Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

SKKN giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 2016 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.49 KB, 26 trang )

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011 - 2020 đã xác định: "Đến năm
2020 nền giáo dục nước ta được đổi mới căn bản và toàn diện theo hướng chuẩn
hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế; chất lượng giáo dục
được nâng cao một cách toàn diện gồm: giáo dục đạo đức, kỹ năng sống, năng lực
sáng tạo, năng lực thực hành...."
Để thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện nhân cách con người đòi hỏi nhà
trường nói chung, giáo dục tiểu học nói riêng phải quan tâm trang bị tri thức, kỹ
năng, thái độ cho người học, đảm bảo tính cân đối giữa dạy chữ và dạy người, đặc
biệt là giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, giúp học sinh biến tri thức thành hành
động, thái độ thành hành vi, kỹ năng để sống an toàn, khỏe mạnh, thành công và
hiệu quả.
Giáo viên chủ nhiệm là cầu nối giữa tập thể học sinh với các tổ chức giáo
dục trong và ngoài nhà trường. Thông qua công tác chủ nhiệm, việc giáo dục kỹ
năng sống góp phần định hình, định hướng tính cách của học sinh. Giáo dục KNS
cần thực hiện càng sớm càng tốt đối với học sinh. Môi trường giáo dục cần được tổ
chức nhằm tạo cơ hội cho học sinh áp dụng kiến thức và kĩ năng vào các tình
huống "thực" trong cuộc sống. Giáo dục kĩ năng sống được thực hiện mọi lúc, mọi
nơi trong gia đình, trong nhà trường và cộng đồng.
Học sinh lớp Một rất ngay thơ, tâm hồn các em như một tờ giấy trắng, vẽ
lên đó đẹp hay xấu phần lớn là tác động của thầy, cô chủ nhiệm. Đặc biệt là những
năm gần đây khi các trường Tiểu học có điều kiện tổ chức cho các em học ngày hai
buổi thì phần lớn thời gian trong ngày các em được sống và giao tiếp với thầy cô
chủ nhiệm, với bạn bè. Nếu trong quãng thời gian đó các em không may gặp phải
người “thợ vẽ tồi”, người công nhân xây dựng thiếu trách nhiệm thì suốt đời “trang
nhân cách” của các em sẽ giữ lại vết hằn khó xoá.
Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh ở tiểu học trong những năm qua đã có
nhiều chuyển biến rõ nét, đã được các cấp quản lý giáo dục, các trường, đội ngũ
giáo viên cũng như cộng đồng quan tâm. Tuy nhiên, việc rèn luyện kĩ năng sống
còn đơn điệu về nội dung, phương pháp, cách thức truyền tải còn cứng nhắc, chưa


phù hợp và hiệu quả rèn luyện chưa cao. Việc thực hiện giáo dục kĩ năng sống chủ
yếu thông qua việc lồng ghép trong các tiết học, các môn học, trong việc tổ chức
các hoạt động học tập, các bài học tích hợp. Theo tôi đóng một vai trò hết sức quan
trọng và không thể thiếu trong việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
Nhận thức được tầm quan trọng của một giáo viên chủ nhiệm đặc biệt là
chủ nhiệm lớp Một tôi luôn tự nhủ, trước tiên mình phải là một tấm gương cho học
Trang 1


sinh về cách ăn nói mẫu mực, xử sự với học trò đúng mực “nghiêm túc” nhưng
“thân thiện” thực sự có lòng yêu thương thông cảm với các em sao cho các em cảm
nhận cô giáo như người mẹ thứ hai của các em, là chỗ để các em tin cậy về mặt
tinh thần. Vì thế, ở phạm vi của bài viết này, tôi mạnh dạn đưa ra sáng kiến về
“Một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp Một thông qua công
tác chủ nhiệm lớp”.

Trang 2


1.2. ĐIỂM MỚI CỦA ĐỀ TÀI
Đánh giá được một số mặt trong hoàn cảnh sống tác động tới kĩ năng sống
và thực trạng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp Một.
Giúp người giáo viên chủ nhiệm lớp có điều kiện gần gũi với học sinh, hiểu
học sinh hơn để từ đó giáo dục các em ngày càng tốt hơn.
Đề tài còn mong muốn đem lại cho học sinh lớp Một vốn tự tin ban đầu,
giúp các em có được các kĩ năng cần thiết trong cuộc sống hằng ngày như: kĩ năng tự
nhận thức bản thân, kĩ năng tự bảo vệ và phòng chống TNTT; kĩ năng giao tiếp; kĩ
năng xác định mục tiêu và lập kế hoạch; kĩ năng đảm nhận trách nhiệm góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh nói riêng và nâng cao chất lượng
cuộc sống nói chung.

Tìm ra một số biện pháp tích cực, tối ưu qua công tác chủ nhiệm lớp góp
phần nâng cao sự hình thành, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp Một, để từ đó
học sinh ý thức được giá trị của bản thân trong mối quan hệ xã hội, hiểu biết về
thể chất, tinh thần của bản thân mình; có hành vi, thói quen ứng xử có văn hóa,
hiểu biết và chấp hành pháp luật… và có đủ khả năng tự chủ, độc lập, tự tin khi
giải quyết công việc, đem lại cho các em vốn tự tin ban đầu để trang bị cho các em
những kĩ năng cần thiết làm hành trang bước vào đời.

Trang 3


2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. THỰC TRẠNG VIỆC GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC
SINH LỚP MỘT Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC:
Học tập là một nhu cầu thường trực của con người trong mọi thời đại. Học
tập không chỉ dừng lại ở các tri thức khoa học thuần túy mà còn được hiểu là mọi
tri thức về thế giới trong đó có cả những mối quan hệ, cách thức ứng xử với môi
trường xung quanh.
Kĩ năng sống là một trong những vấn đề quan trọng đối với mỗi cá nhân
trong quá trình tồn tại và phát triển.
Chương trình học hiện nay đang gặp phải nhiều chỉ trích do quá nặng nề về
kiến thức trong khi những tri thức vận dụng cho đời sống hàng ngày bị thiếu vắng.
Hơn nữa, người học đang chịu nhiều áp lực về học tập khiến cho không còn nhiều
thời gian cho các hoạt động ngoại khóa, hoạt động xã hội. Điều này dẫn đến sự
“xung đột” giữa nhận thức, thái độ và hành vi với những vấn đề xảy ra trong cuộc sống.
Mặc dù ở một số môn học, các hoạt động ngoại khóa, giáo dục kĩ năng sống đã
được đề cập đến. Tuy nhiên, do nội dung, phương pháp, cách thức truyền tải chưa phù
hợp với tâm sinh lí của đối tượng nên hiệu quả lồng ghép còn chưa cao.
Qua thực tế giảng dạy bản thân tôi thấy kĩ năng sống của học sinh chưa cao.
Chỉ một số học sinh có hành vi, thói quen, kĩ năng tốt. Còn phần lớn các em có

nhận xét, đánh giá về sự việc nhưng chưa có thái độ và cách ứng xử, cách xưng hô
chuẩn mực. Học sinh thể hiện kĩ năng còn đại khái, chưa mạnh dạn thể hiện kĩ
năng của bản thân. Các em còn ngại nói, ngại viết, khả năng tự học, tự tìm tòi
còn hạn chế.
1. Những thuận lợi, khó khăn khi rèn kĩ năng sống cho học sinh:
Trong quá trình rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 nhằm thực hiện nội
dung phong trào “Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực”, bản thân đã
gặp những thuận lợi và khó khăn sau:
1.1. Thuận lợi:
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phát động phong trào “Xây dựng trường học thân
thiện - học sinh tích cực” với những kế hoạch nhất quán từ trung ương đến địa
phương, Phòng Giáo dục và Đào tạo cũng đã triển khai tập huấn và tổ chức dạy tài
liệu sống đẹp với những biện pháp cụ thể để rèn kĩ năng sống cho học sinh một
cách chung nhất cho các khối lớp, đây chính là những định hướng giúp giáo viên
thực hiện như: Rèn luyện kĩ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc
sống, thói quen và kĩ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm; rèn luyện sức khỏe và ý
thức bảo vệ sức khỏe, kĩ năng phòng, chống tai nạn giao thông, đuối nước và các
Trang 4


tai nạn thương tích khác; rèn luyện kĩ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa bình,
phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội.
Trường học nơi bản thân tôi công tác là ngôi trường được xây mới, đã đạt
chuẩn quốc gia từ năm 2003, nhiều năm liền dạt Tập thể Lao động xuất sắc. Vì vậy
nên thuận lợi trong việc thực hiện nội dung xây dựng môi trường giáo dục sạch
đẹp, an toàn cho trẻ.
Trong quá trình theo dõi thực tế sinh hoạt và việc tham gia các hoạt động của
các em học sinh tại trường thông qua quan sát thực tế thì về cơ bản các em học sinh
đều ngoan ngoãn vâng lời thầy cô, cha mẹ, lắng nghe và tiếp thu khá tốt những nội
dung tuyên truyền, hướng dẫn thực hiện của giáo viên chủ nhiệm, tổng phụ trách

