Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Trên cơ sở phân tích một số án lệ chứng minh rằng thẩm quyền của tòa công lý liên minh Châu Âu là sự kết hợp giữa tòa án quốc tế và tòa án quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.62 KB, 14 trang )

Phần mở đầu
Tòa công lý Liên minh Châu Âu ( Court of Justice of the European Union ) là
toà án tối cao của Liên minh Châu Âu có thẩm quyền tư pháp đối với những
vấn đề liên quan đến luật pháp của tổ chức này. Là một thể chế quan trọng của
Liên minh Châu Âu tòa án công lý liên minh Châu Âu có nhiệm vụ giải thích
pháp luật Liên minh Châu Âu và đảm bảo việc áp dụng pháp luật Liên minh
Châu Âu một cách công bằng đối với tất cả các quốc gia thành viên. Tòa án
liên minh Châu Âu có thẩm quyền không giống với các tổ chức quốc tế khác,
cũng không giống với thẩm quyền của tòa án quốc gia mà đó là sự kết hợp
chặt chẽ của hai tòa án trên. Để làm rõ hơn về tổ chức cũng như thẩm quyền
của tòa công lý Liên minh Châu Âu nhóm em xin được sử dụng đề tài thứ 2: "
Trên cơ sở phân tích một số án lệ chứng minh rằng thẩm quyền của tòa công
lý liên minh Châu Âu là sự kết hợp giữa tòa án quốc tế và tòa án quốc gia ".
Nội dung
I. Một số kiến thức cơ bản về Liên minh Châu Âu và toàn án công lý
Châu Âu
1, Liên minh châu Âu
Liên minh châu âu ( EU ) là một liên minh kinh tế chính trị bao gồm 27 quốc
gia thành viên. Lúc đầu tổ chức này được thành lập với mục đích gắn kết các
nước tây âu lại để nhanh chóng phục hồi kinh tế của khu vực sau chiến tranh
thế giới thứ hai lấy lại ảnh hưởng của châu âu trên thế giới và hạn chế ảnh
hưởng của Mỹ đến khu vực này. Do còn nhiều nguyên nhân về kinh tế và
chính trị nên lúc này tổ chức chỉ có 6 thành viên và mang tên cộng đồng than
thép châu Âu (ECSC). Về sau nhận thấy hợp tác rất có hiệu quả nên cộng
đồng năng lượng nguyên tử châu âu (EURATOMM) và cộng đồng kinh tế
châu âu (EEC) cũng được thành lập. Năm 1967 sau hiệp ước Brussels ba cộng
đồng này được hợp nhất thành cộng đồng châu âu (EC). Và sau khi hiệp ước
Maastricht năm 1992 thì liên minh châu chính thức được thành lập với 12
1



