Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

bài giảng bảo tồn đa dạng sinh học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.02 MB, 84 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA NÔNG LÂM NGƢ

BÀI GIẢNG
(Luu hành nội bộ)

BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC

Nguyễn Thị Quỳnh Phương

Năm 2016

1


LỜI NÓI ĐẦU
Bảo tồn đa dạng sinh học là môn học nhằm cung cấp những kiến thức cơ
bản nhất về khái niệm đa dạng sinh học và các biện pháp bảo tồn đa dạng sinh
học. Đây là môn học dành cho đối tượng là sinh viên chuyên ngành Quản lý tài
nguyên và môi trường và các chuyên ngành gần tại trường Đại học Quảng Bình.
Trong suốt những năm qua, Đa dạng sinh học và bảo tồn đa dạng sinh
học đang là vấn đề quan tâm của toàn xã hội. Vì vậy giáo trình này luôn thay đổi
cùng với sự thay đổi của các vấn đề nóng hổi của xã hội. Đặc biệt là sau khi đổi
mới chương trình giáo dục Đại học phù hợp với biến đổi.
Bài giảng Bảo tồn đa dạng sinh học nhằm phục vụ cho công việc giảng
dạy và học tập của sinh viên thuộc chuyên ngành Quản lý tài nguyên và môi
trường và cũng là tài liệu tham khảo cho các cơ quan ban ngành liên quan đến
công tác bảo tồn đa dạng sinh học.
Bài giảng được biên soạn dựa trên sự tham khảo của rất nhiều tài liệu
của các tác giả trong và ngoài nước liên quan đến các vấn đề đa dạng sinh học
và bảo tồn đa dạng sinh học trên thế giới cũng như Việt Nam. Tuy nhiên đã có


nhiều cố gắng, song chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả mong
nhận được sự góp ý của các thầy cô, sinh viên và độc giả trong và ngoài trường
để cuốn bài giảng này càng hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!

2


MỤC LỤC
CHƢƠNG I. TỔNG QUAN VỀ ĐA DẠNG SINH HỌC................................................1
I. KHÁI NIỆM VỀ ĐA DẠNG SINH HỌC ..................................................................5
1. Khái niệm về đa dạng sinh học ....................................................................................5
2. Một số vùng giàu về đa dạng sinh học trên thế giới ....................................................9
II. GIÁ TRỊ CỦA ĐA DẠNG SINH HỌC....................................................................10
1. Định giá giá trị của đa dạng sinh học .........................................................................10
2. Giá trị của đa dạng sinh học ......................................................................................11
III. SUY THOÁI ĐA DẠNG SINH HỌC .....................................................................15
1. Khái niệm về suy thoái đa dạng sinh học ..................................................................15
2. Nguyên nhân gây suy thoái đa dạng sinh học............................................................18
3. Thang bậc phân hạng mức đe doạ của IUCN. ...........................................................18
CHƢƠNG 2. BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC ........................................................23
I. CƠ SỞ VÀ NGUYÊN TẮC CỦA BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC ...................23
1. Bảo tồn đa dạng sinh học ...........................................................................................23
2. Các cơ sở của bảo tồn đa dạng sinh học ....................................................................24
3. Các nguyên tắc cơ bản của bảo tồn đa dạng sinh học ...............................................24
II. CÁC PHƢƠNG THỨC BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC..................................25
1. Các phƣơng thức bảo tồn chính .................................................................................25
2. Luật pháp liên quan đến bảo tồn đa dạng sinh học ....................................................29
III. TỔ CHỨC QUẢN LÝ BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC ...................................32
1. Tổ chức quản lý đa dạng sinh học tại các khu bảo tồn ..............................................32

2. Phối hợp và hỗ trợ trong bảo tồn đa dạng sinh học ...................................................37
CHƢƠNG 3.ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC Ở VIỆT
NAM ..............................................................................................................................41
I. GIỚI THIỆU VỀ ĐA DẠNG SINH HỌC Ở VIỆT NAM.........................................41
1. Cơ sở tạo nên đa dạng sinh học ở Việt Nam .............................................................41
2. Mức độ đa dạng sinh học ở Việt Nam .......................................................................42
3. Tính đa dạng trong các vùng địa lý sinh học Việt Nam ............................................45
II. SUY THOÁI ĐA DẠNG SINH HỌC Ở VIỆT NAM ..............................................46
1. Thực trạng suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam ..................................................46
2. Nguyên nhân suy thoái đa dạng sinh học ..................................................................47
III. BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC Ở VIỆT NAM ................................................50
1. Luật pháp Việt Nam liên quan đến bảo tồn ĐDSH ...................................................50
2. Hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học..........................................................................52
CHƢƠNG IV. GIÁM SÁT VÀ ĐÁNH GIÁ ĐA DẠNG SINH HỌC .........................62

3


I. LẬP KẾ HOẠCH ĐIỀU TRA, GIÁM SÁT ĐA DẠNG SINH HỌC .......................62
1. Sự cần thiết của giám sát, đánh giá đa dạng sinh học................................................62
2. Lập kế hoạch giám sát, đánh giá đa dạng sinh học....................................................62
II. PHƢƠNG PHÁP GIÁM SÁT, ĐÁNH GIÁ ĐA DẠNG SINH HỌC .....................64
1. Điều tra giám sát đa dạng loài động vật ....................................................................64
2. Điều tra, giám sát đánh giá đa dạng loài thực vật......................................................75
3. Giám sát tác động của con ngƣời đến khu bảo tồn ....................................................81

4


CHƢƠNG I. TỔNG QUAN VỀ ĐA DẠNG SINH HỌC

I. KHÁI NIỆM VỀ ĐA DẠNG SINH HỌC
1. Khái niệm về đa dạng sinh học
Theo ƣớc tính gần đây nhất thì có đến 12 định nghĩa khác nhau về đa dạng sinh
học (Gaston and Spicer, 1998). Tuy nhiên trong số này thì định nghĩa đƣợc sử dụng
trong Công ƣớc đa dạng sinh học (1992) đƣợc coi là "toàn diện và đầy đủ nhất" xét về
mặt khái niệm. Trong thực tế thuật ngữ đa dạng sinh học đƣợc dùng lần đầu tiên vào
năm 1988 và sau khi Công ƣớc Đa dạng sinh học đƣợc ký kết (5/6/1992) thì nó đã đƣợc
dùng phổ biến hơn.
Theo Công ƣớc Đa dạng sinh học, khái niệm "Đa dạng sinh học" (biodiversity,
biological diversity) có nghĩa là sự khác nhau giữa các sinh vật sống ở tất cả mọi nơi,
bao gồm: các hệ sinh thái trên cạn, trong đại dương và các hệ sinh thái thuỷ vực khác,
cũng như các phức hệ sinh thái mà các sinh vật là một thành phần,...; thuật ngữ này bao
hàm sự khác nhau trong một loài, giữa các loài và giữa các hệ sinh thái.
Trong Công ƣớc về đa dạng sinh học, thuật ngữ đa dạng sinh học được dùng để
chỉ sự phong phú và đa dạng của giới sinh vật từ mọi nguồn trên trái đất, nó bao gồm sự
đa dạng trong cùng một loài, giữa các loài và sự đa dạng hệ sinh thái (Gaston and
Spicer, 1998).
Theo định nghĩa của Quỹ Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên (World Wildlife Fund)
thì đa dạng sinh học là “sự phồn thịnh của cuộc sống trên Trái đất, là hàng triệu loài
động vật, thực vật và vi sinh vật, là những nguồn gene của chúng và là các hệ sinh thái
phức tạp cùng tồn tại trong môi trƣờng sống”.
Nhƣ thế, đa dạng sinh học cần phải đƣợc xem xét ở ba mức độ. Đa dạng sinh học ở
mức độ loài bao gồm tất cả sinh vật trên Trái đất từ vi khuẩn đến các loài động vật, thực
vật và nấm. Ở mức nhỏ hơn, đa dạng sinh học bao gồm sự khác biệt về gene giữa các loài,
khác biệt về gene giữa các quần thể cách ly nhau về địa lý cũng nhƣ khác biệt giữa các cá
thể cùng chung sống trong một quần thể. Đa dạng sinh học cũng bao gồm sự khác biệt
trong các quần xã sinh học nơi các loài đang sinh sống, các hệ sinh thái trong đó các quần
xã tồn tại và cả sự khác biệt của các mối tƣơng tác giữa chúng với nhau. Sự khác biệt giữa
đa dạng sinh học ở 3 mức độ khác nhau đƣợc thể hiện qua bảng 1.1.
Bảng 1. Các mức độ đa dạng sinh học

Đa dạng loài
Đa dạng di truyền
Đa dạng sinh thái
Giới (Kingdoms) Quần thể (Populations)
Sinh đới (Biomes)
Ngành (Phyla)
Cá thể (Individuals)
Vùng sinh học (Bioregions)
Lớp (Class)
Nhiễm sắc thể (Chromosomes) Cảnh quan (Landscapes)
Bộ (Order)
Gene
Hệ sinh thái (Ecosystems)
Họ (Families)
Nucleotide
Nơi ở (Habitats)
Giống (Gene ra)
Tổ sinh thái (Niches)
Loài (Species)
(Kevin J Gaston and John I Spicer, 2004)

5


1.1. Đa dạng loài
Đa dạng loài là phạm trù chỉ mức độ phong phú về số lượng loài hoặc số lượng
các phân loài (loài phụ) trên trái đất, trong một vùng địa lý, một quốc gia hay trong một
sinh cảnh nhất định.
Loài là những nhóm cá thể khác biệt với các nhóm khác về mặt sinh học và sinh
thái. Các cá thể trong loài có vật chất di truyền giống nhau và có khả năng trao đổi thông

tin di truyền (giao phối, thụ phấn) với nhau và cho các thế hệ con cái có khả năng tiếp
tục sinh sản. Nhƣ vậy các cá thể trong loài chứa toàn bộ thông tin di truyền của loài, do
đó tính đa dạng loài hoàn toàn bao trùm tính đa dạng di truyền và nó đƣợc coi là quan
trọng nhất khi đề cập đến tính đa dạng sinh học.
Sự đa dạng về loài trên thế giới đƣợc thể hiện bằng tổng số loài có mặt trên toàn cầu.
Tuy nhiên số lƣợng cá thể của loài cũng rất quan trọng khi đo đếm sự đa dạng loài.
Đa dạng loài có thể đƣợc đo bằng một số cách khác nhau. Hầu hết những cách
này có thể đƣợc phân loại thành ba nhóm đo đạt: độ giàu có loài (species richness), sự
phong phú loài (species abundance) và sự đa dạng về mặt phân loại hoặc chủng loại
phát sinh (taxonomic hay phylogene tic diversity).
Đo đạt sự giàu có loài bằng cách tính tổng số loài trong một khu vực xác định.
Đo đạt sự phong phú loài là lấy mẫu số lƣợng tƣơng đối giữa các loài. Một mẫu điển
hình có thể chứa một số loài rất phổ biến, một vài loài ít phổ biến hơn và nhiều loài
quý hiếm.
Đo đạt đa dạng loài đơn giản hóa thông tin về độ phong phú loài và sự phong phú
tƣơng đối thành một chỉ số duy nhất đƣợc sử dụng rộng rãi.
Có nhiều chỉ số để đánh giá đa dạng sinh học, trong đó chỉ số Shannon thƣờng
đƣợc sử dụng.
Chỉ số đa dạng tính theo Shannon:

Trong đó:
H - chỉ số đa dạng
n - số loài trong quần xã
pi - t số cá thể của loài i trên tổng số cá thể tất cả loài trong quần xã (pi = 0 ~ 1)
Một cách khác là để đánh giá độ đa dạng về phân loại hoặc phát sinh chủng loại,
trong đó xem xét các mối quan hệ di truyền giữa các nhóm loài khác nhau. Những tính
toán này đƣợc dựa trên phân tích kết quả trong thứ bậc phân loại thƣờng đƣợc đại diện bởi
một 'cây', mô tả mô hình phân nhánh, đƣợc cho là tốt nhất, đại diện cho sự tiến hóa phát
sinh chủng loại của các đơn vị phân loại liên quan. Các tính toán khác nhau của đa dạng
về mặt phân loại, nhấn mạnh các đặc điểm phân loại khác nhau và các mối quan hệ.