Đội, nội quy, quy định của nhà trường. Các em tham gia khá nhiệt tình các hoạt
động xã hội, từ thiện, văn hóa, văn nghệ …Đa số các em biết vui chơi đúng cách
không để xảy ra tai nạn thương tích.
Ngoài ra Ban lãnh đạo nhà trường luôn theo sát, quan tâm, hỗ trợ cho giáo
viên trong công tác giảng dạy cũng như giáo dục. Chính vì thế bản thân tôi luôn cố
gắng làm sao rèn cho các em kĩ năng sống, giúp các em có một niềm tin, phát triển
một cách toàn diện để trở thành con người năng động, sáng tạo phù hợp với một xã
hội hiện đại đang phát triển.
1.2. Khó khăn
* Đối với giáo viên
Đa số giáo viên đã nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh, điều này được thể hiện rất đầy đủ trên hồ sơ, giáo án… nhưng khi thực
hành, phần lớn giáo viên vẫn còn lúng túng trong việc tổ chức hoạt động các bài học
có nội dung giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Thông qua các hoạt động giáo dục
thích hợp, giáo viên chưa tận dụng hoặc có thực hiện song không mang lại ý nghĩa
hình thành và phát triển kĩ năng sống cho học sinh lớp mình chủ nhiệm.
Trong quá trình giáo dục giáo viên phần lớn chỉ quan tâm tới việc dạy chữ
mà chưa quan tâm nhiều tới việc dạy làm người cho học sinh. Vì vậy việc thích
ứng với xã hội, với cuộc sống xung quanh là một vấn đề khó đối với các em. Một
số giáo viên chưa chú trọng đến kĩ năng thực hành, chủ yếu hình thành trên lí
thuyết.
Một số giáo viên chủ nhiệm chưa quan tâm đúng mức đến công tác chủ
nhiệm lớp, mỗi người hiểu, tiếp cận và thực hiện một cách khác nhau vì thế cũng
coi nhẹ việc rèn các kĩ năng sống cho học sinh.

Trang 5


* Đối với học sinh
Học sinh lớp Một vừa rời trường mầm non, bắt đầu làm quen với môi trường

tiểu học, mọi sinh hoạt nề nếp đều xa lạ và chưa vào một kỉ luật nhất định; các em khá
rụt rè, chưa quen với cách học cũng như cách bày tỏ ý kiến... Khi phát biểu, nhiều em
nói không rõ ràng, trả lời trống không, và các em chưa biết nói lời cảm ơn, xin lỗi với
thầy cô giáo, với ban bè ...
Trong thực tế một số em còn có những hạn chế nhất định trong việc thực hiện
các nội dung, biết lí thuyết nhưng không biết, không có thói quen vận dụng thực
hành. Cụ thể như hầu hết khi hỏi các em học sinh “ Để giữ gìn trường lớp sạch, đẹp
em phải làm gì?” thì các em đều trả lời được là “không được vứt rác bừa bãi, vẽ bậy
lên tường …” tuy nhiên thực tế các em biết nhưng một số em vẫn không thực hành
những nội dung các em đã trả lời.
Một số em ăn quà xong bỏ vỏ ni lông vào bồn hoa thay vì bỏ vào thùng rác,
một số em còn vẽ bậy lên tường, ăn kẹo cao su nhả bã kẹo bừa bãi
Một số em đi vệ sinh bỏ giấy không đúng nơi quy định, không xả nước khi đi
vệ sinh xong …
Một số em còn mua những đồ chơi nguy hiểm để chơi mà các em không biết
được sự nguy hiểm khi chơi các trò chơi này ví dụ như súng bắn đạn cao su, kiếm,
gươm… hoặc những loại có thể gây thương tích, mất an toàn khi chơi. Một số em
còn mua các loại bánh kẹo màu mè, không có nhãn mác của Trung Quốc hoặc của
những cơ sở không đảm bảo chất lượng. Các em chưa có khả năng nhận biết để bảo
vệ sức khỏe bản thân.
Nội dung giáo dục kĩ năng sống trong tập tài liệu sống đẹp của Bộ GD & ĐT đã
giới thiệu nhiều kĩ năng cần giáo dục cho học sinh, nhưng đối với học sinh lớp Một,
các em chưa biết đọc thông, viết thạo; các em còn quá nhỏ để phân biệt kĩ năng, hành
vi và rất khó xác định được mình vừa tiếp cận kĩ năng nào và đã có được kĩ năng nào.
Điều này đã vô cùng khó khăn đối với giáo viên chủ nhiệm khi tiến hành lập kế hoạch
và tổ chức một bài học có giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Nhiều giáo viên còn
lúng túng, rất khó xác định những kĩ năng nào quan trọng, cần chọn lọc để giáo dục
cho học sinh vừa mang lại chất lượng, hiệu quả lại vừa giảm bớt áp lực cho các em.
* Đối với phụ huynh học sinh
Phần lớn phụ huynh học sinh cho rằng con em mình chỉ cần học giỏi kiến thức

mà quên hướng cho con em làm tốt hoạt động đoàn thể, hoạt động xã hội và cách ứng
xử trong gia đình, trong cuộc sống...
Phụ huynh trong lớp có một số bố mẹ quá nuông chiều, cung phụng con cái
khiến trẻ không có kĩ năng tự phục vụ bản thân. Ngược lại, một số học sinh phải ở
nhà với ông bà vì bố mẹ đi làm ăn xa, nên thiếu sự quan tâm dạy dỗ của bố mẹ.
Trang 6


Đây chính là điều kiện dễ dẫn đến các tệ nạn xã hội xâm nhập vào các em nếu các
em thiếu đi các kĩ năng sống, thiếu sự quản lí chặt chẽ của nhà trường - gia đình xã hội.
Một số phụ huynh kĩ năng giao tiếp trong gia đình còn nhiều hạn chế, xưng hô
chưa chuẩn mực nên các em bắt chước và xưng hô thiếu thiện cảm.
Từ các nguyên nhân, tình hình thực tiễn cũng như các thuận lợi và khó khăn
nêu trên, bản thân đã cố gắng tìm nhiều biện pháp rèn luyện kĩ năng sống cho học
sinh lớp Một thông qua công tác chủ nhiệm lớp nhằm đem lại hiệu quả cao trong
công tác giáo dục.
Qua tiến hành khảo sát một số kĩ năng sống cơ bản của học sinh lớp 1B (25
học sinh) đầu năm học – lần 1 kết quả như sau:
BẢNG THỐNG KÊ
MỨC ĐỘ ĐẠT ĐƯỢC CỦA CÁC KĨ NĂNG CƠ BẢN
TT

1
2
3
4
5

Kĩ năng sống cơ bản
của học sinh lớp Một


Tự nhận thức của bản
thân
Xác định mục tiêu
Bảo vệ bản thân
Đảm nhận trách nhiệm
Giao tiếp

