Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Đặc trưng của nhật kí văn học qua ba cuốn nhật kí đi tây của phạm phú thứ, pháp du hành trình nhật kí của phạm quỳnh và cô làm công của nguyễn công hoan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (725.23 KB, 60 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

======

NGUYỄN THỊ THÀNH

ĐẶC TRƢNG CỦA NHẬT KÍ
VĂN HỌC QUA BA CUỐN: NHẬT KÍ ĐI TÂY CỦA
PHẠM PHÚ THỨ, PHÁP DU HÀNH TRÌNH NHẬT KÍ
CỦA PHẠM QUỲNH VÀ CÔ LÀM CÔNG CỦA
NGUYỄN CÔNG HOAN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lí luận Văn học
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
ThS. HOÀNG THỊ DUYÊN

HÀ NỘI, 2016


LỜI CẢM ƠN
Tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thạc sĩ Hoàng Thị Duyên giảng
viên khoa Ngữ Văn, trƣờng Đại Học Sƣ Phạm Hà Nội 2 đã tận tình
hƣớng dẫn em trong suốt quá trình làm khóa luận.
Đồng thời tôi gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô trong tổ lý
luận đã giúp đỡ tôi trong 4 năm học tại đây đặc biệt trong quá trình
nghiên cứu lý luận này.
Cảm ơn tất cả các bạn đã giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và
nghiên cứu.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!


Hà Nội, tháng 5 năm 2016
Sinh Viên

Nguyễn Thị Thành


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận “Đặc trƣng của nhật kí văn học qua ba cuốn: Nhật kí đi
Tây của Phạm Phú Thứ, Pháp du hành trình nhật kí của Phạm Quỳnh và
Cô làm công của Nguyễn Công Hoan đƣợc hoàn thành dƣới sự hƣớng
dẫn trực tiếp của Giảng viên – Thạc sĩ Hoàng Thị Duyên, tôi xin cam
đoan công trình nghiên cứu này do chính em thực hiện, hoàn toàn trung
thực và chƣa từng đƣợc công bố ở các nghiên cứu khác. Nếu có gì sai sót
trong Luận văn em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 5 năm 2016
Sinh Viên

Nguyễn Thị Thành


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu ................................................................................ 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................ 4
3.1. Mục đích ............................................................................................. 4
3.2. Nhiệm vụ ............................................................................................ 4
Tìm hiểu về nhật kí văn học. ..................................................................... 4
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu ............................................................ 4
4.1. Đối tƣợng ........................................................................................... 4

4.2. Phạm vi ............................................................................................... 5
5. Phƣơng pháp nghiên cứu....................................................................... 5
6. Đóng góp của khóa luận........................................................................ 5
7.Cấu trúc khóa luận ................................................................................. 5
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THỂ LOẠI NHẬT KÍ ......................... 6
1.1. Tổng quan về thể kí văn học .............................................................. 6
1.2. Khái quát về nhật kí văn học .............................................................. 6
1.2.1. Quan niệm về nhật kí ...................................................................... 6
1.2.2. Đặc trƣng của nhật kí ...................................................................... 7
1.2.2.1 Ngƣời trần thuật trong nhật kí ...................................................... 7
1.2.2.2 Sự thật là vấn đề cốt lõi của nhật kí ............................................. 8
1.2.2.3 Nhật kí là một thể loại mang tính chất cá nhân riêng tƣ ............. 10
1.2.2.4 Tính chất biên niên của nhật kí ................................................... 11
CHƢƠNG 2: ĐẶC TRƢNG CỦA NHẬT KÍ VĂN HỌC QUA BA
CUỐN: NHẬT KÍ ĐI TÂY CỦA PHẠM PHÚ THỨ, PHÁP DU HÀNH
TRÌNH NHẬT KÍ CỦA PHẠM QUỲNH VÀ CÔ LÀM CÔNG CỦA
NGUYỄN CÔNG HOAN ....................................................................... 12


2.1 Hình tƣợng ngƣời trần thuật trong nhật kí biểu hiện qua ba cuốn .... 12
2.1.1 Ngƣời trần thuật ở ngôi thứ nhất .................................................... 12
2.1.2 Ngƣời trần thuật là ngƣời trải nghiệm ........................................... 19
2.1.3 Ngƣời trần thuật là ngƣời đánh giá ............................................... 21
2.1.4 Ngƣời trần thuật gắn với ngôn ngữ độc thoại ................................ 27
2.2 Đặc trƣng của nhật kí văn học biểu hiện qua ba cuốn ..................... 31
2.2.1 Tính chân thực ................................................................................ 31
2.2.2 Tính chất cá nhân .......................................................................... 40
2.2.3 Tính chất biên niên ......................................................................... 45
KẾT LUẬN ............................................................................................. 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhà báo Marta Roja bình luận: Nhật kí Đặng Thùy Trâm là một cuốn
sách vô cùng xúc động, tình cảm và rất con người. Có thể nói đây là một
trong những cuốn sách ấn tượng nhất trong thể loại nhật kí được viết trong
thế kỷ XX. Cuốn sách này chỉ có thể so sánh với cuốn Nhật kí Anne Frank,
tuy nhiên khác với Nhật kí Anne Frank, trong câu chuyện của Đặng Thùy
Trâm có cuộc đời của hai con người. Nhật kí Đặng Thùy Trâm đã quen thuộc
với bạn đọc trong nƣớc và quốc tế viết về ngƣời chiến sĩ, bác sĩ Đặng Thùy
Trâm, nó trở thành tiếng vang lớn tiêu biểu cho ý chí nghị lực của bất kì
ngƣời thanh niên nào, biết bao ngƣời đã có những lắng đọng cảm xúc, say mê,
yêu mến với cuốn nhật kí. Đã có những cuốn nhật kí để lại trong lòng ngƣời
đọc mãi không quên nhƣ thế, đã có những cuốn nhật kí đi theo chúng ta suốt
cuộc đời, cho ta nhận thức ý nghĩa cuộc sống, biết bao điều hay, những nhận
thức vô giá, những tri thức lịch sử, những bằng chứng thép không thể chối cãi
của những con ngƣời thép trong lịch sử, bên cạnh đó còn là những góc cạnh
tâm tƣ viết cho riêng mình để rồi nó đƣa ta đi theo năm tháng, đƣa ta đi qua
những năm tháng khó khăn, nó giúp ta cất giữ mọi tâm tƣ tình cảm, mọi niềm
vui nỗi buồn trong cuộc sống. Không chỉ riêng Nhật kí Đặng Thùy Trâm các
cuốn nhật kí khác bản thân nó cũng tồn tại những giá trị bền vững nhƣ vậy.
Mỗi cuốn nhật kí với nội dung khác nhau sẽ có những hấp dẫn lôi cuốn khác
nhau, và nhật kí trƣớc năm 1945 có những cuốn nhật kí nhƣ vậy mà chúng ta
cần phải nghiên cứu.
Bên cạnh thể loại nhật kí còn chƣa đƣợc quan tâm nhiều với số lƣợng
còn ít, chủ yếu là thơ và truyện ngắn mà hơn thế nữa nhật kí có tầm quan
trọng đối với cuộc sống chúng ta đặc biệt khi cuộc sống càng văn minh. Xã
hội càng hiện đại con ngƣời càng lao vào cuộc sống công nghiệp, con ngƣời
1