thành viên. Các thiết chế pháp lí của liên minh châu Âu bao gồm Hội đồng
châu Âu, Nghị viện châu Âu, Hội đồng bộ trưởng châu Âu, Ủy ban châu Âu,
Tòa án châu Âu, Ngân hàng trung ương Châu Âu, Tòa kiểm toán châu Âu và
các cơ quan chuyên ngành.
Thông qua hệ thống luật pháp và một tiêu chuẩn chung áp dụng cho
tất cả các nước thành viên, duy trì một chính sách chung về thương mại, nông
nghiệp, ngư nghiệp và phát triển địa phương Liên minh châu Âu đã xây dựng
được một thị trường chung rộng lớn, bằng hai phương thức liên kết chính là
phương thức cộng đồng và phương thức liên chính phủ các thành viên đã gắn
kết cực kì chặt chẽ với nhau như một siêu quốc gia.
2, Toà án công lý Châu Âu
Tòa án công lí châu Âu (the Court of Justice of the Eropean
Communnities), đây là án tối cao của liên minh châu âu có nhiệm vụ giải
quyết những vấn đề liên quan đến pháp luật của tổ chức này, đây vừa là cơ
quan thống nhất pháp luật vừa là tòa án quốc tế và vừa là tòa Hiến pháp, hành
chính, dân sự và thương mại. Về cơ cấu tổ chức thì tòa gồm gồm 27 thẩm
phán và 8 công tố viên có nhiệm kỳ 6 năm và có thể được tái bổ nhiệm. Các
thẩm phán sẽ bầu ra chánh tòa với nhiệm kỳ 3 năm và có thể được tái bổ
nhiệm. Giúp việc cho tòa có Ban thư kí tòa, Ban phiên dịch và biên dịch, bộ
phận hành chính văn phòng. Ngoài ra tòa công lí châu Âu còn được cơ cấu
thành các phân tòa, có hai loại phân tòa là phân tòa gồm 5 thẩm phán với
chánh án (với nhiệm kì ba năm) và phân tòa gồm 3 thẩm phán với chánh án
(có nhiệm kì một năm). Mỗi vụ việc sẽ được xử tại một trong các phân tòa
trên, trong trường hợp bên khởi kiện là quốc gia thành viên hoặc các thiết chế
của EU hoặc các trường hợp quan trọng và phức tạp khác thì tòa xét xử với
thành phần mở rộng gồm 13 thẩm phán, ngoài ra đối với một số trường hợp
đặc biệt quan trọng thì tòa xét sử phiên toàn thể với ít nhất 15 thẩm phán.Tòa
án công lý Châu Âu có các chức năng cụ thể sau: tư vấn (tuy không bắt buộc
2



phải tham vấn tòa nhưng ý kiến của tòa có tính bắc buộc); giải thích pháp luật
( theo thủ tục giải thích tiền tài phán); đảm bảo pháp chế của EU; giải quyết
tranh chấp.
Tòa án công lý Châu Âu vừa là cơ quan thống nhất pháp luật, vừa có tính chất
như tòa quốc tế trong việc giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia thành
viên, vì: ''Một quốc gia thành viên cho rằng 1 nước thành viên khác không
thực hiện nghĩa vụ theo các hiệp ước thì có thể khởi kiện ra tòa công lý châu
âu'' Điều 259 -TFEU. Có tính chất như tòa quốc gia" thể hiện trong các lĩnh
vực như hiến pháp, hành chính, dân sự, thương mại.
II. Một số vụ việc
Để chứng minh thẩm quyền của tòa công lý liên minh Châu Âu là sự kết hợp
giữa tòa án quốc tế và tòa án quốc gia nhóm em xin đưa ra các vụ việc liên
quan đến phán quyết của toà án công lý châu Âu
1. Vụ việc thứ nhất
Án lệ Case C-2/89
Trường hợp C-2/89. Phán quyết của Tòa án (Phòng số sáu) ngày 03 tháng 5
năm 1990. - Bestuur vande Sociale Verzekeringsbank với MGJ Kits van
Heijningen. - Tài liệu tham khảo cho một phán quyết sơ bộ: Centrale Raad
van Beroep - Hà Lan. - An sinh xã hội cho người lao động di cư - nhân viên
bán thời gian - phụ cấp Family - Quy chế Hội đồng (EEC) Nº 1408-1471 Điều 13.
1.1, Các bên tham gia tố tụng:
- Nguyên đơn: Bestuur van de Sociale Verzekeringsbank, đại diện cho Raad
van Arbeid, Eindhoven.
- Bị đơn: ông Kits van Heijningen.
- Toà án: gồm: C. N. Kakouris, Chủ tịch Phòng: F. A . Schockweiler, G. F.
Mancini, T. F. O 'Higgins và M. Diez de Velasco, Thẩm phán: Advocate: G.
Tesauro.
3