SL
5

%
20

Có hình
thành kĩ
năng
SL
%
15
60

4
5
3
4

16
20
12

16

15
17
18
16

Kĩ năng tốt

60
68
72
64

Kĩ năng chưa
tốt
SL
5

%
20

6
3
4
5

24
12
16

20

Kết quả trên cho thấy, số học sinh có kĩ năng tốt còn ít và số học sinh có kĩ
năng chưa tốt còn nhiều. Chính vì vậy mà việc rèn kĩ năng sống cho học sinh là
vấn đề cần quan tâm. Muốn làm tốt công tác này chúng ta cần phải làm gì? Nhất là
những người làm công tác giáo dục vì nhà trường là nơi tốt nhất để hình thành
nhân cách cho học sinh. Đây cũng chính là câu hỏi mà bản thân cần phải tìm tòi
nghiên cứu. Từ những thực trạng trên thôi thúc bản thân tìm ra nguyên nhân dẫn
đến tình trạng “Học sinh chưa có kĩ năng sống” là do đâu? để từ đó tìm ra biện
pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh đạt hiệu quả.
2. Nguyên nhân của những thực trạng nói trên:
Hiện tượng trẻ em chưa linh hoạt khi phải xử lí những tình huống của cuộc
sống thực, thiếu tự tin trong giao tiếp, thiếu bản lĩnh vượt qua khó khăn, thiếu sáng
kiến và dễ nản chí ngày càng nhiều. Nguyên nhân do đâu? Phải khẳng định rằng,
Trang 7


trước hết do giáo dục. Nhiều vấn đề của xã hội hiện đại tác động đến trẻ chưa được
cập nhật, bổ sung vào chương trình giáo dục nhà trường.
Qua nhiều năm thực tế giảng dạy ở trường và làm công tác chủ nhiệm lớp, bản
thân nhận tôi thấy học sinh chưa biết giao tiếp, chưa biết ứng xử, chưa có các kĩ
năng thích nghi, thích ứng, hợp tác, chưa biết ứng phó tự bảo vệ mình khi có tình
huống xảy ra… là do sự giáo dục của gia đình và nhà trường, sự phức tạp của xã
hội hiện đại là nguyên nhân trực tiếp khiến học sinh gặp khó khăn trong xử lí với
tình huống thực của cuộc sống. Giáo viên và người lớn chưa thật coi trọng việc
giáo dục kĩ năng sống cho các em.
Việc rèn kĩ năng sống qua các tiết sinh hoạt lớp, hoạt động giáo dục, vui chơi
còn chưa được chú trọng. Công tác tuyên truyền cho các bậc cha mẹ thực hiện giáo
dục kĩ năng sống cho các em chưa nhiều.


Trang 8


2.2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH
LỚP MỘT THÔNG QUA CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP
Kĩ năng sống được giáo dục ở nhà và ở trường. Kĩ năng sống được giáo dục
trong các môn học chính khóa và ngoại khóa. Giáo dục kĩ năng sống cần bắt đầu từ
nhỏ, từ từng hành vi cá nhân đơn giản nhất, theo đó hình thành tính cách và nhân
cách. Sau đây là những biện pháp giáo dục đã được bản thân tôi áp dụng tại lớp
mình phụ trách và được đồng nghiệp cùng áp dụng có hiệu quả:
Biện pháp 1: Giáo viên chủ nhiệm luôn gần gũi và tạo mối thân thiện với
học sinh lớp Một.
Hiểu được tâm sinh lí học sinh: Sáu tuổi vào lớp Một là bước ngoặt lớn của
trẻ thơ. Môi trường học tập thay đổi một cách cơ bản: trẻ phải tập trung chú ý trong
thời gian liên tục từ 30 – 35 phút. Nhu cầu nhận thức chuyển từ hiếu kỳ, tò mò
sang tính ham hiểu biết, hứng thú khám phá. Trẻ bắt đầu kiềm chế dần tính hiếu
động, bột phát để chuyển thành tính kỷ luật, nề nếp, chấp hành nội quy học tập.
Tinh nhạy và sức bền vững, tính khéo léo của các thao tác của đôi bàn tay để tập
viết được phát triển nhanh. Tất cả những điều đó đều là thử thách đối với trẻ, muốn
trẻ vượt qua được tốt những thử thách đó thì phải cần có sự quan tâm giúp đỡ của
gia đình, nhà trường và xã hội dựa trên sự hiểu biết về tri thức khoa học.
Giáo viên chủ nhiệm cần có kiến thức hiểu biết về tâm sinh lý trẻ, nhận thức
sâu sắc về tầm quan trọng của rèn kỹ năng sống cho học sinh, có kế hoạch cụ thể,
biết cách và thường xuyên quan sát, gần gũi, thân thiện với trẻ, phát hiện khó khăn,
giúp đỡ tư vấn giúp học sinh biết cách tự giải quyết đúng được những vấn đề khúc
mắc trong cuộc sống đa dạng.
Xây dựng môi trường học thân thiện: “Môi trường học thân thiện với trẻ là
nơi thực hiện và tôn trọng quyền trẻ em, là môi trường học tập hòa nhập, nơi đó
không hề có sự phân biệt đối xử, giúp trẻ sống hòa đồng. Là môi trường giáo dục
hiệu quả, tạo điều kiện cho trẻ phát triển toàn diện, trẻ cảm thấy thoải mái, hứng

thú, giúp trẻ phát triển tự nhiên, lành mạnh trên cơ sở các mối quan hệ gần gũi,
thân thiện và hợp tác: giáo viên - giáo viên, giáo viên - học sinh, học sinh - học
sinh, phụ huynh - nhà trường - cộng đồng. Môi trường học thân thiện là môi trường
thân ái, thu hút học sinh, tạo điều kiện cho các em tham gia bày tỏ ý kiến, ý kiến
của trẻ được lắng nghe và tôn trọng. Từ đó giúp các em giải quyết những khó khăn
vướng mắc cũng như đưa ra những định hướng nhằm giúp trẻ phát triển tốt hơn.
Môi trường học thân thiện là môi trường xanh - sạch - đẹp, nơi trẻ được bảo vệ,
chăm sóc, an toàn.”
Khi vào lớp Một tất cả các hoạt động với các em đều mới mẻ. Với tính cách
nhút nhát của 1 số em thì việc trang trí một môi trường học tập thân thiện là rất cần
thiết. Chính vì thế, từng em, từng nhóm được trực tiếp tham gia các công việc làm
cụ thể hằng ngày, hằng tuần về xây dựng lớp học, trường học của mình ngày càng
Trang 9


xanh, sạch, đẹp hơn (trồng cây, chăm sóc cây, vệ sinh trường lớp...). Tạo lập, rèn
luyện cho học sinh thói quen gần gũi và quan tâm đến tập thể, môi trường, thiên
nhiên. Đến lúc các em có thể cảm nhận: có thêm chậu cây, lớp học như thêm bạn.
Hoa lá trong lớp dần trở thành góc khám phá vô tận: hình như có thêm một mầm
non, một chiếc lá sắp nhú; hình như, có chiếc lá đã già cỗi, bắt đầu ngả vàng; hình
như thân cây đã dài thêm được một đoạn … Chan hòa cùng sắc màu thiên nhiên,
lúc này những căng thẳng, mệt mỏi trong học tập vì thế sẽ giãn ra rất nhiều.
Giáo viên chủ nhiệm: Đối với trẻ tiểu học, thầy cô giáo là thần tượng, là
“mẫu” lý tưởng trực tiếp của trẻ. Thầy cô là người duy nhất đúng trên đời đối với
trẻ. Việc tiếp xúc ban đầu giữa giáo viên và học sinh lớp 1 là một dấu mốc hết sức
quan trọng để lại dấu ấn sâu đậm trong cuộc đời mỗi học sinh, bởi vậy mọi động
thái ứng xử, mọi hành vi giao tiếp (lời nói, ánh mắt, nụ cười, cầm tay, xoa đầu…)
của giáo viên đều phải hết sức mô phạm để lại trong học sinh dấu ấn về sự dịu
dàng, nhẹ nhàng, gần gũi, bao dung, sẵn sàng sẻ chia… Bởi vậy, trong buổi đầu
đón học sinh vào lớp Một giáo viên càng phải đẹp hơn, càng nhẹ nhàng, tự nhiên,

vui tươi hơn.
Cần đặc biệt coi trọng lễ khai giảng, ngày “toàn dân đưa trẻ đến trường” để
tất cả học sinh và phụ huynh lớp Một thấy được niềm hạnh phúc, sự tôn vinh, tầm
quan trọng…và biết bao điều kì vọng trông chờ con em mình bước vào lớp Một.
Hằng ngày giáo viên đến lớp sớm trò chuyện với các em, hỏi thăm về gia
đình tâm tư tình cảm, sở thích của từng em. Qua đó giáo viên nắm bắt được từng
đối tượng học sinh trong lớp từ đó đề ra biện pháp giáo dục phù hợp với các em.
Tạo không khí lớp học nhẹ nhàng, thân thiện, gần gũi giữa cô - trò, giữa trò – trò.
Cần tạo dấu ấn cho học sinh khi đến trường: Để trẻ lớp Một yêu lớp, yêu
trường, nhiệm vụ của thầy cô cần làm cho các em cảm thấy việc đi học vừa là
quyền lợi, vừa là nghĩa vụ của mình. Nỗi háo hức và tò mò khi thấy các anh chị
vào trường học mà mình chưa được vào cũng là một động lực để bé cảm thấy thích
trường học.
Với các em, trường tiểu học là nơi hoàn toàn lạ lẫm. Nó có thể vô cùng bí ẩn
nhưng nó cũng có thể rất dễ thương. Giáo viên cần cho các em biết rằng, bước vào
trường Tiểu học chính là mở ra cánh cửa cổ tích, ở đây có biết bao điều kì thú đang
chờ đón các em khám phá. Nó không chỉ dừng lại ở những hoạt động vui chơi bổ
ích mà quan trọng hơn ở đây các em sẽ được giải đáp những thắc mắc, sẽ được tìm
hiểu những cái mà các em chưa bao giờ nghĩ đến.