làm việc và nghỉ ngơi cũng theo lối gấp gáp của công nghiệp văn minh. Đến
một ngày nào đó con ngƣời dừng lại bất chợt một phút giây, một phút trầm tƣ
để suy nghĩ về mình và về cuộc đời, giây phút ấy thật đáng ý nghĩa, đáng trân
trọng biết bao khi ta đƣợc sống là chính bản thân mình, ta sống với cái tôi
thỏa sức bay bổng làm những gì ta muốn, suy nghĩ những gì ta thích. Xã hội
ngày nay ít ai có thời gian để ngồi lại với chính mình và đƣợc sống là chính
mình, do vậy chỉ có nhật kí mới có thể giúp con ngƣời cân bằng trạng thái
tinh thần trong guồng quay của xã hội, con ngƣời thèm muốn đƣợc thƣ thái,
đƣợc bình yên. Do đó nhật kí ngày càng đƣợc quan tâm đặc biệt là giới trẻ
hiện nay, họ biết tìm đến những trang mạng xã hội nhƣ: Facebook, blog cá
nhân, những trang điện tử, trở thành ngƣời bạn tri kỉ của mỗi chúng ta. Nhật
kí điện tử giúp chúng ta chia sẻ mọi cung bậc cảm xúc, giảm bớt strees, tăng
niềm vui hay lƣu giữ lại những sự việc mà bạn đã đang và sẽ xảy ra nếu nhƣ
bạn không muốn đánh mất những kỉ niệm của riêng bạn, những ngƣời mà bạn
yêu mến... cứ nhƣ vậy nhật kí ngày càng lên ngôi.
Nhật kí ngày càng đƣợc quan tâm, chú trọng. Nghiên cứu giai đoạn trƣớc
năm 1945 ngƣời ta ngày càng phát hiện ra những cuốn nhật kí hết sức mới lạ,
độc đáo, sâu sắc không những là nhật kí cho riêng mình mà còn là nhật kí cho
toàn thể dân tộc tiêu biểu: Nhật kí đi Tây của Phạm Phú Thứ và Pháp du hành
trình nhật kí của Phạm Quỳnh và Cô làm công của Nguyễn Công Hoan là ba
cuốn nhật kí có quy mô nhƣ vậy. Qua ba tác phẩm này chúng ta phần nào
khám phá đƣợc một cách chân thực nhất những góc khuất trong cuộc sống,
thấy đƣợc thế giới bên ngoài rộng lớn. Cánh cửa nhật kí không chỉ bó hẹp
trong phạm vi một đất nƣớc hay một khung cảnh chiến tranh ác liệt, những
dòng nhật kí mùi mẫn, bùi ngùi, xúc động mà chúng ta đã biết đến qua một số
tác giả nhƣ Chu Cẩm Phong, Đặng Thùy Trâm hay Nguyễn Huy Tƣởng,
Nguyễn Ngọc Tấn mà nó còn mới lạ, mang đậm tính chất khám phá của
những “chú dế mèn phiêu lƣu”, băng qua mọi khung cảnh tuyệt diệu để rồi

2


đƣa ta tiếp cận với những mảnh đất ngoại quốc tƣơi đẹp. Đó là thời kì Việt
Nam trƣớc cách mạng tháng Tám với những hiện thực đƣợc phơi bày nhƣ thế
nào?, cuộc đời của những con ngƣời trong cái đói có thê thảm nhƣ những
trang truyện ngắn mà chúng ta đã từng cảm thụ hay không? Và con ngƣời
trƣớc cách mạng tháng Tám mang thế giới nội tâm ra sao?. Tất cả điều đó sẽ
đƣợc giải đáp qua những cuốn nhật kí sau đây sẽ đi vào nghiên cứu.
Đồng thời việc chọn và nghiên cứu đề tài trên, tôi nghĩ không chỉ có dịp
đi sâu vào nghiên cứu những nét độc đáo của thể loại nhật kí qua ba tác phẩm
mà chúng ta còn phát hiện đƣợc cái hay đặc biệt trong việc thể hiện cái “tôi”,
cái “tôi” trong sự phiêu lƣu của cảm nghĩ rộng lớn và cái “tôi” không chỉ gắn
liền với cá nhân nhỏ bé mà nó còn gắn với mục đích chính trị, nhiệm vụ cấp
bách của một dân tộc.
2. Lịch sử nghiên cứu
Khi nghiên cứu về các khía cạnh của nhật kí thì ta đã thấy có một số
công trình nghiên cứu về nhật kí nhƣ: Nghệ thuật trần thuật trong nhật kí
Đặng Thùy Trâm [27] cũng đã tìm hiểu về ngôn ngữ, giọng điệu của nhật kí
nhƣng chƣa đi sâu nghiên cứu tính chất cốt lõi nhƣ tính chân thực, tính biên
niên, tính cá nhân của nhật kí. Cuốn thứ hai là Nhật kí từ điểm nhìn thể loại
[25] nhƣng công trình này mới chỉ nghiên cứu chung nhất về nhật kí nhƣ: đặc
trƣng của nhật kí, phân loại hay giá trị của nhật kí mà chƣa đi vào nghiên cứu
từng tác phẩm cụ thể nào hay Bước đầu tìm hiểu nhật kí Nguyễn Huy Tưởng
[1] tác giả cũng đã chỉ ra những nét khái quát về nhật kí nhƣ đặc trƣng, phân
loại, kết cấu, ngôn ngữ và ngƣời trần thuật. Tuy nhiên mới chỉ ra điểm nhìn và
ngôi kể mà chƣa đề cập đến ngƣời trần thuật là ngƣời trải nghiệm, là ngƣời
đánh giá và gắn với ngôn ngữ độc thoại, chƣa đi vào nghiên cứu bản chất sự
thật, tính biên niên, tính chất cá nhân của nhật kí nhƣ công trình Nghệ thuật
trần thuật trong nhật kí Đặng Thùy Trâm [13]. Cuối cùng cuốn Nghệ thuật

trần thuật trong nhật kí Nguyễn Ngọc Tấn [23] cũng mới chỉ ra những khía
3


cạnh về nghệ thuật mà chƣa đi vào tính chất nội dung đặc trƣng của nhật kí
nhƣ đã nói ở trên. Hay có công trình nghiên cứu về nhật kí nhƣng lại gắn với
các cuốn nhật kí khác trong khi đó đặc biệt với ba cuốn nhật kí Nhật kí đi Tây
của Phạm Phú Thứ, Pháp du hành trình nhật kí của Phạm Quỳnh và Cô làm
công của Nguyễn Công Hoan thì hoàn toàn chƣa từng đƣợc nghiên cứu. Có
thể thấy rằng ba tác phẩm nhật kí của ba tác giả trên hoàn toàn mới lạ với độc
giả, hoàn toàn chƣa từng đƣợc nghiên cứu trên bất kì hình thức hay diễn đàn
nào.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Tìm hiểu đặc trƣng của nhật kí văn học qua ba cuốn: Nhật kí đi Tây,
Pháp du hành trình nhật kí và Cô làm công nhƣ một thể loại nhật kí văn học
trên việc nghiên cứu một số phƣơng diện cụ thể nhƣ: ngƣời trần thuật, tính
chân thực, tính chất biên niên và tính chất cá nhân của nhật kí.
Tìm ra sự khác biệt giữa ba cuốn nhật kí ra đời trong thời gian khác nhau
và với phong cách từng nhà văn giúp bạn đọc thấy đƣợc cái hay, cái độc đáo
của nhật kí để từ đó khảo sát quá trình phát triển của nhật kí nói chung trong
nền văn học nƣớc nhà.
Tạo ra nhận thức mới và quan trọng hơn cả là sự trân trọng của độc giả
đối với nhật kí.
3.2. Nhiệm vụ
Tìm hiểu về nhật kí văn học.
Nghiên cứu đặc trƣng của nhật kí văn học trên một số phƣơng diện qua
ba cuốn nhật kí trên.
Phân tích các giá trị mà ba cuốn nhật kí đem lại.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng
Trong khóa luận, chúng tôi sẽ tiến hành tìm hiểu tổng quan về nhật kí,
4


