Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Vai trò của nhà nước qua các học thuyết kinh tế và vận dụng ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.45 KB, 33 trang )

Học phần: Lịch sử các học thuyết kinh tế
Trường: ĐH Thương mại

VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC QUA CÁC HỌC
THUYẾT KINH TẾ VÀ VẬN DỤNG Ở VIỆT NAM

Hanoi-2016

1


Mục lục

2


Lời nói đầu
Tất cả các Nhà nước đều có chức năng quản lý kinh tế; hoạt động của Nhà nước
luôn có những ảnh hưởng lớn tới toàn bộ nền kinh tế như một tổng thể, cũng như ảnh
hưởng tới hoạt động của các tác nhân kinh tế khác trong nền kinh tế. Tuy nhiên, mức
độ can thiệp và vai trò kinh tế của Nhà nước ở mỗi xã hội, mỗi chế độ kinh tế, mỗi thời
điểm, cũng như mỗi quốc gia là không giống nhau. Mức độ này phụ thuộc vào nhiều
yếu tố như trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất, lợi ích đòi hỏi của giai cấp
thống trị,… Chính vì vậy việc xác định vai trò và mức độ can thiệp của Nhà nước vào
nền kinh tế luôn chiếm một vị trí quan trọng trong các học thuyết kinh tế.
Việc nghiên cứu, phân tích lý luận về vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh
tế, do đó có ý nghĩa rất lớn không chỉ về mặt học thuật mà cả về mặt thực tiễn. Nước ta
đang trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa,
với một điểm xuất phát rất thấp về kinh tế. Chính vì vậy, vai trò điều tiết, hướng dẫn
của Nhà nước để nền kinh tế phát triển theo đúng quỹ đạo mong muốn là rất quan
trọng và cần thiết. Nghiên cứu lý luận về vai trò của Nhà nước trong các học thuyết


kinh tế cũng như sự vận dụng các lý luận này trong thực tiễn sẽ giúp ta xác lập cơ sở
cho vai trò và sự can thiệp của Nhà nước đối với nền kinh tế của Việt Nam. Nó cũng
cung cấp cho ta một hệ thống các biện pháp, cơ chế chính sách, công cụ mà Nhà nước
sử dụng để can thiệp điều tiết, hướng dẫn nền kinh tế và khả năng vận dụng ở Việt
Nam.

3


I. Lý luận về vai trò kinh tế của nhà nước trong các học thuyết kinh tế.
1. Vai trò kinh tế của nhà nước trong chủ nghĩa trọng thương
Chủ nghĩa trọng thương là tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản, ra đời
và tồn tại vào khoảng thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII. Chủ nghĩa trọng thương ra đời
trong bối cảnh phương thức sản xuất phong kiến tan rã, phương thức sản xuất tư bản
mới ra đời, đang chuyển từ kinh tế giản đơn sang kinh tế thị trường. Đây chính là
thời kỳ tích lũy nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản, việc tích lũy tiền tệ có vai trò và
ý nghĩa quan trọng. Trong khi đó sản xuất chưa phát triển, để có tiền mặt tích lũy
phải thông qua thương mại, mua bán trao đổi. Hơn nữa giai cấp tư sản lúc này mới
ra đời còn non yếu, chưa nắm được chính quyền và hoạt động chủ yếu trong lĩnh
vực thương nghiệp. Chính vì thế vai trò đỡ đầu cho chủ nghĩa tư bản ra đời của nhà
nước phong kiến là rất quan trọng và cần thiết.
Ra đời trong hoàn cảnh đó, chủ nghĩa trọng thương đại diện và bảo vệ trực tiếp
cho lợi ích của tư bản thương nghiệp lớn. Các nhà trọng thương đề cao vai trò của
tiền (tiền vàng), coi tiền là thước đo của sự giàu có, mà để tích lũy tiền thì phải
thông qua thương mại, mà trước hết là ngoại thương. Đặc biệt họ rất đề cao vai trò
của nhà nước vào các hoạt động kinh tế để thúc đẩy quá trình tích lũy tiền vàng cho
quốc gia mà cụ thể là cho tư bản thương nghiệp.
Theo các nhà trọng thương, muốn có nhiều tiền phải dựa vào ngoại thương và
trong ngoại thương phải đảm bảo các nguyên tắc sau: xuất nhiều hơn nhập, tiền mua
hàng nước ngoài ít hơn tiền bán cho ngoại quốc. Và để có xuất siêu thì nhà nước

phải sử dụng các công cụ để can thiệp vào nền kinh tế để khuyến khích xuất khẩu và
hạn chế thậm chí cấm nhập khẩu.
Các biệp pháp can thiệp của nhà nước như:

- Thực hiện chế độ thuế quan bảo hộ nhằm hạn chế nhập khẩu, khuyến khích
xuất khẩu và bảo vệ hàng sản xuất trong nước, bảo hộ sự phát triển của các xí

-

nghiệp công trường thủ công.
Sử dụng công cụ luật pháp để ngăn cấm dòng tiền vàng chảy ra nước ngoài,
quy định khi tàu buôn đi bán hàng ở nước ngoài thì chỉ được mang tiền về
không được mang hàng về; tàu của nước ngoài tới bán hàng thì không được
mang tiền về mà phải mua hàng để mang về...

4


- Đưa ra những chính sách hỗ trợ tạo điều kiện thuận lợi cho tư bản thương
nghiệp hoạt động.
Một nền kinh tế chỉ có thể phát triển tốt đẹp nếu như có sự điều chỉnh và quản
lý của nhà nước, khuyến khích sự độc quyền trong ngoại thương. Vai trò của nhà
nước thông qua các chính sách kinh tế được chủ nghĩa trọng thương đề cao và cho
rằng: một nền kinh tế chỉ có thể phát triển hiệu quả nếu chịu sự chi phối, quản lý của
nhà nước. Thương nhân cần dựa vào nhà nước và nhà nước phối hợp bảo vệ thương
nhân.
2. Vai trò kinh tế của nhà nước trong học thuyết kinh tế chính trị tư sản cổ
điển (KTCTTSCĐ) Anh
Bước sang thế kỷ XVIII, CNTB về cơ bản đã chấm dứt thời kỳ tích lũy nguyên
thủy. Sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất TBCN bước vào thời

kỳ đòi hỏi chấm dứt sự thống trị của tư bản thương nghiệp để mở đường cho sự phát
triển của tư bản công nghiệp và tư bản thương nghiệp. Chủ nghĩa trọng thương
không còn phù hợp với thực tế và trở thành đối tượng để phê phán. Điều này đã mở
đường cho sự ra đời và phát triển của một học thuyết kinh tế chính trị mới là học
thuyết KTCTTSCĐ Anh với các đại biểu như Ư.Petty, A.Smith, D.Ricardo. Đặc
điểm của KTCTTSCĐ là họ có phương pháp nghiên cứu mới: các nhà cổ điển vận
dụng phương pháp duy vật, trừu tượng hóa, đi từ hiện vật đến bản chất, tìm ra các
quy luật của sự vận động kinh tế, nguồn gốc của sự giàu có, đưa ra những phạm trù
kinh tế mới.
Lý luận về nhà nước và sự can thiệp vào kinh tế của KTCTCĐ thể hiện tập
trung trong lý luận về cơ chế thị trường và lợi ích cá nhân hay lý luận bàn về “bàn
tay vô hình” của A.Smith. Cụ thể A.Smith đề cao vai trò tự điều tiết của thị trường
và hạ thấp vai trò điều tiết nền kinh tế của nhà nước. Theo ông, con người ai cũng
quan tâm đến lợi ích cá nhân của mình và ra sức chạy theo nó. Xã hội là do các cá
nhân hợp thành vì thế lợi ích của xã hội là tổng hòa các lợi ích cá nhân, các cá nhân
càng chạy theo lợi ích cá nhân thì lợi ích xã hội càng lớn.Ông cho rằng nên để mỗi
cá nhân trong xã hội tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh, không có bất cứ sự can
thiệp hay hạn chế nào. Ông đưa ra lý thuyết “tự do kinh tế” với nội dung cơ bản là
coi nền kinh tế TBCN là một hệ thống tự điều tiết nhờ hoạt động của các quy luật