-Ngoài ra: J. M. Pompe, B. H. ter Kuile (đại diện ngân hàng Sociale
Verzekeringsbank), E. H. Pijnacker Hordijk, của Hague và Brussels Bars.
Ủy ban của Cộng đồng châu Âu, bởi B. H. Drijber, một thành viên của Vụ
Pháp chế, hoạt động như đại diện.
1.2, Nội dung vụ việc:
Theo lệnh ngày 28 Tháng 12 1988, được nhận tại Tòa án vào ngày 5 tháng
năm 1989. Tòa án cho một phán quyết sơ bộ theo Điều 177 của Hiệp ước
EEC năm câu hỏi về việc giải thích Điều 13 và 73 của Hội đồng (EEC) số
1408/71 vào 14 tháng 6 năm 1971 về việc áp dụng các chương trình an sinh
xã hội cho người lao động, để người lao động tự do và các thành viên của gia
đình họ di chuyển trong phạm vi cộng đồng (chính thức Tạp chí, English
Special Edition 1971 (II), p. 416), được sửa đổi. Sau khi nghe phần tranh luận
được gửi bởi Sociale Verzekeringsbank, đại diện bởi E. H. Pijnacker, do
Chính phủ Hà Lan, đại diện bởi J. W. de Zwaan, và do Ủy ban, tại buổi điều
trần vào ngày 6 tháng 2 năm 1990. Đã phát sinh câu hỏitrong tố tụng giữa Hội
đồng quản trị của Sociale Verzekeringsbank, và G. J. Kits van Heijningen,
liên quan đến việc cấp trợ cấp gia đình cho theo sau đến Algemene
Kinderbijslagwet (Luật chung về trợ cấp trẻ em, sau đây gọi là "luật"). Mr
Kits van Heijningen, sinh sống tại Bỉ, đã làm việc cho Philips NV ở
Eindhoven cho đến khi 01 tháng 11 năm 1983. Trong khi làm việc cho
Philips, ông cũng đã làm việc như một giáo viên tại một cơ sở giáo dục Hà
Lan, nơi ông đã dạy cho hai giờ một ngày vào thứ Hai và thứ Bảy. Ông trở về
Bỉ sau mỗi ngày làm việc. Ngày 01 Tháng 11 năm 1983 ông Kits van
Heijninen nghỉ hưu ở Philips. Tuy nhiên, ông tiếp tục giảng dạy như trước.
Ông Kits van Heijningen được trợ cấp trẻ em từ các cơ quan chức năng Hà
Lan theo pháp luật, trong quý đầu tiên của năm 1984 đối với hai đứa con của
mình. Bằng thư Tháng Bảy 24, 1984, Raad van Arbeid, Eindhoven, từ chối
yêu cầu bồi thường. Để hỗ trợ cho quyết định của mình là Raad van Arbeid
4



cho rằng theo Điều 11 của luật pháp một người được hưởng trợ cấp trẻ em
trong một quý ông lịch chỉ khi được bảo hiểm vào ngày đầu tiên của quý đó.
Theo Raad van Arbeid, ông Kits van Heijningen đã được bảo hiểm chỉ vào
những ngày khi ông giảng dạy. Như ngày đầu tiên của quý đầu tiên của năm
1984 không phải là một thứ Hai hoặc thứ Bảy, ông Kits van Heijningen không
theo Raad van Arbeid, đòi đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 11 của
pháp luật. Ông Kits van Heijningen nộp đơn chống lại quyết định này với các
Raad van Beroep (Social Tòa Security), 's-Hertogenbosch, trong đó, bằng một
bản án của ngày 1 tháng 7 năm 1985, bãi bỏ các quyết định vấn đề. Raad van
Arbeid kháng án mà bản án cho Centrale Raad van Beroep.
1.3, Phán quyết của Toà Án:
Trên những căn cứ:
(1) Một người đang làm việc hai giờ mỗi ngày trên hai ngày mỗi tuần được
bảo hiểm bởi Hội đồng (EEC) số 1408/71 của 14 tháng 6 năm 1971 về việc áp
dụng các chương trình an sinh xã hội cho người lao động, để người và cho các
thành viên của gia đình họ tự do di chuyển trong phạm vi cộng đồng, đã được
sửa đổi, nếu ông gặp các điều kiện nêu tại Điều 1 (a) kết hợp với Điều 2 việc
làm của quy định.
(2) Điều 13 của Quy định (EEC) số 1408/71 phải được hiểu theo nghĩa rằng
một người được bảo hiểm bởi đó quy định những người là làm việc bán thời
gian tại lãnh thổ của một nước thành viên phải tuân theo pháp luật của Nước
thành viên trên cả các ngày mà ông theo đuổi các hoạt động đó và vào các
ngày mà ông thì không.
(3) Các điều khoản của Điều 13 của Quy định (EEC) số 1408/71 là một điều
khoản của luật pháp quốc gia áp dụng theo đó làm lại các chương trình bảo
hiểm được thành lập theo pháp luật mà có điều kiện về cư trú trong Nhà nước
thành viên trong lãnh thổ mà hoạt động như một người làm việc được theo
đuổi có thể không được dựa vào đối với người nêu tại Điều 13.