tìm hiểu nhật kí trên các phƣơng diện nhƣ: ngƣời trần thuật, tính chân thực,
tính chất biên niên và tính chất cá nhân trong ba cuốn nhật kí.
4.2. Phạm vi
Luận văn khảo sát qua 3 tác phẩm Nhật kí đi Tây Phạm Phú Thứ, Pháp
du hành trình nhật kí của Phạm Quỳnh và Cô làm công của Nguyễn Công
Hoan cùng một số cuốn nhật kí của các tác giả trong các giai đoạn khác nhau.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp
Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu
Phƣơng pháp phân tích, hệ thống
6. Đóng góp của khóa luận
Với đề tài “Đặc trưng của nhật kí văn học qua ba cuốn: Nhật kí đi Tây
của Phạm Phú Thứ, “Pháp du hành trình nhật kí” của Phạm Quỳnh và Cô
làm công của Nguyễn Công Hoan chúng tôi mong muốn làm rõ đặc trƣng của
nhật kí qua ba cuốn trên.
7.Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu và tài liệu tham khảo thì khóa luận đƣợc chia ra làm
hai chƣơng đó là:
Chƣơng 1: Tổng quan về thể loại nhật kí văn học
Chƣơng 2: Đặc trƣng của nhật kí văn học qua ba cuốn: Nhật kí đi Tây
của Phạm Phú Thứ, Pháp du hành trình nhật kí của Phạm Quỳnh và Cô làm
công của Nguyễn Công Hoan

5



CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THỂ LOẠI NHẬT KÍ
1.1. Tổng quan về thể kí văn học
Văn học là tấm gƣơng phản chiếu hiện thực đời sống dƣới nhiều góc độ
khác nhau với mọi cung bậc cảm xúc của thế giới tâm hồn con ngƣời. Để có
thể hoàn thành tốt sứ mệnh của mình, làm nên “bông hồng vàng” kết tinh
những nét đặc sắc nhất của hiện thực đời sống, văn học nghệ thuật không chỉ
mang đến cho ngƣời yêu văn chƣơng một cách nhìn mà còn phản ánh cuộc
sống đa dạng với nhiều thể loại văn học phong phú nhƣ: thơ, tiểu thuyết,
kịch…và nhật kí cũng là một loại hình thu hút lớn đối với nhà văn cũng nhƣ
độc giả.
“Kí gồm nhiều thể chủ yếu là văn xuôi tự sự nhƣ: bút kí, hồi kí, du kí,
phóng sự, kí sự, nhật kí, tùy bút do có tính chất trung gian mà ngƣời ta liệt kí
vào cận văn học”.
Kí là loại hình văn học trung gian có nhiều biến thể xuất hiện khá muộn
so với các thể loại khác nhƣng nhật kí có những nét riêng không thể trộn lẫn,
góp phần làm nên sự phong phú của văn chƣơng nghệ thuật.
1.2. Khái quát về nhật kí văn học
1.2.1. Quan niệm về nhật kí
“Nhật là ngày. Kí là ghi chép. Nhật kí là ghi chép lại những sự việc diễn
ra hàng ngày, tuy nhiên từ khi xuất hiện có rất nhiều quan niệm khác nhau về
nhật kí, tiêu biểu ta chú ý đến các quan niệm sau:
Quan niệm thứ nhất: nhật kí đích thực là một thể tài ngoài văn học. Với
quan niệm này, nhật kí ở đây chỉ đƣợc xem là những ghi chép cá nhân đơn
thuần đƣợc sử dụng để bộc lộ chân tình những tâm sự riêng, để kí thác những
suy nghĩ khó giãi bày với ngƣời khác chứ không mang những nét đặc trƣng
làm nên diện mạo riêng của một thể loại văn học. [25, tr 6]
Quan niệm thứ hai: coi nhật kí là một thể loại văn học. Cuốn Từ điển
6



thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi là cuốn
sách đầu tiên trong văn học Việt Nam đã nhắc đến thể loại nhật kí với tƣ cách
là : “Một thể loại thuộc loại hình kí”. [25, tr 6]. Giáo sƣ Trần Đình Sử cũng đã
đánh giá nhật kí là một tiểu loại của loại hình kí, Nhật kí là thể loại kí mang
tính chất riêng tư, đời thường nhiều nhất [20, tr 379]. Cuốn Văn học Việt Nam
thế kỷ XX của Phan Cƣ Đệ cũng cho rằng nhật kí là một thể loại văn học: Nhật
kí ghi chép những sự việc và cảm nghĩ về bản thân, về cuộc đời diễn biến theo
ngày tháng. Nhật kí thiên về tâm tình hơn sự kiện. Một tập nhật kí có ý nghĩa
văn học khi thể hiện được một thế giới tâm hồn, qua sự việc và tâm trạng cá
nhân toát lên những vấn đề xã hội rộng lớn. [4, tr 8]
Chúng tôi qua việc khảo sát các tác phẩm nhật kí thấy rằng nhật kí là một
thể loại văn học. Nghĩa là chúng tôi thừa nhận nhật kí mang trong nó những
quy luật đặc thù của thể loại làm nên diện mạo riêng của nó. Vậy ta có thể
thấy bản chất cốt lõi của nhật kí là sự thật, nhật kí mang tính chất biên niên,
có tính chất cá nhân riêng tƣ hay ngƣời trần thuật trong nhật kí luôn mang
những đặc trƣng riêng biệt của thể loại.
1.2.2. Đặc trưng của nhật kí
1.2.2.1 Người trần thuật trong nhật kí
Trần thuật (narration) là hành vi ngôn ngữ kể, thuật, miêu tả sự kiện,
miêu tả nhân vật theo một thứ tự nhất định, theo một cách nhìn nào đó. Theo
Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi
thì trần thuật là phương diện cơ bản của phương thức tự sự, là việc giới thiệu
khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự vật
theo cái nhìn của người trần thuật [6; tr 364]. Nhƣ vậy ngƣời trần thuật trong
tác phẩm là một ngƣời hƣ cấu hoặc có thật thực hiện nhiệm vụ trần thuật,
truyền đạt, chỉ dẫn, bình luận... những vấn đề đƣợc mô tả hoặc đƣợc kể trong
tác phẩm gồm hai dạng chủ yếu: ngƣời trần thuật lộ diện (ngôi thứ nhất),
ngƣời trần thuật dấu mặt (ngôi thứ ba).
7