5


thị trường (“bàn tay vô hình”) trong đó các chủ thể thị trường tự do hoạt động, kinh
doanh, tham gia thị trường dựa trên chế độ tư hữu.
Ông phê phán chủ nghĩa trọng thương dựa vào nhà nước để cưỡng bức
kinh tế. Ông cho rằng chức năng của nhà nước là đấu tranh chống bọn tội phạm và
kẻ thù bên ngoài; Nhà nước có thể thực hiện chức năng kinh tế khi chức năng ấy
vượt quá sức của các chủ xí nghiệp riêng lẻ.Tự do kinh tế sẽ làm cho nguyện vọng
và lợi ích riêng của con người tự nhiên, bắt buộc họ phải chia và phân bố tư bản của

bất cứ một xã hội nào cho các công việc khác nhau trong xã hội đó sao cho phù hợp
với lợi ích của toàn xã hội. Lợi ích xã hội sẽ được phát triển trong quá trình lợi ích
cá nhân được thỏa mãn.
Từ sau khi ra đời , lý thuyết “tự do kinh tế” hay “bàn tay vô hình” của A.smith
đã được giai cấp tư sản đón chào nồng nhiệt và trở thành tư tưởng thống trị trong
các lý thuyết tư sản trước những năm 30 của thế kỷ XX. Sở dĩ như thế vì lý thuyết
này phù hợp và tạo điều kiện cho sự phát triển của lực lượng sản xuất trong giai
đoạn tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản. Lúc này, trình độ phát triển của sản xuất
vẫn ở trình độ đảm bảo nền kinh tế có thể tự điều chỉnh bởi các quy luật của thị
trường. Mâu thuẫn giữa trình độ và tính chất xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất
với chế độ sở hữu tư nhân TBCN về các tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội chưa
phát triển đến mức gay gắt và vẫn có thể điều hòa được, căn bệnh khủng hoảng của
nền kinh tế chưa được bộc lộ. Tuy nhiên khi lực lượng sản xuất phát triển cao hơn,
CNTB chuyển sang giai đoạn độc quyền, mâu thuẫn trở nên gay gắt, CNTB cảm
thấy không thể tự điều hòa được các hoạt động của nền kinh tế, biểu hiện rõ nhất
trong các cuộc khủng hoảng sản xuất thừa. Lý thuyết “bàn tay vô hình” tỏ ra bất lực
và có lúc tưởng như bị lãng quên, tuy nhiên sau đó, nó đã được phục hồi và điều
chỉnh, với vai trò lớn hơn của nhà nước. “Bàn tay vô hình” mặc dù không có được
sức mạnh toàn năng và tuyệt đối như A.Smith và các nhà kinh tế học cổ điển quan
niệm nhưng vẫn có một sức mạnh rất lớn trong điều tiết nền kinh tế. Do đó, khi lực
lượng sản xuất phát triển đến một trình độ cao hơn, cần thiết phải có sự điều chỉnh
kinh tế của nhà nước nhưng không được phép bỏ qua vai trò của thị trường. Và
trong quá trình can thiệp của nhà nước phải đảm bảo nguyên tắc phù hợp với các
quy luật của thị trường.

6


3. Vai trò kinh tế của nhà nước trong các học thuyết kinh tế chính trị tư sản
(KTCTTS) tầm thường

Đến những năm 30 của thế kỷ XIX, sau cuộc cách mạng công nghiệp, mâu thuẫn
giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản và cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp đã bộc lộ
một cách gay gắt. Giai cấp tư sản cần tới những học thuyết biện hộ cho chế độ đương
thời, xóa nhòa mâu thuẫn và đấu tranh giai cấp. Họ đưa ra những lý thuyết: lý thuyết
nhân khẩu, lý thuyết về người thứ ba của T.R.Malthus, lý thuyết về giá trị hữu dụng,
về ba nhân tố sản xuất; thuyết thực hiện của J.B.Say… nhằm biện hộ và che giấu bản
chất bóc lột của CNTB.
Chính với mục đích đó, họ đã ra sức đề cao khả năng tự cân đối của nền kinh tế
TBCN, phản đối sự can thiệp của Nhà nước, mà tiêu biểu là lý thuyết thực hiện của
J.B.Say. Theo đó ông cho rằng tổng giá trị sản xuất ngang bằng với tổng giá trị thu
nhập phân phối, và những thu nhập này lại tạo ra chi tiêu. Trong nền kinh tế, người sản
xuất cũng là người tiêu dùng cho nên cung luôn bằng cầu. Người sản xuất hoặc là tiêu
dùng sản phẩm của mình, hoặc là bán sản phẩm của mình để mua một sản phẩm khác.
Tiền chỉ là vật trung gian nhờ đó mà trao đổi được thực hiện. Một hàng hóa có thể sản
xuất thừa nhưng không thể sản xuất thừa với mọi loại hàng hóa. Khủng hoảng thương
nghiệp hay khó khăn tiêu thụ chỉ là ngẫu nhiên, nhất thời, không liên quan gì đến nền
sản xuất TBCN.
J.B.Say chủ trương trong một Nhà nước đảm bảo chức năng độc quyền (quân
đội, cảnh sát) và tránh mọi can thiệp. Ông không tán thành tạo lập các doanh nghiệp
công cộng, chủ trương tư nhân hóa các doanh nghiệp đã quốc hữu hóa, Nhà nước tạo
ra thuận lợi cho sự làm giàu, đặc biệt là xây dựng các cơ sở hạ tầng.
Rõ ràng trong lý luận trên, ông đã đánh tráo đối tượng nghiên cứu, thay đổi quá
trình sản xuất hàng hóa tư bản bằng quá trình sản xuất hàng hóa giản đơn, từ đó rút ra
kết luận cho sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong sản xuất hàng hóa giản đơn, khủng
hoảng chỉ là tiềm năng nhưng trong sản xuất TBCN khủng hoảng trở thành hiện thực.
Sản xuất thừa ở đây không phải thừa so với nhu cầu mà thừa so với khả năng thanh
toán xã hội.

7



Tóm lại, lý luận về vai trò của Nhà nước và thị trường trong học thuyết KTCTTS
tầm thường không có gì mới so với lý luận của các nhà cổ điển. Hơn thế nữa, nếu như
lý luận của các nhà cổ điển vẫn có cơ sở khoa học của nó, lý luận của phái tầm thường
mang tính phản động, hồ đồ và ngụy biện vì nó biện hộ cho chủ nghĩa tư bản, che giấu
những tồn tại của nền kinh tế tư bản như khủng hoảng sản xuất thừa, sự phân hóa giàu
nghèo …
4. Vai trò của Nhà nước trong học thuyết của trường phái Tân cổ điển
Trường phái tân cổ điển xuất hiện vào cuối thế kỉ XIX, thời kỳ chủ nghĩa tư bản
chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền. Những mâu thuẫn vốn có và
những khó khăn về kinh tế của CNTB ngày càng trở lên trầm trọng. Các cuộc khủng
hoảng kinh tế xuất hiện ngày càng thường xuyên hơn làm mâu thuẫn trước đó càng trở
lên trầm trọng, đồng thời làm xuất hiện nhiều hiện tượng và mâu thuẫn kinh tế mới.
Bên cạnh đó, sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác đã vạch rõ bản chất bóc lột và xu hướng
vận động tất yếu của CNTB. Trước tình hình đó, các học thuyết của trường phái cổ
điển đã tỏ ra bất lực trong bảo vệ CNTB. Vì vậy đòi hỏi phải có những lý thuyết mới
nhằm biện hộ cho CNTB và khắc phục những khó khăn về kinh tế.
Đặc điểm: Họ muốn biến kinh tế chính trị học thành trường phái kinh tế học
thuần túy. Trong phân tích họ sử dụng phương pháp phân tích vi mô, tích cực áp dụng
toán học vào phân tích kinh tế, đồng thời dựa rất nhiều vào các tâm lý chủ quan để giải
thích cho các hiện tượng và cho các quá trình kinh tế xã hội.
Giống như trường phái cổ điển, các nhà kinh tế của trường phái tân cổ điển ủng
hộ tự do cạnh tranh, chống lại sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế, tin tưởng vững
chắc vào cơ chế thị trường tự phát sẽ đảm bảo thăng bằng cung cầu, bảo đảm cho nền
kinh tế phát triển.
Họ đưa ra lý thuyết cân bằng tổng quát, cho rằng hoạt động tự do của các doanh
nhân theo sự biến động tự phát của quan hệ cung cầu và giá cả trên thị trường là điều
kiện cơ bản cho sự phát triển và cân đối tình hình trên thị trường.
Cụ thể, nền kinh tế thị trường có ba loại thị trường: sản phẩm (hàng hóa), vốn (tư
bản) và lao động (nhân công). Ba thị trường này tách rời nhau nhưng chúng có quan hệ


