Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Công tác chủ nhiệm trong mô hình trường học mới VNEN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.64 KB, 18 trang )

1. Phần mở đầu
1.1 Lý do chọn đề tài
Mô hình dạy học VNEN hiện nay đã và đang áp dụng khắp các tỉnh thành trên
cả nước, đặc biệt ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo xa xôi... Mô hình
Trường học mới tại Việt Nam được triển khai trên toàn quốc là một bước đột phá trong
việc đổi mới, cải cách giáo dục, hy vọng mở ra cho nền giáo dục Việt Nam một lối đi
đúng hướng để cùng hòa nhập với nền giáo dục tiên tiến, hiện đại trên thế giới, đáp
ứng với sự phát triển chung của xã hội, là một nỗ lực trong việc hình thành thế hệ trẻ
Việt Nam là những công dân toàn cầu. Có thể nói, mô hình này đã trở thành yêu cầu
cấp thiết của toàn xã hội, đòi hỏi sự chung tay của các cấp, các ngành.
Trường tôi đã áp dụng Mô hình trường học mới gần 5 năm và đã gặt hái được
nhiều thành tích được các cấp, các ngành ghi nhận. Đối với bản thân tôi cũng tham gia
thực hiện dạy học theo mô hình này gần 5 năm nên đã dần quen với việc đổi mới
phương pháp dạy học, tổ chức lớp học theo tinh thần VNEN.
Qua thời gian thực hiện dạy học theo Mô hình trường học mới, tôi nhận thấy để
công tác dạy học theo hướng đổi mới thành công thì vai trò của người giáo viên chủ
nhiệm là hết sức quan trọng. Chính vì những lẽ đó mà tôi đã dành khá nhiều thời gian,
tâm sức cho công tác chủ nhiệm lớp mình. Hôm nay tôi mạnh dạn trình bày đề tài
“Công tác chủ nhiệm trong Mô hình trường học mới VNEN” đúc kết từ năm năm qua
để cùng trao đổi với bạn bè đồng nghiệp.
1.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
Tôi viết sáng kiến kinh nghiệm này với mong muốn
Ghi lại những biện pháp mình đã làm để suy ngẫm, để chọn lọc và đúc kết thành
kinh nghiệm của bản thân.
Được chia sẻ với đồng nghiệp những việc đã làm và đã thành công trong công
tác chủ nhiệm lớp.
Nhận được những lời góp ý, nhận xét từ cán bộ quản lí nhà trường, từ Ban Giám
khảo của Phòng Giáo dục và từ các bạn đồng nghiệp, để tôi phát huy những mặt mạnh,
điều chỉnh, khắc phục những thiếu sót cho hoàn thiện hơn.
1



Rèn luyện tinh thần năng động, giữ lửa lòng say mê, sáng tạo; cố gắng học tập,
tự cải tạo mình để theo kịp sự tiến bộ của thời đại.
- Đối tượng nghiên cứu
Công tác chủ nhiệm trong Mô hình trường học mới VNEN.
- Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là tập thể học sinh, phụ huynh lớp 3A năm học 2015 2016, tập thể học sinh, phụ huynh lớp 3A năm học 2016 – 2017
- Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp thực hành
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp thống kê, tổng hợp
2. Phần nội dung
2.1.Thực trạng
a. Thuận lợi- khó khăn
Thuận lợi
Mô hình trường học mới đã được triển khai và áp dụng ở trường đã gần 5 năm
nên cả giáo viên và học sinh đã quen với hoạt động dạy - học theo mô hình VNEN.
Đại đa số học sinh trong lớp là con em của người dân trong địa bàn, là một
thuận lợi lớn trong quá trình dạy học của thầy trò chúng tôi.
Được sự chỉ đạo sát sao của các cấp và sự ủng hộ của đa số cha mẹ học sinh
cũng như cộng đồng xã hội là động lực giúp cho công tác dạy học và giáo dục của nhà
trường nói chung và cá nhân tôi nói riêng mang lại nhiều thành công đáng kể.
Khó khăn
Học sinh thuộc vùng địa bàn là nông thôn nên khả năng giao tiếp, các kĩ năng
xã hội để đáp ứng yêu cầu vẫn còn hạn chế.
Việc trang trí lớp học, đồ dùng học tập theo mô hình này cũng đòi hỏi giáo viên
chủ nhiệm phải đầu tư nhiều thời gian hơn so với các lớp học bình thường.
2