Ở nhật kí chủ yếu ngƣời trần thuật đƣợc kể theo ngôi thứ nhất, ngƣời
trần thuật luôn là tác giả hoặc nếu có gửi gắm ủy thác cho nhân vật của mình
thì đó là nhân vật xƣng “tôi” kể lại cuộc đời của chính nhân vật chứ không
phải nhân vật ở ngôi thứ ba nhƣ trong truyện hay tiểu thuyết. Nhật kí là thể
loại độc thoại, tự mình nói với mình, vì thế ta luôn thấy ngƣời trần thuật luôn
giữ ngôi thứ nhất. Ngƣời trần thuật lộ diện, tôi tự kể chuyện của mình, kể
những gì liên quan đến mình. Đây là kiểu ngƣời trần thuật tƣờng minh hay
nói cách khác là ngƣời trần thuật xuất hiện, lộ diện trực tiếp.
Ngƣời kể ngôi thứ nhất trong nhật kí có vai trò bao quát, quán xuyến
toàn bộ tác phẩm, nhân vật “tôi” trong nhật kí vừa là nhân vật - nhân chứng
cho các sự kiện đời sống và là nhân tố tổ chức, xâu chuỗi các chi tiết, sự kiện
vừa là tác giả bàn bạc, đánh giá về đối tượng phản ánh và bộc lộ lập trường,
quan điểm cảm xúc của bản thân [25; tr 20]. Trần thuật theo ngôi thứ nhất
giúp ngƣời viết có thể bộc lộ trực tiếp những lập trƣờng quan điểm tƣ tƣởng,
cảm xúc riêng của bản thân đáng tin cậy chứ không phải thông qua đoạn trữ
tình ngoại đề trong truyện.
Chính vì thế, ngƣời viết có thể bộc lộ trực tiếp, thẳng thắn, rõ ràng lập
trƣờng, thái độ của mình vì ở nhật kí luôn đòi hỏi sự có mặt trực tiếp của
ngƣời viết với nhân chứng của hiện thực để quan sát, nhận xét, chứng kiến.
Có hai lập trƣờng chủ yếu là lập trƣờng phê phán (thẳng thắn tố cáo, lên án tội
ác của kẻ thù, mỉa mai những mặt trái của con ngƣời và xã hội) và lập trƣờng
cộng đồng (ngợi ca những tấm gƣơng tốt, ngƣời tốt, việc tốt), điều này góp
phần đảm bảo tính chính xác, chân thực trong nhật kí đồng thời tạo niềm tin
nơi ngƣời đọc.
1.2.2.2 Sự thật là vấn đề cốt lõi của nhật kí
Bởi kí “cõi thực vốn là bản gốc của tác phẩm”, “tính chính xác tối đa là
đặc trưng cơ bản của kí” [21; tr 244] thì nhật kí cũng vậy tính xác thực của sự
việc ghi chép đƣợc coi là đặc trƣng của nhật kí, nó đƣợc thể hiện ở chỗ:


8


Không chứa đựng yếu tố hƣ cấu, khác hoàn toàn với truyện và tiểu
thuyết, yếu tố hƣ cấu là điều tối kị nhất trong nhật kí, ngƣời viết nhật kí không
tự dƣng thêm vào các tình tiết câu chuyện không có thực trong đời sống. Nhật
kí luôn đòi hỏi sự thành thực của ngƣời viết và tính xác thực đối với những
thông tin đƣơc ghi chép lại. Nếu nhƣ truyện và tiểu thuyết viết ra nhằm đạt
thông tin thẩm mỹ thì nhật kí nhằm hƣớng tới thông tin sự thật. Giáo sƣ Trần
Đình Sử viết rằng: Nhật kí là thể loại ghi chép những sự việc, suy nghĩ cảm
xúc hàng ngày của chính người viết giá trị quan trọng nhất của nhật kí là tính
chân thực do ghi chép sự việc đang diễn ra [21, tr 261]. Nhƣ vậy tính xác
thực chính là yếu tố làm nên giá trị của nhật kí.
Và sự thật trong nhật kí đó là: sự thật lịch sử nằm trong thế giới khách
quan. Tất cả các thông tin đƣợc ghi chép lại phải xác thực về ngày tháng đối
với sự kiện, số liệu đối với hiện tƣợng, địa chỉ đối với nhân vật. Tất cả đều
phải nguyên vẹn nhƣ những gì diễn ra trong thế giới khách quan, còn trong
cảm xúc là sự thành thực bộc lộ tâm trạng, tình cảm của bản thân. Chúng ta có
thể nhận thấy điều này ở các trang nhật kí nhƣ Nhật ký chiến trường của
Dƣơng Thị Xuân Qúy đƣợc ghi chép trong chƣa đầy một năm chị hành quân
vƣợt Trƣờng Sơn, hay nhật kí Đặng Thùy Trâm đã giúp những ai chƣa bao
giờ biết đến chiến tranh, chƣa bao giờ sống trong khói lửa chiến tranh nhận ra
nhiều sự thật mà trong cuộc sống thời bình không thể nào có đƣợc. Trong lời
giới thiệu Nhật kí chiến tranh nhà thơ Bùi Minh Quốc đã viết: Tất cả những
gì ta đọc được ở đây đều là sự thật; cái sự thật thô tháp tươi ròng và sống
động. Những con người thật; những địa chỉ thật; những sự việc thật; những
tâm trạng thật [15, tr 18]. Vậy nên đọc Nhật ký chiến tranh của Chu Cẩm
Phong ta nhận thấy tất cả những sự kiện, sự việc, những con ngƣời, những
hình ảnh đặc trƣng của từng mảnh đất đã trải qua quãng đời công tác đều

đƣợc anh ghi chép trong cuốn nhật kí này.
Với tất cả điều trên ta nhận thấy tính chất xác thực đã tạo ra sức hấp dẫn
riêng cho thể loại đồng thời có khả năng mạnh mẽ trong việc tạo ra giá trị
9


nhận thức, tạo ra sức thuyết phục, sức lay động, niềm tin đối với ngƣời đọc
đồng thời là những cuốn tƣ liệu vô giá cho mọi thời đại đã qua đi.
1.2.2.3 Nhật kí là một thể loại mang tính chất cá nhân riêng tư
Giáo sƣ Trần Đình Sử khẳng định trong giáo trình Lý luận văn học phần
tác phẩm và thể loại: nhật kí là thể loại mang tính chất riêng tư đời thường
nhiều nhất nếu mục đích của bài viết là đề giao lưu với người khác thì nhật kí
trái lại chỉ đề giao lưu với chính mình, mình viết để cho mình, nói với mình.
Riêng tư chính là lý do tồn tại của nhật kí. [20; tr 379].
Nhật kí chính là lời tâm sự, bộc bạch của tác giả hay nhân vật những lúc
cô đơn, muốn tự mình chiêm nghiệm lại những gì đã xảy ra. Vì thế có thể nói
nhật kí chính là thể loại kí mang tính chất riêng tƣ, tính chân thực và rất đời
thƣờng Với tư cách là những ghi chép cá nhân, trong nhật kí người viết có thể
tự do trình bày suy nghĩ, quan điểm, tình cảm và thái độ trước một sự thật.
[26, tr.11]. Nguyễn Văn Thạc viết nhật kí chỉ nhằm cho riêng mình và từng
coi nhật kí là một kỉ vật thiêng liêng, một “người bạn đường nghiêm khắc và
tốt bụng” [24, tr 227]. Chính bởi tính cá nhân riêng tƣ này mà nhật kí cá nhân
thƣờng là những lời tâm sự, những suy ngẫm “sống để bụng, chết mang theo”
của cá nhân ngƣời viết mà ngƣời khác cũng nhận ra điều này và không đƣợc
xâm phạm đến.
Tính chất cá nhân riêng tƣ của nhật kí không giống với thơ, truyện, kịch.
Ở thơ, truyện, kịch khi viết tác giả luôn xác định mục đích sáng tác, đối tƣợng
tiếp nhận và nghệ sĩ sau khi sáng tác thƣờng không giữ tác phẩm lại làm sản
phẩm cho riêng mình mà luôn công bố trƣớc đông đảo bạn đọc trong khi đó
nhật kí tác giả viết cho riêng mình với những điều bí mật nhất của bản thân

nên hoàn toàn không có ý định công bố rộng rãi trƣớc công chúng, tất cả đều
đƣợc giữ bí mật.
Tính chất cá nhân của nhật kí còn đƣợc thể hiện ở phong cách của mỗi
tác giả, mỗi ngƣời nghệ sĩ sẽ có đời sống nội tâm, cảm xúc cá nhân khác
nhau. Mỗi trang nhật kí là những lời tâm sự riêng của cá nhân ngƣời viết với
10