Hiện nay, có khoảng 1,7 triệu loài đã đƣợc mô tả. Ít nhất là hai lần số đó còn
chƣa mô tả, chủ yếu là côn trùng và các nhóm chân khớp khác trong vùng nhiệt đới
(Bảng 1.2).

6


Trên phạm vi toàn Thế giới còn cần rất nhiều nổ lực để có thể hoàn thiện đƣợc
danh mục đầy đủ các loài. Mỗi năm các nhà phân loại trên Thế giới mô tả đƣợc khoảng
11.000 loài (chiếm từ 10 đến 30% các loài có trên Thế giới), và nhƣ vậy, để có thể mô
tả hết các loài trên Thế giới (ƣớc tính 10 đến 30 triệu loài) dự kiến phải tốn từ 750 năm
đến 2.570 năm, trong khi đó có nhiều loài đã bị tuyệt chủng trƣớc khi chúng đƣợc mô
tả và đặt tên (Richard B. Primack, 1995).
Kiến thức của chúng ta về số lƣợng loài là chƣa chính xác do nhiều loài khó thấy
còn chƣa đƣợc phân loại học chú ý.
Một vùng rùng mƣa miền núi hẻo lánh nằm giữa Việt Nam và Lào vừa mới đƣợc
các nhà sinh học khảo sát trong thời gian gần đây. Một điều kỳ diệu đã xảy ra, tại đây
họ đã phát hiện đƣợc 5 loài thú mới cho khoa học đó là Mang lớn (Megamuntiacus
vuquangenesis), Sao La (Pseudoryx nghetinhensis), Bò sừng xoắn Tây Nguyên (Bos
sauveli), Mang Trƣờng Sơn (Muntiacus truongsonensis) và Mang lá (Muntiacus
rooseveltorum).
Bảng 1.2. Số lượng loài các nhóm sinh vật đã được mô tả
Các nhóm
Tên Tiếng Việt các nhóm
Số lƣợng loài
Vertebrates
Động vật có xƣơng sống
Mammals
Động vật có vú
5.490

Birds
Chim
10.027
Reptiles
Bò sát
9.084
Amphibians
Lƣỡng cƣ
6.638
Fishes
Tổng



31.600
62.839

Invertebrates
Insects
Molluscs
Crustaceans
Corals
Arachnids
Velvet worms
Horseshoe Crabs
Others
Tổng
Plants
Mosses
Fern and Allies

Gymnosperms
Flowering Plants
Green algae

Động vật không xƣơng sống
Côn trùng
Thân Mềm
Giáp xác
San hô
Nhện
Giun móc
Sam
Các nhóm khác
Thực vật
Rêu
Dƣơng xỉ
Hạt trần
Thực vật có hoa
Tảo lục

7

1.000.000
85.000
47.000
2.175
102.000
165
4
68.658

1.305.250
16.236
12.000
1.052
268.000
4.242


Red algae
Tổng
Others
Lichens

Tảo đỏ
Các nhóm khác
Địa y

17.000

Mushrooms
Brown algae

Nấm
Tảo nâu

31.496
3.127

Tổng
Tổng các nhóm


6.144
307.674

51.623
1.727.386
(Craig Hilton-Taylor, Caroline M Pollock et al., 2008)

1.2. Đa dạng di truyền
Thể hiện sự sai khác về di truyền giữa các cá thể trong một quần thể và giữa các
quần thể với nhau.
Đa dạng di truyền trong nội bộ loài thƣờng là kết quả của tập tính sinh sản của
các cá thể trong quần thể. Một quần thể là một nhóm các cá thể giao phối với nhau và
sản sinh ra con cái hữu thụ. Một loài có thể có một hay vài quần thể khác nhau. Một
quần thể có thể chỉ gồm một số ít cá thể hay có thể có hàng triệu cá thể.
Các cá thể trong một quần thể thƣờng rất khác nhau về mặt di truyền. Sự đa dạng
về bộ gene có đƣợc do các cá thể có các gene khác nhau, gene là một đơn vị di truyền
cùng với những chromosome đƣợc đặc trƣng bởi những protein đặc biệt. Các dạng
khác nhau của gene đƣợc gọi là allen và những sự khác biệt nảy sinh qua đột biến, là
những sự thay đổi xảy ra trong DNA, đơn vị cấu thành nhiễm sắc thể của cá thể. Sự
khác biệt của các allen trong gene có thể ảnh hƣởng đến sự phát triển và sinh lý của
các cá thể một cách khác nhau.
Tổng số các sắp xếp của gene và allen trong quần thể đƣợc coi là quỹ gene (gene
pool), trong khi một tổ hợp nào đấy của gene và allen trong bất kỳ cá thể nào thì đƣợc
gọi là kiểu di truyền (geneotype). Kiểu hình (phenotype) của một cá thể nói lên các đặc
điểm về hình thái, sinh lý, sinh hoá là kết quả của biểu hiện kiểu gene trong một môi
trƣờng nhất định.
Sai khác di truyền cho phép các cá thể thích ứng với những thay đổi của môi
trƣờng. Nhìn chung, các loài quí hiếm ít có sự đa dạng di truyền hơn các loài có phân
bố rộng và kết quả là chúng dễ bị tuyệt chủng hơn khi điều kiện môi trƣờng thay đổi.

1.3. Đa dạng quần xã và hệ sinh thái
Đa dạng về hệ sinh thái là thƣớc đo sự phong phú về sinh cảnh, nơi ở, tổ sinh thái
và các hệ sinh thái ở các cấp độ khác nhau. Sự đa dạng này đƣợc phản ảnh quan trọng
nhất bởi sự đa dạng về sinh cảnh (biotops), các quần xã sinh vật và các quá trình sinh
thái trong sinh quyển.
Đa dạng hệ sinh thái bao gồm sự khác biệt rộng lớn giữa các loại hệ sinh thái,
sự đa dạng của môi trƣờng sống và các quá trình sinh thái xảy ra trong mỗi loại hệ
sinh thái. Xác định tính đa dạng hệ sinh thái khó hơn so với đa dạng loài hoặc đa
dạng di truyền vì 'ranh giới' của các quần xã và hệ sinh thái thƣờng hay thay đổi. Do
khái niệm hệ sinh thái thƣờng biến động và sự thay đổi đó, có thể đƣợc áp dụng ở

8


nhiều quy mô khác nhau, mặc dù đối với mục tiêu quản lý, nó thƣờng đƣợc sử dụng
rộng rãi đối với các nhóm quần hợp giống nhau của quần xã, chẳng hạn nhƣ khu rừng
nhiệt đới, ôn đới hoặc rạn san hô. Một yếu tố quan trọng trong việc xem xét các hệ
sinh thái đó là trạng thái tự nhiên, các quá trình sinh thái nhƣ dòng năng lƣợng và chu
trình nƣớc đƣợc bảo tồn.
Việc phân loại sự đa dạng to lớn của các hệ sinh thái của Trái đất vào một hệ
thống quản lý là một thách thức khoa học lớn, và quan trọng đối với quản lý và bảo
tồn sinh quyển. Ở cấp độ toàn cầu, hầu hết các hệ thống phân loại đã cố gắng để
hƣớng đến một tiến trình trung gian giữa sự phức tạp của sinh thái quần xã và sự đơn
giản của hệ thống phân loại nơi ở.
Nói chung các hệ thống này sử dụng một sự kết hợp của một định nghĩa các
kiểu nơi ở với sự mô tả khí hậu, ví dụ, rừng nhiệt đới ẩm, hoặc đồng cỏ ôn đới. Một
số hệ thống cũng tích hợp địa lý sinh vật toàn cầu để giải thích các sự khác biệt trong
sinh vật giữa các vùng trên Thế giới, tƣơng tự nhƣ đặc điểm của khí hậu và tự nhiên
(hình1.2).
Đo lƣờng đa dạng sinh thái vẫn còn trong giai đoạn trứng nƣớc. Tuy nhiên, đa

dạng hệ sinh thái là một yếu tố thiết yếu của toàn bộ đa dạng sinh học và nên đƣợc
phản ánh trong bất kỳ đánh giá đa dạng sinh học nào.