Việc chuyển đổi từ phương pháp dạy học chung cả lớp sang phương pháp học
tập tích cực (chủ yếu theo nhóm) lúc đầu đã không khỏi gây nhiều khó khăn cho
những giáo viên chủ nhiệm như tôi trong việc khắc phục hiện tượng giảng giải, thuyết
trình nhiều trước lớp. Học sinh chưa làm quen với việc tự quản, tự chiếm lĩnh kiến
thức,… Phụ huynh học sinh cũng mang một tâm lý hoang mang, sợ con em mình
không tiếp thu được kiến thức bài học, nhất là đối tượng học sinh còn hạn chế về năng
lực học tập.
Một số bộ phân cha mẹ học sinh còn chưa nhiệt tình ủng hộ mô hình dạy học
này. Một số gia đình học sinh còn “khoán trắng” công tác dạy học và giáo dục cho nhà
trường.
b. Thành công - hạn chế
Thành công
Qua thời gian áp dụng Mô hình trường học mới tôi nhận thấy học sinh của tôi
đã phát huy tính tự học, sáng tạo, tính tự giác, tự quản, sự tự tin, hứng thú trong học
tập. Các em còn phát huy tốt các kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng
hợp tác, kỹ năng tự đánh giá lẫn nhau trong giờ học, ngoài ra còn giúp các em có tinh
thần trách nhiệm và biết phấn đấu làm chủ quá trình học tập của mình.
Còn đối với giáo viên chủ nhiệm như tôi cũng không còn vất vả trong việc
thuyết trình, giảng giải trước lớp. Vai trò của tôi chỉ còn là người quan sát, hỗ trợ các
em học tập.
Đối với cha mẹ học sinh và cộng đồng thì họ đã có trách nhiệm hơn trong việc
phối hợp, hỗ trợ nhà trường và giáo viên chủ nhiệm trong việc dạy học, giáo dục con
em mình. Đồng thời cha mẹ học sinh còn được tiếp nhận, bổ sung tri thức từ nhà
trường thông qua học sinh.
Nhiều phụ huynh học sinh khá hài lòng về kết quả của con em mình khi theo
học Mô hình VNEN.
Hạn chế
Trong công tác chủ nhiệm tôi cũng còn thấy một số hoạt động còn chưa hiệu
quả như:


3


Học sinh sử dụng các công cụ hỗ trợ dạy học trong lớp còn hình thức, chưa thật
sự hiệu quả.
Việc ngồi học theo nhóm trong suốt buổi học là điều kiện cho một bộ phận học
sinh có cơ hội nói chuyện riêng và còn ỷ lại vào những bạn hoàn thành tốt.
c. Mặt mạnh- mặt yếu
Mặt mạnh
Mô hình trường học mới tôi nhận thấy bản thân mình đã dần khắc phục được
cách dạy học áp đặt một chiều và lối học thụ động của học sinh.
Cách thức tổ chức lớp học theo các nhóm đã tạo điều kiện cho học sinh được
trải nghiệm, khám phá, tự lĩnh hội kiến thức. Mối quan hệ, tương tác giữa học sinh với
giáo viên, và quan hệ giữa học sinh với nhau được tăng cường.
Việc dạy học phân hóa đối tượng học sinh trong Mô hình trường học mới diễn
ra thuận lợi. Tiến độ hoàn thành yêu cầu của những đối tượng hoàn thành tốt trong lớp
so với các bạn khác là nhanh hơn nên các em có thời gian để tìm hiểu khám phá những
yêu cầu mới cao hơn so với các bạn thông qua những bài tập nâng cao mà giáo viên đã
chuẩn bị.
Phong trào cùng học theo con, cùng dạy cho con ở mỗi gia đình trong địa
phương càng phát triển và nhân rộng.
Mặt yếu
Giáo viên giảng dạy và tổ chức lớp học còn theo khuôn mẫu, rập khuôn, thiếu
sáng tạo bởi tài liệu dạy học đã được hướng dẫn tỉ mỉ, giáo viên cứ thế mà làm theo.
Ngoài ra, không phải học sinh nào cũng phù hợp để tham gia mô hình này. Với
những em có năng lực còn hạn chế, tiếp thu chậm thì việc để các em tự học để theo kịp
các bạn trong nhóm là khá vất vả. Năng lực hướng dẫn, giảng giải bài giúp bạn của
các nhóm trưởng cũng như của các thành viên trong nhóm hạn chế thì giáo viên phải
tham gia trợ giúp cho những em có lực còn hạn chế ở các nhóm trở nên vất vả bội
phần.

d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động

4


Qua thời gian thực hiện Mô hình trường học mới, tôi nhận thấy các yếu tố ảnh
hưởng trực tiếp đến sự thành công hay thất bại của quá trình dạy học đó là yếu tố
người dạy và người học (giáo viên và học sinh).
Đối với người giáo viên, phải không ngại đổi mới, không ngại loại bỏ thói quen
dạy theo lối giảng giải, thuyết trình mà phải thật sự coi trọng việc tự chủ, tự học của
học sinh; phải khuyến khích học sinh tự chiếm lĩnh tri thức mới thông qua nhóm học
tập, cặp đôi hay quá trình tự học của mình.
Đối với học sinh, các em phải rèn luyện tính tự lập, tự chủ, tự tin trong việc
chiếm lĩnh tri thức mới; phải nhạy bén hợp tác với bạn bè, thầy cô cũng như gia đình
trong quá trình tự học, tự rèn luyện.
Ngoài ra cơ sở vật chất cũng góp phần quan trọng trong mô hình dạy học này.
Với cách bố trí các nhóm học tập, các công cụ hỗ trợ trong lớp học thì đòi hỏi một
phòng học đạt chuẩn là vô cùng cần thiết, tạo điều kiện tốt cho quá trình học tập ở lớp
diễn ra thuận lợi.
Ngoài ra, yếu tố gia đình và cộng đồng cũng không kém phần quan trọng. Ở gia
đình, các bậc phụ huynh có thể hỗ trợ con em mình trong việc ứng dụng các kiến thức
được học tại trường thông qua Hoạt động ứng dụng, hay giúp các em bổ sung, kết nối
những nét phong tục truyền thống của địa phương với kiến thức sách vở.
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra
Mặc dù còn gặp những khó khăn, hạn chế cũng như những yếu kém của công
tác chủ nhệm trong quá trình thực hiện Mô hình trường học mới như đã nêu ở trên.
Tuy nhiên, qua thời gian thực hiện tôi nhận thấy những thành công, những mặt tích
cực là chủ yếu.
Học tập theo Mô hình VNEN đã giúp học sinh phát huy tích cực, tính tự học,
sáng tạo, tính tự giác, tự quản, sự tự tin, hứng thú trong học tập. Đây là phương pháp