chính bản thân mình, do vậy qua mỗi trang nhật kí bạn đọc có thể tìm thấy
những cảm xúc khác nhau hết sức phong phú, ngoài ra ở mỗi nhật kí lại sử
dụng những kí hiệu riêng mà nếu không lí giải thì ta không thể biết đƣợc cũng
tạo nên tính chất cá nhân riêng tƣ của nhật kí.
Tóm lại, tính chất cá nhân riêng tƣ làm nên nét riêng đồng thời tạo ra sức
hấp dẫn của nhật kí.
1.2.2.4 Tính chất biên niên của nhật kí
Một cuốn nhật kí luôn luôn viết theo kết cấu thời gian tuyến tính, theo
trình tự về ngày tháng năm và bao giờ khoảng thời gian ghi chép giữa các
ngày tháng cũng đƣợc ghi rõ: ngày tháng năm (bằng số). Ngƣời viết nhật kí
bao giờ cũng tôn trọng trật tự biên niên của sự việc ghi chép. Sự việc hay hiện
tƣợng đƣợc ghi lại trong nhật kí bao giờ cũng đƣợc sắp xếp theo đúng trình tự
thời gian mà ngƣời viết lần lƣợt đƣợc chứng kiến hay tham gia. Theo giáo sƣ
Trần Đình Sử: Nhật kí ghi chép sự việc, suy nghĩ, cảm xúc theo ngày tháng,
có thể liên tục nhưng cũng có thể ngắt quãng [20, tr.379] tùy theo cảm hứng
và thời gian công việc của ngƣời viết. Điều đó có nghĩa là thứ tự ngày tháng
có thể theo đúng thứ tự liên tục nhƣ 1, 2, 3, 4 nhƣng cũng có thể ngắt quãng
nhƣng vẫn phải theo thứ tự liên tục nhƣ 1, 2, 5, 6, 7. Ngoài ra trong nhiều
cuốn nhật kí ngoài ghi ngày tháng năm ngƣời viết còn ghi cả nơi viết, giờ viết
nhật kí.
Tính chất biên niên có vai trò quan trọng trong việc thể hiện tính chân
thật của nhật kí. Ngƣời viết nhật kí đã biết vận dụng yếu tố này của nhật kí để

ghi chép, phản ánh kịp thời những vấn đề thời sự nóng hổi, những vấn đề cấp
bách của xã hội. Nhờ tính chất biên niên này mà nhật kí đƣợc coi là thể loại
văn học bám sát hiện thực đời sống một cách nhanh nhạy, kịp thời và chính
xác nhất.

11


CHƢƠNG 2: ĐẶC TRƢNG CỦA NHẬT KÍ VĂN HỌC
QUA BA CUỐN: NHẬT KÍ ĐI TÂY CỦA PHẠM PHÚ THỨ, PHÁP DU
HÀNH TRÌNH NHẬT KÍ CỦA PHẠM QUỲNH VÀ CÔ LÀM CÔNG
CỦA NGUYỄN CÔNG HOAN
2.1 Hình tƣợng ngƣời trần thuật trong nhật kí biểu hiện qua ba cuốn:
Nhật kí đi Tây của Phạm Phú Thứ, Pháp du hành trình nhật kí của Phạm
Quỳnh và Cô làm công của Nguyễn Công Hoan
2.1.1 Người trần thuật ở ngôi thứ nhất
Thể loại nhật kí chủ yếu sử dụng hình thức ngôi kể thứ nhất xƣng “tôi”,
“mình”, “chúng tôi”. Hình tƣợng cái “tôi” trong nhật kí không có gì có thể
phủ nhận đƣợc yếu tố tâm tình, trò chuyện là yếu tố quan trọng nhất trong
nhật kí. Hơn nữa, đó lại là những lời tâm sự trò chuyện của ngƣời viết với
chính bản thân họ nên việc ai là đối tƣợng trực tiếp trong nhật kí không phải
là vấn đề đáng quan tâm. Vì vậy sức hút của những cuốn nhật kí này phụ
thuộc vào cái “tôi” với nhiều cảm xúc sâu sắc trƣớc những sự việc diễn ra
trong đời sống hàng ngày, tất nhiên điều đó phụ thuộc vào đạo đức và yếu tố
thẩm mỹ của ngƣời viết nhật kí. Giá trị của nhật kí gắn bó chặt chẽ với đời
sống nội tâm của ngƣời viết góp phần tạo nên chiều sâu nhân văn cho tác
phẩm. Cái “tôi” trong nhật kí không ghi chép hoặc phản ánh một cách thụ
động về hiện thực cuộc sống và con ngƣời mà phải tái tạo biểu đạt một cách
chủ động, sáng tạo trƣớc những hiện thực đó. Do nhật kí là những trang viết
kể về chính cuộc đời mình, kể lại những sự kiện xung quanh tác giả nên ngƣời

kể trong nhật kí luôn đứng ở ngôi thứ nhất kể lại, hay chính là tác giả, tác giả
là ngƣời trực tiếp trải nghiệm, là minh chứng cho từng trang nhật kí hoặc gửi
gắm qua một nhân vật “tôi” kể lại cuộc đời mình. Đó chính là ngƣời trần thuật
lộ diện.
Trong Nhật kí đi Tây, ngƣời trần thuật ngôi thứ nhất xƣng “tôi” là tác
giả và ngƣời trần thuật ngôi thứ nhất số nhiều xƣng “chúng tôi”, bởi trong
12


chuyến du hành cùng với tác giả còn có những ngƣời xứ bộ khác đi cùng.
Quay trở lại với bối cảnh An Nam lúc bấy giờ, thời kì dân ta đang chịu sự
thống trị của Pháp, Phạm Phú Thứ là một trong ba đại sứ An Nam sang Pháp,
Tây Ban Nha năm 1863 – 1864 để học tập, tiếp cận, tìm hiểu văn minh
phƣơng Tây để khi trở về ông tâu trình lên vua tất cả những gì đƣợc nghe,
thấy, hỏi, trả lời nhằm thực hiện tƣ tƣởng canh tân đất nƣớc. Trong lúc trên
đƣờng đi tới hai nƣớc Phú Lãng Sa và Y - pha - nho. Tất cả những sự kiện
xoay xung quanh nhân vật “tôi” và bạn bè đều đƣợc kể lại một cách chi tiết,
cụ thể. Bắt đầu từ “ngày mồng sáu tháng năm năm Tự Đức thứ mười sáu, giờ
thìn, chúng tôi vào Triều lạy và, sau khi nghe những lời dạy của Hoàng
thượng, chúng tôi ra về” [46] đến khi lên thuyền bắt đầu chuyến đi xa “giờ
mùi chúng tôi liền cùng với các quan và nhân viên tùy thuộc xuống thuyền từ
bến Đông Gia ra cửa Thuận An”. Rồi đƣợc Lý - a - nha đƣa đến dinh soái
phủ Lục - lăng nghỉ ngơi chờ tàu đến để lên đƣờng “đến cổng, chúng tôi
xuống xe. Lục-lăng đưa chúng tôi đi qua khỏi dãy nhà thứ nhất, thì vị nguyên
soái giở mũ, bước tới phía chúng tôi, bắt tay rồi dẫn vào phòng khách” [51],
mỗi một nơi “tôi” và bạn bè đi tới đều đƣợc tâu trình rõ ràng với vua, đó là
thành phố sƣ tử Singapo “Lý - a - nhi thuê xe ngựa mời chúng tôi lên bờ đi
xem thành phố Tân Gia Ba” đến đây chúng tôi đi ngắm cảnh và “có đến thăm
lãnh sự Phú - lãng - sa” đi qua đất nƣớc Inddonexia, rồi đến Ấn Độ, Ai Cập,
Hi Lạp, Angieri với bao cảnh đẹp và những chuyến du ngoại kì thú. Cuối