5


Toà án quyết không chấp nhận đơn kháng cáo của Bestuur van de Sociale
Verzekeringsbank, đại diện cho Raad van Arbeid, Eindhoven, không thu hồi
lại quyết định đã tuyên trước đó. Các chi phí phát sinh do Chính phủ Hà Lan
và được Ủy ban của Cộng đồng châu Âu kể từ khi các thủ tục tố tụng hoàn
tất, trong thời gian mà các bên tham gia tố tụng chính có liên quan, bản chất
của một bước trong hành động chỉ trước tòa án quốc gia, nên các quyết định
về chi phí là vấn đề do Tòa án Hà Lan quyết định.
1.4, Chứng minh Toà Công lý là toà quốc gia:
Không chỉ thụ lí các vụ việc liên quan đến những tranh chấp giữa các quốc
gia là chủ thể liên quan đến pháp luật quốc tế mà tòa án công lý liên minh
châu âu còn giải quyết những tranh chấp phát sinh giữa các cá nhân với cá
nhân, cá nhân với quốc gia hoặc cá nhân với thiết chế của Liên minh. Có thể
dẫn chiếu về vụ việc trên để thấy rõ Tòa Công lý Châu Âu là tòa quốc gia.
Chủ thể ở đây là một pháp nhân cụ thể và một bên là cá nhân của một quốc
gia thành viên (Hà Lan).
Cụ thể:
Điều 263 TFEU: Theo điều này, bất kỳ một cá nhân hay pháp nhân
nào cũng có thể tiến hành các thủ tục tố tụng đối với một đạo luật xác định
đích danh chủ thể đó hoặc các văn bản trực tiếp liên quan tới cá nhân họ và
khởi kiện đối với một regulatory act có liên quan trực tiếp đến mình và
không ghi nhận các biện pháp thực hiện.
- Ngoài ra, luật EU được áp dụng theo nguyên tắc "hiệu lực trực tiếp"
và nguyên tắc "cao hơn nội luật", chính điều này đã khiến pháp luật Liên
minh có tính chất giống như luật quốc gia.
+ Thứ nhất, như ví dụ nêu trên “Các điều khoản của Điều 13 của Quy định
(EEC) số 1408/71 là một điều khoản của luật pháp quốc gia Hà Lan áp dụng
theo đó làm lại các chương trình bảo hiểm được thành lập theo pháp luật mà