8


mật thiết với nhau nhờ các doanh nhân. Trên thị trường tư bản và lao động doanh nhân
là sức cầu.
Theo tân cổ điển, vay tư bản phải trả lợi tức, thuê lao động phải trả công; lợi tức
và tiền công bằng chi phí. Khi thu nhập lớn hơn chi phí thì doanh nhân tiếp tục sản
xuất, cung về hàng hóa lớn, giá cả giảm và doanh thu của chủ doanh nghiệp giảm,
đồng thời cầu về tư bản và lao động tăng làm tăng lợi tức và tiền công, chi phí tăng.
Khi doanh thu bằng chi phí thì doanh nhân ngừng mở rộng sản xuất. Nếu kinh tế
đạt cân bằng tổng quát thì giá – lương và lãi suất ổn định.
Đồng thời với lý luận cân bằng tổng quát, các nhà kinh tế phái Tân cổ điển cũng
như phái cổ điển đều thấy một thực tế là theo đà phát triển của kinh tế, chức năng của
Nhà nước ngày càng mở rông do vậy vai trò của Nhà nước tăng lên. Đặc biệt trước
những đòi hỏi thực tế trong lĩnh vực ngoại thương, sự xuất hiện của các tổ chức độc
quyền hay tái sản xuất sức lao động, Nhà nước tư sản ngày càng phải tăng cường can
thiệp vào nền kinh tế.
Tuy nhiên họ vẫn cho rằng tự do kinh tế là sức mạnh của nền kinh tế thị trường.
Quy luật kinh tế là vô địch mặc dù chính sách kinh tế của Nhà nước có thể thúc đẩy
hay kiềm chế hoạt động của các quy luật kinh tế. Họ có niềm tin vững chắc vào cơ chế
thị trường và sự điều tiết hoạt động cung cầu và giá cả. Theo sự điều tiết của “bàn tay
vô hình” mà quá trình tái sản xuất đảm bảo được những tỷ lệ cân đối và duy trì được
sự phát triển bình thường.

5. Lý thuyết của Keynes về vai trò kinh tế của nhà nước
5.1 Đối với chính sách đầu tư
Keynes cho rằng: để thoát khỏi khủng hoảng và giải quyết việc làm thì trước hết
nhà nước phải có một chương trình đầu tư lớn với 2 nội dung chính như sau:


- Nhà nước phải trực tiếp đầu tư vào các công trình công cộng bằng ngân sách nhà nước
-

để thu hút việc làm.
Nhà nước phải thông qua các chính sách và công cụ để khuyến khích tư nhân đầu tư
thông qua các đơn đặt hàng của nhà nước, hệ thống thu mua của nhà nước, trợ cấp của
nhà nước về tài chính tín dụng…

9


Mục đích của các chương trình đầu tư lớn này là để nhằm sử dụng số tư bản nhàn
rỗi và lao động thất nghiệp. Số người được tuyển vào làm việc mới khi nhận được thu
nhập sẽ lại tham gia vào thị trường tiêu dùng hàng hóa. Do đó cầu hàng hóa tăng, làm
cho giá cả hàng hóa tăng, dẫn đến hiệu quả của tư bản đầu tư cũng tăng theo. Điều này
sẽ khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất, từ đó tạo ra nhiều việc làm hơn giải quyết
vấn đề thất nghiệp cũng như làm tăng trưởng kinh tế và đẩy lùi khủng hoảng kinh tế
5.2 Đối với chính sách tài chính tín dụng, tiền tệ và thuế khóa
Theo Keynes vai trò của hệ thống tài chính tín dụng và tiền tệ, thuế là hết sức
quan trọng. Đây là những công cụ điều tiết nền kinh tế vĩ mô hết sức hiệu quả.
Theo ông để đạt được mục tiêu sử dụng hệ thống tài chính tín dụng tiền tệ nhằm
kích thích doanh nhân đầu tư thì phải tăng thêm tiền mặt vào lưu thông, thực hiện “lạm
phát có điều tiết” một mặt tăng khối lượng tiền trong lưu thông để giảm lãi suất cho
vay, khuyến khích doanh nhân đầu tư, mở rộng sản xuất. Mặt khác khi có lạm phát thì
giá cả hàng hóa sẽ tăng do đó lợi nhuận của nhà tư bản sẽ tăng nếu chi phí chưa thay
đổi.
Ông chủ trương in thêm tiền giấy để cấp phát cho ngân sách nhà nước, đây là
nguồn bổ sung ngân sách cho những hoạt động đầu tư của nhà nước.
Keynes chủ trương sử dụng công cụ thuế để điều tiết nền kinh tế. Ông chủ trương
tăng thuế đối với người lao động để tăng ngân sách nhà nước từ đó tăng đầu tư. Còn

giảm thuế đối với các doanh nhân để khuyến khích họ đầu tư mở rộng sản xuất.

5.3 Đối với chính sách tạo việc làm
Đối với Keynes cân bằng tiết kiệm và đầu tư không phải là vấn đề đơn giản với
nền kinh tế mà được kết hợp bằng nhiều yếu tố phức tạp ngoài lãi suất ra và không có
đảm bảo rằng hai yếu tố nhất thiết bằng nhau ở mức hoạt động kinh tế tạo ra việc làm
vừa đủ
Keynes lập luận thất nghiệp chỉ có thể giải quyết hiệu quả bằng việc vận dụng
tổng cầu, công nhân sẵn sàng chấp nhận việc tăng giá gây ra từ tăng cầu, dựa vào mức
lương danh nghĩa ổn định. Tăng như thế sẽ làm giảm tiền lương danh nghĩa, qua đó
kích thích việc làm. Keynes xoay quanh đề xuất của phái cổ điển là việc làm không

10


tăng bằng cách giảm tiền lương thực tế nhưng tiền lương thực tế giảm vì việc làm tăng
do tăng tổng cầu.
Keynes không xem cơ cấu kinh tế của bộ phận tư nhân như một dự phòng đảm
bảo an toàn chống lại nạn thất nghiệp kéo dài. Sự cân bằng có thể tồn tại ở việc làm đủ
có ít hơn. Sự tồn tại của tiền lương và giá cả thay đổi đi xuống sẽ không đảm bảo có
đủ việc làm. Vì những hạn chế khác nghĩa là những nhu cầu hình thức đầu cơ tiền mặt
và hàm đầu tư chính sách tiền tệ không hữu ích như dự án. Keynes lập luận trên cơ sở
lý thuyết của ông và cho rằng chính phủ nên sử dụng quyền hạn để đánh thuế và chi
tiêu để ảnh hưởng đến chu kỳ kinh doanh, chi tiêu chính phủ là khoản bơm thêm vào
dòng chảy thu nhập, chi tiêu của chính phủ có thể được lấy từ đánh thuế, bằng việc bán
trái phiếu cho quỹ dự trữ liên bang hay các biện pháp khác ảnh hưởng sinh ra từ việc
làm và thu nhập của tất cả những biện pháp thay thế như này phải đánh giá, và sau đó
phải có hành động để đạt được sự ổn định kinh tế.
Keynes không nghĩ khoản tiền đầu tư bơm vào đơn giản hay “kích thích kinh tế
là đủ” điều cần phải có là chương trình quy mô rộng và có kế hoạch trong chính sách

tài chính. Tóm lại chính phủ phải sẵn sàng cung cấp điều kiện để có đủ việc làm.
Thông điệp kinh tế cơ bản của Keynes đã rõ.

5.4 Đối với khuyến khích tiêu dùng cá nhân
Keynes không bất đồng việc người ta nắm tiền vì mục đích giao dịch hay nhu cầu
giao dịch liên quan đến thu nhập thế nhưng ông lập luận rằng cá nhân nắm tiền ít nhất
vì lý do quan trọng khác là đầu cơ vào thị trường trái phiếu, nói cách khác Keynes lập
luận họ nắm tiền để đầu tư vào thị trường trái phiếu.
Ông cho rằng lãi suất sẽ giảm thấp đến mức làm cho mọi người tin rằng trái
phiếu là đầu tư không phù hợp (khi giá trái phiếu quá cao, tóm lại tất cả đều muốn nắm
giữ nhiều tài sản bằng tiền mặt hơn, xã hội xem việc nắm giữ trái phiếu là không an
toàn và nắm giữ số dư tiền mặt thay vì mục đích đầu cơ.
Keynes cho rằng mặc dù lãi suất được quyết định bằng sự kết hợp các yếu tố thực
và tiền tệ trong hệ thống kinh tế, sự tồn tại của nhu cầu đầu cơ tiền có nghĩa là cơ cấu
qua đó tiền ảnh hưởng đến thu nhập và việc làm trong hệ thống kinh tế không giản đơn
và có thể dự đoán như các nhà kinh tế học cổ điển thường nghĩ. Một trong những tác

11


động của tiền tệ và chi tiêu thu nhập việc làm là thông qua ảnh hưởng của nó đối với
lãi suất. Lãi suất thấp khiến cho tiêu dùng hiện tại trở nên hấp dẫn hơn so với chi tiêu
dùng kỳ hạn, nghĩa là tiết kiệm, điển hình chích sách tiền tệ làm giảm lãi suất và bằng
cách này làm tăng chi tiêu.