Hình 1.2. Bảy miền địa lý sinh học Thế giới
2. Một số vùng giàu về đa dạng sinh học trên thế giới
Môi trƣờng giàu có nhất về số lƣợng loài có lẽ ở các rừng nhiệt đới, rạn san hô,
các hồ lớn ở vùng nhiệt đới và ở các biển sâu. Trong các rạn san hô, và các biển sâu,
sự đa dạng sinh học thuộc nhiều ngành và lớp khác nhau. Sự đa dạng trong các biển
sâu nhờ vào diện tích lớn, tính ổn định của môi trƣờng cũng nhƣ vào sự biệt hoá của
các loại nền đáy khác nhau.
Đa dạng loài lớn nhất là ở vùng rừng nhiệt đới. Mặc dù rừng nhiệt đới chỉ chiếm
7% diện tích Trái đất, chúng chứa hơn 1/2 loài trên Thế giới. Khoảng 40% loài thực vật có
hoa trên Thế giới (100.000 loài) ở vùng nhiệt đới, trong khi 30% loài chim trên Thế giới

9


phụ thuộc vào những khu rừng nhiệt đới (Võ Quý, Phạm Bình Quyền et al.,1999).
Rạn san hô tạo nên một nơi tập trung khác về loài. Các loài san hô bé nhỏ tạo ra
các hệ sinh thái san hô vĩ đại, là vùng biển tƣơng đƣơng với rừng nhiệt đới về sự phong
phú loài và độ phức tạp. Rạn san hô lớn nhất Thế giới là rạn San Hô Lớn (Great Barrier
Reffs) ở bờ biển phía đông nƣớc Úc, có diện tích là 349.000 km2. Rạn san hô này có
hơn 300 loài san hô, 1500 loài cá, 4000 loài thân mềm, 5 loài rùa biển và là nơi sinh
sản của khoảng 252 loài chim. Rạn san hô này chiếm 8% loài cá trên Thế giới
mặc dù chúng chỉ chiếm 0,1% diện tích đại dƣơng.
Đối với hầu hết các nhóm sinh vật, sự đa dạng loài tăng về hƣớng nhiệt đới. Ví
dụ nhƣ Kenia có 308 loài thú, trong khi đó Pháp chỉ có 113 loài mặc dù hai nƣớc này
có cùng diện tích. Sự tƣơng phản này đặc biệt chặt chẻ đối với cây cỏ và thực vật có
hoa: một hecta rừng Amazon ở Peru hay vùng đất thấp ở Malaisia có thể có đến hơn
200 loài cây, trong khi đó ở rừng Châu Âu hay nƣớc Mỹ thì chỉ có khoảng 30 loài

trong cùng diện tích. Kiểu đa dạng của các loài trên đất liền cũng giống nhƣ ở biển,
nghĩa là cũng gia tăng sự đa dạng loài về phía nhiệt đới. Ví dụ rạn San hô lớn ở Úc,
phía Bắc có 50 giống trong khi phía Nam chỉ có 10 giống san hô.
Có thể nêu một số lý do để giải thích cho việc vùng nhiệt đới có số lƣợng loài
tăng nhƣ sau:
- Lƣợng bức xạ mặt trời cao tạo ra năng suất sinh học lớn, hổ trợ cho lƣới thức ăn rộng;
- Khí hậu khô ẩm của vùng nhiệt đới đẩy mạnh sự tồn tại và phát triển của sinh vật
cho phép các loài tƣơng tác với nhau nhiều hơn tạo ra những tập tính và thích ứng cho
sự tiến hoá và sống còn;
- Khí hậu thuận lợi cho mầm bệnh và vật ký sinh phát triển, ngăn chặn sự phát
triển quá mức của loài
- Vùng nhiệt đới cổ và ổn định về mặt địa chất, cho phép tiến hoá liên tục.
- Đa dạng về thực vật cho phép gia tăng sự biệt hoá của động vật.
Nhân tố lịch sử cũng rất quan trọng trong việc xác định kiểu phân bố đa
dạng về loài. Những vùng đất cổ có nhiều loài hơn các vùng đất mới. Vì các vùng
đất cổ có tuổi địa chất già hơn nên có nhiều thời gian hơn để nhận đƣợc các loài phát
tán từ các nơi khác và các loài thích nghi đáp ứng với các điều kiện địa phƣơng
Sự phong phú về loài cũng bị ảnh hƣởng bởi các biến đổi về địa hình, khí hậu và
môi trƣờng địa phƣơng. Trong các quần xã trên cạn, sự giàu có về loài theo xu hƣớng
tăng ở các địa hình thấp, tăng theo lƣợng bức xạ của mặt trời và tăng theo lƣợng mƣa.
Sự thay đổi lớn về nhiệt độ theo mùa là một nhân tố khác ảnh hƣởng nhiều đến số lƣợng
loài ở vùng ôn đới.
Sự phong phú loài cũng có thể lớn hơn ở những nơi có địa hình phức tạp, để tạo
nên những sự cách ly di truyền, thích ứng địa phƣơng, và sự biệt hoá có thể xảy ra.
Ngoài ra, sự phong phú loài cũng thƣờng gặp ở các vùng không có mùa hơn là các
vùng có mùa rõ rệt (WCMC, 1994).
II. GIÁ TRỊ CỦA ĐA DẠNG SINH HỌC
1. Định giá giá trị của đa dạng sinh học
Ngoài định nghĩa đa dạng sinh học đƣợc chấp nhận bởi nhiều nhà sinh học bảo


10


tồn, định nghĩa về lƣợng tính đa dạng sinh học cũng đƣợc sử dụng nhƣ là một
phƣơng thức để so sánh sự đa dạng tổng thể của các quần xã khác nhau.
Theo nhƣ định nghĩa về đa dạng sinh học, rõ ràng là không có một thƣớc đo duy
nhất nào để định lƣợng đa dạng sinh học một cách đầy đủ. Chúng ta không thể nói lên
tính đa dạng sinh học của một khu vực dù có diện tích lớn hay nhỏ chỉ bằng một con
số duy nhất.
Đa dạng di truyền thƣờng đƣợc coi là đơn vị cơ sở của sự sống, tuy nhiên, trong
thực tế, đa dạng loài thƣờng đƣợc coi là nhân tố cơ bản của đa dạng sinh học.
Các chỉ số toán học về đa dạng sinh học đã đƣợc thiết lập để mô tả sự đa dạng
loài ở các phạm vị địa lý khác nhau. Số lƣợng loài trong một quần xã hay hệ sinh thái
thƣờng đƣợc mô tả là đa dạng alpha.
Khái niệm đa dạng beta đề cập đến mức độ dao động thành phần loài khi các
điều kiện môi trƣờng thay đổi nhƣ thế nào.
Đa dạng gamma áp dụng đối với một vùng địa lý rộng lớn gồm nhiều sinh cảnh
và đƣợc định nghĩa là “một tỷ lệ mà ở đấy các loài thêm vào đƣợc bắt gặp là những
sự thay thế địa lý trong một dạng nơi ở thuộc các điểm khác nha
Đa dạng alpha xuất phát từ một khái niệm phổ biến về sự phong phú của loài
(species richness) và có thể sử dụng để so sánh số lƣợng loài trong các hệ sinh thái
khác nhau.
Có nhiều phƣơng thức khác nhau để định lƣợng đa dạng sinh học, tuy vậy, độ
phong phú về loài là chỉ số thông dụng nhất để diễn tả đa dạng sinh học vì các lý do sau:
- Áp dụng thực tế: độ phong phú về loài đã đƣợc minh chứng về khả năng
định lƣợng trong thực tế, ít nhất là chỉ ra những sự khác biệt về số lƣợng loài trong
một trạng thái nào đó (ví dụ nhƣ sự có mặt, sinh sản, trú đông) đối với một bậc phân
loại nào đó trong một diện tích nào đó trong một thời gian nào đó.
- Thông tin có sẵn: một số lƣợng lớn thông tin có sẵn về độ phong phú của loài.
Ngoài ra, các thông tin khác còn có thể lấy ra từ các bộ sƣu tập trong các bảo tàng với

hàng triệu mẫu vật cùng với các tài liệu. Đặc biệt là các thông tin này đƣợc đƣa vào
máy tính để các vùng xa xôi có thể sử dụng.
- Tính đại diện: độ phong phú của loài có thể đại diện cho nhiều loại đa dạng
sinh học khác nhau. Nhìn chung, độ phong phú loài càng lớn thì độ đa dạng di truyền
càng cao (đa dạng lớn về gene qua các quần thể), đa dạng về sinh vật càng nhiều (số
lƣợng cá thể lớn qua các bậc phân loại cao hơn), và đa dạng sinh thái lớn hơn (từ các
đại diện của nhiều tổ sinh thái và nơi ở qua nhiều sinh cảnh)
- Ứng dụng rộng rãi: đơn vị loài thƣờng đƣợc coi nhƣ là đơn vị trong quản lý,
luật pháp, chính trị và truyền thống. Đối với nhiều ngƣời sự sai khác về đa dạng sinh
học đƣợc coi nhƣ là sự sai khác về độ phong phú của loài.
2. Giá trị của đa dạng sinh học
2.1 Giá trị trực tiếp
2.1.1. Giá trị tiêu thụ
Bao gồm các sản phẩm tiêu dùng cho cuộc sống hàng ngày nhƣ củi đốt và các
loại sản phẩm khác cho các mục tiêu sử dụng nhƣ tiêu dùng cho gia đình và không

11


xuất hiện ở thị trƣờng trong nƣớc và quốc tế.
Những nghiên cứu về những xã hội truyền thống tại các nƣớc đang phát triển cho
thấy cộng đồng cƣ dân bản địa khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên xung quanh nhƣ
củi đun, rau cỏ, hoa quả, thịt cá, dƣợc phẩm và nguyên vật liệu xây dựng. Trên 5.000
loài đƣợc dùng cho mục đích chữa bệnh ở Trung Quốc, Việt Nam và khoảng 2.000
loài đƣợc dùng tại vùng hạ lƣu sông Amazon.
Một trong những nhu cầu không thể thiếu đƣợc của con ngƣời là protein, nguồn
này có thể kiếm đƣợc bằng săn bắn các loài động vật hoang dã để lấy thịt. Trên toàn
Thế giới, khoảng 100 triệu tấn cá, chủ yếu là các loài hoang dã bị đánh bắt mỗi năm.
Phần lớn số cá này đƣợc sử dụng ngay tại địa phƣơng.
2.1.2. Giá trị sử dụng cho sản xuất