dạy học mới, giúp các em phát huy tốt các kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hợp tác, kỹ năng
tự đánh giá lẫn nhau trong giờ học.
Quản lý lớp học là “Hội đồng tự quản học sinh” do các em bầu ra và đảm
nhiệm, đây là một biện pháp giúp học sinh được phát huy quyền làm chủ quá trình học
tập. Học sinh còn có điều kiện hiểu rõ quyền và trách nhiệm trong môi trường giáo
dục, được rèn luyện các kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng tham gia, kỹ năng hợp tác trong
5


các hoạt động; đồng thời xây dựng không gian lớp học với “Góc học tập”, “Góc cộng
đồng”, “Thư viện lớp học”, mở nhiều “Hòm thư vui”, hòm thư “Điều em muốn nói”
cũng như trang trí lớp học, tạo ra môi trường giáo dục thân thiện, an toàn.
Bản thân và học sinh của tôi đã thích nghi với môi trường học tập này đã đạt
hiệu quả giáo dục khá tích cực. Bởi đây phương pháp dạy học theo nguyên tắc lấy học
sinh làm trung tâm, học tập mang tính tương tác và phù hợp với từng cá nhân học sinh;
chuyển việc truyền thụ kiến thức của giáo viên thành việc hướng dẫn học sinh tự học.
Lớp học do học sinh tự quản và được tổ chức theo các hình thức như làm việc theo
cặp, làm việc cá nhân và làm việc theo nhóm, trong đó hình thức học theo nhóm là chủ
yếu. Do vậy học sinh cơ bản đã thay đổi thói quen học tập, các em tự nghiên cứu tìm
hiểu kiến thức trong bài và qua tài liệu. Những kiến thức khó, các em trao đổi với bạn
trong nhóm và mạnh dạn trao đổi vướng mắc với giáo viên. Qua đó, tạo điều kiện
thuận lợi để các em phát huy tính độc lập, chủ động tiếp thu kiến thức và hiểu sâu sắc
các kiến thức trong bài học; rèn luyện cho các em được nhiều kỹ năng sống, kỹ năng
tập thể trong cách hoạt động học theo nhóm. Môi trường học thoải mái, các em rất hào
hứng tham gia các bài học.
Mỗi tiết học không tạo áp lực đối với các em. Học sinh được hình thành thói
quen làm việc trong môi trường tương tác, được học hỏi bạn để tự hoàn thiện, luôn có
ý thức được mình phải bắt đầu và kết thúc hành động như thế nào, không chờ đến sự
nhắc nhở của giáo viên, tránh sự thụ động trong dạy và học, góp phần đẩy mạnh sự
phát triển trong công tác giáo dục của trường.

Sự tham gia của cha mẹ học sinh có thể giúp trẻ liên hệ nội dung học tập với
thực tế cuộc sống. Hơn ai hết, phụ huynh học sinh, những người sinh sống, làm lụng,
gắn bó mật thiết với các em và cộng đồng nơi các em sinh sống chính là nguồn kiến
thức, kinh nghiệm thực tế vô cùng quý báu giúp các em liên hệ những điều học được ở
trường với cuộc sống xung quanh.
2.2. Giải pháp, biện pháp
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Giải quyết, khắc phục những hạn chế, điểm yếu trong khi thực hiện Mô hình
trường học mới.
6


Xác định các bước quan trọng trong quá trình dạy học để phát huy vai trò tự học
cũng như hình thành những kĩ năng xã hội cần thiết cho trẻ.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
Trong Mô hình trường học mới, vai trò, nhiệm vụ của người giáo viên đặc biệt
là người giáo viên chủ nhiệm có sự chuyển đổi rõ rệt so với dạy học truyền thống.
Theo tôi để đáp ứng yêu cầu đề ra người giáo viên phải thực sự đổi mới về phương
pháp dạy - học.
b.1. Đổi mới về phương pháp dạy
Để đáp ứng yêu cầu dạy học theo Mô hình VNEN, tôi đã thật sự đổi mới
phương pháp dạy học. Tôi thật sự đã chuyển đổi vai trò là người truyền thụ kiến thức
thành vai trò là người:
Tổ chức lớp học;
Quan sát hoạt động của mỗi cá nhân, của mỗi nhóm;
Hỗ trợ học sinh khi cần thiết;
Chốt lại những điều cơ bản nhất của bài học;
Đánh giá quá trình và kết quả học tập của học sinh.
Việc đổi mới này thật sự mang lại hiệu quả trong công tác dạy học của mình.
b.2. Đổi mới về phương pháp học