Trang 10


Biện pháp 2: Tổ chức hiệu quả tiêt sinh hoạt tập thể theo mô hình tự
quản, rèn kĩ năng sống thông qua các chủ đề ở tài liệu Sống đẹp lớp Một.
Tổ chức tiêt sinh hoạt tập thể theo mô hình tự quản: Học sinh lớp Một rất
hồn nhiên, trong sáng, các em thích vận động, tìm tòi và làm theo cái mới, nhưng
cũng rất dể chán nản khi không đạt được mục đích hoặc không được động viên kịp
thời. Các em cũng thích sôi nổi và hứng thú khi tham gia các phong trào mang tính
nghệ thuật như múa, hát, kể chuyện, bày tỏ ý kiến, diễn kịch trước lớp, các em

thích khẳng định mình, thích được biểu dương trước lớp.
Tiết sinh hoạt tập thể giúp các em kĩ năng: Biết giao tiếp ứng xử có văn hoá,
biết nhận ra khuyết điểm và sửa chữa khuyết điểm.
Chính vì thế mà tiết sinh hoạt tập thể là cơ hội hội nhập những khả năng sáng
tạo, giúp các em bộc lộ năng lực trước thầy cô, bạn bè. Làm cho các em biết kính
mến thầy cô và đoàn kết gắn bó, yêu thương giúp đỡ nhau. Đồng thời sửa chữa
khắc phục những tồn tại của bản thân, phát huy những thành tích đạt được.
Để hoạt động này được hiệu quả thì ngay từ đầu năm học GVCN cần phải
xây dựng Hội đồng tự quản của lớp. Đồng thời có bồi dưỡng kĩ năng tự quản của
các ban trong lớp phù hợp khả năng điều hành của học sinh lớp Một. GVCN cần
phát hiện và tuyên dương, động viên kịp thời các học sinh đã có sự cố gắng phấn
đấu trong tuần. Cần phê bình nhẹ nhàng nhưng cương quyết những cá nhân thiếu
tính thần trách nhiệm với tập thể. Đảm bảo được tính thuyết phục, thu hút và ràng
buộc học sinh. Chính vì thế việc động viên hay phê bình cần phải kịp thời, nhẹ
nhàng, thuyết phục mới đạt được hiệu quả.
Để tránh sự nhàm chán, căng thẳng của tiết sinh hoạt ngoài thái độ nhẹ
nhàng GVCN cần định hướng cho lớp có những tiết mục văn nghệ thư giãn như:
hát, kể chuyện vui, tấu hài, những trò chơi nhỏ… đan xen hợp lý, linh hoạt giữa
các hoạt động. Có như thế giúp các em cảm thấy nhẹ nhàng và thích thú tăng thêm
hiệu quả giờ sinh hoạt lớp.
Tăng cường những nội dung sinh hoạt có liên quan đến các công việc chung
của lớp, phù hợp với nhu cầu và sở thích của học sinh. Thu hút tối đa sự tham gia
của mọi học sinh dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ cố vấn của giáo viên nhằm tăng
cường vai trò tự quản của học sinh. Tạo môi trường chung để học sinh cùng trải
nghiệm những xúc cảm tích cực, tăng cường giao lưu giữa các em, tạo ra môi
trường lớp học mang bầu không khí tin tưởng, thân mật, cởi mở, sẵn
sàng giúp đỡ và lắng nghe ý kến của nhau. Từ đó tình cảm gắn bó, chia sẻ giữa
các em được hình thành và củng cố.

Trang 11



Rèn kĩ năng sống thông qua các chủ đề ở tài liệu Sống đẹp lớp Một: Tài
liệu sống đẹp giúp các em hình thành các năng lực, phẩm chất như: Tự phục vụ, tự
quản; Giao tiếp, hợp tác; Giải quyết vấn đề trong cuộc sống …; Tích cực tham gia
các hoạt động giáo dục; Tự tin, tự trọng, tự chịu trách nhiệm; Trung thực, đoàn kết;
Yêu gia đình, bạn bè và những người khác; yêu trường, yêu quê hương, đất nước…
Các loại hình hoạt động trong sách rất đa dạng, phong phú. Sách được biên soạn
theo 6 chủ đề, được chia thành 2 tập. các chủ đề đó lại được xây dựng xoạy quanh
cuộc sống hằng ngày của các em. Các chủ đề đó lại được cấu trúc đồng tâm, thống
nhất phù hợp tâm lí lứa tuổi và đặc điểm nhận thức của học sinh:
TT

1

CHỦ ĐỀ

Em và gia đình

NỘI DUNG CHÍNH

* Kĩ năng tự nhận thức bản thân:
- HS trong mối quan hệ với người thân trong gia đình;
- HS với các hoạt động khi ở nhà.

2

Một ngày của em

* Kĩ năng xác định mục tiêu:

- HS rèn luyện kĩ năng đặt mục tiêu và thực hiện kế hoạch
trong ngày

3

Em sống khoẻ

* Kĩ năng bảo vệ bản thân:
- Tập thể dục; Chế độ ăn uống; Vệ sinh hằng ngày.

4

Việc nhà của em

* Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm:
- Trách nhiệm của HS với những công việc trong gia đình

5

Tiếng nói của em

* Kĩ năng giao tiếp:
- HS thể hiện cảm xúc qua lời nói, biết lắng nghe người khác.

6

An toàn khi em

* Kĩ năng bảo vệ bản thân:


ở nhà

- HS nhận thức những mối nguy hiểm xảy ra khi ở nhà
- Phòng tránh nguy cơ bị ngã, bị bỏng, bị các vật sắc nhọn đâm.

Giáo dục kĩ năng sống phải tuân thủ các nguyên tắc:
Tương tác
Thời gian môi trường giáo dục
Trải nghiệm
Tiến trình
Thay đổi hành vi
Tương tác: Thông qua hoạt động học tập hoặc các hoạt động xã hội trong
nhà trường, nhiều kĩ năng sống sẽ được hình thành trong quá trình HS tương tác
Trang 12


với bạn cùng học và những người xung quanh (kĩ năng thương lượng, kĩ năng giải
quyết vấn đề...). Do đó, tổ chức các hoạt động giáo dục có tính tương tác, HS sẽ có
dịp thể hiện các ý tưởng của mình, xem xét ý tưởng của người khác, được đánh giá
và xem xét lại những kinh nghiệm sống của mình trước đây theo một cách nhìn
nhận khác.
Trải nghiệm: Chỉ được hình thành khi người học được trải nghiệm qua các
tình huống thực tế. HS chỉ có kĩ năng khi các em tự làm việc đó, chứ không chỉ nói
về việc đó. Kinh nghiệm có được khi HS được hành động trong các tình huống đa
dạng giúp các em dễ dàng sử dụng và điều chỉnh các kĩ năng phù hợp với điều kiện
thực tế.
Vì vậy, việc tổ chức các hoạt động giáo dục có tính chất trải nghiệm trong nhà
trường tạo cơ hội quan trọng để giáo dục KNS hiệu quả.
Tiến trình: Giáo dục KNS đòi hỏi phải có cả quá trình:
Nhận thức - hình thành thái độ - thay đổi hành vi. Đây là một quá trình mà