cùng “chúng tôi” đã đặt chân tới mảnh đất với bạt ngàn rừng nho và những
chai rƣợu nho tuyệt vời, bắt đầu đƣợc nhận thức về công nghệ, kĩ thuật văn
minh của Pháp, đó là kĩ thuật chụp hình “chúng tôi lần lượt mặc phẩm phục
lên nhà lầu lợp kính trong quán để chụp ảnh”, sau đó “chúng tôi chuyển đi
xem sở chế tạo đồng hồ và đồ đồng”, đi xem lầu chứa đồ kĩ xảo, coi ống máy
làm băng, sở làm đồ pha lê. Đến nhà thờ, đi thăm các vị quan chức nơi đây.
Đó là mảnh đất xứ sở của rƣợu nho, mảnh đất của văn minh, tiên tiến đều hơn
13


hẳn so với An Nam lạc hậu, truyền thống. Vậy đến Tây Ban Nha có điều gì lí
thú, ta cùng đi với nhân vật “tôi” xem sao. Đến Tây Ban Nha “từ cửa biển đi
vào là núi và sa mạc, nhưng khi đã vào nội địa là một sứ xở của lúa mạch và
khoai, nho và lựu” hết sức thân thiện và hiếu khách “phái viên đón tiếp sứ bộ
là A - sưng - gốt cùng với bốn nhân viên giúp việc và Ba - lãng - ca đến đón
chúng tôi bên bờ. Trên bến, người ta bày binh khí và cử nhạc đưa chúng tôi
đến quán” [234]. À ! Đây là xứ sở của lúa mạch và khoai, nơi tạo ra những
thứ bánh quyến rũ ngƣời thƣởng thức một lần mà nhớ mãi. Con ngƣời ở đây
cũng hết sức mến khách và trang trọng, điều này làm cho nhân vật “tôi” thích
thú, ca ngợi tuy có khác với nƣớc Pháp nhƣng cũng thật giàu có và văn minh
không kém. “Chúng tôi” đƣợc mời đi xem hát, thăm xƣởng thuốc lá rồi tiến
kiến các đại sứ Tây Ban Nha. Nhƣ vậy chỉ với những trải nghiệm ban đầu
Phạm Phú Thứ và các đại sứ An Nam đã kể lại tƣơng đối tỉ mỉ những sự kiện
đã xảy ra. Hơn thế nữa không chỉ riêng tác giả nhìn thấy, nghe thấy, đặt chân
tới mà các đại sứ Phan Thanh Giản, Ngụy Khắc Đản cũng là ngƣời trực tiếp
nhìn thấy, nghe thấy, đặt chân tới do vậy cuốn nhật kí này làm tăng tính chân
thực, chính xác của tác phẩm. Bởi lẽ tất cả các sự kiện không chỉ một mình
tác giả nhìn nhận mà còn có hai đại sứ đi cùng chứng nhận điều tác giả kể trên
đây là đúng. Ngoài ra còn sử dụng ngƣời trần thuật ngôi thứ nhất số ít xƣng
“tôi” nhƣng với tần xuất không nhiều, chỉ khi cá nhân một trong ba đại sứ trả

lời hay lí do cá nhân mới xƣng tôi nhƣ : khi đến phủ soái Lục - lăng đƣợc
quyền soái hỏi “đất Tây Ninh giáp với Cao Man, vậy biên giới lấy gì làm căn
cứ?” Tôi, Phan Thanh Giản, nói: “muốn biết giới hạn rõ ràng, phải chờ xét
kỹ, song nói chung, phàm đã trở thành thôn xóm thì là người Việt, còn ở rải
rác trong rừng là người Man” [54] hay khi cần có thêm một ngƣời đi cùng
trong chuyến đi đó thì “Tôi, Phan Thanh Giản, lại đem con là Phan Liêm
theo để trông nom việc thuốc thang”, “Tối ngày mười lăm, bố chánh và án
sát Tây mời cơm chúng tôi. Tôi, Phạm Phú Thứ, vì bị cảm, nên nằm ở quán
14


trọ” hay khi đến nƣớc Pháp các đại sứ An Nam nhận Quốc thƣ từ tham tri bộ
Lễ của họ thì “Tôi, Phạm Phú Thứ, cung kính bưng Quốc thư đi trước một tí.
Tôi, Phan Thanh Giản và những người khác đi tiếp theo”. Ngƣời trần thuật
xƣng “tôi” và “chúng tôi” có sự chuyển đổi, phù hợp với từng điều kiện phát
ngôn khiến ngƣời đọc không dập khuôn, nhàm chán và tạo nên sự độc đáo của
Nhật kí đi Tây.
Cuốn nhật kí thứ hai cũng thể hiện hết sức rõ đặc điểm này. Ngƣời trần
thuật ngôi thứ nhất xƣng “tôi” trong Pháp du hành trình nhật kí viết rằng:
“Tôi đi Tây chuyến này, định quan sát được điều gì hay, khi trở về sẽ biên tập
thành sách để cống hiến các đồng bào. Nhƣ vậy có nghĩa nhân vật “tôi” đã
chú trọng việc theo dõi, ghi chép một cách cẩn thận để phục vụ cho đồng bào,
kể lại cho họ nghe những gì mình trải qua. Phạm Quỳnh đƣợc cử sang Pháp
tham dự cuộc đấu xảo thuộc địa năm 1922 cũng nhƣ Nhật kí đi Tây, tác giả
Pháp du hành trình nhật kí kể lại chặng đƣờng kéo dài sáu tháng từ 3/1922
đến 9/1922 với những gì tác giả đã nghe thấy, nhìn thấy: “Tôi được quan
Thống sứ Bắc kỳ cử sang Đại Pháp thay mặt cho Hội Khai trí tiến đức để dự
cuộc đấu xảo Marseille, lại được quan Toàn quyền đặc phái sang diễn thuyết
tại mấy trường lớn ở Paris, ngày 9 tháng 3 Tây năm 1922 (tức là ngày 11
tháng 2 ta), xuống Hải Phòng để đáp tàu Armand Béhic về Pháp.” [1] Từ khi

tàu nhổ neo cho đến đi sang các nƣớc láng giềng Singapo, Vịnh Peang
(Malaixia), Colombo và cuối cùng là Pháp, nhân vật “tôi” dƣờng nhƣ đã cho
ngƣời đọc đƣợc chứng kiến tận mắt nhƣ mình đã một lần đặt chân tới những
mảnh đất thân yêu, giàu có đầy kì thú và quyến rũ ấy: “Mặt trời mới mọc,
trông vào bến Singapore, không cảnh gì đẹp bằng, như một bức tranh sơn
thủy vậy. Lần này mới được trông thấy một nơi hải cảng là lần thứ nhất, thật
là một cái cảnh tượng to tát. Cửa Hải Phòng, cửa Sài Gòn của ta kể cũng khá
to, nhưng sánh với cửa Singapore này còn kém xa nhiều. Bến liền nhau với
bể, chạy dài đến mấy nghìn thước, tàu đỗ không biết cơ man nào mà kể, tàu
15