6


có điều kiện về cư trú trong Nhà nước thành viên” thì Luật của Liên minh
được áp dụng trực tiếp như luật quốc gia. Điển hình đó là Tòa Công lý châu
Âu đã thực hiện nguyên tắc áp dụng trực tiếp luật Liên minh bất chấp sự phản
đối của một số nước thành viên (sự kháng cáo của pháp nhân Raad van
Arbeid, Eindhoven không được chấp nhận) và chính điều đó đã đảm bảo sự
tồn tại của một trật tự pháp lý ở EU.
+ Thứ hai: quyết định của toà án trong vụ việc trên: “bản chất của một bước
trong phán quyết chỉ trước tòa án quốc gia, nên các quyết định về chi phí là
vấn đề do Tòa án Hà Lan quyết định.” cho thấy sự ưu tiên áp dụng luật của
Liên minh so với luật quốc gia. Chính nguyên tắc áp dụng trực tiếp luật của
EU như đã trình bày ở trên đã dẫn tới một hiện tượng đó là khi một quy định
của Liên minh quy định các quyền và nghĩa vụ của công dân Liên minh
nhưng lại xung đột với các nguyên tắc của pháp luật quốc gia thành viên.
Không có quy định cụ thể nào của Liên minh ghi nhận rằng Luật Liên minh
áp dụng trước hay áp dụng sau luật quốc gia. Tuy nhiên, để giải quyết triệt để
vụ việc đã đưa ra nguyên tắc ưu tiên luật Liên minh - một nguyên tắc cần thiết
cho sự tồn tại của trật tự pháp lý ở EU, đồng thời cũng cho thấy Tòa Công lý
châu Âu có hiệu lực, thẩm quyền như tòa quốc gia.
Bên cạnh đó, một tòa án mang tính chất quốc gia khi nó vừa là tòa hiến pháp,
hành chính, dân sự, kinh tế. Theo Điều 267 TFEU, khi các tòa án của quốc gia
thành viên có yêu cầu (trước khi xét xử hoặc trước khi ra phán quyết về một
vụ việc), ECJ (toà Hiến pháp, đồng thời là toà Hành chính) phải có trách
nhiệm đối với các vấn đề liên quan đến pháp luật EU và một phán quyết để
giải thích nội dung cũng như giá trị pháp lý của các quy định pháp luật EU.
Tòa án Công lý châu Âu còn mang tính chất là một tòa kinh tế: Pháp luật
Liên minh điều chỉnh những lĩnh vực thuộc thẩm quyền của Liên minh tại
Điều 3 TFEU và những lĩnh vực có sự chia sẻ về thẩm quyền giữa Liên minh

và các quốc gia thành viên quy định tại Điều 4 TFEU. Tòa án công lý liên
7


minh châu âu còn có nhiệm vụ là đảm bảo luật pháp được theo dõi sát sao khi
giải thích và áp dụng các hiệp ước đã kí kết giữa các quốc gia thành viên liên
minh châu âu. Tòa sẽ kiểm tra tính hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp
luật của các thể chế khác của liên minh châu âu và đảm bảo rằng các quốc gia
thành viên liên minh châu âu phải tuân thủ các nghĩa vụ theo đúng quy định
của các hiệp ước có hiệu lực. Toà án công lý cũng làm việc cùng với các tòa
án quốc gia, các tòa án thông thường áp dụng pháp luật EU. Bất kỳ tòa án
hoặc tòa án quốc gia được kêu gọi để quyết định một vụ tranh chấp liên quan
đến luật pháp EU có thể, và đôi khi, phải gửi câu hỏi lên Tòa án Tư pháp để
cho một phán quyết sơ bộ.
Từ những phân tích ở trên có thể thấy trong trường hợp này, Tòa Công lý
Châu Âu như một tòa án quốc gia.
2. Vụ việc thứ hai
Case C364/10,Thực hiện theo điều 259 TFEU do không thực hiện nghĩa vụ,
ngày 08 tháng 07 năm 2010
2.1, Các bên liên quan
Nguyên đơn: Hunggary
Bị đơn: cộng hòa Slovakia
2.2 Nội dung vụ việc
Ngày 21/8, Slovakia không cho phépTổng thống Hungary Laszlo Solyom
nhập cảnh khi ông tới thăm một thị trấn biên giới ở Slovakia có đông người
nói tiếng Hungary sinh sống. Một công hàm ngoại giao gửi Đại sứ Hungary
tại Bratislava, Chính phủ Slovakia đã thông báo ông Solyom không được
nhập cảnh vào Slovakia và ông "sẽ được chào đón ở Slovakia vào một dịp
khác". Biện minh cho hành động này, đầu tiên công hàm dựa vào các quy
định trong Chỉ thị 38/2004 cũng như các quy định của pháp luật trong nước