mỗi yếu tố có thể là khởi đầu của một chu trình mới.
Do đó, nhà giáo dục có thể tác động lên bất kì khâu nào trong chu trình trên: thay
đổi thái độ dẫn đến mong muốn thay đổi nhận thức và hành vi hoặc hành vi thay
đổi tạo nên sự thay đổi nhận thức và thái độ.
Thay đổi hành vi: Giáo dục KNS thúc đẩy người học thay đổi hay định
hướng lại các giá trị, thái độ và hành động của mình. Thay đổi hành vi, thái độ và
giá trị ở từng con người là một quá trình khó khăn. Có thời điểm người học lại
quay trở lại những thái độ, hành vi hoặc giá trị trước.
Thời gian - môi trường giáo dục: Giáo dục KNS cần thực hiện càng sớm
càng tốt đối với học sinh. Môi trường giáo dục cần được tổ chức nhằm tạo cơ hội
cho HS áp dụng kiến thức và kĩ năng vào các tình huống "thực" trong cuộc sống.
Giáo dục KNS được thực hiện mọi lúc, mọi nơi trong gia đình, trong nhà trường và
cộng đồng. Người tổ chức giáo dục KNS có thể là bố mẹ, là thầy cô giáo, là bạn
cùng học hay các thành viên trong cộng đồng. Trong nhà trường phổ thông, giáo
dục KNS được thực hiện trong các giờ học, trong các hoạt động lao động, hoạt
động đoàn thể - xã hội, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp và các hoạt động giáo
dục khác.
Biện pháp 3: Phối kết hợp với giáo viên bộ môn để giáo dục kĩ năng bơi
an toàn và phòng chống đuối nước; kĩ năng phòng tránh tai nạn bom mìn cho
học sinh.
Do điều kiện tự nhiên huyện Lệ Thủy có hệ thống sông ngòi, ao hồ dày đặc,
lượng nước thay đổi theo mùa. Lũ lụt thiên tai xảy ra thường xuyên. Nhiều địa bàn
Trang 13


là vùng chiêm trũng của huyện Lệ Thủy thường bị ngập lụt dài ngày, nguy cơ xảy
ra tai nạn đuối nước trong học sinh cao.
Việc phổ cập dạy bơi, dạy các kĩ năng an toàn dưới nước cho học sinh là một
trong những giải pháp cơ bản để giảm thiểu tai nạn đuối nước. Bởi vậy phải nâng
cao nhận thức và trách nhiệm cho phụ huynh học sinh về thực hiện các biện pháp

để kiểm soát, hạn chế tình trạng tai nạn đuối nước nhằm tạo môi trường học tập,
vui chơi an toàn cho học sinh; giáo dục học sinh nắm chắc các kĩ năng, kĩ thuật bơi
an toàn khả năng sống sót trong môi trường nước.
Môn bơi lội được phổ cập rộng rãi như một môn học trong nhà trường, nhằm
trang bị cho học sinh những kĩ năng sống sót khi gặp trường hợp nguy cấp trong
môi trường nước.
* Chương trình giáo dục bơi an toàn và phòng chống đuối nước theo CV
26/QĐ - GD&ĐT:
+ Tuần 23: Dạy khái niệm, lợi ích, tác dụng môn bơi lội.
Tầm quan trọng của việc biết bơi, tình trạng học sinh biết bơi, tai
nạn đuối nước ở Quảng Bình, một số vận động viên tiêu biểu trong bơi lội.
Cho học sinh xem một số phóng sự(một số hình ảnh) về đuối
nước, thực trạng học bơi của học sinh hiện nay.
+ Tuần 24: Phòng tránh đuối nước.
+ Tuần 25: Cách nhận biết các khu vực nguy hiểm có thể gây đuối nước.
+ Tuần 26: Kiểm tra các kiến thức về an toàn dưới nước.
Tổ chức tuyên truyền, phổ biến Kế hoạch Phổ cập bơi cho toàn thể học sinh
và phụ huynh học sinh trong việc tiến tới phổ cập bơi.
Vận động phụ huynh tự dạy bơi cho con em mình (trong đó có yêu cầu phụ
huynh cam kết về đảm bảo an toàn tuyệt đối cho học sinh khi tập bơi). Đây là giải
pháp an toàn và hiệu quả nhất.
Luyện tập thông qua Giáo dục kĩ năng an toàn dưới nước ở nhà trường.
* Chương trình tích hợp dạy học phòng tránh tai nạn bom mìn được thực
hiện trong môn Tự nhiên & xã hội và môn đạo đức. Cụ thể:
Môn Tự nhiên và xã hội:
Bài 3: Nhận biết các vật xung quanh
Mục tiêu: HS có khả năng nêu được đặc điểm chung cảu bom mìn, vật liệu
chưa nổ và sự nguy hiểm của chúng.

Trang 14



Nội dung: Học sinh được quan sát tranh ảnh bom mìn và vật liệu chưa nổ.
Học sinh biết được sự nguy hiểm của bom mìn và vật liệu chưa nổ.
Bài 18, 19: Cuộc sống xung quanh
Mục tiêu: Học sinh có khả năng nhận biết được nơi có thể có bom mìn. Biết
ói về sự nguy hiểm của công việc buôn bán, rà tìm phế liệu chiến tranh. Biết tránh
xa nơi có biển báo nguy hiểm.
Nội dung: Một số người dân sinh sống bằng việc rà tìm phế liệu chiến tranh
sót lại và sự nguy hiểm cỉa công việc đó.
Bài 20: An toàn trên đường đi học
Mục tiêu: Học sinh có khả năng nhận biết cảnh báo nguy hiểm và kiên quyết
không đi vào nơi có bển báo nguy hiểm để phòng tránh tai nạn bom mìn.
Nội dung: H
ọc sinh biết ra quyết định có đi qua hay không nơi có biển báo nguy hiểm.
Môn Đạo đức:
Bài 9: Lễ phép vâng lời thầy cô giáo.
Mục tiêu: Biết tránh xa vật lạ nghi là bom mìn và vật liệu chưa nổ. Biết
tránh xa nơi người lớn cưa om đạn, tránh xa khu vực có biển báo bom mìn, không
đứng xem người khác ném đá vào vật lạ nghi bom mìn.
Nội dung: Giới thiệu các khu vực nguy hiểm và các quy tắc phòng tránh tai
nạn bom mìn như: Tránh xa khu vực có biển báo bom mìn; không đứng xem người
khác ném đá vào vật lạ nghi bom mìn.
Biện pháp 4: Giáo viên chủ nhiệm tổ chức giáo dục lao động, giáo dục
sức khỏe, hướng dẫn học sinh vui chơi đúng cách, thực hiện tốt an toàn giao
thông.
Ai cũng biết rằng sức khỏe là tài sản vô cùng quí báu của mỗi con người.
Học tập tốt, đạo đức tốt là những điều học sinh phải đạt được thì rèn luyện sức
khỏe tốt cho học sinh là điều phải được đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên có được một
sức khỏe tốt và bảo vệ được nó thì thật không dễ. Dù vậy không có nghĩa là không

làm được, nhiều khi sức khỏe của các em phụ thuộc vào những điều rất giản dị.
Hiệu quả đào tạo kĩ năng sống không đo đếm được bằng những con số chính xác
nhưng được thể hiện bằng những biểu hiện cụ thể. Do đó, bản thân đã chú ý rèn
luyện sức khoẻ và ý thức bảo vệ sức khoẻ, kĩ năng phòng chống tai nạn giao thông
và các thương tích khác . Đó chính là giáo dục một lối sống khoa học.
Ví dụ: để các em có kĩ năng phòng chống tai nạn giao thông và các thương
tích khác, bản thân đã giáo dục các em thông qua việc tích hợp nội dung “ An toàn
Trang 15


giao thông” như đưa ra những tình huống cho các em xử lí. Chẳng hạn: “Trẻ em
dưới 7 tuổi phải đi cùng với ai khi đi trên đường và khi qua đường? Đi bộ qua
đường em phải đi ở đâu?”; “Khi đi bộ em đi ở đâu? Nếu đường không có vỉa hè thì
thế nào?”; “Em có nên chơi đùa trên đưòng phố không? Có leo trèo qua dải phân
cách và chơi gần dải phân cách không? Vì sao?”; “Khi ngồi trên xe máy em phải
như thế nào? “Các em đã nhìn thấy tai nạn trên đường chưa? Theo các em vì sao
tai nạn xảy ra?”;...
Giáo dục cho các em tránh các tai nạn trên đường: không được chạy lao ra
đường, không được bám bên ngoài ô tô, không được thò tay, chân, đầu ra ngoài khi
đi trên tàu, xe, ghe, đò,...Như vậy, các em có thể tự lập, xử lí được những vấn đề
đơn giản khi gặp phải.
Nhắc nhở học sinh không sờ tay vào lỗ ổ cắm điện; không leo lên lan can
của nhà cao tầng; không xô đẩy nhau khi đi lên xuống cầu thang; không chơi dao,
kéo và các đồ vật sắc nhọn …
Giáo dục học sinh một số tình huống thường gặp trong trường như kỹ năng
xử lý tình huống khi thấy bạn bị té chảy máu. Chẳng hạn: Gặp tình huống trên thì
thứ nhất các em phải báo ngay cho thầy cô biết, thứ hai là phải khẩn trương đưa
bạn vào phòng y tế. Như vậy khi gặp các tình huống này xảy ra vì các em đã học
nên các em có thể xử lý được ngay.
Sau những giờ học căng thẳng và mệt mỏi thì giờ chơi là giờ các em được