Là giá bán cho các sản phẩm thu lƣợm đƣợc từ thiên nhiên trên thị trƣờng trong
nƣớc và ngoài nƣớc. Sản phẩm này đƣợc định giá theo các phƣơng pháp kinh tế tiêu
chuẩn và giá đƣợc định là giá mua tại gốc, thƣờng dƣới dạng sơ chế hay nguyên liệu.
Tại thời điểm hiện nay, gỗ là một trong những sản phẩm bị khai thác nhiều nhất từ
rừng tự nhiên với giá trị lớn hơn 100 tỷ đôla mỗi năm. Những sản phẩm lâm nghiệp
ngoài gỗ còn có động vật hoang dã, hoa quả, nhựa, dầu, mây và các loại cây thuốc.
Thế giới tự nhiên là nguồn vô tận cung cấp những nguồn loại dƣợc phẩm mới.
25% các đơn thuốc ở Mỹ có sử dụng các chế phẩm đƣợc điều chế từ cây, cỏ,....
Một số lợi ích kinh tế của đa dạng sinh học
Dƣợc phẩm: khoảng ½ các loài thuốc tổng hợp có nguồn gốc từ thiên nhiên.
Các dịch vụ thƣơng mại về cây thuốc lên đến 60 tỷ USD năm. 4/5 các loại thuốc mới
đƣợc giới thiệu trên phạm vi toàn cầu bắt nguồn từ các sản phẩm tự nhiên. Tất cả các loại
thuốc chống ung thƣ có sẵn hiện nay, 42% bắt nguồn từ tự nhiên và 34% là bán tự nhiên.
Giá trị toàn cầu về gỗ năm 2000 là 400 tỷ USD. Lĩnh vực lâm nghiệp toàn cầu
cung cấp sinh kế và việc làm cho khoảng 60 triệu ngƣời, phần lớn ở nƣớc ở các nƣớc
đang phát triển. Khoảng 2,6 tỷ ngƣời sử dụng các loại củi đun nấu hằng ngày từ rừng.
500 triệu ngƣời trên Thế giới sống dựa vào các rạn san hô. Khoảng từ 9 đến 12%
nghề cá trên toàn Thế giới trực tiếp vào rạn. Rạn là nơi sinh sản, nuôi dƣỡng và kiếm ăn
của nghề cá ngoài khơi. Du lịch là nguồn lợi chính của rạn san hô. Bình quân toàn cầu
là 184 USD/ mỗi khách du lịch. Ở khu vực Đông Nam Á, mỗi hecta rạn san hô thu
đƣợc từ 231 – 2.700 USD.
Giá trị của rừng ngập mặn khoảng 600 USD/ha đối với nghề cá. Giá trị dƣợc
phẩm của rừng ngập mặn là 61 USD/ha/ năm. Giá trị bảo vệ lƣu vực của rừng ngập mặn
và các vùng đất ngập nƣớc ƣớc tính khoảng 845 USD/ha/năm ở Malaysia, ở Hawai
khoảng 1.022 USD/ha/năm. Cá là nguồn protein chính cho khoảng 1 tỷ ngƣời; cá
chiếm tối thiểu 20% nguồn protein cho khoảng 2,6 tỷ ngƣời khác. Câu cá giải trí là
nguồn kinh tế quan trong ở nhiều nƣớc. Ở Mỹ, câu cá giái trí chiếm 21 tỷ, Canada là 5,2
tỷ và Úc là 1,3 tỷ USD/năm.
Rạn san hô và rừng ngập mặn có thể hấp thu 70-90 năng lƣợng sóng gió, góp
phần bảo vệ vùng bờ. Các khu bảo tồn có thể tạo ra lợi ích từ hàng hóa và các dịch vụ

sinh thái từ 4.400 đến5.200 tỷ USD/năm.

12


2.2. Những giá trị gián tiếp
Những giá trị gián tiếp là những khía cạnh khác của đa dạng sinh học nhƣ các
quá trình xảy ra trong môi trƣờng và các chức năng của hệ sinh thái là những mối lợi
không thể so đếm đƣợc và nhiều khi là vô giá.
2.2.1. Giá trị sử dụng không cho tiêu thụ
Khả năng sản xuất của hệ sinh thái: khoảng 40% sức sản xuất của hệ sinh thái trên
cạn phục vụ cho cuộc sống của con ngƣời. Tƣơng tự nhƣ vậy, ở những vùng cửa sông,
dãi ven biển là nơi những thực vật thuỷ sinh và tảo sinh phát triển mạnh, chúng là mắc
xích đầu tiên của hàng loạt chuỗi thức ăn tạo thành các hải sản nhƣ trai, sò, tôm cua,
Bảo vệ tài nguyên đất và nước: các quần xã sinh học có vai trò quan trọng trong
việc bảo vệ rừng đầu nguồn, những hệ sinh thái vùng đệm, phòng chống lũ lụt và hạn
hán cũng nhƣ việc duy trì chất lƣợng nƣớc.
Điều hoà khí hậu: quần xã thực vật có vai trò vô cùng quan trọng trong việc điều
hoà khí hậu địa phƣơng, khí hậu vùng và ngay cả khí hậu toàn cầu.
Phân huỷ các chất thải: các quần xã sinh học có khả năng phân huỷ các chất ô
nhiễm nhƣ kim loại nặng, thuốc trừ sâu và các chất thải sinh hoạt khác đang ngày càng
gia tăng do các hoạt động của con ngƣời.
Những mối quan hệ giữa các loài: nhiều loài có giá trị đƣợc con ngƣời khai thác,
nhƣng để tồn tại, các loài này lại phụ thuộc rất nhiều vào các loài hoang dã khác. Nếu
những loài hoang dã đó mất đi, sẽ dẫn đến việc mất mát cả những loài có giá trị kinh tế
to lớn.
Nghỉ ngơi và du lịch sinh thái: mục đích chính của các hoạt động nghỉ ngơi là
việc hƣởng thụ mà không làm ảnh hƣởng đến thiên nhiên thông qua những hoạt động
nhƣ đi thám hiểm, chụp ảnh, quan sát chim, thú, câu cá. Du lịch sinh thái là một ngành
du lịch không khói đang dần dần lớn mạnh tại nhiều nƣớc đang phát triển, nó mang lại

khoảng 12 tỷ đôla năm trên toàn Thế giới.
Giá trị giáo dục và khoa học: nhiều sách giáo khoa đã biên soạn, nhiều chƣơng
trình vô tuyến và phim ảnh đã đƣợc xây dựng về chủ đề bảo tồn thiên nhiên với mục
đích giáo dục và giải trí. Một số lƣợng lớn các nhà khoa học chuyên ngành và những
ngƣời yêu thích sinh thái học đã tham gia các hoạt động quan sát, tìm hiểu thiên nhiên.
Các hoạt động này mang lại lợi nhuận kinh tế cho khu vực nơi họ tiến hành nghiên cứu
khảo sát; nhƣng giá trị thực sự không chỉ có vậy mà còn là khả năng nâng cao kiến
thức, tăng cƣờng tính giáo dục và tăng cƣờng vốn sống cho con ngƣời.
Quan trắc môi trường: những loài đặc biệt nhạy cảm với những chất độc có thể
trở thành hệ thống chỉ thị báo động rất sớm cho những quan trắc hiện trạng môi
trƣờng. Một số loài có thể đƣợc dùng nhƣ những công cụ thay thế máy móc quan trắc
đắt tiền. Một trong những loài có tính chất chỉ thị cao là địa y sống trên đá hấp thụ
những hoá chất trong nƣớc mƣa và những chất gây ô nhiễm trong không khí. Thành
phần của quần xã địa y có thể dùng nhƣ chỉ thị sinh học về mức độ ô nhiễm không khí.
Các loài động vật thân mềm nhƣ trai sò sống ở các hệ sinh thái thu sinh có thể là
những sinh vật chỉ thị hữu hiệu cho quan trắc môi trƣờng. (Richard B. Primack, 1995)

13


2.2.2. Giá trị lựa chọn
Giá trị lựa chọn của một loài là tiềm năng của chúng để cung cấp lợi ích kinh tế
cho xã hội loài ngƣời trong tƣơng lai. Những chuyên gia về côn trùng tìm kiếm những
loài côn trùng có thể sử dụng nhƣ các tác nhân phòng trừ sinh học; các nhà vi sinh vật
học tìm kiếm những loài vi khuẩn có thể trợ giúp cho các quá trình nâng cao năng suất
sản xuất; các nhà động vật học lựa chọn các loài có thể sản xuất nhiều protein; các cơ
quan y tế, chăm sóc sức khỏe và các công ty dƣợc phẩm đang có những nổ lực rất lớn
để tìm kiếm các loài có thể cung cấp những hợp chất phòng chống và chữa bệnh cho
con ngƣời.
2.2.3. Giá trị tồn tại

Con ngƣời có nhu cầu đƣợc tham quan nơi sinh sống của một loài đặc biệt và
đƣợc nhìn thấy nó trong thiên nhiên hoang dã bằng chính mắt mình. Các loài nhƣ gấu
trúc, sƣ tử, voi và rất nhiều loài chim khác lại càng đòi hỏi sự quan tâm đặc biệt của
con ngƣời. Giá trị tồn tại nhƣ thế luôn luôn gắn liền với các quần xã sinh học của
những khu rừng mƣa nhiệt đới, các rạn san hô và những khu vực có phong cảnh đẹp.
2.2.4. Những khía cạnh mang tính đạo đức
Mỗi một loài đều có quyền tồn tại: tất cả các loài đều có quyền tồn tại. Trên cơ sở
đó, sự tồn tại của các loài phải đƣợc bảo đảm mà không cần tính đến sự phong phú hay
đơn độc hoặc có tầm quan trong đối với con ngƣời hay không. Tất cả các loài là một
phần của tạo hoá và đều có quyền đƣợc tồn tại nhƣ con ngƣời ở trên Trái đất này. Con
ngƣời không những không có quyền làm hại các loài khác mà còn có trách nhiệm bảo
vệ sự tồn tại của chúng.
Tất cả các loài đều quan hệ với nhau: giữa các loài có một quan hệ chằng chịt và
phức tạp, là một phần của các quần xã tự nhiên. Việc mất mát của một loài sẽ có ảnh
hƣởng đến các thành viên khác trong quần xã. Cho nên, chúng ta ý thức đƣợc sự cần
thiết bảo tồn các loài, bảo tồn đa dạng sinh học cũng chính là bảo vệ mình.
Con người phải sống trong một giới hạn sinh thái như các loài khác: tất cả các
loài trên Thế giới bị giới hạn bởi khả năng sức tải của môi trƣờng sống. Mỗi một loài
sử dụng nguồn tài nguyên trong môi trƣờng để tồn tại và số loài sẽ bị suy giảm khi
những nguồn tài nguyên này bị hu hoại và cạn kiệt đi. Con ngƣời phải hành động rất
thận trọng để hạn chế những ảnh hƣởng có hại gây ra cho môi trƣờng tự nhiên. Những
ảnh hƣởng tiêu cực không chỉ gây hại đối với các loài mà còn gây hại đến chính bản
thân con ngƣời.
Con người phải chịu trách nhiệm như những người quản lý Trái đất: nếu nhƣ
chúng ta làm tổn hại đến những nguồn tài nguyên thiên nhiên trên Trái đất và làm cho
các loài bị đe dọa tuyệt chủng thì những thế hệ tiếp theo sẽ phải trả giá bằng một cuộc
sống có chất lƣợng thấp. Do vậy, con ngƣời ngày nay phải biết sử dụng các nguồn tài
nguyên một cách khôn ngoan, tránh gây tác hại cho các loài và các quần xã sinh học.
Sự tôn trọng cuộc sống con người và sự đa dạng văn hoá phải được đặt ngang
tầm với sự tôn trong đa dạng sinh học: việc đánh giá cao giá trị đa dạng văn hoá và

Thế giới tự nhiên làm cho con ngƣời biết tôn trọng hơn đối với tất cả sự sống phong