của khắp các nước đi tự Á Đông sang Ấn Độ và Âu Tây đều phải qua đấy”
[12-13], rồi “Pinang là chỗ nghỉ ngơi. Đi ra ngoài mấy phố buôn bán, toàn là
những nhà ở riêng của các phú thương người Anh, người Khách, cũng làm
theo một lối “biệt thự”như ở Singapore, nhà giữa, vườn cây chung quanh,
nhưng rộng rãi, mát mẻ hơn nhiều. Vườn nào cũng đặt đường chạy quanh cho
ô tô đi được. Có nhiều cái vườn rộng mênh mông, trồng toàn cau và dừa, như
vô số những cột thẳng một dóng cau, trên lá xoè như cái tán trông đẹp lắm.
Các biệt thự của người Tàu có những hoành phi, câu đối, chậu hoa, ghế đá,
đôn sứ, núi giả, nghiễm nhiên ra cái vẻ phong lưu của người Đông Á. Người
Tàu lại còn có những nhà hội quán riêng, làm theo kiểu các “câu lạc bộ”
(clubs) của người Anh, có câu lạc bộ cho đàn ông, lại có câu lạc bộ cho đàn
bà” [18]...Và cũng nhƣ Phạm Phú Thứ, nhân vật “tôi” ở đây khi đến Pháp
cũng thực hiện những điều thích thú của mình khi tới đây và đều đƣợc “tôi”
kể lại cụ thể, chi tiết: từ việc đến Pháp đi thăm ngƣời thân, đi nghe diễn
thuyết, xem điểm binh và đi thăm những địa danh nổi tiếng nơi đây nhƣ: nhà
thờ Pari, Trƣờng Đại học Pháp, tháp Epphen, thăm Viện Bảo Tàng... “Ở
Marseill có cảnh đẹp nhất là nhà thờ “Đức bà Bảo hộ” (Notre Dame de la
Garde), xây trên cái đống cao 150 thước, trấn hám cả địa thế thành

Marseille; thờ Đức bà bảo hộ cho con nhà đi bể, khác nào như bà Thiên hậu
của người Tàu. Một tòa nhà thờ chon von ở giữa cái đống cao, trên đỉnh gác
chuông lại có một cái tượng Đức bà lực lưỡng cao ngót mười thước, nặng
hơn bốn nghìn năm trăm cân, những buổi mây quang trời tạnh, đứng khắp
thành Marseille ở đâu cũng trông thấy, rõ như bức tranh vẽ, thật cũng là một
cái kỳ quan”, “Tối nghe diễn thuyết ở Hội Diễn thuyết thành Marseille. Ở
Marseille này, trong một tuần lễ không có mấy ngày là không có diễn thuyết.
Trong nhật báo đã có một mục riêng để báo các ngày giờ diễn thuyết ở các
nơi, có ngày hai ba bốn nơi diễn thuyết về đủ các vấn đề: cách trí, văn
chương, lịch sử, chính trị; lại có nơi gọi là “Maison de Provence” [29 - 30],
16


rồi “Gặp cậu P. M. ở Toulouse lại. Cậu người Trung Kỳ, sang tòng chinh bên
này, rồi khi chiến tranh xong xin ở lại học, hiện theo học ở ban Cách trí Hóa
học tại trường Đại học Toulouse” [33]. Đọc đến những dòng nhật kí này, có
lẽ trong chúng ta ai cũng ƣớc mơ đƣợc đặt chân đến một lần để thƣởng ngoại,
cảnh vật hết sức quyến rũ, đặc biệt qua cái nhìn dƣới con mắt của nhà văn thì
nơi đây trở nên đẹp vô cùng.
Dừng lại với những khung cảnh nên thơ, trữ tình, cuốn nhật kí Cô làm
công sẽ đƣa chúng ta đến với một khung cảnh hoàn tác khác lạ qua cái nhìn
của nhân vật chứ không phải của nhà văn. Nguyễn Công Hoan không đứng ra
kể lại câu chuyện nhƣ hai nhà văn trên mà để cho nhân vật “tôi” tự kể lại cuộc
đời mình, vì chính cô mới là ngƣời trực tiếp trải nghiệm cuộc sống của một kẻ
đi làm công cho ngƣời ta - nhân vật xƣng “tôi”, đây chính là điều khác biệt
thấy rõ nhất giữa ba cuốn nhật kí. Nguyễn Công Hoan để cho nhân vật tự kể
lại cuộc đời của nhân vật nhƣ vậy sẽ chính xác, trung thực hơn. Đó là khi cô
nhận đƣợc một công việc dạy học tƣ ở nhà ông Hƣờng Đào với lƣơng hai
chục một tháng nhƣng khó chịu thay khi bà Hƣờng cứ xăm xe, can thiệp,
phản đối công việc của “tôi”, ăn đƣợc đồng tiền của bà đâu có dễ, bà moi móc

từng li từng tí để đổ lỗi, trách móc “tôi” khiến đôi lúc “tôi” thấy “ác cảm với
cái mặt bè bè và giọng nói khẽ nằng nặc ấy quá bà ấy quen cư xử của lối bà
Hường cậy ta có tiền nuôi giáo cho con thì có quyền xem xét và bẻ họe”, “ai
lại đàn bà cứ luôn the thé, hết mắng con vú lại chửi thằng xe”, việc cá nhân
riêng tƣ của “tôi” cũng bị xoi mói, để ý, “tôi” đi đôi guốc bà “cũng phải ngắm
nghía, ra ý khinh bỉ”, đáng thƣơng hơn ngay cả bà cũng ghen với “tôi” với
ông Hƣờng “nó dám bảo chồng nó với tôi phải lòng nhau từ bao giờ, rồi
chồng nó lập kế mời đến dạy con cho được luôn luôn gần gụi nhau” [25] thế
có khổ cho cô làm công không, trƣớc sau thì cũng bị đuổi thôi, lại trở về cảnh
nghèo đói. Có việc cũng sung sƣớng bớt lo gánh nặng miếng cơm cho các em
và bà ở nhà nhƣng có việc trong cảnh đi làm công cũng phải sùi nƣớc mắt,
17


cắn răng chịu đựng vì kiếp con kiến không đƣợc phép lên tiếng. Còn việc bán
hàng cũng cay cực lắm! Suốt ngày phải tƣơi cƣời, lễ phép, dù gặp ông khách
khó tính, cục cằn đến đâu cũng cứ phải giả điếc, giả câm, giả mù, cho ngƣời
ta đƣợc lòng, bán hàng mà ế “tôi” phải chịu trách nhiệm. Nhƣng không may
thay cho cô, đứa đểu cáng nào lấy trộm của gian hàng cô bốn cuốn băng, phải
làm sao bây giờ? Ngƣời ta sẽ đổ tội cho cô là lấy cắp nó, ngƣời ta sẽ chửi
mắng cô, đuổi việc cô, thôi thì đành nói rằng “tôi” mua nhƣng chƣa có tiền
trừ vào tiền lƣơng tháng, đến cuối tháng nhận tiền coi nhƣ là hết. Khổ thay!
Nhân vật “tôi” không chỉ kể về cuộc đời của mình đó còn là những mảnh đời
nhƣ cô, cô Đoan đi khâu vá thuê cho ngƣời ta, tháng sáu đồng bạc bẽo chả đi
mình chị ăn mà “khâu xấu thì phải phạt, khâu xấu thì phải đền. Con chủ
nghịch dao hay kéo của mình mà có đứt tay mình cũng chịu lây tai vạ” rồi sáu
đồng mà phải kiêm cả chức trách làm vú em “chúng tôi phải chăn dắt, trông
nom đứa trẻ con chủ, khi chúng chơi nghịch”. Đời làm công hèn mọn biết
bao! Đó là một mảnh nhỏ cuộc đời của kiếp làm công.
Nhƣ vậy, ở mỗi cuốn nhật kí nhân vật “tôi” là những hình tƣợng nghệ