về quản lý người nước ngoài cư trú. Thứ hai, ngày 21/8 cũng là một ngày
8


nhạy cảm ở Slovakia khi mà vào ngày này năm 1968, lực lượng vũ trang cảu
năm nước thuộc hiệp ước Warsaw, trong đó có Hungary, đã xâm lược nước
cộng hòa dân chủ Tiệp Khắc. Tổng thống Solyom đã hủy bỏ chuyến thăm và
tổ chức cuộc họp báo tối 21/8 ngay bên cầu sông Danube nối Hungary và
Slovakia. Ông đã chỉ trích quyết định cấm nhập cảnh của Chính phủ Slovakia
là "một hành động chưa hề có tiền lệ và không thể lý giải được" giữa các đồng
minh cùng thuộc Liên minh châu Âu (EU) và Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây
Dương (NATO). Ngoại trưởng Hungary Peter Balazs, cũng cho biết chuyến
thăm đã được lên kế hoạch từ trước và được thông báo cho Bộ Ngoại giao
Slovakia, đồng thời dọa sẽ thông báo vấn đề này cho EU. Trong khi đó, phía
Slovakia đã triển khai một lực lượng cảnh sát lớn ở biên giới với Hungary.
Hungary sau đó bắt đầu thủ tục tố tụng trước Tòa án đối với bản cáo buộc
chống lại Slovakia (trên cơ sở của điều 259 TFEU), cáo buộc Cộng hòa
Slovak vi phạm điều 21 TFEU và Chỉ thị 2004/38 khi từ chối Tổng thống
Hungary nhập cảnh vào lãnh thổ của mình. Đặc biệt Hungary tuyên bố Chỉ thị
2004/38 này áp dụng cho tất cả công dân của Liên minh, bao gồm cả người
đứng đầu một quốc gia, và áp dụng với mọi chuyến thăm, dù là chính thức
hay mang tính chất cá nhân. Cụ thể yêu cầu của Hungary như sau: Thứ nhất,
Cộng hòa Slovakia vi phạm Chỉ thị 2004/38/EC của Nghị viện Châu Âu và
của Hội đồng ngày 29 tháng tư năm 2004 về các quyền của công dân Liên
minh và các thành viên gia đình của họ trong việc di chuyển và cư trú một
cách tự do trong phạm vi lãnh thổ của các nước thành viên, sửa đổi Quy định
(EEC) số 1612/68 và Chỉ thị bãi bỏ 64/221/EEC, 68/360/EEC, 72/194/EEC,
73/148/EEC, 75/34/EEC, 75/35 / EEC, 90/364/EEC, 90/365/EEC và
93/96/EEC (OJ L 158 2004, p. 77) và Điều 21 TFEU, theo đó, Công hàm
ngày 21 tháng 8 năm 2009 đưuọc ban hành dựa trên chỉ thị 2004/38 nhưng

không đúng với những quy định của chỉ thị, đã không cho phép Tổng thống
Hungary, ông Sólyom, nhập vào lãnh thổ của mình;Thứ hai, Xác nhận hành vi
9