Theo tôi, Mô hình trường học mới, học sinh không tiếp thu thụ động mà chủ
động làm việc độc lập với tài liệu, thao tác với các đồ vật, quan sát trực tiếp, phân tích,
so sánh và tương tác với các bạn trong nhóm, tương tác với giáo viên, với cộng đồng.
Chính vì thế nhóm là đơn vị học tập cơ bản trong Mô hình VNEN.
Có thể nói, mọi hoạt động của học sinh diễn ra ở nhóm học tập. Học sinh chủ
yếu làm việc với nhóm; làm việc với giáo viên, làm việc chung với cả lớp chỉ khi cần
thiết.
Do vậy việc phân nhóm tôi thường thực hiện trên cơ sở đảm bảo sự hợp lí về
sức học, về khả năng giao tiếp, sự hợp tác giữa các thành viên và điều hành của nhóm
trưởng để đảm bảo tương đối đồng đều giữa các nhóm.
7


Nhóm trưởng là linh hồn của nhóm học tập, là người điều hành, giám sát hoạt
động học của mỗi thành viên trong nhóm. Nhóm trưởng là người hỗ trợ tích cực giáo
viên trong việc tổ chức, điều hành các hoạt động và báo cáo với giáo viên kết quả học
tập hay những vướng mắc trong học tập của nhóm cần khi hỗ trợ.
Một nhóm trưởng tốt là tạo cơ hội để mọi thành viên tự giác trong học tập, tích
cực tham gia các hoạt động nhóm. Đối với các bạn nhút nhát thiếu tự tin, cần được nói
nhiều, trao đổi nhiều, thể hiện nhiều trong hoạt động nhóm. Không để tình trạng một
số thành viên khá làm thay, làm hộ các thành viên khác trong nhóm.
Do vậy, vào đầu năm học, tôi thường chọn những học sinh hoàn thành tốt, có
khả năng điều hành nhóm làm nhóm trưởng, bồi dưỡng kĩ năng điều hành cho các em.
Tôi thường hướng dẫn để các nhóm trưởng có kĩ năng điều hành nhóm, hiểu các bước
của quá trình học tập, biết tổ chức để mọi thành viên trong nhóm đều tích cực, tự giác
thực hiện các nhiệm vụ học tập. Những học sinh còn hạn chế năng lực học tập cần
được quan tâm nhiều hơn để theo kịp nhóm. Việc bồi dưỡng nhóm trưởng tốt thì đã
đảm bảo sự thành công của Mô hình trường học mới.
Về thời gian sau tôi mới thực hiện sự luân phiên làm nhóm trưởng; như vậy mới
tạo sự bình đẳng giữa các thành viên trong nhóm, giúp tất cả các thành viên trong

nhóm tự tin trước mọi người.
Việc hướng dẫn học sinh kĩ năng làm việc nhóm cũng hết sức quan trọng. Tôi
thường hướng dẫn kĩ năng làm việc nhóm cho học sinh thông qua các tương tác đa
chiều, trực diện trong nhóm. Trong một nhóm phải tạo ra các quan hệ giao tiếp, trao
đổi hoặc tranh luận giữa các thành viên khi giải quyết một công việc, một nhiệm vụ
học tập cụ thể của nhóm. Hình thành cho học sinh kĩ năng trình bày quan điểm, biết
lắng nghe, tôn trọng ý kiến của bạn,…
Ngoài việc đổi mới phương pháp dạy học thì trong Mô hình trường học mới thì
mỗi người giáo viên chủ nhiệm như chúng tôi cần thực hiện tốt việc quản lí và tổ chức
lớp học. Việc quản lí và tổ chức lớp học được tôi thực hiện như sau.
b.3. Nghiên cứu, nắm vững tình hình học sinh của lớp chủ nhiệm
Để làm tốt công tác giáo dục học sinh, nhiệm vụ đầu tiên của giáo viên chủ
nhiệm lớp là nghiên cứu để nắm vững tình hình chung của lớp và của từng học sinh.
Kết quả nghiên cứu sẽ là những căn cứ để xây dựng mục tiêu, chương trình, kế hoạch
8


năm học để xác định nội dung, phương pháp và các hình thức tổ chức giáo dục phù
hợp với đặc điểm của lớp.
Bởi vậy ngay từ đầu năm, công việc đầu tiên tôi thường tập trung vào các nội
dung sau đây:
Nghiên cứu tình hình gia đình học sinh như trình độ học vấn, nghề nghiệp của
cha mẹ học sinh, số con, sự trưởng thành của các con, hoàn cảnh, mức sống, phương
pháp giáo dục và những đặc điểm khác...
Nghiên cứu học sinh: số lượng, chất lượng học tập, đặc điểm lứa tuổi, đặc điểm
cá biệt, quá trình học tập, tu dưỡng đạo đức, tinh thần đoàn kết, phong trào thi đua,
truyền thống, ưu, nhược điểm, chỗ mạnh, chỗ yếu của lớp... Đặc biệt quan tâm tới
những đặc điểm của học sinh (về sức khoẻ, sở thích, học lực, đạo đức, quan hệ xã hội,
bạn bè, tính tình...).
Để nắm vững được năng lực hoạt động tập thể của từng em trong lớp mình làm