thuật khác nhau nhƣng đều đảm nhiệm chức năng đó là kể lại cuộc đời mình
qua cảm xúc thẩm mỹ khác nhau. Nếu nhƣ ở Nhật kí đi Tây, Pháp du hành
trình nhật kí nhân vật “tôi” kể lại với cảm xúc hết sức hồ hởi, vui mừng xen
lẫn sự ngỡ ngàng, thán phục thì Cô làm công lại đƣợc kể lại với cảm xúc buồn
thƣơng, triết lí. Sử dụng ngƣời trần thuật ngôi thứ nhất xƣng tôi không những
giúp cho bạn đọc có cái nhìn bao quát nhất đối với hiện thực khách quan,
càng đƣa tầm mắt của mình ra xa bao nhiêu thì càng nhìn thấy rõ, chiêm
nghiệm đƣợc bấy nhiêu mà còn thấy đƣợc sự tinh tế, cảm xúc sâu sắc của mỗi
nhà văn. Đây chính là lợi thế của việc sử dụng ngƣời trần thuật ở ngôi thứ
nhất, làm cho cuốn nhật kí nhƣ những thƣớc phim trung thành của thời đại,
ngƣời đọc nhƣ đƣợc phiêu lƣu cùng với tác giả tới những mảnh đất và con
ngƣời kì thú, lạ kì. Ta đƣợc sống và đƣợc cảm thông với những kiếp làm công
18


tủi nhục qua trang nhật kí của Nguyễn Công Hoan, ta đƣợc vi vu, phiêu lƣu để
biết đƣợc những mảnh đất xa xôi, kì thú văn minh hơn hẳn An Nam chúng ta
qua trang nhật kí của Phạm Phú Thứ và Phạm Quỳnh. Nhân vật xƣng “tôi”
không cần đến những đoạn trữ tình ngoại đề mà trực tiếp kể lại đồng thời
ngƣời trần thuật xƣng “tôi” sẽ giúp nhân vật “tôi” có thể trực tiếp nói lên cảm
xúc của mình, do đó nó tạo ra một đặc trƣng nữa đó là: ngƣời trần thuật là
ngƣời đánh giá.
2.1.2 Người trần thuật là người trải nghiệm
Nhật kí là những chuyến phiêu lƣu “trƣờng kì” của chính tác giả đƣợc
kể lại với tất cả những gì mình nhìn thấy, đƣợc quan sát và đƣợc lắng nghe .
Tác giả là ngƣời trực tiếp trải nghiệm với những gì xảy ra xung quanh tác giả,
với thế giới khách quan, với tất cả những cung bậc cảm xúc rất thực. Sự trải
nghiệm đó ở mỗi bối cảnh khác nhau thì mỗi nhà văn sẽ có những trải
nghiệm, những nhận thức về cuộc sống khác nhau.
Nhật kí đi Tây là cuốn nhật kí đƣợc ra đời trong khoảng thời gian từ

tháng 5 năm 1863 đến tháng 3 năm 1864, tƣơng ứng với khoảng thời gian tác
giả ở bên Tây và sau khi trở về sẽ tâu trình lên vua những gì mình nhìn thấy,
đƣợc nghe và đƣợc trải nghiệm. Do vậy có thể nói nhật kí này là một chặng
đƣờng chƣa đầy một năm nhƣng nó đã trở thành cuốn bách khoa toàn thư của
dân tộc, nhà văn tỉ mỉ, cẩn thận ghi chép mọi sự chuyển động, “hơi thở” của
mảnh đất, con ngƣời Pháp và Tây Ban Nha. Và Pháp du hành trình nhật kí
của Phạm Quỳnh cũng vậy, ngƣời trần thuật xƣng tôi đƣợc trải nghiệm qua
từng mảnh đất và con ngƣời của các nƣớc láng giềng để đi sang bên Pháp và
Tây Ban Nha, đó là nơi cội nguồn của đạo Phật (Ấn Độ), đó là thành phố sƣ
tử (Singapo) hay vùng đất của những dãy Kim Tự Tháp khổng lồ (Ai Cập) để
rồi cuối cùng ta ngƣời trần thuật xƣng tôi đƣa chúng ta trải nghiệm trên đất
nƣớc của tháp Ephe, của Nhà thờ đức bà Pari…và đất nƣớc Tây Ban Nha.
Những trải nghiệm của nhân vật “tôi” này đã phần nào đƣợc nhắc tới và trở
19


thành nội dung trong những bài thuyết trình trƣớc toàn dân An Nam nhằm
thực hiện cuộc canh tân đất nƣớc vĩ đại với nhà văn Phạm Phú Thứ, nắm bắt
giải quyết vấn đề thuộc địa của An Nam ta trong nhật kí của Phạm Quỳnh.
Quan sát điều hay đó chính là sự trải nghiệm sâu sắc, rộng lớn của ngƣời trần
thuật trong hai tác phẩm này.
Ngƣợc lại, Cô làm công của Nguyễn Công Hoan không phải là cuốn nhật
kí mang sứ mệnh của dân tộc nhƣ sự cách tân dân tộc, đấu tranh thuộc địa đòi
tự do, công bằng cho dân tộc mà nó là số phận của một con ngƣời, một kiếp
ngƣời đang hiển hiện trƣớc mắt chúng ta trong bối cảnh xã hội Việt Nam
trƣớc cách mạng tháng Tám. Kiếp ngƣời ấy cũng cần đƣợc quan tâm, chia sẻ,
cảm thông và cứu giúp cấp bách ngay thời điểm lúc bấy giờ nhƣ số phận của
dân tộc An Nam thế kỉ XIX. Và cũng nhƣ hai cuốn nhật kí trên, tác giả của
Cô làm công cũng phản ánh bức tranh có thật trong xã hội Việt Nam trƣớc
cách mạng tháng Tám, là những kiếp làm công có thật mà Nguyễn Công

Hoan đã đƣợc tận mắt nhìn thấy. Cô gái không xƣng tên ấy chính là đại diện
cho tất những mảnh đời đi làm công, không chỉ riêng những ngƣời con gái mà
cả những thanh niên, đàn ông. Với trải nghiệm đời của một cô làm công,
ngƣời trần thuật xƣng tôi đƣợc trải nghiệm, đƣợc “lăn đời” với số phận cô làm
công. Từ khi đi làm gia sƣ cho nhà giàu có cho đến phải đi làm công bán hàng
“tôi” phải trải qua chịu đựng với những mặt trái của cuộc đời khi không có
đồng tiền, đời không công bằng với cô đó là sự mỉa mai, khinh miệt, cay
nghiến nhƣng vẫn phải cắn răng chịu đựng vì miếng cơm manh áo. Đó là
những lúc thất nghiệp, các em đói rét, bà thì ốm yếu phải mang quần áo đi
cầm cự cho ngƣời nhà giàu để sống qua ngày. Cho đến lúc xin đƣợc một công
việc mới thì cô phải hạ mình, chịu đựng sự đùa giỡn, ong bƣớm của những kẻ
hạ lƣu đến mua hàng, những bọn thích trêu ghẹo con gái nhà lành, tất cả “tôi”
đều phải chịu đựng, giả câm, giả điếc để cho xong. Đọc đến những dòng nhật
kí đó bạn đọc không thể cầm đƣợc nƣớc mắt, hiện thực cuộc sống trƣớc cách
20


×