6. Vai trò kinh tế của nhà nước trong trường phái tự do mới
Tư tưởng cơ bản là nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường nhưng có sự điều
tiết của nhà nước ở một mức độ nhất định tức là nhà nước không được hạn chế sự phát
triển của thị trường mà phải tạo điều kiện cho thị trường hoạt động một cách bình
thường

Ở Đức: Thì vai trò của chính phủ là chỉ can thiệp vào nơi cạnh tranh không có
hiệu quả và những nơi có chức năng bảo vệ cạnh tranh nhằm kích thích các nguyên tắc
cơ bản của kinh tế thị trường xã hội mà không thể trao vào tay tư nhân. Phải tuân theo
2 nguyên tắc hỗ trợ và nguyên tắc tương hợp với thị trường:
+ Nguyên tắc hỗ trợ thì phải bảo vệ và khuyến khích các nhân tố cơ bản của kinh
tế thị trường xã hội như cạnh tranh có hiệu quả ổn định tiền tệ bảo vệ sở hữu tư nhân
bảo đảm an ninh công bằng xã hội.
+ Nguyên tắc tương hợp tức là nhà nước phải hoạch định các chính sách kinh tế
phù hợp với sự vận động của nền kinh tế thị trường đồng thời đảm bảo các mục tiêu
kinh tế như: nhân lực, tăng trưởng, chống chu kỳ, thương mại.
Ở Mỹ: Đối với trường phái trọng tiền, nhà nước chỉ điều chỉnh khi nền kinh tế
vận động sai lệch thông qua các chính sách tiền tệ chủ yếu là điều chỉnh khối lượng
tiền tệ cần thiết cho lưu thông
Đối với trường phái trọng cung thì nhà nước sử dụng công cụ thuế và các khoản
chi tiêu công cộng để kiểm soát chặt chẽ hạn chế các hậu quả xấu.
Đối với trường phái REM khuyến khích quay trở về với cá nhân và sự vận hành
tự nhiên của các thị trường bởi vì họ cho rằng các chính sách của nhà nước không
mang lại hiệu quả.

12


7. Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế hỗn hợp - Lý thuyết kinh tế của
trường phái chính hiện đại
Trường phái chính hiện đại ra đời và phát triển từ những năm 60 - 70 của thế kỷ XX
ở các nước tư bản phát triển, có ảnh hưởng sâu rộng tới chính sách kinh tế của các nước
cũng như hoạt động của các chủ doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Trường phái
chính hiện đại ra đời trong bối cảnh cả “bàn tay hữu hình” của Keynes và sự đề cao lại
sức mạnh tự điều tiết của cơ chế thị trường – “bàn tay vô hình” của phái Tự do mới đều
thất bại trong việc khắc phục những vấn đề nảy sinh của nền kinh tế.

Trường phái chính hiện đại là trào lưu tư tưởng muốn kết hợp các lý thuyết của
trường phái Keynes và trường phái Tự do mới làm cơ sở lý thuyết cho hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp và chính sách kinh tế của nhà nước tư sản.
Đặc điểm cơ bản về phương pháp luận trong lý thuyết của trường phái chính hiện
đại là sự kết hợp giữa các phương pháp luận của Keynes và Tự do mới. Tư tưởng cơ bản
là cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, được thể hiện tập trung và rõ ràng trong
lý thuyết kinh tế của P.A.Samuelson.
Nếu các nhà kinh tế học Cổ điển và Tân cổ điển say sưa với “bàn tay vô hình”, tuyệt
đối hoá vai trò tự điều tiết của thị trường thì các nhà kinh tế theo Keynes say sưa với “bàn
tay hữu hình”, tức cơ chế điều tiết kinh tế của nhà nước, thì P.A.Samuelson chủ trương
phát triển nền kinh tế phải dựa vào cả “hai bàn tay”, tức là cơ chế thị trường và nhà nước.
Ông cho rằng, “cả thị trường và chính phủ đều cần thiết cho một nền kinh tế vận hành
lành mạnh”
Theo P.A.Samuelson, cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế trong đó cá
nhân người tiêu dùng và các nhà kinh doanh tác động lẫn nhau qua thị trường để xác định
ba vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế là: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Và sản
xuất cho ai? Kinh tế thị trường không phải là sự hỗn độn mà là trật tự kinh tế. Đó là “một
cơ chế tinh vi để phối hợp mọi người, mọi hoạt động và mọi doanh nghiệp thông quá hệ
thống giá cả và thị trường. Nó là một phương tiện giao tiếp để tập hợp tri thức và hành
động của hàng triệu cá nhân khác nhau. Không có một bộ não hay một hệ thống tính toán
trung tâm, nhưng nó vẫn giải quyết được những vấn đề sản xuất và phân phối bao gồm
hàng triệu ẩn số và mối tương quan mà không ai biết, những vấn đề ấy dù cho những siêu

13


máy tính nhanh nhất ngày nay cũng không thể làm nổi. Chẳng có ai thiết kế ra thị trường,
nhưng nó vẫn vận hành rất tốt.”
Nhưng mặt khác, các nhà kinh tế thuộc trường phái chính hiện đại cũng cho rằng,
“bàn tay vô hình” cũng đưa nền kinh tế tới những thất bại. Đó chính là những khuyết tật

của hệ thống thị trường. Những thất bại này gây ra những tác động bên ngoài như: ô
nhiễm không khí, nguồn nước mà doanh nghiệp không phải trả giá cho những ô nhiễm
này; hoặc tình trạng độc quyền phá hoại cạnh tranh; hoặc các tệ nạn như khủng hoảng,
thất nghiệp và sự phân phối bất bình đẳng.
Để đối phó với các khuyết tật của kinh tế thị trường, các nền kinh tế hiện đại đã
phối hợp giữa “bàn tay vô hình” của thị trường và “bàn tay hữu hình” của chính phủ.
Chính phủ có 4 chức năng chính trong nền kinh tế thị trường.
- Một là, thiết lập khuôn khổ pháp luật. Chức năng này thực tế vượt ra ngoài khuôn
khổ của kinh tế học. Nó bao gồm các quy định về tài sản, các quy tắc về hợp đồng và
hoạt động kinh doanh, các trách nhiệm tương hỗ của các liên đoàn lao động, ban quản lý
và nhiều luật lệ để xác định môi trường kinh tế.
- Hai là, sửa chữa những thất bạn của thị trường để thị trường có thể hoạt động hiệu
quả.
 Trước hết, cần có sự can thiệp của chính phủ để hạn chế độc quyền, đảm bảo tính
hiệu quả của cạnh tranh. Cạnh tranh hoàn hảo là tình trạng thị trường có đủ một số lượng
doanh nghiệp hoặc mức độ cạnh tranh tới mức mà không một doanh nghiệp nào có thể
ảnh hưởng đến giá cả hàng hoá đó. Chỉ có cạnh tranh hoàn hảo mới đảm bảo tính hiệu
quả của nền kinh tế. Song trong nền kinh tế thị trường còn xuất hiện cạnh tranh không
hoàn hảo, độc quyền, tình trạng mà một số người bán có khả năng tác động tới giá cả thị
trường. Vấn đề này dẫn đến sự bóp méo giá cả và làm biến dạng cầu và sản xuất, dẫn đến
sự không hiệu quả. Hơn nữa lợi nhuận độc quyền có thể được đem sử dụng vào những
mục đích không tốt.
 Ngăn ngừa và khắc phục các tác động tiêu cực từ bên ngoài. Tác động bên ngoài
xẩy ra khi doanh nghiệp hoặc con người tạo ra chi phí, lợi ích cho doanh nghiệp khác mà
doanh nghiệp hoặc con người đó không được nhận đúng những lợi ích mà họ cần được
nhận hoặc không phải trả đúng những chi phí mà họ phải trả. Những tác động bên ngoài