vui chơi thoải mái, chơi những gì mà các em thích. Chính vì vậy mà đã nẩy sinh
bao nhiêu vấn đề làm cho người làm công tác chủ nhiệm phải hết sức quan tâm ,
tìm ra những giải pháp phù hợp để giờ chơi thực sự trở thành một giờ chơi lành
mạnh và bổ ích. Qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm tôi đã xây dựng cho mình
kế hoạch để hướng dẫn các em có giờ chơi thật thoải mái, lành mạnh bổ ích cụ thể
như sau: Ngay từ đầu năm tôi đã kết hợp với nhà trường và ban phụ huynh của lớp
chuẩn bị cho các con một số vật dụng cần thiết phục vụ cho giờ chơi như: giấy vẽ,
bút màu, phấn màu, bộ xếp hình, que tính, sách, báo, truyện, những viên sỏi trắng
để chơi trò ô ăn quan .... Đến giờ chơi tôi cho các em tự chọn các vật dụng để phục
vụ trò chơi mà em thích . Với trò chơi mà các em chưa biết cách chơi tôi đã hướng
dẫn và chơi cùng các em .
Ví dụ: Với những trò chơi nhảy dây hầu như các con đã biết nên các con có
thể tự chơi. Nhưng với các trò chơi như xếp hình, sử dụng que tính, bút màu, phấn
màu, giấy vẽ...tôi sẽ hướng dẫn và có thể gợi mở ý tưởng cho các em . Với bộ xếp
hình: có thể chơi cá nhân, hay một nhóm từ 2 đến 3 em. Với bút màu, phấn màu và
giấy vẽ: các em có thể vẽ những tranh mình yêu thích trên giấy hoặc trên bảng
lớp....Giáo viên có thể định hướng cho các con vẽ theo chủ điểm hàng tháng như
tháng 9 về ngôi trường thân yêu; tháng 10 vẽ về chủ đề an toàn giao thông; tháng
Trang 16


11 vẽ về ngày nhà giáo Việt Nam; tháng 12 vẽ về chú bộ đội ... Qua hoạt động này
rèn cho các em nhiều kĩ năng như: trình bày, trang trí,…các em rất nhiệt tình, đoàn
kết và hợp tác nhau rất tốt. Với que tính: Các em có thể thỏa thích xếp các hình đã
học, xếp hình ngôi nhà nhiều tầng ... Với những viên sỏi trắng tôi đã hướng dẫn các
em chơi trò ô ăn quan.... Thông qua các trò chơi như vậy các em được thả tâm hồn
mình vào các trò chơi, các em say sưa hứng thú, thỏa sức sáng tạo, thư giãn đầu óc
sau các giờ học. Qua đó các em được giao lưu , học hỏi và biết thêm bao điều mới
lạ.
Ngoài các giờ hoạt động tập thể dạy theo các chủ điểm của từng tuần, từng

tháng, thì hàng tuần tôi dành một khoảng thời gian nhất định để trò chuyện với các
em để được nghe chính các em nói, chính các em kể cho tôi nghe những tâm tư
nguyện vọng của mình để từ đó tôi hiểu và gần gũi các em hơn.
Để rèn kĩ năng sống có hiệu quả bản thân còn vận dụng thông qua các hoạt
động ngoài giờ học. Đó là qua các buổi ngoại khóa của trường, lớp. Những buổi
chào cờ, bản thân luôn khuyến khích các em xung phong trả lời những câu hỏi mà
cô Tổng phụ trách hay hỏi. Luôn lắng nghe các nội dung, hoạt động cần làm trong
tuần. Nhờ vậy các em mạnh dạn dần và thực hiện tốt các phong trào
Ngoài ra, vì học sinh lớp Một chưa đọc thông viết thạo nên giáo viên cần
tranh thủ đọc sách cho các em nghe trong mọi tình huống như những lúc sinh hoạt
đầu giờ, hoặc đọc sách các em nghe trong giờ sinh hoạt lớp. Tăng cường kể cho
các em nghe các câu chuyện cổ tích, câu chuyện trong bài tập đọc, bài thơ,…để
qua đó rèn luyện kĩ năng sống cho các em, giúp các em hoàn thiện mình, dạy các
em yêu thương bạn bè, yêu thương con người.Tạo hứng thú cho các em qua các
truyện bằng tranh tùy theo lứa tuổi, gợi mở tính tò mò, ham học hỏi, phát triển khả
năng thấu hiểu ở trẻ.
Bên cạnh đó, để rèn kĩ năng tự phục vụ, biết lao động vừa sức, biết trang trí
lớp học xanh - sạch - đẹp, giúp các em yêu trường, yêu lớp hơn, bản thân đã hướng
dẫn các em trồng cây xanh và chăm sóc cây xanh trong lớp hàng ngày.
Biện pháp 5: Tăng cường công tác phối hợp giữa gia đình - nhà trườngxã hội trong hoạt động Giáo dục kĩ năng sống cho các em. Tăng cường công tác
kiểm tra, đánh giá, thi đua khen thưởng.
Để động viên, khuyến khích học sinh thực hiện tốt việc rèn luyện các kĩ
năng, ngay từ buổi họp phụ huynh đầu năm học bản thân đưa ra kế hoạch rèn luyện
cho các em lớp mình phụ trách. Trao đổi với Ban chấp hành hội phụ huynh cùng
phối hợp và dành một khoản riêng để khen thưởng kịp thời động viên các em để
tạo cho các em có một động cơ tốt trong việc duy trì thực hiện. Bản thân theo dõi
hằng ngày, các em có biểu hiện tốt thì ghi vào sổ tay, trong tiết sinh hoạt cuối tuần
cho các em bình chọn những bạn thực hiện tốt sẽ được một bông hoa. Vì vậy, các
Trang 17



em thi đua nhau “ nói lời hay, làm việc tốt” và cuối tuần nào cũng có rất nhiều em
được bông hoa niềm vui.
Phụ huynh học sinh là một thành tố không thể thiếu trong ba thành tố để thực
hiện công tác giáo dục học sinh đó là Nhà trường – Gia đình – Xã hội.
Thực tế nhiều cha mẹ vì quá yêu thương mà bao bọc, làm hết tất cả mọi việc
cho các em mà không biết rằng điều đó vô tình dẫn đến việc trẻ thiếu hụt kỹ năng
sống, không biết cách tự phục vụ bản thân, đôi khi việc giáo dục kỹ năng sống
cũng chưa được phụ huynh học sinh quan tâm đúng mức điều này khiến các em
gặp phải khó khăn khi trưởng thành.
Vì vậy trong các cuộc họp phụ huynh học sinh lớp, họp phụ huynh học sinh
trường cùng với việc triển khai các nội dung khác thì nhà trường đặc biệt chú ý đến
vấn đề phối hợp để giáo dục kỹ năng sống cho các em. Có thể nói rằng gia đình là
cái nôi giáo dục tối quan trọng để hình thành kỹ năng sống cho các em. Một số nội
dung nhà trường trao đổi, phối hợp để phụ huynh thực hiện như:
Cô giáo, cha mẹ luôn khuyến khích các em nói lên quan điểm của mình, nói
chuyện với các thành viên trong lớp, trong gia đình về cảm giác và về những lựa
chọn của mình, cần giúp các em hiểu rằng nên có thông số để theo đó mà lựa chọn,
cố gắng không chỉ trích các quyết định của các em. Việc này sẽ hình thành kĩ năng
tự kiểm soát bản thân, rèn luyện tính tự tin cho các em khi tham gia các hoạt động
và các buổi thảo luận tại trường sau này.
Cô giáo, cha mẹ giúp các em phát triển sở thích, ý thích của mình và đảm bảo
rằng người lớn có thể cung cấp thêm phương tiện để các em thực hiện ý thích đó.
Ví dụ: Một số học sinh thích vẽ, ngoài việc cho các em học năng khiếu vẽ
thì cô giáo, cha mẹ có thể cho các em thêm bút màu, giấy vẽ và hãy chỉ cho các em
cách lưu giữ các bức tranh để tạo thành một bộ sưu tập tranh vẽ của chính các em
hoặc triển lãm tranh của các em ở góc nhỏ trong nhà, trong lớp. Hay học sinh thích
hát dân ca thì tạo điều kiện để các em được tham gia các lớp bồi dưỡng thêm để
các em có đủ tự tin biểu diễn trên sân khấu trong những ngày lễ lớn của trường tổ
chức: 20/11; Văn nghệ “ Mừng đảng – Mừng xuân”;...