bất hợp pháp như vậy có thể tái phát, xung đột với luật pháp của Liên minh
châu Âu, đặc biệt là Điều 3 TEU và Điều 21 TFEU; Thứ ba, Tuyên bố rằng
Cộng hòa Slovak đã áp dụng sai quy định của EU khi không cho phép Tổng
thống Sólyom nhập cảnh vào lãnh thổ của slovak ngày 21 tháng 8 năm 2009.
• Lập luận của các bên Hungary
Hungary cho rằng Cộng hòa Slovak đã vi phạm Điều 21 TFEU và Chỉ thị
2004/38 khi từ chối Tổng thống Hungary nhập cảnh vào lãnh thổ của mình
“mọi công dân của Liên minh di chuyển tự do trong Liên minh châu Âu” và
trường hợp này không thuộc ngoại lệ nào của quy định. Cụ thể: Thứ nhất, ông
Sólyom đe dọa cho bất kỳ lợi ích căn bản nào của xã hội. Thứ hai, không có
thông báo nào được gửi đến ông Sólyom để thông báo với ông về căn cứ ra
quyết định cũng như biện pháp khắc phục sự cố. Hungary cũng cho rằng
Slovakia đã lạm dụng quyền khi đưa ra khái niệm và “lạm dụng quyền” theo
quy định của Tòa án lệ vì trên thực tế, Slovakia đưa ra việc dẫn này vì mục
đích chính trị. Slovakia: Cộng hòa Slovak cho rằng chuyến thăm này không
đơn thuần là một chuyến thăm của một công dân liên minh mà là của một
nguyên thủ quốc gia. Vì vậy, Tòa án không có thẩm quyền lắng nghe và giải
quyết tranh chấp này vì luật pháp của EU không áp dụng cho tình huống này.
Cụ thể là: cho rằng các Điều 3, 4, 5, TEU không áp dụng cho quan hệ ngoại
giao song phương giữa các nước thành viên. Hơn nữa cũng không có quy
định nào trong các điều ước quốc tế quy định một cách rõ ràng việc trao thẩm
quyền cho Liên minh châu Âu trong việc điều chỉnh các mối quan hệ ngoại
giao giữa các nước thành viên. Hơn nữa, nếu pháp luật EU được áp dụng
trong trường hợp này thì nguyên thủ quốc gia sẽ được hưởng quyền ưu đãi
dựa trên pháp luật của nước đó. Như vậy trong mọi trường hợp, Slovakia đều

phủ nhận việc áp dụng pháp luật liên minh đặc biệt là chỉ thị 2004/38. Đồng
thời Công hàm ngày 21/8/2009 chỉ là một phần trong trao đổi ngoại giao liên
quan đến chuyến thăm Slovakia của tổng thống Hungary nên không được coi
10


là một “quyết định”. Hơn nữa Công hàm này được viết bởi Bộ ngoại giao chứ
không phải một sĩ quan cảnh sát trong các dịch vụ kiểm soát biên giới nên
Công hàm này không đúng thẩm quyền. Như vậy vấn đề ở đây là liệu luật của
EU có được áp dụng trong trường hợp này và Slovakia có vi phạm các quy
định của pháp luật EU. Lập luận của Tòa án: Trước hết, việc có áp dụng luật
EU hay không là thuộc thẩm quyền của Tòa án. Đồng thời theo Điều 259
TFEU, Tòa án sẽ quyết định việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật trong trường
hợp này hay không. Nên yêu cầu của Slovakia cho rằng Tòa án không có
thấm quyên bị từ chối. Thứ hai, công dân của liên minh có địa vị pháp lý cơ
bản của công dân ở các nước thuộc EU (điều 20, TFEU) và có quyền đi lại, cư
trú tự do trên lãnh thổ của các nước thành viên EU (Điều 21, TFEU). Đồng
thời, cần xác định ông Solyom thực hiện chuyến đi với vai trò của một
nguyên thủ quốc gia, khi đó ông phải có nghĩa vụ tuân theo việc hạn chế
quyền tự do đi lại theo TFEU và được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ cũng như
hưởng sự bảo hộ theo pháp luật quốc tế theo điều 1 của Công ước New York
ngày 14 Tháng 12 năm 1973. Như vậy, khi một nguyên thủ quốc gia ở trên
lãnh thổ của một quốc gia khác có nghĩa vụ tuân theo các yêu cầu của quốc
gia dó để đảm bảo việc bảo hộ được thực hiện. Từ đó có thể kết luận, cả điều
21 TFEU cũng như chỉ thị 2004/38 đều không bắt buộc Slovakia bảo đảm
việc nhập cảnh của tổng thống Hungary nên yêu cầu của Hungary là không có
căn cứ. Thứ ba, không đủ cơ sở chứng minh có sự lạm dụng quyền vì Tòa án
đã cho rằng bằng chứng của hành vi lạm dụng đòi hỏi, đầu tiên, một sự kết
hợp của hoàn cảnh khách quan, thứ hai, có yếu tố chủ quan là tạo ra một cách
giả tạo các điều kiện quy định để đạt được lợi thế từ các quy định Liên minh