14


phú và phức tạp của nó.
Thiên nhiên có những giá trị tinh thần và thẩm mỹ vượt xa giá trị kinh tế của nó:
trong lịch sử, những nhà sáng lập ra tôn giáo, những nhà thơ, nhà văn, những nghệ sĩ
và nhạc sĩ đã thể hiện những cảm hứng do họ nhận đƣợc từ thiên nhiên. Đối với nhiều
ngƣời, để có đƣợc những cảm hứng nhƣ thế họ cần phải sống với một môi trƣờng thiên
nhiên hoang sơ, chƣa bị tác động bởi con ngƣời. Hầu nhƣ ai cũng hào hứng và thích
thú khi đƣợc chiêm ngƣỡng Thế giới nguyên khai hoang dã và những phong cảnh đẹp.
Nhiều ngƣời coi Trái đất nhƣ là một sản phẩm kỳ diệu của tạo hoá với những điều linh
thiêng cần đƣợc tôn trọng theo phong cách riêng.
Đa dạng sinh học là cốt lõi đế xác định nguồn gốc sự sống: hai trong số những
huyền thoại chính của Thế giới triết học và khoa học là sự sống đƣợc hình thành nhƣ
thế nào và tại sao lại có sự đa dạng sinh học nhƣ ngày nay. Hàng ngàn chuyên gia sinh
học tìm hiểu, nghiên cứu những vấn đề này và ngày càng đang tiến dần đến câu trả lời.
Tuy vậy khi các loài bị tuyệt chủng có nghĩa là mất đi những mắc xích quan trọng và
huyền thoại đó khó tìm đƣợc lời giải.
III. SUY THOÁI ĐA DẠNG SINH HỌC
1. Khái niệm về suy thoái đa dạng sinh học
1.1. Khái niệm
Suy thoái đa dạng sinh học có thể hiểu là sự suy giảm tính đa dạng, bao gồm sự
suy giảm loài, nguồn gen và hệ sinh thái, từ đó làm suy giảm giá trị, chức năng của đa
dạng sinh học. Sự suy thoái đa dạng sinh học đƣợc thể hiện ở các mặt:
- Hệ sinh thái bị biến đổi
- Mất loài
- Mất (giảm) đa dạng di truyền
Mất loài, sự xói mòn di truyền, sự du nhập xâm lấn của các loài sinh vật ngoại lai,

sự suy thoái các hệ sinh thái tự nhiên, nhất là rừng nhiệt đới đang diễn ra một cách
nhanh chóng chƣa từng có mà nguyên nhân chủ yếu là do tác động của con ngƣời.
Một quần xã sinh vật, hệ sinh thái có thể bị suy thoái trong một vùng, song nếu
tất cả các loài nguyên bản vẫn còn sống sót thì quần xã và hệ sinh thái đó vẫn còn tiềm
năng phục hồi. Tƣơng tự đa dạng di truyền sẽ giảm khi kích thƣớc quần thể bị giảm
nhƣng loài đó vẫn có khả năng tái tạo lại sự đa dạng di truyền nhờ đột biến và tái tổ hợp.
Tuy nhiên, khi một loài bị tuyệt chủng thì những thông tin di truyền chứa trong bộ máy
di truyền của loài đó sẽ mất đi, loài đó khó có khả năng để phục hồi và con ngƣời sẽ còn
ít cơ hội để nhận biết tiềm năng của loài đó.
1.2. Quá trình suy thoái đa dạng sinh học
Cùng với những biến cố về lịch sử, về kinh tế xã hội, đa dạng sinh học trên toàn
cầu đã và đang bị suy thoái nghiêm trọng. Một trong những dấu hiệu quan trọng nhất
của sự suy thoái đa dạng sinh học là sự tuyệt chủng loài do môi trƣờng sống bị thay đổi.
Khái niệm tuyệt chủng có nhiều nghĩa khác nhau. Một loài bị coi là tuyệt chủng
khi không còn một cá thể nào của loài đó còn sống sót ở bất kỳ đâu trên thế giới. Ví dụ:
loài chim Vermivora bachmaii, cá thể cuối cùng của loài này đƣợc nhìn thấy trong
những năm của thập kỷ 60. Loài mà chỉ còn một số cá thể còn sót lại nhờ sự chăm sóc,

15


nuôi trồng của con ngƣời thì đƣợc coi là đã bị tuyệt chủng trong hoang dã, ví dụ loài
Hƣơu sao (Cervus nippon) ở Việt Nam. Một loài đƣợc coi là tuyệt chủng cục bộ nếu nhƣ
nó không sống sót tại những nơi chúng đã từng sống, nhƣng ngƣời ta vẫn tìm thấy chúng
tại những nơi khác trong thiên nhiên.
Một số nhà sinh thái học sử dụng cụm từ “loài bị tuyệt chủng về phƣơng diện
sinh thái học”, có nghĩa là số lƣợng cá thể của loài còn lại ít đến mức ảnh hƣởng của nó
không còn ý nghĩa đến những loài khác trong quần xã. Ví dụ: loài Hổ (Panthera tigris)
hiện nay bị tuyệt chủng về phƣơng diện sinh thái học, điều này có nghĩa là số lƣợng hổ
hiện nay còn trong thiên nhiên rất ít và tác động của chúng đến quần thể động vật mồi là

không đáng kể.
Ngoài ra trong nghiên cứu đa dạng sinh học còn có một hiện tƣợng khác, đó là
“cái chết đang sống”. Khi quần thể của loài có số lƣợng cá thể dƣới mức báo động,
nhiều khả năng loài sẽ bị tuyệt chủng. Đối với một số quần thể trong tự nhiên, một vài
cá thể vẫn còn có thể sống sót dai dẳng vài năm, vài chục năm; chúng có thể vẫn sinh
sản nhƣng số phận cuối cùng của chúng vẫn là sự tuyệt chủng (nếu nhƣ không có sự can
thiệp của công nghệ sinh học). Cây lấy gỗ là một ví dụ điển hình, một cây sống tách biệt,
không sinh sản có thể sống đến hàng trăm năm. Những loài này đƣợc coi là hiện thân
của “cái chết đang sống” mặc dù về phƣơng diện chuyên môn nó chƣa bị tuyệt chủng
nếu nhƣ một vài cá thể của loài vẫn sống, nhƣng lúc này quần thể không thể tồn tại và
sinh sản một cách khoẻ mạnh, sung sức nữa. Dù muốn hay không tƣơng lai của loài
cũng chỉ giới hạn trong vòng đời của những cá thể còn sống sót đó.
Sự sống xuất hiện cách đây 3 -4 tỷ năm và tính phức tạp của sự sống bắt đầu tăng
dần từ đầu kỷ Cambrian (cách ngày nay khoảng 600 triệu năm). Cùng với sự tăng tính
đa dạng sinh học là sự tuyệt chủng bắt đầu xuất hiện. Trong giai đoạn từ kỷ Cambrian
đến nay, các nhà cổ sinh học cho rằng có ít nhất 5 lần bị tuyệt chủng hàng loạt:
- Tuyệt chủng lần thứ nhất diễn ra vào cuối kỷ Ordovican (cách đây khoảng 450
triệu năm), khoảng 12% các họ động vật biển và 60% số loài động thực vật bị tuyệt chủng.
- Tuyệt chủng lần thứ hai diễn ra vào cuối kỳ Devon (cách đây khoảng 365 triệu
năm) và kéo dài khoảng 7 triệu năm đã gây nên sự biến mất của 60% tổng số loài còn lại
sau lần tuyệt chủng lần thứ nhất.
- Tuyệt chủng lần thứ ba là nghiêm trọng nhất kéo dài khoảng 1 triệu năm diễn ra
vào kỷ Permian (cách đây khoảng 242 triệu năm) đã xoá sổ 54% số họ và khoảng 77 96% số loài động vật biển, 2/3 số loài bò sát, ếch nhái và 30% số bộ côn trùng.
- Tuyệt chủng lần thứ tƣ xảy ra vào cuối kỷ Triassic (cách đây khoảng 210 triệu
năm) với khoảng 20% số loài sinh vật trên trái đất bị tiêu diệt. Hai đợt tuyệt chủng thứ
ba và thứ tƣ quá gần nhau vì vậy quá trình phục hồi lại hoàn toàn phải mất khoảng 100
triệu năm (Wilson, 1992 trong N.H.Nghĩa, 1999).
- Tuyệt chủng lần thứ năm diễn ra vào cuối kỷ Cretacis và đầu kỷ Tertiary (cách
đây khoảng 65 triệu năm). Đây đƣợc coi là lần tuyệt chủng nổi tiếng nhất. Ngoài các loài
thằn lằn khổng lồ, hơn một nửa loài bò sát và một nửa loài sống ở biển đã bị tuyệt chủng.

Theo Wilson (1992 trong N.H.Nghĩa, 1999) thì ngoài nguyên nhân do thiên thạch
ở lần tuyệt chủng thứ năm và một phần do núi lửa phun trào ở lần thứ ba, sự tuyệt chủng

16


còn lại là do hiện tƣợng băng hà toàn cầu.
1.3. Mức độ suy thoái đa dạng sinh học
Theo cách tính của các nhà khoa học thì tốc độ tuyệt chủng trung bình trong quá
khứ vào khoảng 9% trên một triệu năm (Raup, 1978), tức là khoảng 0,000009% trong
một năm. Nhƣ vậy cứ 5 năm mất khoảng một loài trong 2 triệu loài có trong quá khứ.
Điều này có thể thấp hơn so với thực tế vì các nhà khoa học đã không tính đƣợc sự mất
đi của các loài đặc hữu. Nếu vậy tốc độ tuyệt chủng cao nhất có thể là 2 loài mỗi năm
(N.H.Nghĩa, 1999).
Mặc dù số lƣợng loài đã bị tuyệt chủng chỉ là những con số ƣớc lƣợng vì chúng ta
chƣa thống kê đƣợc chắc chắn có bao nhiêu loài, song trên cơ sở nghiên cứu các nhà
khoa học cho rằng có khoảng 85 loài thú và 113 loài chim đã bị tuyệt chủng từ những
năm 1600, tƣơng ứng 2,1% các loài thú và 1,3% các loài chim. Chim và thú là những
loài đƣợc nghiên cứu kĩ và do đó đƣợc biết đến nhiều nhất. Tốc độ tuyệt chủng đặc biệt
tăng nhanh từ khi xuất hiện xã hội loài ngƣời, nếu tốc độ tuyệt chủng tự nhiên trong quá
khứ là 1 loài/năm thì tốc độ tuyệt chủng hiện nay là 1 loài/giờ, trong đó nguyên nhân
chính là do tác động của con ngƣời (Bryant, 2004). Tốc độ tuyệt chủng tăng nhanh cho
thấy những mối đe doạ với đa dạng sinh học đã trở nên nghiêm trọng.
Tốc độ tuyệt
chủng đặc biệt lớn ở các đảo vì đảo không những là nơi tập trung các loài đặc hữu mà nó
còn bị khống chế về mặt không gian. Hầu hết sự tuyệt chủng của các loài thú, chim, bò
sát và ếch nhái đƣợc biết đến trong vòng 350 năm trở lại đây hầu hết là sống trên đảo và
hơn 80% các loài thực vật đặc hữu trên các đảo hiện nay đều đang bị đe đoạ tuyệt chủng.
Từ các nghiên cứu về những quần xã sống trên đảo, MacArthur và Wilson (1963 trong
N.H.Nghĩa, 1999) đã đƣa một quy luật chung về phân bố đa dạng sinh học và nó đƣợc