chủ nhiệm, tôi thường thông qua các kênh thông tin sau:
Căn cứ hồ sơ học bạ , thành tích học tập;
Chú ý hình thức như sức khoẻ, sự linh hoạt năng động;
Ngoài ra từ trực giác cảm nhận;
Căn cứ sự tín nhiệm của tập thể lớp qua việc bình bầu dân chủ đầu năm học;
Từ những tài liệu đó giúp cho tôi trong việc xây dựng kế hoạch dạy học, hỗ trợ,
bồi dưỡng và tổ chức các hoạt động giáo dục đến từng học sinh cũng như tập thể lớp
một cách có hiệu quả.
b.4. Xây dựng bộ máy tổ chức tự quản của lớp – Bầu Hội đồng tự quản học sinh
Mục đích xây dựng hội đồng tự quản học sinh là biện pháp giáo dục nhằm thúc đẩy
sự phát triển về đạo đức, tình cảm và ý thức xã hội của học sinh thông qua những kinh
nghiệm hoạt động thực tế của các em trong mối quan hệ của các em với những người
xung quanh; đảm bảo cho các em tham gia một cách dân chủ và tích cực vào cuộc
sống học đường; tạo cơ hội cho các em tham gia toàn diện vào các hoạt động của nhà
trường và phát triển tính tự chủ, sự tôn trọng, bình đẳng, tinh thần hợp tác và đoàn kết
của học sinh; giúp các em phát triển kĩ năng ra quyết định, kĩ năng hợp tác và kĩ năng
9


lãnh đạo, đồng thời cũng chuẩn bị cho các em ý thức trách nhiệm khi thực hiện những
quyền và bổn phận của mình.
Trước khi thành lập Hội đồng tự quản học sinh, tôi thường mời các giáo viên bộ
môn tham gia giảng dạy ở lớp của mình cũng như phụ huynh học sinh của lớp cùng
họp bàn về việc thành lập Hội đồng tự quản. Việc tham gia của phụ huynh học sinh sẽ
góp phần làm tăng thêm sự quan tâm của họ đối với việc học tập của con em mình
cũng như giúp họ hiểu biết thêm về Mô hình trường học mới góp phần phối hợp chặt
chẽ giữa giáo viên và cộng đồng trong việc giáo dục học sinh.
Hội đồng tự quản gồm Chủ tịch Hội đồng tự quản, các Phó chủ tịch Hội đồng tự
quản, các Ban tự quản, trưởng ban, thư kí.
Thời gian thích hợp để tổ chức bầu Hội đồng tự quản là ngay đầu năm học. Có

nghĩa là khi học sinh bắt đầu học chương trình năm học thì bộ máy hội đồng tự quản
đã hoàn thiện để điều hành mọi hoạt động học tập, sinh hoạt của lớp.
Quy trình bầu Chủ tịch Hội đồng tự quản; các Phó Hội đồng tự quản được tôi tiến
hành như sau:
Cho học sinh nắm được vai trò, nhiệm vụ và quyền lợi của Chủ tịch Hội đồng tự
quản; các Phó Hội đồng tự quản.
Khuyến khích học sinh ứng cử vào Hội đồng tự quản; nhóm đề cử.
Gợi ý cho các ứng viên xây dựng kế hoạch tranh cử, viết bài thuyết trình (có tư vấn
của giáo viên, bạn bè,...).
Thuyết trình của các ứng viên.
Bầu cử, công bố kết quả và Hội đồng tự quản nhiệm kì mới ra mắt.
Thành lập các Ban, bầu trưởng ban, thư kí cũng được tiến hành như sau:
Căn cứ vào hoạt động của lớp trong năm học, lãnh đạo Hội đồng tự quản họp có sự
tham gia tư vấn của giáo viên để dự kiến thành lập các ban tự quản và thường phải
thông qua ý kiến của tập thể lớp. Thông thường tôi thường định hướng cho học sinh
thành lập các ban như Ban học tập, Ban thư viện, Ban văn nghệ, thể dục-thể thao, Ban
vệ sinh, Ban đối ngoại.

10


Việc bầu và thành lập các ban do Hội đồng tự quản tổ chức. Tôi thường gợi ý cho
học sinh giới thiệu chức năng, nhiệm vụ của các ban; quyền lợi của người tham gia,
suy nghĩ của bạn có thể làm gì tốt nhất,...
Các thành viên Hội đồng tự quản phát cho mỗi bạn một tờ giấy nhỏ ghi tên, nguyện
vọng tham gia vào ban nào, sau khi lựa chọn mỗi học sinh dán lên bản quy định cho
từng ban mà mình lựa chọn hoặc cũng có thể cho các bạn lựa chọn ban rồi điền tên
mình vào cột trên bảng.
Hội đồng tự quản lập danh sách từng ban và yêu cầu các thành viên trong ban họp
bầu trưởng ban và thư kí như bầu lãnh đạo Hội đồng tự quản.

