện tại đứa con của họ chết hoặc
bị mất năng lực hành vi dân sự vì tính nhân văn của quy định
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là đáp ứng nguyện vọng của
những cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn muốn có con để chăm
sóc nuôi dưỡng và sau này đứa con phụng dưỡng, báo hiếu cho
những người cha người mẹ ấy.
- Quy định điều kiện người được nhờ mang thai hộ phải là người
thân thích của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ. Khiến

hạn chế đối tượng mang thai hộ, theo quy định này đối tượng
mang thai hộ có thể nói bị thu hẹp ở mức tối thiểu. Nên mở rộng
người được nhờ mang thai hộ tránh tình trạng tái diễn mang thai
hộ vì mục đích thương mại, có thể sửa quy định thành:“Ưu tiên
những người là quan hệ thân thích bên vợ hoặc bên chồng đủ điều
kiện theo quy định của pháp luật về điều kiện mang thai hộ, trong
trường hợp bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ không có
người thân thích thì có thể nhờ người khác mang thai hộ nếu có đủ
các điều kiện theo quy định của pháp luật”.


- Đối với quy định có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về
việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp
dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Quy định trên nên ghi nhận là có
xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không
thể mang thai và sinh con, chứ không cần phải áp dụng kỹ thuật
hỗ trợ sinh sản. Như vậy, chi phí thực hiện mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo sẽ giảm xuống, nhiều cặp vợ chồng vô sinh, hiếm
muộn có khả năng kinh tế thực hiện mang thai hộ nhiều hơn, thực
hiện nguyện vọng chính đáng của mình.
- Cần có những chế tài riêng, thích đáng cho những hành vi mang
thai hộ vì mục đích thương mại mới có thể phần nào ngăn chặn
được hành vi trái pháp luật này. Từ đó, tỏ rõ thái độ của pháp luật
là nghiêm cấm hành vi mang thai hộ vì mục đích thương mại, thể
hiện sự nghiêm minh của pháp luật, tạo sức răn đe giáo dục cho
người dân.
KẾT LUẬN
Qua quá trình làm tiểu luận lần này, em đã tìm hiểu được những
quy định của pháp luật về vấn đề mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo và vấn đề mang thai hộ vì mục đích nhân đạo trong thực tiễn.

Từ đó, phân tích đồng thời đánh giá những quy định của vấn đề
này. Chế định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là một chế định
mới lần đầu tiên được quy định trong Luật Hôn nhân gia đình năm
2014, tuy đáp ứng được nguyện vọng của các cặp vợ chồng vô
sinh, nhưng mặt khác còn nhiều những hạn chế mà cho đến nay
pháp luật vẫn chưa điều chỉnh được. Cần phải có những giải pháp
khắc phục nhanh chóng để vấn đề mang thai vì mục đích nhân
đạo không bị biến tướng so với tinh thần nhân văn ban đầu mà
nhà nước đặt ra cho nó.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật HNGĐ Việt Nam năm 2014.
2. Bộ Luật Dân sự nước CHXHCN Việt Nam năm 2015.
3. Nghị định của Chính phủ số 10/2015/NĐ-CP ngày 28/01/2015
quy định sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và
điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
4. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật HNGĐ Việt Nam,
Nxb. CAND, Hà Nội, 2012.
5.

/>
dich-nhan-dao


6. />7.

/>
trang-quy-dinh-cua-luat-hn-nhn-v-gia-dnh-nam-2000-qua-thuctien-giai-quyet-cc-vu-viec-ve-hn-nhn-v-gia-dn/




×