gọi là Mô hình địa lý sinh học đảo. Mô hình này cho thấy rằng mối quan hệ giữa số
loài với diện tích và thƣờng tuân theo quy luật. Những đảo có diện tích rộng sẽ có nhiều loài
hơn đảo có diện tích hẹp. Các đảo lớn cũng cho phép các loài cách biệt về địa lý tồn tại với
quần thể có kích thƣớc lớn hơn và do đó làm giảm xác suất tuyệt chủng của các loài.
Mô hình địa lý sinh học đảo cũng đƣợc sử dụng để dự tính, dự báo số lƣợng và tỷ
lệ loài có thể bị tuyệt chủng một khi nơi cƣ trú của chúng bị huỷ hoại (Simberloff, 1986
trong Phạm Nhật, 1999). Diện tích nơi cƣ trú bị thu hẹp làm giảm khả năng cung cấp của
nơi sống. Mô hình này cũng đƣợc mở rộng sự áp dụng đối với các khu bảo tồn, nơi đƣợc
bao bọc bởi các hệ sinh thái bị tổn thƣơng và nơi cƣ trú bị huỷ hoại. Các khu này cũng
đƣợc coi nhƣ những hòn đảo trên biển và đang bị khai thác làm cho nơi cƣ trú của các
loài bị thu hẹp. Mô hình này cho rằng nếu 50% diện tích của đảo (và các khu bảo tồn) bị
huỷ hoại thì khoảng 10% số loài trên đảo sẽ bị tuyệt chủng. Nếu 90% nơi cƣ trú bị phá
hoại thì 50% số loài bị mất và khi 99% nơi cƣ trú bị mất thì 75% số loài sẽ bị mất.
Rừng nhiệt đới là nơi sinh sống của phần lớn các loài sinh vật trên thế giới cho
nên nếu rừng nhiệt đới tiếp tục bị suy thoái và nạn phá rừng còn tiếp tục cho đến khi chỉ
còn lại các Khu bảo tồn thì khoảng 2/3 số loài thực vật và chim sẽ bị tuyệt chủng
(Simberloff, 1986 trong Phạm Nhật, 1999). Nhiều nhà khoa học dự đoán rằng sẽ mất 5 10% số loài vào những năm 1990 - 2020, bình quân mỗi ngày mất đi 40 - 140 loài. Có
thể sẽ bị mất khoảng 25% số loài vào năm 2050.

17


2. Nguyên nhân gây suy thoái đa dạng sinh học
Sự suy thoái đa dạng sinh học là do 2 nhóm nguyên nhân chính đó là hiểm hoạ tự
nhiên và tác động của con ngƣời.
Các hiểm hoạ tự nhiên đã gây ra những tổn hại nặng nề cho đa dạng sinh học
trong những kỷ nguyên cách đây hơn 60 triệu năm, còn ảnh hƣởng của các hoạt động do
con ngƣời gây nên đặc biệt nghiêm trọng từ giữa thế kỷ XIX đến nay.
Những ảnh hƣởng do tác động của con ngƣời gây ra chủ yếu làm thay đổi, suy
thoái và huỷ hoại môi trƣờng sống. Điều đó đẩy loài và các quần xã vào tình trạng bị

tuyệt chủng hoặc có nguy cơ bị tuyệt chủng. Việc khai thác quá mức các loài phục vụ
cho nhu cầu của con ngƣời, việc du nhập các loài và gia tăng bệnh dịch cũng là những
nguyên nhân quan trọng làm suy thoái đa dạng sinh học. Các mối đe doạ trên một phần
có liên quan mật thiết đến sự gia tăng dân số của toàn thế giới. Việc phá huỷ các quần xã
sinh học xảy ra nhiều nhất trong vòng 150 năm trở lại đây và liên quan đến dân số thế
giới: 1 tỷ ngƣời năm 1850, 2 tỷ ngƣời năm 1930 và 5,9 tỷ ngƣời vào năm 1995, hiện nay
đã có trên 6 tỷ ngƣời. Tốc độ tăng dân số thấp ở các nƣớc công nghiệp phát triển nhƣng
còn cao ở các nƣớc kém phát triển ở châu Á, châu phi và Mỹ Latinh mà đây lại là những
nơi giàu tính đa dạng sinh học (WRI/UNEP/UNDP, 1994 trong Phạm Nhật, 1999).
3. Thang bậc phân hạng mức đe doạ của IUCN.
Nhằm nêu bật tình trạng của một loài quí hiếm cho mục đích bảo tồn, IUCN đã
xây dựng các cấp độ bảo tồn nhƣ dƣới đây. Các cấp độ này có vai trò quan trọng ở cấp
quốc gia và quốc tế trong việc hƣớng sự chú ý vào những loài đang đƣợc quan tâm đặc
biệt và trong việc xác định những loài đang bị đe dọa tuyệt chủng cần đƣợc bảo vệ
thông qua các cam kết quốc tế nhƣ Công ƣớc CITES. (IUCN, 2001)

Tuyệt chủng - EX
Đủ dẫn
liệu

Tuyệt chủng ngoài
thiên nhiên – EW
Rất nguy cấp - CR
Bị đe doạ

Nguy cấp - EN
Sẽ nguy cấp - VU

Đánh giá


Phụ thuộc bảo tồn - CD
Ít nguy cấp - LR

Sắp bị đe dọa - NT
Ít lo ngại - IC
Thiếu dẫn liệu - DD
Không đánh giá - NE

Sơ đồ 1: Cấu trúc các cấp độ bảo tồn loài củ a IUCN
Thang bậc phân hạng mức đe doạ cụ thể:
+ Các bậc phân hạng chính

18


- Bị tuyệt chủng - EX (Extinct):
Một đơn vị phân loại đƣợc coi là tuyệt chủng khi chắc chắn cá thể cuối cùng của
đơn vị phân loại đó đã bị tiêu diệt.
- Tuyệt chủng trong hoang dã - EW (Extinct in the wild):
Một loài đƣợc coi là tuyệt chủng trong hoang dã khi biết đƣợc loài đó chỉ tồn tại
trong điều kiện nuôi trồng nằm ngoài phạm vi phân bố lịch sử cuả loài đó. Loài đƣợc coi
là tuyệt chủng trong hoang dã khi những nỗ lực điều tra tại những vùng sống của loài đã
biết hoặc những sinh cảnh có hi vọng gặp đƣợc vào những thời điểm thích hợp (theo ngày,
mùa, năm) khắp các vùng phân bố lịch sử của nó, mà vẫn không tìm ra một cá thể nào.
Các cuộc điều tra vƣợt quá khung thời gian của một vòng đời hoặc tuổi thọ của chúng
- Rất nguy cấp - CR (Critical Endangered):
Một loài đƣợc coi là rất nguy cấp khi nó phải đối mặt với những mối đe doạ tuyệt
chủng tự nhiên rất lớn trong một tƣơng lai gần, theo định nghĩa từ mục A - E dƣới đây:
A. Quần thể đang bị suy giảm theo những hình thức sau:
1. Các ƣớc lƣợng chỉ ra rằng quần đã bị hoặc có xu thế hoặc nghi có sự suy

giảm 80% trong vòng 10 năm hoặc trong 3 thế hệ vừa qua, đƣợc xác định bởi:
(a) Quan sát trực tiếp
(b) Chỉ số của độ phong phú phù hợp với phân loại đó
(c) Sự suy giảm trong vùng chiếm cứ
(d) Mức độ khai thác hiện tại hoặc xu hƣớng khai thác
(e) Hậu quả của du nhập loài mới, bệnh dịch, tạp lai, ô nhiễm, kí sinh
2. Sự suy giảm ít nhất 80%, có xu hƣớng hoặc nghi có thể sẽ xảy ra trong 10 năm
tới hoặc trong 3 thế hệ dựa trên cơ sở xác địmh của bất kỳ điểm (b),(c),(d) hay (e) ở trên
B. Phạm vi xuất hiện ƣớc lƣợng nhỏ hơn 100km2 hay vùng chiếm cứ nhỏ hơn
10km2, và đƣợc chỉ ra bởi các ƣớc lƣợng sau:
1. Bị phân cách nghiêm trọng hay đƣợc biết chỉ tồn tại trong một điểm duy nhất
2. Tiếp tục suy giảm qua quan sát hoặc có thể gặp phải trong các trƣờng hợp:
(a) Phạm vi xuất hiện
(b) Diện tích chiếm cứ
(c) Diện tích, phạm vi hay chất lƣợng sinh cảnh
(d) Số lƣợng cá thể trƣởng thành
3. Những thay đổi cực kỳ bất thƣờng theo các điểm sau:
(a) phạm vi xuất hiện
(b) diện tích chiếm cứ
(c) số địa điểm phân bố hay số lƣợng các quần thể phụ
(d) số lƣợng cá thể trƣởng thành
C. Quần thể đƣợc ƣớc lƣợng còn ít hơn 250 cá thể trƣởng thành và:
1. Số lƣợng đó vẫn tiếp tục suy giảm ít nhất 25% trong 3 năm tới ở 1 thế hệ hoặc
nhiều hơn.
2. Quần thể vẫn tiếp tục giảm qua quan sát hoặc có thể gặp phải về số lƣợng các
cá thể trƣởng thành và cấu trúc quần thể nằm trong các dạng:
(a) bị chia cắt nghiêm trọng

19



(b) tất cả các cá thể đều nằm trong một quần thể phụ duy nhất
D. Quần thể có số lƣợng dƣới 50 cá thể trƣởng thành.
E. Các phân tích trữ lƣợng chỉ ra rằng khả năng tuyệt chủng trong tự nhiên ít nhất
là dƣới 50% trong vòng 10 năm hoặc là 3 thế hệ hay bất cứ khi nào dài hơn.
- Nguy cấp - EN (Endangered)
Một loài đƣợc coi là nguy cấp khi nó chƣa phải là nguy cấp cao nhƣng nó đang
phải đối mặt với những mối đe doạ tuyệt chủng tự nhiên rất lớn trong một tƣơng lai gần
theo định nghĩa từ mục A - E dƣới đây:
A. Quần thể đang bị suy giảm theo một trong các hình thức sau:
1. Các quan sát, ƣớc lƣợng chỉ ra rằng quần đã bị/có xu thế hoặc nghi có sự sự
suy giảm ít nhất 50% trong vòng 10 năm hoặc trong 3 thế hệ vừa qua hoặc lâu hơn, đƣợc
xác đinh bởi:
(a) Quan sát trực tiếp
(b) Một chỉ số của độ phong phú sát thực với đơn vị phân loại đó
(c) Suy giảm trong vùng chiếm cứ
(d) Mức độ khai thác hiện tại hoặc có xu hƣớng khai thác
(e) Hậu quả của du nhập loài mới, tạp lai, bệnh dịch, ô nhiễm hay ký sinh
2. Sự suy giảm ít nhất 50%, có xu hƣớng hoặc nghi sẽ có thể gặp phải trong 10
năm tới hoặc trong 3 thế hệ tới hoặc lâu hơn dựa vào trên cơ sở xác định của bất kỳ điểm
(b), (c), (d) hoặc (e) ở trên.
B. Phạm vi xuất hiện ƣớc lƣợng nhỏ hơn 5000km2 hoặc vùng chiếm cứ nhỏ hơn
500 km2 và đƣợc chỉ ra bởi các ƣớc lƣợng sau:
1. Bị phân cách nghiêm trọng hay đƣợc biết chỉ tồn tại trong 5 điểm
2. Tiếp tục suy giảm qua quan sát hoặc gặp phải trong các trƣờng hợp sau:
(a) phạm vi xuất hiện
(b) diện tích chiếm cứ
(c) diện tích, phạm vi hay chất lƣợng sinh cảnh
(d) số địa điểm phân bố hay số lƣợng quần thể phụ
(e) số lƣợng cá thể trƣởng thành