b.5. Cách thức hoạt động của Hội đồng tự quản
Học sinh phát triển toàn diện nhờ các hoạt động tự giáo dục của mình. Hội đồng tự
quản là tổ chức của học sinh, vì học sinh và do học sinh thực hiện. Các em làm chủ
trong mọi hoạt động. Vì vậy tôi thường hướng cho các em tự đề xuất, bàn bạc và đưa
ra nội quy và cùng nhau giám sát việc thực hiện các quy ước do mình xây dựng và
cam kết thực hiện. Như vậy các em tự đề ra các quy ước (dù là quy ước nhỏ nhất) và
có trách nhiệm thực hiện các quy ước đó. Điều đó đảm bảo tính dân chủ trong lớp học.
b.6. Trang trí lớp học
Ở Mô hình trường học mới, việc trang trí lớp học không đơn thuần là để trang trí
cho đẹp mắt mà nó còn là những công cụ hỗ trợ góp phần giáo dục học sinh những
phẩm chất mới cũng như phát triển kĩ năng sống cho các em.
Việc thực hiện trang trí lớp học của lớp tôi được thực hiện và hoàn thành một tuần
trước khi bắt đầu chương trình năm học mới. Để thực hiện có hiệu quả tôi thường huy
động nhiều thành phần tham gia. Ngoài thầy trò trong lớp còn có sự góp sức của các
giáo viên chuyên biệt và đặc biệt là của cộng đồng như cha mẹ hay anh chị của học
sinh. Tôi thường trao đổi với các giáo viên chuyên biệt và đặc biệt là với Hội phụ
huynh học sinh lớp để lựa chọn những công cụ phù hợp nhất với điều kiện của lớp
mình. Những công cụ mà theo tôi chúng đã được chứng minh là hữu ích cho công tác
quản lí hoạt động ở lớp, ở trường bao gồm: Hộp thư ”Điều em muốn nói”, Nhịp cầu bè
bạn, Góc sinh nhật, Bảng theo dõi sĩ số, Nội quy trường lớp, Góc Tiếng Việt, Góc
Toán, Góc Tiếng anh, ...
11


Hộp thư ”Điều em muốn nói” là công cụ giúp tôi nắm được những ý kiến bày tỏ
của học sinh mình. Những ý kiến đó cụ thể như những tình cảm, cảm nhận, mong
muốn, đề nghị của các em muốn nói về thầy cô, bạn bè, cha mẹ, nhân viên phục vụ,
điều kiện học tập sinh hoạt, vui chơi,... mà các em không thể hoặc chưa dám nói trực
tiếp. Từ đó tôi có những thông tin quan trọng để hiểu học sinh của mình và quan trọng
hơn là để điều chỉnh các hoạt động giáo dục, dạy học cho phù hợp với từng đối tượng

học sinh.
Góc sinh nhật là nơi tạo không khí vui tươi trong lớp. Giúp các em biết quan tâm
đến bạn bè. Tạo điều kiện để các em biết cách tổ chức các buổi kỉ niệm nho nhỏ. Tạo
sự gắn kết giữa các thành viên trong lớp...
Từ những công cụ trong lớp, tôi có thể hướng dẫn các em hiểu ý nghĩa của việc xây
dựng các công cụ cũng như việc sử dụng chúng để tham gia vào các hoạt động học
tập.Thông qua đó tôi có thể phát hiện và nuôi dưỡng các tiềm năng; giải đáp những
băn khoăn, lo lắng; giúp các em phát triển niềm đam mê, sự sáng tạo và hình thành
nhân cách cùng các kĩ năng sống khác.
b.7. Phối hợp với cộng đồng cùng tham gia công tác giáo dục
Trong Mô hình VNEN, nguyên lí giáo dục ”Học đi đôi với hành -Nhà trường gắn
liền với gia đình và xã hội” được thể hiện rõ rệt thông qua tổ chức và quản lí lớp học,
đưa những điểm văn hóa, kinh tế, truyền thống lịch sử của địa phương vào nhà trường.
Do vậy vai trò của gia đình là rất quan trọng trong việc học tập, giáo dục đối với học
sinh.
Để phối hợp một cách chặt chẽ với gia đình, cộng đồng, ngay từ đầu năm tôi
thường bàn bạc với Ban đại diện cha mẹ học sinh lớp để tuyên truyền tới mỗi phụ
huynh và cộng đồng về Mô hình trường học mới. Chủ động trao đổi, khuyến khích gia
đình và cộng đồng cùng tham gia các hoạt động giáo dục của nhà trường, tạo nên sức
mạnh tổng hợp nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh.
Các nội dung tôi thường phối hợp với cha mẹ học sinh trong quá trình giáo dục như
phối hợp cùng tuyên truyền về Mô hình trường học mới; huy động trẻ đến trường;
cùng tham gia trang trí lớp học xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực; mời
cha mẹ học sinh cùng tham gia dự giờ một số tiết học; mời cha mẹ học sinh lên lớp
trong các tiết ngoại khóa như dạy các em hát các làn điệu dân gian của địa phương, nói
12


chuyện lịch sử,... tham gia giúp các em liên hệ nội dung học với thực tế ở địa phương
và phát huy năng lực của các em tại nhà.

c. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp
Để thực hiện dạy học theo Mô hình VNEN có hiệu quả ngoài điều kiện cơ sở vật
chất thì điều kiện tiên quyết là quyết tâm đổi mới phương pháp dạy - học, phương
pháp tổ chức lớp học, phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường và cộng đồng trong việc giáo
dục học sinh,… Điều đó có nghĩa là người giáo viên chủ nhiệm phải là hạt nhân của
các khâu đổi mới quyết định thành bại trong công tác dạy học theo mô hình VNEN.
d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
Trong mô hình VNEN, người giáo viên nói chung và đặc biệt là người giáo viên
chủ nhiệm phải giúp học sinh phát huy tính tự học, sáng tạo, tính tự giác, tự quản, sự
tự tin, hứng thú trong học tập. Phải đổi mới phương pháp dạy học giúp các em phát
huy tốt các kĩ năng giao tiếp, kĩ năng hợp tác, kĩ năng tự đánh giá lẫn nhau trong giờ
học.
Chú trọng khai thác và sử dụng những kinh nghiệm của học sinh trong đời sống
hàng ngày. Gắn kết giữa nội dung dạy học với đời sống thực tiễn của học sinh, của
cộng đồng thông qua hoạt động của nhóm và chính bản thân các em trong mỗi tiết
học.
Phải nắm vững yêu cầu về quan điểm dạy học, chương trình, nội dung dạy học.
Thấy được tầm quan trọng và ích lợi của hoạt động nhóm, đòi hỏi người giáo viên
chủ nhiệm phải không ngừng nghiên cứu, tìm tòi, vận dụng linh hoạt hoạt động nhóm
trong quá trình dạy học.
Nắm vững các cách chia nhóm và tổ chức nhóm.
Phải thực hiện tốt việc tổ chức lớp học. Hướng dẫn cho Hội đồng tự quản, các Ban
tự quản thực hiện một cách có hiệu quả.
Tận dụng tốt lợi thế về cơ sở vạt chất để thực hiện thành công dạy học theo Mô
hình trường học mới.
Phải thường xuyên liên hệ chặt chẽ với cha mẹ học sinh, cộng đồng xã hội trong quá
trình dạy học và giáo dục học sinh để hình thành và phát triển những kĩ năng cần thiết
cho các em cũng như thực hiện tốt khâu xã hội hóa giáo dục.
13



e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
Qua thời gian thực hiện dạy học theo Mô hình trường học mới, tôi nhận thấy những
thay đổi tích cực từ phía học sinh, cha mẹ học sinh cũng như cộng đồng xã hội.
Học sinh của tôi đã tự tin chiếm lĩnh kiến thức mới, các kĩ năng hợp tác, chia sẻ, kĩ
năng giao tiếp,… tiến bộ rõ rệt. Các em thực sự làm chủ trong quá trình học tập.
Chất lượng dạy học ngày càng tăng cao. Cụ thể:
Chất lượng cuối kì I, năm học 2015 – 2016, lớp 3A
MÔN

Điểm 10 Điểm 9

Điểm 8

Điểm 7

Điểm 6

Điểm 5

SL

%

SL %

SL %

SL %


SL %

SL %

Tiếng Việt

/

/

10

/

/

Toán

9

41 8

/

/

45,4 2

9


9

41

1

36,4 4

18,1

1

4,5

/

4,
5
/

Chất lượng cuối năm học 2015 – 2016, lớp 3A
MÔN

Điểm 10

Điểm 9

Điểm 8

Điểm 7


Điểm 6

Điểm 5

SL %

SL %

SL %

SL %

SL %

SL

%

9,1

/

/

/

/

/


/

/

/

/

Tiếng Việt

1

4,5

13 59,1

6

27,3

Toán

15

68,2

6

1


4,5

27,3

2
/

Cha mẹ học sinh cũng tham gia tích cực vào giáo dục học sinh, giúp học sinh vận
dụng linh hoạt kiến thức vào thực tế cuộc sống. Mối quan hệ giữa nhà trường và cộng
đồng ngày càng chặt chẽ, khăng khít hơn.
4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
Mặc dù mới được thực hiện trong 5 năm học, nhưng việc dạy học theo Mô hình
trường học mới của thầy trò chúng tôi đã mang đến những hiệu quả giáo dục tích cực.
Lớp học của Mô hình VNEN được bố trí giống như một phòng học bộ môn,
phòng thư viện linh hoạt. Tại lớp học cũng có góc học tập, góc cộng đồng, góc trưng
bày sản phẩm...để HS được phát huy khả năng sáng tạo độc lập của mình.

14


Mô hình Trường học mới được xây dựng theo hướng đổi mới phương pháp dạy
học với nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm, học tập mang tính tương tác và phù
hợp với từng cá nhân học sinh. Chính vì vậy, việc truyền thụ của giáo viên được
chuyển thành việc hướng dẫn HS tự học.
Tham gia lớp học này, các em có điều kiện phát huy sở trường cá nhân của
mình. Học sinh được làm chủ lớp học, làm chủ quá trình học tập.
Hàng ngày tới lớp, các em được sinh hoạt và học tập trong môi trường thân
thiện, thoải mái, không bị gò bó, luôn được gần gũi với bạn bè, với thầy cô.
Đặc biệt với sự giúp đỡ, tương trợ của các bạn trong nhóm, nhiều học sinh đã