14



đó làm cho thị trường hoạt động không hiệu quả. Vì vậy chính phủ phải dùng luật lệ để
điều hành nền kinh tế nhằm ngăn chặn những tác động tiêu cực từ bên ngoài như ô nhiễm
nước và không khí, khai thác đến cạn kiệt khoáng sản, chất thải gây nguy hiểm, thức ăn
đồ uống thiếu an toàn vì nhiễm phóng xạ…
 Chính phủ phải đảm nhận việc sản xuất các hàng hoá công cộng. Theo trường
phái này, hàng hoá tư nhân là một loại hàng hoá mà nếu một người đã dùng thì người
khác không thể dùng được nữa; còn hàng hoá công cộng là loại hàng hoá mà một người
đã dùng thì người khác vẫn có thể dùng được, ví dụ không khí trong sạch, an ninh quốc
phòng… Hàng hoá công cộng có đặc điểm:
+ Về kỹ thuật, một người tiêu dùng mà không làm giảm số lượng sẵn có đối với
người khác.
+ Không loại trừ bất cứ ai khỏi việc tiêu dùng này, trừ chi phí phải trả giá quá
cao.
Ích lợi giới hạn của hàng hoá công cộng đối với xã hội và tư nhân là khác nhau.
Nhìn chung ích lợi giới hạn mà tư nhân thu được từ hàng hoá công cộng là rất nhỏ, bởi
vậy tư nhân thường không muốn sản xuất các mặt hàng này. Mặt khác, có những hàng
hoá công cộng có ý nghĩa quan trọng đối với quốc gia như quốc phòng, luật pháp, trật tự
trong nước…. không thể giao cho tư nhân được, nên chính phủ phải trực tiếp sản xuất.
 Thuế: Trên thực tế, phần lớn chi phí của chính phủ được trả bằng thuế thu được.
Tất cả mọi người đều phải chịu theo luật thuế. Sự thực là mỗi công dân lại tự gánh nặng
thuế lên vai mình và mỗi công dân cũng được hưởng phần hàng hoá công cộng do chính
phủ cung cấp.
Như vậy, chính phủ phải can thiệp vào thị trường để nâng cao hiệu quả của thị
trường. Chính phủ đề ra luật lệ đi đường và cung cấp hàng hoá công cộng như đưòng xá,
do đó tạo điều kiện dễ dàng cho tư nhân hoạt động trôi chảy, ngăn cản sự lạm dụng của
các doanh nghiệp, khi họ trở thành những kẻ tham lam, độc quyền chiếm đường và kiềm
chế hoạt động của các doanh nghiệp khác.

15



- Ba là bảo đảm sự công bằng. Một hệ thống thị trường có hiệu quả vẫn có thể gây
ra sự bất bình đẳng lớn. Do vậy, chính phủ phải thông các chính sách để phân phối lại thu
nhập. Các công cụ mà chính phủ thường sử dụng là:
+ Thuế luỹ tiến: đánh vào người giàu với tỷ lệ cao hơn người nghèo.
+ Thiết lập hệ thống hỗ trợ thu nhập giúp đỡ cho người già, người mù, người tàn
tật, người phải nuôi con, bảo hiểm thất nghiệp.
+ Trợ cấp tiêu dùng cho những nhóm có thu nhập thấp thông qua phát các phiếu
thực phẩm, trợ cấp y tế và cho thuê nhà rẻ.
- Bốn là ổn định kinh tế vĩ mô. Sự phát triển theo chu kỳ là một căn bệnh trầm khác
của CNTB. Lý thuết kinh tế của Keynes và những người sau ông như trọng tiền, trọng
cung đã đưa ra rất nhiều biện pháp, chính sách để điều tiết kinh tế vĩ mô. Tựu trung lại,
chúng ta có thể hiểu rằng, sử dụng một cách thận trọng quyền lực về tiền tệ và tài chính
của chính phủ thì có thể tác động tới sản lượng, việc làm và lạm phát. Quyền lực về tài
chính của chính phủ là quyền về đánh thuế và chi tiêu. Quyền lực về tiền tệ bao hàm việc
điều tiết tiền tệ và hệ thống ngân hàng để xác định mức lãi suất và điều kiện tín dụng. Và
phần nào chính nhờ hai công cụ này, các nền kinh tế thị trường thế giới đã chứng kiến
một thời kỳ mở mang chưa từng có từ sau thế chiến II đến đầu những năm 70.
Tuy nhiên, cho đến những năm 70, nền kinh tế nhiều nước lại rơi vào tình trạng khó
khăn, lạm phát tăng vọt, thất nghiệp lên tới mức chưa từng có từ sau Đại khủng hoảng.
Ngày nay những người đề ra chính sách nhận thấy rằng, nền kinh tế hiện đại đứng trước
một vấn đề nan giải của kinh tế vĩ mô, đó là: không một nước nào trong một thời gian dài
có thể được kinh doanh tự do, lạm phát thấp và đầy đủ công ăn việc làm.
Chính phủ thực hiện các chức năng trên thông qua các công cụ: thuế, chi tiêu, lãi
suất, thanh toán chuyển nhượng, khối lượng tiền tệ và những quy định hay kiểm soát.
Thông qua thuế, chính phủ điều tiết tiêu dùng và đầu tư của tư nhân, khuyến khích hoặc
hạn chế hoạt động kinh doanh của doanh nhân. Các khoản chi tiêu của chính phủ sẽ thúc
đẩy các doanh nghiệp hay công nhân sản xuất ra một số hàng hoá hay dịch vụ và cả
những việc chuyển tiền nhằm trợ cấp thu nhập. Những quy định hay kiểm soát của chính
phủ là nhằm hướng nhân dân đi vào hoặc từ bỏ những hoạt động kinh doanh.


16


Khi thực hiện các chức năng kinh tế, chính phủ phải đưa ra quyết định về phương
án lựa chọn, từ đó hình thành lý thuyết lựa chọn công cộng. Đây là sự tập hợp các ý thức
cá nhân thành một sự lựa chọn tập thể theo quy tắc tất cả các quyết định đều được nhất trí
thông qua. Công cụ để phân tích sự lựa chọn là đường giới hạn khả năng - giá trị sử dụng.
Ở đây, các nhà kinh tế học sử dụng lý thuyết giới hạn và hiệu quả Pareto để phân tích.
Cũng như “bàn tay vô hình”, sự điều tiết của “bàn tay hữu hình” cũng có những
khuyết tật. Có những vấn đề chính phủ lựa chọn không đúng, gây ra tính không hiệu quả
của sự can thiệp của chính phủ. Do vậy cần phải kết hợp giữa cơ chế thị trường và vai trò
của chính phủ trong điều hành nền kinh tế. Cơ chế thị trường xác định giá cả và sản
lượng trong nhiều lĩnh vực. Trong khi đó, chính phủ điều tiết thị trường bằng các chương
trình thuế, chi tiêu và luật lệ. Cả thị trường và chính phủ đều thiết yếu.
8. Vai trò kinh tế của nhà nước trong kinh tế chính trị tiểu tư sản
Cách mạng công nghiệp cuối thế kỷ XVIII- đầu thế kỷ XX dẫn đế sự thay đổi đáng
kể về kinh tế- xã hội. Giai cấp tư sản và giai cấp vô sản trở thành các giai cấp cơ bản của
xã hội. Ở các nước có sự phát triển của CNTB yếu và bước vào cuộc cách mạng công
nghiệp với nền sản xuất nhỏ chiếm ưu nên những mâu thuẫn xã hội diễn ra ngày càng gay
gắt hơn. Từ đó xuất hiện phê phán CNTB theo quan điểm tiểu tư sản. Học thuyết kinh tế
tiểu tư sản xuất hiện, các đại biểu của trường phái này là Sismondi và Pier Joseph
Proudon.
Quá trình phát triển tư tưởng của ông chia thành 2 giai đoạn:
+ Trong giai đoạn đầu, ông ủng hộ quan điểm “tự do kinh tế” của A. Smith không
có sự can thiệp của nhà nước.
+ Trong giai đoạn sau ông phê phán quan điểm của phái cổ điển, theo ông “đối
tượng của kinh tế chính trị học là phúc lợi vật chất của con người do Nhà nước quyết
định”
Trước những hậu quả của cách mạng công nghiệp, các tệ nạn của chủ nghĩa tư bản

như: khủng hoảng, thất nghiệp, nạn đói…Sismondi yêu cầu Nhà nước phải can thiệp vào
kinh tế, nhằm bảo vệ trật tự xã hội, bảo vệ sản xuất nhỏ. Không cho phép tập trung sản
xuất, tập trung sự giàu có, duy trì các phân xưởng thủ công, chế độ tư hữu ruộng đất nhỏ.
Thực hiện chính sách thuế quan bảo hộ. Ông coi nhà nước tư sản biểu hiện lợi ích của tất

17


cả các giai cấp. Ông phủ nhận tính giai cấp của Nhà nước. Theo ông, Nhà nước tư sản đối
lập với sản xuất lớn. Nó có thể đạt lợi ích chung, sự hài hoà xã hội phúc lợi chung.