châu Âu. Kể từ khi có Công hàm ngày 21/8/2009 thì không có thêm một phán
quyết nào từ cơ quan có thẩm quyền của Slovakia, một điều nữa, thông báo
gửi đến ông solyom cũng phù hợp với điều 30, chỉ thị 2004/38. Với những
điều trên thì khiếu nại của Hungary về việc Slovakia đã lạm quyền là không
11


có cơ sở. Thứ tư, mục đích của Hiệp Ước TFEU là loại bỏ những hành vi vi
phạm thực tế của các nước thành viên và hậu quả của nó nên việc khiếu nại về
hành vi vi phạm có thể tái diễn trong tương lai hay về việc giải thích luật của
EU là không được chấp nhận.
2.3, Phán quyết của Tòa Án:
- Bác bỏ đơn kiện.
- Nộp lệ phí đối với những yêu cầu của Hungary.
- Nộp lệ phí đối với những yêu cầu của Ủy ban
2.4, Tòa Công lý Châu Âu là tòa quốc tế
- Thứ nhất, trong hệ thống nguồn của luật EU, các điều ước quốc tế được ký
kết giữa các quốc gia thành viên được coi là luật gốc, điều chỉnh tất cả các
vấn đề pháp lý về hoạt động của EU như mục tiêu, cơ cấu tổ chức và phương
pháp thực hiện, thẩm quyền hay hoạt động của các thiết chế EU. Dưới góc độ
luật quốc tế, những điều ước này chính là nguồn của luật tổ chức quốc tế.
- Thứ hai, Tòa án công lý châu âu còn có thẩm quyền thụ lí, giải quyết các
tranh chấp giữa các chủ thể của luật quốc tế: đó có thể là quốc gia, các tổ chức
phi chính phủ, các tổ chức liên quốc gia… theo Điều 258, 259, 260 TFEU.
Thẩm quyền của Tòa thể hiện trước hết ở chức năng giải thích luật của EU và
đảm bảo cho cho pháp luật của liên minh được các thiết chế thuộc EU, các
quốc gia thành viên và các công dân của các nước thành viên tuân thủ. Thẩm
quyền của Tòa án Liên minh châu Âu rất rộng, bao trùm lên tất cả các lĩnh
vực lập pháp, hành pháp, tư pháp. Ví dụ: xem xét và đưa ra phán quyết về các
hành vi thiết chế trong cộng đồng và các phán quyết của Tòa. Từ những phân

tích trên, ta có thể khẳng định Tòa án Công lí Châu âu có tính chất như một
tòa quốc tế. Có thể dẫn chiếu lại về vụ việc trên để thấy rõ hơn tính quốc tế
của Tòa Công lý Châu Âu. Chủ thể trong vụ việc trên là các quốc gia có chủ
quyền (Hungary và Slovakia. Đây là những chủ thể của luật quốc tế. Bên cạnh
đó, các chủ thể đã căn cứ vào cùng một luật đó là bản Hiệp ước EEC.Điều
12


ước quốc tế này là một nguồn luật của luật quốc tế. Như vậy, có thể khẳng
định lại một lần nữa Tòa Công lý Châu Âu là tòa quốc tế.
Từ hai ví dụ trên ta có thể nhận thấy thẩm quyền của toà công lý châu Âu là
sự kết hợp giữa toàn án quốc tế và toà án quốc gia

Phần kết luận
Qua việc phân tích các án lệ trên đã giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tòa án công
lý liên minh Châu Âu cũng như thẩm quyền của nó, đó là sự kết hợp chặt chẽ
giữa tòa án quốc tế và tòa án quốc gia. Bài viết của chúng em còn nhiều thiếu
sót mong nhận được sự góp ý của các thầy( cô) để bài viết của em được hoàn
thiện hơn. Em xin chân thành cám ơn.

13


Mục lục
I. Một số kiến thức cơ bản về Liên minh Châu Âu và toàn án công lý Châu
Âu..................................................................................................................1
Mục lục............................................................................................................14

14




×