không còn rụt rè e ngại mà trở nên hoạt bát, hào hứng hơn trong học tập.
Quản lý lớp học là “Hội đồng tự quản học sinh”. Hội đồng này được các em bầu
ra để đảm đương các hoạt động tại lớp. Đây là một cách thức sáng tạo, giúp học sinh
được phát huy quyền làm chủ quá trình học tập.
Với hình thức sinh hoạt và học tập như thế, các em được rèn luyện các kỹ năng
lãnh đạo, kỹ năng hợp tác trong các hoạt động hàng ngày.
Với cách bố trí lớp học theo các không gian mở hướng tới sự sáng tạo của học
sinh như: góc học tập, góc cộng đồng, góc thư viện, hòm thư vui, hòm thư “Điều em
muốn nói” đã tạo nên môi trường giáo dục thân thiện cho các em.
Thời gian đầu cả thầy và trò còn lúng túng. Nhưng khi đã quen với phương
pháp dạy và học này các em rất yêu thích và gắn bó với lớp học của mình hơn.
Có thể nhận thấy việc dạy học theo Mô hình trường học mới, sẽ rất thuận lợi cho
việc đánh giá năng lực học sinh theo các tiêu chí về chuẩn kiến thức, kỹ năng và hoạt
động theo từng môn học; đánh giá sự hình thành và phát triển năng lực chung của học
sinh. Điều này sẽ tạo điều kiện cho các em phát triển một cách toàn diện, giúp các em
dễ thích nghi với môi trường xung quanh.
3. Phần kết luận, kiến nghị
3.1. Ý nghĩa của sáng kiến

15


Cơng tác chủ nhiệm trong Mơ hình trường học mới có những điểm mới, tích
cực hơn so với cơng tác chủ nhiệm trước đây. Nó đòi hỏi sự nhạy bén, tính linh hoạt
của người giáo viên chủ nhiệm mới đáp ứng được u cầu giáo dục của mơ hình đề ra:
Dạy học theo ngun tắc lấy học sinh làm trung tâm, học tập mang
tính tương tác và phù hợp với từng cá nhân học sinh; chuyển việc
truyền thụ của giáo viên thành việc hướng dẫn học sinh tự học. Lớp
học do học sinh tự quản và được tổ chức theo các hình thức theo
nhóm là chủ yếu. Do vậy học sinh cơ bản đã thay đổi thói quen học

tập, các em tự nghiên cứu tìm hiểu kiến thức trong bài và qua tài
liệu. Những kiến thức khó, các em trao đổi với bạn trong nhóm và
mạnh dạn trao đổi vướng mắc với giáo viên. Qua đó, tạo điều kiện
thuận lợi để các em phát huy tính độc lập, chủ động tiếp thu kiến
thức và hiểu sâu sắc các kiến thức trong bài học; rèn luyện cho các
em được nhiều kỹ năng sống, kỹ năng tập thể trong cách hoạt động
học theo nhóm. Mơi trường học thoải mái, các em rất hào hứng tham
gia các bài học.
Mỗi tiết học khơng tạo áp lực đối với các em. Học sinh được
hình thành thói quen làm việc trong mơi trường tương tác, được học
hỏi bạn để tự hồn thiện, ln có ý thức được mình phải bắt đầu và
kết thúc hành động như thế nào, khơng chờ đến sự nhắc nhở của
giáo viên, tránh sự thụ động trong dạy và học, góp phần đẩy mạnh
sự phát triển trong cơng tác giáo dục của trường.
3.2.Kiến nghị, để xuất
Về chun mơn: Tăng cường tổ chức các buổi sinh hoạt chun mơn của
trường, cụm trường nhằm trao đổi kinh nghiệm, giải quyết những khó khăn vướng
mắc, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau trong q trình thực hiện dạy học theo Mơ hình
trường học mới.
- Đối với cha mẹ học sinh: Cần quan tâm hơn nữa tới
tự học, tự rèn của các em ở nhà nhiều hơn nữa. Phối kết hợp
với giáo viên chủ nhiệm thường xuyện trao đổi về tình của học sinh.

16


- Đối với chính quyền đòa phương: luôn luôn tạo
mọi điều kiện giúp đỡ về vật chất cho những em học sinh
nghèo và những em học sinh có hoàn cảnh khó khăn để
các em


được đến trường như các bạn khác và tham gia

vận động học sinh bỏ học quay lại lớp học cùng giáo viên.

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
STT
TÊN TÀI LIỆU
1
Tổ chức lớp học theo Mô hình trường học mới tại
Việt Nam
2
Tài liệu tập huấn: Dạy học theo mô hình trường học
mới, tập 1
3
Tài liệu tập huấn: Dạy học theo mô hình trường học
mới, tập 2
4
Hướng dẫn tổ chức sinh hoạt chuyên môn tại các
trường thực hiện Mô hình trường học mới Việt Nam
5
Hướng dẫn sự tham gia của cha mẹ học sinh và
cộng đồng trong Mô hình trường học mới Việt Nam

18

TÁC GIẢ

Nhà xuất bản giáo dục
Nhà xuất bản giáo dục
Nhà xuất bản giáo dục
Nhà xuất bản giáo dục
Nhà xuất bản giáo dục



×