3. Những thay đổi cực kỳ bất thƣờng theo các điểm sau:
(a) phạm vi xuất hiện
(b) diện tích chiếm cứ
(c) số địa điểm phân bố hay số lƣợng các quần thể phụ
(d) số lƣợng cá thể trƣởng thành
C. Quần thể đƣợc ƣớc lƣợng còn ít hơn 2500 cá thể trƣởng thành và:
1. Số lƣợng đó vẫn tiếp tục suy giảm ít nhất 20% trong 5 năm tới ở 1 thế hệ hoặc
nhiều hơn.
2. Quần thể vẫn tiếp tục giảm qua quan sát hoặc có thể gặp phải về số lƣợng các
cá thể trƣởng thành và cấu trúc quần thể nằm trong các dạng:
(a) bị chia cắt nghiêm trọng
(b) tất cả các cá thể đều nằm trong một quần thể phụ duy nhất
D. Quần thể đƣợc ƣớc lƣợng ít hơn 250 cá thể trƣởng thành

20


E. Các phân tích số lƣợng chỉ ra rằng khả năng tuyệt chủng trong tự nhiên ít nhất
là dƣới 20% trong vòng 20 năm hoặc 5 thế hệ.
- Sắp nguy cấp - VU (Vulnerable):
Một loài đƣợc coi là sắp nguy cấp khi nó chƣa phải nguy cấp cao hay nguy cấp
nhƣng đang phải đối mặt với những mối đe doạ tuyệt chủng tự nhiên rất lớn trong một
tƣơng lai theo định nghĩa từ mục A - D dƣới đây:
A. Quần thể đang bị suy giảm theo một trong các hình thức sau:
1. Các quan sát, ƣớc lƣợng chỉ ra rằng quần đã bị/có xu thế hoặc nghi có sự suy
giảm ít nhất 20% trong vòng 10 năm hoặc trong 3 thế hệ vừa qua hoặc lâu hơn, đƣợc xác
định bởi:
(a) Quan sát trực tiếp
(b) một chỉ số của độ phong phú sát thực với đơn vị phân loại đó
(c) suy giảm trong vòng chiếm cứ

(d) mức độ khai thác hiện tại hoặc có xu hƣớng khai thác.
(e) hậu quả của du nhập loài mới, tạp lai, bệnh dịch, ô nhiễm hay ký sinh
2. Sự suy giảm ít nhất 20%, có xu hƣớng hoặc nghi sẽ có thể gặp phải trong 10
năm tới hoặc trong 3 thế hệ tới hoặc lâu hơn dựa trên cơ sở xác định của bất kỳ điểm (b),
(c), (d) hoặc (e) ở trên.
B. Phạm vi xuất hiện ƣớc lƣợng nhỏ hơn 20.000km2 hoặc vùng chiếm cứ nhỏ
hơn 2000 km2 và đƣợc chỉ ra bởi các ƣớc lƣợng sau:
1. Bị phân cách nghiêm trọng hay đƣợc biết chỉ tồn tại trong dƣới 10 điểm duy nhất.
2. Tiếp tục suy giảm qua quan sát hoặc có thể gặp phải trong các trƣờng hợp:
(a) phạm vi xuất hiện
(b) diện tích chiếm cứ
(c) diện tích, phạm vi hay chất lƣợng sinh cảnh
(d) số địa điểm phân bố hay số lƣợng quần thể phụ
(e) số lƣợng cá thể trƣởng thành
3. Những thay đổi cực kỳ bất thƣờng theo các điểm sau:
(a) phạm vi xuất hiện
(b) diện tích chiếm cứ
(c) số địa điểm phân bố hay số lƣợng các quần thể phụ
(d) số lƣợng cá thể trƣởng thành
C. Quần thể đƣợc ƣớc lƣợng còn ít hơn 10.000 cá thể trƣởng thành và:
1. Số lƣợng đó vẫn tiếp tục suy giảm ít nhất 10% trong 10 năm tới ở 1 thế hệ hoặc
nhiều hơn.
2. Quần thể vẫn tiếp tục giảm qua các năm quan sát hoặc có thể gặp phải về số
lƣợng các cá thể trƣởng thành và cấu trúc quần thể nằm trong các dạng:
(a) bị chia cắt nghiêm trọng
(b) tất cả các thể đều nằm trong một quần thể phụ duy nhất
D. Qui mô quần thể là rất nhỏ hoặc quần thể giới hạn dƣới 1000 cá thể trƣởng thành.
E. Các phân tích số lƣợng chỉ ra rằng khả năng tuyệt chủng trong tự nhiên ít nhất
là 10% trong vòng 100 năm.
- Đe doạ thấp - LR (Lower Risk):

Một loài đƣợc coi là bị đe doạ thấp khi nó đã đƣợc đánh giá là không thoả mãn
các tiêu chuẩn đánh giá của mức nguy cấp cao, nguy cấp hay sắp nguy cấp. Loài đƣợc

21


coi là đe doạ thấp có thể chia ra ba mức phụ sau:
A. Phụ thuộc bảo tồn - CD (Conservation Dependent): Loài là trọng tâm của
chƣơng trình bảo tồn riêng cho loài hoặc chƣơng trình bảo tồn vùng sống, do đó loài
đang đƣợc quan tâm nhƣng nếu chƣơng trình bảo tồn ngừng thì loài sẽ rơi vào một trong
những mức độ đe doạ đã nêu ở trên trong vòng 5 năm tới.
B. Gần bị đe doạ - NT (Near Threatened): Loài không đƣợc xác định ở mức độ
phụ thuộc bảo tồn, song gần với mức sắp nguy cấp.
C. Ít quan tâm - LC (Least Concern): Loài chƣa đƣợc xếp vào cấp phụ thuộc bảo
tồn hoặc gần bị đe doạ.
+ Các nhóm chƣa đƣợc xếp hạng:
- Thiếu số liệu - DD (Data Deficient):
Loài thiếu số liệu là loài không đủ thông tin để đánh giá trực tiếp hay gián tiếp
hiểm hoạ tuyệt chủng dựa vào phân bố hoặc tình trạng quần thể. Loài đƣợc xếp vào mức
này có thể đƣợc nghiên cứu rất nhiều và có những hiểu biết về sinh học của chúng, song
lại thiếu những số liệu đáng tin cậy về mức độ phong phú hay phân bố. Vì vậy, thiếu số
liệu không phải là thứ hạng bị đe doạ hay đe doạ thấp. Những loài đƣợc liệt kê vào
nhóm này cần có thêm nhiều thông tin để trong tƣơng lai có thể xếp nó vào một mức đe
doạ nào đó trong số các mức đe doạ kể trên.
- Chƣa đƣợc đánh giá - NE (Not Evaluated)
Loài chƣa đƣợc đánh giá theo bất cứ tiêu chuẩn nào mà IUCN đã đƣa ra.
* Cần lưu ý: Trong Sách Đỏ Việt Nam, phần động vật (1992) và phần Thực vật
(1996) đã sử dụng các cấp đánh giá cũ của IUCN (1978) và một số điểm khác nhƣ sau:
+ Hiếm - R (Rare): Gồm những taxon (nhóm đã đƣợc phân loại) có phân bố hẹp,
nhất là những chi, giống đơn loài, có số lƣợng ít, tuy hiện nay chƣa phải là đối tƣợng

đang hoặc sẽ bị đe doạ nhƣng sự tồn tại lâu dài của chúng là rất mỏng manh.
+ Bị đe doạ - T (Threatened): Là những taxon thuộc một trong những cấp đe doạ
kể trên nhƣng chƣa đủ tƣ liệu để xếp chúng vào cấp cụ thể nào.
+ Không biết chính xác - IK (Insufficiently Known): Là những taxon còn nghi ngờ
và không biết chắc chắn chúng thuộc loại nào trong các cấp trên vì thiếu thông tin. Do
vậy cần nghiên cứu thêm để xác định cụ thể mức đe doạ của chúng.
Bảng 1.3: Số loài động vật bị đe doạ và tuyệt chủng, tổng hợp từ danh mục các
loài bị đe doạ của IUCN (1996)
Mức độ
Rất nguy
Nguy cấp
Sắp nguy
Bị đe doạ
Tuyệt
cấp
cấp
chủng
Lớp
Thú
169
315
612
1096
89
Chim
168
235
704
1107
108

Bò sát
41
59
153
253
21
Lưỡng cư
18
31
75
124
5
Côn trùng
44
116
377
537
73
Các loài khác 471
423
1194
2088
343
Nguồn: Bryant (2004)

22


CHƢƠNG 2. BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC
I. CƠ SỞ VÀ NGUYÊN TẮC CỦA BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC

1. Bảo tồn đa dạng sinh học
1.1. Khái niệm
Trong từ điển Đa dạng sinh học và phát triển bền vững (2001) thì bảo tồn đa dạng
sinh học đƣợc định nghĩa là "việc quản lý mối tác động qua lại giữa con ngƣời với các
gen, các loài và các hệ sinh thái nhằm mang lại lợi ích lớn nhất cho thế hệ hiện tại đồng
thời duy trì tiềm năng của chúng để đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của các thế hệ
tƣơng lai". Bảo tồn đa dạng sinh học có thể hiểu là giải pháp tổng hợp với mục đích bảo
vệ sự đa dạng của các loài sinh vật nhằm mang lại lợi ích lớn nhất cho thế hệ hiện tại
đồng thời duy trì tiềm năng của chúng để đáp ứng nhu cầu và lợi ích của các thế hệ
tƣơng lai.
Nguyên lý khoa học của bảo tồn đa dạng sinh học chính là sinh học bảo tồn. Sinh
học bảo tồn là một môn khoa học đa ngành đƣợc xây dựng nhằm hạn chế các mối đe doạ
đối với đa dạng sinh học với hai mục đích (1) tìm hiểu những tác động tiêu cực do con
ngƣời gây ra đối với đa dạng sinh học (2) Xây dựng các phƣơng pháp tiếp cận để hạn
chế sự suy thoái đa dạng sinh học.
1.2. Sự cần thiết phải bảo tồn đa dạng sinh học
Thực trạng của đa dạng sinh học trên phạm vi toàn cầu là đã và đang bị suy thoái
nghiêm trọng. Suy thoái đa dạng sinh học sẽ dẫn đến những hậu quả to lớn và không
lƣờng trƣớc đƣợc đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài ngƣời. Đa dạng sinh học
có giá trị rất lớn nhƣ đã nêu ở phần trƣớc, chính vì thế bảo tồn đa dạng là việc làm cần
thiết và khẩn cấp hiện nay của nhân loại. Nhìn chung có một số lý do khẳng định sự cần
thiết phải bảo tồn đa dạng sinh học là:
* Lý do kinh tế: lý do này trƣớc hết đề cập đến giá trị kinh tế của đa dạng sinh
học, đó là những sản phẩm đƣợc con ngƣời trực tiếp hoặc gián tiếp sử dụng.
* Lý do sinh thái: Lý do này đề cập đến việc duy trì các quá trình sinh thái cơ bản
của đa dạng sinh học. Đa dạng sinh học đã tạo lập nên sự cân bằng sinh thái nhờ những
mối liên hệ giữa các loài với nhau. Cân bằng sinh thái là cơ sở để phát triển bền vững
các quá trình trao đổi chất và năng lƣợng trong hệ sinh thái.
* Lý do đạo đức: lý do này giúp chúng ta tôn trọng các loài sinh vật trong quá
trình cùng tồn tại. Các loài sinh vật tồn tại không nhất thiết phụ thuộc vào giá trị sử dụng

của chúng và sự cần thiết của con ngƣời.
* Lý do thẩm mỹ: đa dạng sinh học đã tạo ra những dịch vụ tự nhiên phục vụ nhu
cầu vui chơi giải trí của con ngƣời chẳng hạn nhƣ du lịch sinh thái, thăm quan,...do đó
nó góp phần cải thiện đời sống tinh thần của con ngƣời.
* Lý do về giá trị tiềm ẩn: không phải các loài sinh vật đều có những giá trị kinh
tế, sinh thái, đạo đức, thẩm mỹ giống nhau và thực tế hiện nay chúng ta chƣa xác định
đƣợc hết các giá trị của chúng. Một số loài hiện đƣợc coi là không có giá trị có thể trở
thành loài hữu ích hoặc có một giá trị lớn nào đó trong tƣơng lai, đó chính là giá trị tiềm
ẩn của đa dạng sinh học.

23


2. Các cơ sở của bảo tồn đa dạng sinh học
Những nỗ lực về bảo tồn thƣờng hƣớng đến việc bảo vệ các loài đang bị suy giảm
về số lƣợng và đang có nguy cơ bị tuyệt chủng. Nhƣng để có thể bảo tồn thành công loài
trong những điều kiện khắc nghiệt do con ngƣời tạo nên, các nhà sinh học và các nhà bảo
tồn cần phải xác định đƣợc tính ổn định của quần thể dƣới những điều kiện nhất định. Đó
là liệu quần thể của một loài đang có nguy cơ bị tuyệt chủng có thể tiếp tục tồn tại hoặc
thậm chí phát triển trong một khu bảo tồn đƣợc không?. Đồng thời các loài đang bị suy
giảm có cần đến sự quan tâm đặc biệt nào để tránh khỏi sự tuyệt chủng hay không?.
Nhiều khu bảo tồn đƣợc thành lập để bảo vệ một số loài quí hiếm, biểu tƣợng cho
vùng, cho quốc gia hoặc có các giá trị đặc biệt khác. Tuy nhiên việc khoanh nuôi thành
các khu bảo tồn chƣa hẳn đã có thể ngăn chặn đƣợc sự tuyệt chủng kể cả khi chúng
đƣợc pháp luật bảo vệ. Nhìn chung các khu bảo tồn chỉ đƣợc thành lập sau khi con
ngƣời nhận thấy đƣợc sự suy giảm của hầu hết các quần thể và loài đang có nguy cơ bị
tuyệt diệt trong hoang dã. Trong những điều kiện nhƣ vậy thì hiện trạng của loài thƣờng
thay đổi theo xu thế suy giảm nhanh chóng về số lƣợng và dần tiến tới tuyệt chủng.
Cùng lúc đó các cá thể nằm ngoài ranh giới khu bảo tồn vẫn tiếp tục bị đe doạ do không
đƣợc bảo vệ đúng mức.

Theo nguyên tắc chung thì một kế hoạch bảo tồn thích hợp cho một loài đòi hỏi
càng nhiều cá thể đƣợc bảo tồn càng tốt trong một diện tích lớn nhất có thể đƣợc của
khu vực cần đƣợc bảo vệ. Qua kết quả nghiên cứu của nhiều nhà khoa học đối với bảo
tồn quần thể cho thấy cần có các quần thể đủ lớn để bảo tồn hầu hết các loài. Những
quần thể nhỏ thƣờng dễ có cơ bị tuyệt chủng cục bộ vì 3 nguyên nhân chính là:
* Mất tính biến dị di truyền, giao phối hẹp và lạc dòng gen
* Những dao động về số lƣợng quần thể do những biến động ngẫu nhiên giữa tỷ
lệ sinh và tỷ lệ chết.
* Những biến động môi trƣờng do những biến đổi về sự bắt mồi, cạnh tranh, dịch
bệnh, nguồn thức ăn cũng nhƣ các rủi ro, thiên tai xảy ra bất thƣờng.
3. Các nguyên tắc cơ bản của bảo tồn đa dạng sinh học
Theo khuyến nghị của các nhà nghiên cứu bảo tồn, khi tiến hành nghiên cứu và
triển khai việc phát triển chiến lƣợc đa dạng sinh học, cần phải tuân thủ 10 nguyên tắc
chỉ đạo cơ bản sau:
* Mọi dạng của sự sống là độc nhất và cần thiết và mọi ngƣời phải nhận thức
đƣợc điều đó.
* Bảo tồn đa dạng sinh học là một dạng đầu tƣ đem lại lợi ích lớn cho địa
phƣơng, cho đất nƣớc và toàn cầu.
* Chi phí và lợi ích của bảo tồn đa dạng sinh học phải đƣợc chia đều cho mọi đất
nƣớc và mọi ngƣời trong mỗi đất nƣớc.
* Vì là một phần của các cố gắng phát triển bền vững, bảo tồn đa dạng sinh học
đòi hỏi những biến đổi lớn về hình mẫu và thực tiễn của phát triển kinh tế toàn cầu.
* Tăng kinh phí cho bảo tồn đa dạng sinh học tự nó không làm giảm mất mát đa
dạng sinh học. Cần phải thực hiện cải cách chính sách và tổ chức để tạo ra các điều kiện
để nguồn kinh phí đƣợc sử dụng một cách có hiệu quả.

24


* Mỗi địa phƣơng, đất nƣớc và toàn cầu đều có các ƣu tiên khác nhau về bảo tồn

đa dạng sinh học và chúng cần đƣợc xem xét khi xây dựng chiến lƣợc bảo tồn. Mọi quốc
gia và mọi cộng đồng đều quan tâm đến bảo tồn đa dạng sinh học riêng của mình, nhƣng
không nên chỉ tập trung cho riêng một số hệ sinh thái hay các đất nƣớc giàu có về loài.
* Bảo tồn đa dạng sinh học chỉ có thể đƣợc duy trì khi nhận thức và quan tâm của
mọi ngƣời dân đƣợc đề cao và khi các nhà làm chính sách nhận đƣợc thông tin đáng tin
cậy làm cơ sở xây dựng chính sách.(TL)
* Hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học phải đƣợc lên kế hoạch và đƣợc thực hiện
ở phạm vi đã đƣợc các tiêu chuẩn sinh thái và xã hội xác định. Hoạt động cần tập trung
vào nơi có ngƣời dân hiện đang sinh sống và làm việc và trong các vùng rừng cấm
hoang dã.
* Đa dạng văn hoá gắn liền với đa dạng sinh học. Hiểu biết của nhân loại về đa
dạng sinh học cũng nhƣ việc quản lý, sử dụng đa dạng sinh học đều nằm trong đa dạng
văn hoá. Do đó bảo tồn đa dạng sinh học góp phần tăng cƣờng các giá trị và sự thống
nhất văn hoá và ngƣợc lại.
* Tăng cƣờng sự tham gia của ngƣời dân, quan tâm tới các quyền cơ bản của con
ngƣời, tăng cƣờng giáo dục và thông tin và tăng cƣờng khả năng tổ chức là những nhân
tố cơ bản của bảo tồn đa dạng sinh học.
IUCN, UNEP, WWF (1991) cũng đã đƣa ra 9 nguyên tắc sống bền vững liên
quan đến bảo tồn đa dạng sinh học:
1. Tôn trọng và quan tâm đến cuộc sống của cộng đồng
2. Cải thiện chất lƣợng cuộc sống con ngƣời
3. Bảo vệ sự sống và tính đa dạng của trái đất
4. Hạn chế đến mức thấp nhất việc làm suy giảm nguồn tài nguyên không tái tạo
5. Giữ vững/duy trì khả năng chịu đựng của trái đất
6. Thay đổi thái độ và thói quen của con ngƣời.
7. Cho phép các cộng đồng tự quản lý lấy môi trƣờng của mình.
8. Một quốc gia thống nhất tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển và bảo tồn
9. Cần tạo ra một cơ cấu liên minh toàn cầu trong bảo tồn ĐDSH
II. CÁC PHƢƠNG THỨC BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC
1. Các phƣơng thức bảo tồn chính

Để bảo tồn nguồn tài nguyên động thực vật nói riêng và đa dạng sinh học nói
chung, hiện nay có 2 phƣơng thức chủ yếu đó là bảo tồn tại chỗ (In - situ) và bảo tồn
chuyển chỗ (Ex- situ). Ngoài 2 phƣơng thức bảo tồn kể trên, gần đây trên thế giới ngƣời ta
còn chú trọng đến một hình thức bảo tồn mới gọi là bảo tồn circa situ. Phƣơng thức bảo
tồn này ra đời nhằm bảo tồn nguồn gen của một số loài cây hữu ích và có giá trị kinh tế
ngay trên các trang trại. Phƣơng thức bảo tồn này cũng chú trọng đến vai trò của ngƣời
dân và cộng đồng địa phƣơng trong việc duy trì nguồn gen của những loài cây có giá trị
trên trang trại mà không tồn tại trong các khu bảo tồn (Kanowski and Boshier, 1997).
1.1. Bảo tồn tại chỗ (In - situ conservation):
Phƣơng thức này nhằm bảo tồn các hệ sinh thái và các sinh cảnh tự nhiên để duy
trì và khôi phục quần thể các loài trong môi trƣờng tự nhiên của chúng. Đối với các loài

25


×