II. Lý thuyết của Keynes về vai trò kinh tế của Nhà nước và sự vận dụng ở Việt Nam.
1. Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu 2007-2008 với
các gói giải cứu và kích thích kinh tế theo Keynes
Cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ bắt đầu xảy ra từ tháng 8/2007 sau đó đã lan
khắp các thị trường tài chính lớn trên thế giới. Chỉ trong vòng 12 tháng của 2008 đã
làm bốc hơi trên 30 ngàn tỉ USD trong tổng số 62 ngàn tỉ USD vốn hóa toàn cầu. Sau
cuộc khủng hoảng tài chính, thế giới bước vào một cuộc suy thoái kinh tế được ví là
nghiêm trọng nhất trong vòng gần 100 năm qua. Chính phủ các nước không thể
khoanh tay đứng nhìn. Hàng loạt các gói giải cứu lên đến cả ngàn tỉ USD ở hầu khắp
các nước trên thế giới đổ ra khiến cho người ta nhớ đến một nhà kinh tế vĩ đại của
những năm 30 của thế kỷ trước: John Maynard Keynes.
Nhìn lại các gói kích cầu lên tới cả ngàn tỉ USD của Mỹ, gần 600 tỉ USD của
Trung Quốc, hàng trăm tỉ USD của Nhật Bản và Châu Âu, người ta thấy các biện pháp
để xử lý tình huống chặn đà suy giảm tăng trưởng của chính phủ các nước này, về cơ
bản, vẫn là chính sách tài khóa và chính sách tín dụng theo các nguyên tắc của Keynes.
Về chính sách tài khóa, các chính phủ chủ trương giảm thuế để hỗ trợ tái đầu tư
cho các nhà sản xuất, thực hành tăng đầu tư vào cơ sở hạ tầng, mở rộng các dịch vụ
công và trợ cấp cho các khu vực thu nhập thấp, dễ tổn thương nhằm tạo cầu nội địa,
đảm bảo an sinh xã hội và giảm thiểu các xung đột xã hội, thậm chí có thể chấp nhận

cả thâm hụt ngân sách để mở rộng thị trường nội địa – một sự bù đắp khoảng sụt giảm
đột ngột của thị trường xuất khẩu.
Do đó, sau các gói giải cứu mang tính chất tình thế, các chính phủ tiếp tục gia
tăng các gói kích cầu nhằm tạo đà cho tăng trưởng khi đã chạm tới điểm uốn tại đáy
của cuộc khủng hoảng. Cũng tương tự như vậy, chính sách tín dụng rẻ với mức lãi suất
thấp nhất so với nhiều chục năm trước đó, hiện đã trở thành đặc trưng phổ biến trong
chính sách tiền tệ của các quốc gia. Chính phủ các nước tạo mọi điều kiện để mọi chủ
thể tiếp cận dễ dàng các nguồn tín dụng, chủ trương hỗ trợ lãi suất theo hướng tăng
tổng dư nợ tín dụng nhằm khởi động lại cầu tiêu dùng và cầu đầu tư nội địa. Nói cách

18


khác, với việc tiền được bơm ra như cái phao cứu sinh cho các nền kinh tế, ngay cả
trong tình trạng không dễ kiểm soát, có vẻ người ta đã coi tiền tệ và tín dụng là công
cụ vạn năng điều tiết nền kinh tế giống như Keynes đã quan niệm.
Sự thực là các gói kích cầu đó mang lại hiệu quả rõ rệt cho các nền kinh tế. Các
nền kinh tế chủ chốt bước đầu ngăn chặn được đà suy giảm tăng trưởng. Đầu tư của
nhà nước và nhu cầu nội địa tăng đã giúp kinh tế Trung Quốc ra khỏi giai đoạn giảm
tăng trưởng kéo dài 8 quý liên tiếp từ nửa đầu năm 2007, bất chấp động lực xuất khẩu
bị thiệt hại nặng nề do sức cầu từ các thị trường bên ngoài sụt giảm mạnh. Trong khi
đó, các chỉ số kinh tế chính của các nền kinh tế Mỹ, EU và Nhật Bản đồng loạt chuyển
hướng đi lên từ tháng 3 – 4, báo hiệu chu kỳ suy giảm ở các nền kinh tế này có khả
năng sẽ kết thúc trong khoảng tháng 9 đến tháng 10/2009.
Những thành quả trên đây cho thấy, các nguyên lý của Keynes vẫn có vai trò tác
dụng chặn đà suy giảm kinh tế, nhất là trong các tình huống “sốc”, ngắn hạn. Hiện tại,
dấu hiệu phục hồi của nền kinh tế thế giới vẫn còn yếu ớt và chưa vững chắc. Điều này
còn bị quy định bởi tính chất của cuộc khủng hoảng này, đó là sự bùng nổ đồng thời
của khủng hoảng chu kỳ, khủng hoảng cơ cấu và khủng hoảng về thể chế kinh tế. Theo
đó, các giải pháp của Keynes sẽ là không đủ và nó sẽ không có tác động tích cực nếu

chính phủ các nước không nhân cơ hội này tái cấu trúc lại nền kinh tế của mình và nỗ
lực phối hợp toàn cầu để đưa nền kinh tế thế giới ra khỏi suy thoái. Đó là chưa kể sau
các giải pháp này, các nền kinh tế sẽ phải đối mặt với nguy cơ rơi vào “bẫy thanh
khoản” trì trệ kéo dài khi chính sách tiền tệ “hết dư địa” – lãi suất cơ bản đã ở sát mức
0%. Việc các chính phủ phụ thuộc quá mức vào công cụ tài khóa để duy trì tăng trưởng
sẽ khiến thâm hụt ngân sách tăng cao, có thể kéo theo những hệ lụy nghiêm trọng như
thuế tăng, lãi suất dài hạn lên cao, gia tăng lạm phát tiền tệ, làm đình trệ hoạt động
kinh doanh, thậm chí có thể gây vỡ nợ quốc gia. Nguy cơ đình trệ – lạm phát của kinh
tế thế giới do lượng tiền cung ra quá lớn trên toàn cầu hoàn toàn có thể xảy ra như đã
từng xảy ra trong thập kỷ 70 của thế kỷ trước. Cũng tương tự như vậy, khả năng giá
năng lượng và nguyên liệu tăng cao trở lại cũng là một nguy cơ cản trở quá trình phục
hồi kinh tế toàn cầu. Tại sao vậy? Chúng ta có thể giải thích các hệ lụy này trên một số
lý do sau đây:

19


Thứ nhất, như lịch sử đã chứng minh, việc vận dụng những nguyên tắc của
Keynes là nguyên nhân của tình trạng trì trệ và lạm phát diễn ra đồng thời suốt thập kỷ
70. Hay nói cách khác, tình trạng đình trệ – lạm phát tiến thoái lưỡng nan trong nền
kinh tế các nước công nghiệp giai đoạn 1974 – 1983 là do sự vận hành lâu dài và quá
mức theo các quan điểm điều chỉnh kinh tế của chủ nghĩa Keynes. Các nội dung trong
hệ thống điều tiết của Keynes như: cho vay tín dụng, cấp phát tài chính theo nguyên
tắc thiếu hụt của chính phủ và ngân hàng trung ương đã mở hết tốc độ, khiến cho cùng
lúc giá cả tăng vọt trong khi đó, sức lao động và năng lực sản xuất lại không được huy
động và vận hành một cách hiệu quả. Các biện pháp của chính phủ, về thực chất, chỉ
mới dừng lại ở các biện pháp đối phó tình hình. Cụ thể là để khắc phục suy thoái, các
biện pháp vẫn chỉ là tăng chi ngân sách, tín dụng rẻ, mở rộng thị trường công và để
khắc phục lạm phát như là điều đe dọa mới, các biện pháp lại là thắt chặt tín dụng,
giảm chi ngân sách và tăng thu nhà nước. Trong bối cảnh ấy, ngay cả khi đã có chú ý