Cô giáo, cha mẹ cần dạy các em những nghi thức văn hóa trong ăn uống,
biết cách sử dụng các đồ dùng ăn uống; Cụ thể: Các em được làm quen với những
đồ dùng, vật dụng khác nhau, (bộ đồ bếp, bộ đồ ăn, bộ đồ uống). Sự sạch sẽ, gọn
gàng, một thói quen nề nếp, sự sắp đặt ngăn nắp, ngay ngắn những bộ đồ dùng, vật
dụng, thái độ ăn uống từ tốn, không vội vã, không khí cởi mở, thoải mái và đầm
ấm, những cuộc trao đổi nhẹ nhàng, dễ chịu… tất cả những yếu tố trên sẽ giúp các
em có thói quen tốt để hình thành kĩ năng tự phục vụ và ý nghĩa hơn là kỹ năng
sống tự lập sau này.
Trang 18


Giáo viên chủ nhiệm gợi ý phụ huynh học sinh xây dựng và kiểm tra việc
thực hiện thời gian biểu ở nhà : Trao đổi với phụ huynh học sinh về quy định thời
gian biểu trong ngày cho các em. Giáo viên chủ nhiệm sẽ chịu trách nhiệm hướng
dẫn các em thực hiện thời gian biểu phù hợp. Ví dụ thời gian biểu buổi sáng ngày
bình thường của một học sinh như sáng 6 giờ dậy, đánh răng, rửa mặt, quét nhà, ăn
sáng sau đó đi học … sẽ phối hợp theo dõi, động viên, nhắc nhở các em thực hiện
theo thời gian biểu. Vào ngày thứ bảy, chủ nhật các em được nghỉ thì cùng với mẹ
nhặt rau nấu cơm, các em học sinh lớp lớn hơn có thể cắm cơm phụ cha mẹ, chế
biến một số món ăn đơn giản; dọn dẹp nhà cửa, lau bàn ghế …
Phối hợp giáo dục các em về các ứng xử văn hóa. Ví dụ như có khách đến
nhà, hoặc đi chơi nhà người khác các em phải thưa người lớn tuổi hoặc đơn giản ở
gia đình khi ăn cơm các em phải so đũa cho mọi người, cha mẹ ăn xong phải lấy
tăm cho cha mẹ …
Phối hợp trong việc nêu gương: Kỹ năng sống thì không phải chỉ học trong
nhà trường. Nhà trường chỉ quản lý học sinh trong thời gian ở trường còn khi ra
đường, về nhà thì cha mẹ mới là người thầy thực sự. Một thực tế là ở trường, cô
giáo dạy không được vứt rác bừa bãi mà phải cho vào thùng rác nhưng ngay trước
mặt con, nhiều phụ huynh cầm cả bịch nước mía vừa uống xong vứt xuống đường;
ở trường cô dạy không được vượt đèn đỏ tuy nhiên khi chở các em một số phụ

huynh học sinh vượt đèn đỏ….. Vì vậy việc phối hợp với phụ huynh là cực kỳ
quan trọng. Nhà trường và gia đình phải cùng chung tay chỉ bảo các em, đồng
thời phụ huynh học sinh cũng phải là tấm gương cho các em noi theo.
Phối hợp trong việc tạo điều kiện cho các em tham gia các hoạt động ngoại
khóa: Vận động cha mẹ học sinh hỗ trợ và đồng ý cho các em tham gia các hoạt
động ngoại khóa vào các ngày nghỉ như ngày chủ nhật xanh, Hội khỏe Phù Đổng,
biễu diễn văn nghệ, hưởng ứng các cuộc đi tham quan mà nhà trường tổ chức, hỗ
trợ kinh phí cho việc khen thưởng, động viên các phong trào, phối hợp tổ chức lao
động định kỳ….
Công tác phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội góp phần quan
trọng trong sự thành công của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Nhà
trường là lực lượng then chốt trong công tác phối hợp này và để đạt được hiệu quả
thì nhà trường phải có những định hướng cụ thể trong công tác phối hợp trong đó
công tác tuyên truyền, vận động Ban đại diện cha mẹ học sinh, phụ huynh học sinh
đóng vai trò tối quan trọng để thực hiện các mục tiêu đã đề ra.
Huy động nguồn lực là một trong những nhân tố quan trọng để tổ chức có
hiệu quả hoạt động Giáo dục kĩ năng sống. Để những việc làm trên có tính khả thi
tôi chọn chương trình trọng điểm, cụ thể là tổ chức các hoạt động chào mừng ngày
20/11 với nội dung phong phú, hấp dẫn, gây sự chú ý cho học sinh, phụ huynh.
Trang 19


Thông qua đó khẳng định hoạt động Giáo dục kĩ năng sống có tác dụng to lớn
nhằm dẫn dắt các em đi tới mục tiêu giáo dục, tạo môi trường, tạo điều kiện để học
sinh trải nghiệm, rèn luyện kĩ năng sống. Từ đó, dễ dàng vận động phụ huynh, các
tổ chức chính trị ở địa phương, các doanh nghiệp tư nhân, các nhà hảo tâm trên địa
bàn ủng hộ vật chất, tinh thần, để tổ chức tốt các hoạt động Giáo dục kĩ năng sống.
Tham mưu nhà trường, Ban đại diện cha mẹ học sinh để xây dựng quỹ hỗ
trợ cho hoạt động Giáo dục kĩ năng sống.
Đánh giá kết quả hoạt động Giáo dục kĩ năng sống là một khâu không thể

thiếu trong quá trình tổ chức hoạt động Giáo dục kĩ năng sống nhằm xem xét, nhận
định những kết quả đạt được về mặt kiến thức, kỹ năng, hành vi, thái độ ứng xử,
những tiến bộ và những hạn chế của học sinh sau mỗi quá trình hoạt động.
Tóm lại, bằng nhiều hình thức khác nhau, bản thân luôn cố gắng rèn cho học
sinh những kĩ năng cơ bản có hiệu quả, thể hiện rõ nét ở sự tiến bộ của học sinh
trong nhận thức, trong cư xử, đối xử tốt với bạn bè, người lớn và linh hoạt xử lí
trong mọi trường hợp.
Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua học tập, sinh hoạt ở nhà trường
là điều hết sức cần thiết cho tương lai các em. Để đạt được điều đó, giáo viên chủ
nhiệm cần kiên trì, quyết tâm thực hiện từng bước và liên tục trong suốt quá trình
giảng dạy.
Trong sinh hoạt hằng ngày, giáo viên chủ nhiệm cần chú ý nâng dần kĩ năng
giao tiếp - tự nhận thức cho các em như biết sử dụng đúng các quy tắc: chào hỏi,
xin phép, cảm ơn, xin lỗi, yêu cầu… Biết cả thông cảm chia sẻ buồn vui với mọi
người.
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp Một
nói riêng là điều rất cần thiết. Nó trang bị đầy đủ những kĩ năng cho các em để các
em có được cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Đồng thời giúp những em có thói
quen xấu và hành vi tiêu cực trở thành con ngoan, trò giỏi và là người có ích cho
xã hội sau này.

Trang 20


2.3. HIỆU QUẢ ÁP DỤNG:
*Về phía học sinh
Thông qua các biện pháp giáo dục thì các em từng bước được bồi dưỡng
thêm các kỹ năng sống. Các em tự tin, chủ động khi tham gia các hoạt động tập
thể. Các em biết chăm sóc giữ gìn sức khỏe cho bản thân, biết giữ gìn vệ sinh cá
nhân, vệ sinh lớp học, vệ sinh sân trường, đi vệ sinh đúng cách … góp phần làm

cho khuôn viên trường, lớp học luôn sạch, đẹp, thoáng mát. Các em duy trì và làm
các công việc trong lớp với tinh thần tự giác rất cao. Các em biết tham gia giao
thông đúng luật, vui chơi đúng cách không để xảy ra tai nạn thương tích…
Khi về nhà, các em có ý thức, thái độ khác với mọi người trong gia đình. Khi
nói năng tự tin, lịch sự, nhã nhặn, hoà đồng, vui vẻ với bạn bè, lễ phép với thầy cô.
Các em đã biết cách xưng hô thân thiện; Biết tránh những người lạ, không để cho
người lạ tiếp cận vv... Ngoài ra, các em còn biết lập cho mình những kế hoạch học
tập ở lớp, ở nhà và cả kế hoạch giúp đỡ những bạn học chậm. So với đầu năm học
những học sinh thụ động nhút nhát, các em đã dần mạnh dạn hơn, tự tin hơn, thân
ái mạnh dạn giao tiếp với bạn bè. Mối quan hệ bạn bè trong lớp ngày càng tốt đẹp
hơn, các em luôn biết quan tâm, chia sẻ và giúp đỡ nhau trong học tập.
Qua tiến hành khảo sát một số kĩ năng sống cơ bản của học sinh lớp 1B (25
học sinh) vào cuối học kì 1 – lần 2 kết quả so với đầu năm thì các em tiến bộ rất
nhiều. Cụ thể như sau:
BẢNG THỐNG KÊ
MỨC ĐỘ ĐẠT ĐƯỢC CỦA CÁC KĨ NĂNG CƠ BẢN
TT