đến việc kết hợp với các chính sách thu nhập, chính sách chống chu kỳ và chính sách
phát triển dài hạn, tình trạng đình – lạm của nền kinh tế thế giới vẫn tiếp tục kéo dài
hơn một thập kỷ. Như vậy, cũng có thể nói do lạm phát và suy thoái diễn ra đồng thời,
các biện pháp điều tiết theo Keynes đã biểu hiện ra như con lắc thường xuyên giao
động từ lạm phát sang giảm phát và ngược lại. Điều này chứng tỏ lý thuyết Keynes có
những hạn chế không thể vượt qua từ chính trong bản chất và đặc trưng của nó. Thực
tiễn này là một cảnh báo cho những ai ưa thích và đơn giản hóa khi vận dụng Keynes.
Thứ hai, những giải pháp của chủ nghĩa Keynes không phải đã phù hợp hoàn
toàn với việc ứng phó cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế toàn cầu 2008 bởi các lẽ:
+ Thiếu hụt cầu hiện nay không mang tính cục bộ, khu biệt trong các nền kinh tế
công nghiệp phát triển như cuộc khủng hoảng 1929 – 1933 mà là trên toàn bộ chỉnh
thể của nền kinh tế thế giới;
+ Tín dụng rẻ, dưới chuẩn và dễ tiếp cận trong gần một thập kỷ qua cũng như sự
ủng hộ tài chính vô hạn từ chính phủ đối với các tập đoàn tư nhân là nguyên nhân tích
tụ các khoản nợ xấu, gây mất khả năng thanh toán của các ngân hàng và các tập đoàn
đầu tư tài chính, trước hết là ở Mỹ và sau đó lây lan ra toàn thế giới và trong bối cảnh
ấy, mọi giải pháp chống suy thoái theo các chính sách tín dụng trước đây sẽ rất ít hiệu
quả, có thể làm trầm trọng và rối loạn thêm thị trường tài chính – tiền tệ;

20


+ Các giải pháp kích cầu bằng chính sách tài khóa sẽ có tác động, nhất là chính
sách giảm thuế, mở rộng cầu tiêu dùng và đầu tư, chú trọng duy trì sản xuất, việc làm
đầy đủ nhưng trong điều kiện đẩy mạnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, sự
phụ thuộc lẫn nhau sâu sắc giữa các nền kinh tế sẽ đưa đến 2 tình huống: a) gói kích
cầu sẽ không tác dụng nếu không đạt tới sự đồng bộ quốc tế và khu vực, rất có thể sự
hỗ trợ này sẽ mang lại hiệu quả tích cực cho các nước bên ngoài; và b) gói kích cầu có
khuynh hướng kích cầu nội địa và để đưa nền kinh tế của mình ra khỏi suy thoái, các
nước sẽ bất chấp tiến trình tự do hóa, bất chấp các cam kết với WTO, sẽ chủ trương

bảo hộ mạnh mẽ thị trường trong nước. Rốt cuộc, các giải pháp tình thế, ngắn hạn đã
vô hình chung trở thành vật cản ngáng trở tiến trình tự do hóa và toàn cầu hóa với tính
cách là xu thế phổ biến của sự phát triển toàn cầu hiện nay. Do đó, có thể nói các giải
pháp theo Keynes có thể tạo nguy cơ đi ngược tiến trình tự do hóa.
Thứ ba, như trên đã chỉ ra, về mặt ngắn hạn, để chặn đà suy giảm, người ta không
còn cách nào khác là phải mở rộng cầu hiệu quả (cả cầu đầu tư và cầu tiêu dùng) cho
nền kinh tế nhưng là cầu hiệu quả trên quy mô toàn cầu và vấn đề đặt ra chính là gia
tăng trách nhiệm và chia sẻ trách nhiệm toàn cầu của các nền kinh tế lớn và chủ yếu
(cơ chế G-2: Mỹ và Trung Quốc; nhóm G-7 và G-20) và sự nỗ lực của mọi quốc gia,
thúc đẩy sự phối hợp và hợp tác toàn cầu để chống lại sự co rút quá mạnh của các
động lực tăng trưởng. Về mặt dài hạn, xét theo thực chất của cuộc khủng hoảng, đây
không thuần túy là khủng hoảng chu kỳ mà còn là cuộc khủng hoảng về mặt cơ cấu
(một bộ phận của nền kinh tế toàn cầu bùng nổ quá mức các ngành dịch vụ dựa trên sự
phát triển rất mạnh của công nghệ mới và tri thức trong khi đại bộ phận khác vẫn phát
triển các ngành công nghiệp tiêu dùng nhiều vốn, lao động và tài nguyên và chính vì
sự bất đối xứng về cầu trên quy mô toàn thế giới đã đưa các quốc gia trở lại tự tạo cầu
cho một năng lực sản xuất dư thừa nhưng lại thiếu đầu ra do chính sự lựa chọn cách
thức phát triển của mình cung ứng). Các nền kinh tế hướng về xuất khẩu, nếu không
cơ cấu lại theo hướng giảm sự lệ thuộc từ bên ngoài, phát huy lợi thế so sánh để có giá
trị gia tăng cao, rất có thể bị suy sụp trước các rủi ro khó lường của nền kinh tế thế
giới. Đồng thời, đây còn là cuộc khủng hoảng về thể chế khi sự buông lỏng vai trò
định hướng, sự xem nhẹ chức năng giám sát của nhà nước đã và đang khiến cho thị
trường và hệ thống tài chính của các nước chao đảo. Chưa bao giờ trong khoảng 40
năm nay người ta lại bàn nhiều đến vấn đề định vị lại mối quan hệ giữa vai trò nhà

21


nước và nền kinh tế thị trường trong bối cảnh mới. Sự thật là chưa biết điều gì sẽ xảy
ra nếu không có sự cứu trợ của các nhà nước đối với cuộc khủng hoảng tài chính kinh

tế hiện nay. Nhưng sẽ là rất nguy hiểm nếu sau sự kiện này, sự can dự của nhà nước sẽ
được tăng cường mạnh và khuynh hướng bảo hộ của các quốc gia sẽ trở thành chủ đạo
và theo đó, kinh tế thị trường theo hướng tự do hóa sẽ bị cản trở. Nói cách khác, chủ
nghĩa bảo hộ mậu dịch sẽ lại hiện hữu – một lực cản to lớn nhất đối với logic phát triển
của nền kinh tế thế giới hiện đại. Cũng bởi vậy, vấn đề tái cấu trúc nền kinh tế cũng
như thể chế kinh tế toàn cầu rất cần một lý thuyết mới và khác với lý thuyết Keynes,
cho dù Keynes ngày nay đã mang hình hài của một Keynes mới – “Keynes toàn cầu”.
2. Ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới tới Việt Nam và các chính
sách kinh tế của nhà nước theo lý thuyết của Keynes.
2.1. Ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới tới Việt Nam
Với tình hình khủng hoảng kinh tế trên toàn thế giới như vậy, là một bộ phận cấu
thành của nền kinh tế thế giới, vả lại ngày nay kinh tế nước ta đã hội nhập khá sâu với
nền kinh tế thế giới, chúng ta không thể không tính đến những tác động sâu xa, mạnh
mẽ của cuộc khủng hoảng toàn cầu đối với Việt Nam, không thể không nghĩ tới một số
vấn đề nảy sinh đối với nước ta.
Thị trường chứng khoán, nguồn vốn đầu tư hơn 90% vào nền kinh tế VN đã sụp
đổ hoàn toàn từ hôm 25.03.2008 với thời cơ mai hồi phục không còn, chỉ số VN-Index
từ 1.200 điểm rơi thẳng đứng liên tục trong nhiều phiên giao dịch của nhiều ngày
xuống chỉ còn dưới ngưỡng chết 500 điểm, trong khi các nhà đầu tư sự thật không còn
lòng tin vào thị trường và nền kinh tế do một chính thể cộng sản điều hành. Thị trường
chứng khoán Việt Nam đã đổ vỡ.
Sản xuất của tất cả các ngành kinh tế đều bị tê liệt do không còn vốn và nhiều tác
động khác của kinh tế, xã hội và nhất là chính trị tác động. Thâm thủng mậu dịch tăng
cao. Lạm phát tăng cao và đang diễn ra từng ngày ở Việt Nam…
Giá lương thực thực phẩm tăng theo từng giờ, với mức tăng cao và nhanh, uy
hiếp đời sống của tuyệt đại đa số người dân, chỉ trừ quan tham cộng sản đã no túi.
Lòng tin của các nhà đầu tư và mọi người dân Việt Nam kể cả công nhân viên
chức bộ máy quản lý nhà nước, các ngành kinh tế, và đặc biệt là đông đảo công chức