1
2
3
4
5

Kĩ năng sống cơ bản
của học sinh lớp Một

Tự nhận thức của bản
thân
Xác định mục tiêu

Bảo vệ bản thân
Đảm nhận trách nhiệm
Giao tiếp

SL
9

%
36

Có hình
thành kĩ
năng
SL
%
13
52

8
9
6
11

32
36
24
44

13
15

17
12

Kĩ năng tốt

Trang 21

52
60
68
48

Kĩ năng chưa
tốt
SL
3

%
12

4
1
2
2

16
4
8
8



* Về phía phụ huynh học sinh
Thông qua các cuộc họp phụ huynh học sinh hoặc gặp gỡ trao đổi riêng thì
phụ huynh học sinh đã nắm bắt rõ thêm sự cần thiết phải giáo dục kĩ năng sống
cho các em và cách giáo dục phù hợp. Phụ huynh học sinh đã quan tâm hơn đến
việc giáo dục kĩ năng sống cho con em của mình khi các em ở gia đình, phụ huynh
không chỉ nhắc các em học văn hóa mà còn chú ý đến việc giáo dục kĩ năng sống
cho các em.
Kinh nghiệm trên đã áp dụng rộng rãi ở tất cả các lớp trong khối Một được
các đồng nghiệp đồng tình ủng hộ. Học sinh trong khối ngoan hơn, tự giác chủ
động, mạnh dạn hơn, đã thể hiện được cách xử lí trong ứng xử khá phù hợp. Toàn
khối trong ba năm qua không có em nào bị kỉ luật và tỉ lệ lên lớp đạt chỉ tiêu.
Như vậy, với hiệu quả đạt được như trên đã phần nào phản ánh được tác
dụng sáng kiến này, nó được áp dụng có hiệu quả trong lớp cũng như trong khối.
Các giáo viên trong trường cũng đã áp dụng sáng kiến này trong công tác chủ
nhiệm của mình, học sinh đa số đều có kĩ năng sống tốt hơn: thích ứng được với
môi trường xã hội, tự giải quyết được một số vấn đề thiết thực trong cuộc sống như
vấn đề về sức khỏe, môi trường, tệ nạn xã hội,…các em có thể tự tin, chủ động
không bị quá phụ thuộc vào người lớn mà vẫn có thể tự bảo vệ mình, tự đem lại lợi
ích chính đáng, điều kiện thuận lợi cho bản thân mình rèn luyện, học tập phấn đấu
vươn lên đáp ứng được phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực.”
* Phạm vi áp dụng:
Đề tài này được áp dụng từ đầu năm học đến nay để: Giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh lớp 1B (lớp tôi chủ nhiệm) và tất cả các đối tượng là học sinh lớp Một ở
trường tôi.

Trang 22



3. PHẦN KẾT LUẬN
3.1. Ý NGHĨA CỦA SÁNG KIẾN:
Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh là một việc làm hết sức cần thiết của xã
hội, các em không chỉ biết học giỏi về kiến thức mà còn phải được tôi luyện những
kĩ năng sống qua đó tạo cho các em một môi trường lành mạnh, an toàn, tích cực,
vui vẻ. Việc giáo dục kĩ năng sống ngay từ lớp Một sẽ rút ngắn thời gian để trang
bị cho các em vốn kiến thức, kĩ năng, giá trị sống để làm hành trang bước vào đời.
Chính vì vậy, các thầy cô giáo tiểu học luôn giữ vai trò vô cùng quan trọng.
Qua quá trình áp dụng sáng kiến và hiệu quả mang lại trong công tác giáo
dục kĩ năng sống cho học sinh, bản thân tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:
Giáo viên chủ nhiệm cần xác định rõ tầm quan trọng của việc rèn luyện kĩ
năng sống cho học sinh. Nắm vững những đặc trưng về phương pháp và hình thức
tổ chức dạy các kĩ năng giao tiếp, ứng xử vào các môn học và các hoạt động khác.
Luôn tạo mọi điều kiện để các em có thể bày tỏ, thể hiện mình, tham gia tốt
các buổi hoạt động ngoại khóa của trường, lớp.
Điều quan trọng là mỗi thầy cô giáo phải rèn cho mình tác phong sinh hoạt
chuẩn mực, phải hết lòng thương yêu, gần gũi với học sinh.
Sống, học tập, lao động là những vấn đề thiết yếu mà bản thân luôn cố gắng
để ươm mầm cho thế hệ trẻ. Bởi trẻ em là hạnh phúc của gia đình, tương lai của đất
nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, là nhân tố để cây
đời mãi mãi xanh tươi. Việc chăm sóc và giáo dục trẻ em, bồi dưỡng trẻ em trở
thành công dân tốt của đất nước là một công việc vô cùng quan trọng mà mỗi giáo
viên nói chung và giáo viên chủ nhiệm lớp nói riêng chúng ta phải cùng có trách
nhiệm.

Trang 23


3.2. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
Là giáo viên chủ nhiệm lớp, bản thân hiểu rõ tầm quan trọng trong công tác

trồng người. Vì thế, bản thân luôn cố gắng trau dồi sách vở, học hỏi từ đồng nghiệp
cũng như đúc kết kinh nghiệm giảng dạy của bản thân, nâng cao đạo đức và
chuyên môn. Bản thân đã luôn tôn trọng và kiên nhẫn, nhất là tạo cơ hội cho các
em được nói, được diễn đạt, bày tỏ thoải mái ở mọi nơi mọi lúc để các em có cơ
hội phát triển một cách toàn diện.
Về phía nhà trường: Theo phương châm giáo dục hiện nay là: “Học để biết,
học để chung sống, học để tự khẳng định mình” nên: Nhà trường luôn phát động
phong trào này hơn nữa dưới nhiều hình thức.
Về phía phụ huynh: Trước hết là cần hiểu rõ tầm quan trọng của việc rèn
luyện kĩ năng sống cho con em, tạo một chỗ dựa vững chắc để trẻ chia sẻ, bày tỏ,
luôn phối kết hợp với nhà trường trong việc giáo dục và rèn luyện cho các em, theo
dõi mọi biểu hiện của trẻ để có sự giáo dục cho phù hợp.
Trong quá trình hoàn thành bài viết này chắc chắn không thể tránh khỏi
những thiếu sót, bản thân tôi rất mong nhận được sự góp ý chân thành của Hội
đồng khoa học và quý đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn !

Trang 24


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU

1
1.1
.
1.2
2
2.1
2.2


LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
ĐIỂM MỚI

Tran
g
1
2

PHẦN NỘI DUNG
THỰC TRANG VIỆC GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO
HỌC SINH Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC
BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH
LỚP MỘT THÔNG QUA CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP

3
8

Biện pháp 1: Giáo vi
8
ên chủ nhiệm luôn gần gũi và tạo mối thân thiện với học sinh
lớp Một.
Biện pháp 2: Tổ chức hiệu quả tiết sinh hoạt tập thể theo mô
hình tự quản, rèn kĩ năng sống thông qua các chủ đề ở tài
liệu Sống đẹp lớp Một.

10

Biện pháp 3: Phối kết hợp với giáo viên bộ môn để giáo dục kĩ
năng bơi an toàn và phòng chống đuối nước; kĩ năng phòng

tránh tai nạn bom mìn cho học sinh.

12

Biện pháp 4: Giáo viên chủ nhiệm tổ chức giáo dục lao động,
giáo dục sức khỏe, hướng dẫn học sinh vui chơi đúng cách,
thực hiện tốt an toàn giao thông.

14

Biện pháp 5: Tăng cường công tác phối hợp giữa gia đình nhà trường-xã hội trong hoạt động Giáo dục kĩ năng sống
cho các em. Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá, thi đua,
khen thưởng.
2.3
3
3.1
3.2

HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
PHẦN KẾT LUẬN
Ý NGHĨA CỦA SÁNG KIẾN
KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT

Trang 25

16
21
23
23
24



×