22



ngành giáo dục và y tế vốn ăn lương và chịu thiệt nhiều nhất do giá cả tăng nhanh đã
không còn tin tưởng vào chính thể cộng sản đang hoành hành đất nước, với quốc nạn
tham nhũng mà hậu quả “nhãn tiền” đang đến.
Không thoát khỏi qui luật, nền kinh tế của Việt Nam với những biến động nhanh
chóng và dồn dập, chỉ trong vòng 1 tháng, nhất là sau tết Mậu Tý. Từ việc giá cả tăng
cao đột biến, với mức giá tiêu dùng sinh hoạt của chợ búa, thịt cá rau cải …tăng trung
bình là 50%; giá bất động sản nhà đất tăng gấp 3 lần (có nơi lên đến 7.000 USD/m2
sàn sử dụng), giá vàng lên cao trên 18 triệu 200 ngàn/lượng. Lãi suất cho vay trên thị
trường liên ngân hàng lên đến mức chóng mặt từ hơn 10% năm đã lên đến trên 40%
năm.
Không có đủ tiền mặt để lưu thông và thanh khoản tại tất cả ngân hàng trong
nước. Ngân hàng nhà nước đã bơm ra thị trường qua hệ thống ngân hàng và thanh toán
trên 60.000 tỷ VNĐ tiền mặt nhưng cũng không cứu vãn được tình hình ngày một bi
đát hơn…và sẽ “ hết thuốc chữa “
Tất cả đó là dấu hiệu cho thấy một sự thật, sự suy thoái và khủng hoảng kinh tế
nghiêm trọng diễn ra hàng ngày và nhanh chóng tại VN. Điều này hoàn toàn theo đúng
qui luật kinh tế và thực tế khách quan diễn ra tại VN trong suốt quá trình phát triển vừa
qua, đặc biệt trong thời gian gần đây.
Nguyên nhân của tình trạng hiện nay có rất nhiều mặt, bắt nguồn từ nhận thức
đối với các vấn đề kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và từ thực tiễn
giữa lý luận, chính sách và cuộc sống chưa gắn chặt với nhau. Về mặt luật pháp, vấn
đề sở hữu cũng chưa phải đã rành rọt, luật pháp chưa quan tâm đầy đủ đến tất cả các
thành phần kinh tế nên ảnh hưởng đến quan hệ sản xuất và sức sản xuất. Kinh tế Nhà
nước chưa thể hiện được vai trò chủ đạo. Hệ thống các thị trường tài chính, vốn, lao
động, khoa học cũng còn có nhiều chỗ lúng túng, bất cập. Tất cả những hạn chế đó đã
làm giảm sức bật đối với khả năng phản ứng lại với tiêu cực do khủng hoảng toàn cầu
gây ra.
2.2. Các chính sách và công cụ kinh tế điều tiết của nhà nước.

2.2.1 Sử dụng chính sách tài chính, tín dụng, tiền tệ và thuế khóa.

23


Trường phái Keynes quan trọng vai trò của chính phủ và chính sách tài khóa, đề cao
sự can thiệp của chính phủ đối với nền kinh tế. Chính phủ sẽ phải thực hiện chính sách tài
khóa thâm hụt trong giai đoạn trì trệ vì đầu tư từ khu vực tư nhân là không đủ để thúc đẩy
sản xuất và giúp nền kinh tế vượt qua giai đoạn khó khăn.
Ở Việt Nam, chính phủ đã áp dụng các công cụ tài chính tiền tệ, tín dụng và thuế
khóa thông qua 2 chính sách cơ bản là Chính sách tài khóa (CSTK) và chính sách tiền tệ
(CSTT). Sau những năm 1930, để khôi phục nền kinh tế bị tàn phá bởi cuộc đại suy thoái,
trên cơ sở học thuyết kinh tế của Keynes, các nước đã áp dụng chính sách điều tiết kinh tế
vĩ mô với chính sách tài khóa là chủ đạo. Đến những năm 1960 và 1970, vai trò của chính
sách tiền tệ và chính sách tài khoá được thể hiện như nhau trong điều tiết kinh tế vĩ mô ở
các nước. Từ những năm 1980 đến nay, chính sách tài khóa chỉ giữ vai trò thứ hai.
Thời kỳ này, Việt Nam vẫn ưu tiên sử dụng chính sách tiền tệ nhưng trong các giai
đoạn khủng hoảng kinh tế như gần đây nhất là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm
2008, nhà nước ta đã ưu tiên lựa chọn chính sách tài khóa, dựa 1 phần vào cơ sở học
thuyết của Keynes nhưng có một số thay đổi cho phù hợp với tình hình kinh tế. Chính
sách can thiệp của chính phủ Việt Nam thời gian đó dưới hình thức hỗ trợ lãi suất có thể
coi là một biện pháp kích cầu đặc biệt, về bản chất cũng là mở rộng tài khóa nhưng lại
mượn công cụ tiền tệ, thay vì hạ lãi suất cơ bản thì lại giữ lãi suất ở mức cao và trợ cấp lãi
suất cho vay. Qua đây, ta thấy sự hoán chuyển kết hợp giữa chính sách tài khóa thâm hụt
và chính sách tiền tệ nới lỏng, hay hoán chuyển giữa kích cầu và giải cứu đã cứu nhiều
ngân hàng vượt qua cơn khốn khó.
Áp dụng chính sách tiền tệ nới lỏng, từ quí IV năm 2008 và cả năm 2009, Nhà nước
đã thực hiện hỗ trợ lãi suất, giảm lãi suất như hạ lãi suất cơ bản xuống 8,5% sau đó xuống
còn 7%, lãi suất chiết khấu xuống 7,5% và lãi suất tái cấp vốn xuống 9,5%, giảm tỷ lệ dự
trữ bắt buộc đối với VND xuống 5%

Năm 2014, chính sách thu tiếp tục được điều chỉnh theo hướng tăng cường tiềm lực
tài chính cho doanh nghiệp thông qua việc giảm bớt nghĩa vụ thuế cho doanh nghiệp và
người dân, tạo thêm nguồn lực cho doanh nghiệp tái đầu tư mở rộng sản xuất - kinh
doanh. Cụ thể: (i) Thuế Thu nhập doanh nghiệp (TNDN) đã giảm mức thuế suất phổ
thông từ mức 25% xuống 22% từ ngày 01/01/2014 và theo mức 20% từ ngày 01/01/2016,

24


áp dụng mức thuế suất 20% từ ngày 01/7/2013 đối với doanh nghiệp có quy mô vừa và
nhỏ; (ii) Thuế Thu nhập cá nhân (TNCN) đã nâng mức khởi điểm chịu thuế cho bản thân
từ 4 triệu đồng/tháng lên 9 triệu đồng/tháng, nâng mức triết trừ gia cảnh cho người phụ
thuộc từ mức 1,6 triệu đồng/tháng lên 3,6 triệu đồng/tháng; (iii) Thực hiện miễn giảm
thuế sử dụng đất nông nghiệp, miễn thu thuỷ lợi phí,…
Kết quả của việc phối hợp CSTK - CSTT giai đoạn 2011-2015 đã đem lại môi
trường kinh tế vĩ mô ổn định hơn, hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp , nền kinh tế
bắt đầu có những dấu hiệu phục hồi khả quan hơn. Phân tích GDP cho thấy xu hướng hồi
phục tăng trưởng đã rõ nét hơn trong năm 2014-2015.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 6,68% trong năm 2015, cao nhất trong 5
năm trở lại đây. Các cân đối vĩ mô cũng khả quan hơn với lạm phát duy trì ở mức thấp
nhất trong 14 năm (tăng 0,58% trong 11 tháng năm 2015), dự trữ ngoại hối tăng, lãi suất
giảm.
2.2.2 Những hạn chế của các chính sách - công cụ kinh tế của nhà nước.
Vận dụng lý thuyết của Keynes mặc dù có mang lại nhiều hiệu quả, song chỉ mang
tính nhất thời. Thực tế chứng minh rằng, đó không phải là liều thuốc cho nền kinh tế nước
ta thoát khỏi khủng hoảng và thất nghiệp mà trái lại gây ra nhiều mặt phản tác dụng.
Chính sách của Keynes chỉ phù hợp trong điều kiện suy thoái và có tác dụng ngắn
hạn để giúp nền kinh tế vượt qua giai đoạn khó khăn của một chu kỳ kinh tế. Khi nền
kinh tế có dấu hiệu phục hồi thì những chính sách này không nên tiếp tục được duy trì.
Những chính sách này không nên được dùng trong dài hạn.

Cho dù đã áp dụng nhiều biện pháp kết hợp CSTK và CSTT, song Nhà nước ta vẫn
có những hạn chế trong chính sách:
Giai đoạn 2010 - 2011 (mục tiêu kiềm chế lạm phát)
Nhà nước chủ trương tăng lãi suất cơ bản, quy định trần lãi suất huy động, tăng dự
trữ bắt buộc, tăng lãi suất chiết khấu, tái cấp vốn; tăng tỷ giá; hạn chế tăng trưởng tín
dụng và cung tiền; cắt giảm đầu tư, tiết kiệm 10% chi tiêu. Tuy nhiên, trong giai đoạn này,
tốc độ lạm phát vẫn ở mức khá cao, đồng thời tác động của chính sách tài khóa – tiền tệ
nới lỏng đã làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế.

25


×