Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Thảo luận về hàng hóa sức lao động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.46 KB, 16 trang )

Học phần: Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin
Trường: ĐH Thương mại

Thảo luận về
hàng hóa sức lao động

Hanoi-2015


Mục lục
A-Lí luận về hàng hóa sức lao động của C.Mác
1.Sự chuyển hàng hóa sức lao động thành hàng hóa
a.Khái niệm sức lao động
b.Điều kiện biến sức lao động thành hàng hóa
2.Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động

B-Vận dụng lí luận hàng hóa vào phát triển thị trường
sức lao động hàng hóa ở Việt Nam
1.Hiện trạng thị trường sức lao động ở Việt Nam hiện nay
2.Nguyên nhân của hiện trạng thị trường sức lao động và
những hạn chế ,bất cập
3.Một số giải pháp nhằm bình ổn thị trường sức lao động;
phát triển nguồn lao động và hoàn thiện chính sách tiền
công, tiền lương ở Việt Nam


Mở đầu
Nguồn lao động là tài sản quý giá và to lớn của quốc gia; vừa là mục tiêu,
tiền đề, vừa là động lực để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất
nước. Quan tâm đến con người, đặc biệt là giải quyết việc làm, ổn định và nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần của người lao động còn thể hiện bản chất, tính


ưu việt của chế độ, đồng thời cũng là một trong những vấn đề xã hội nóng bỏng
hiện nay.
Sự thịnh vượng của các quốc gia ngày nay không còn chỉ dựa vào sự giàu
có của nguồn tài nguyên thiên nhiên mà được xây dựng chủ yếu trên nền tảng
văn minh trí tuệ của con người. Tuy nhiên, việc đào tạo, phát triển và những
chính sách đãi ngộ người lao động không phải của nước nào cũng là tiến bộ và
hoàn thiện. Thị trường sức lao động của mỗi nước cũng vì thế mà hiện hình và
biến động đầy phức tạp. Do đó, việc đề ra những chính sách và giải pháp nhằm
bình ổn thị trường đặc biệt này luôn luôn có ý nghĩa thời sự cả về lý thuyết lẫn
thực tiễn.
Lý luận về loại hàng hoá đặc biệt - sức lao động, Chủ nghĩa Mac -Lenin
đã có những luận điểm khoa học, toàn diện và biện chứng. Trên cơ sở đó, tạo
tiền đề vững chắc cho việc lý giải và áp dụng vào thực tiễn xã hội những giải
pháp nhằm ổn định và phát triển thị trường của loại hàng hoá đặc biệt này cùng
những vấn đề liên quan đến nó.
Việt Nam trong bối cảnh đổi mới kinh tế dưới sự lãnh đạo của Đảng, vấn


đề thị trường hàng hoá sức lao động không chỉ còn là một tiêu thức kinh tế mà
còn kiến mang ý nghĩa chính trị. Đặc biệt, đối với một đất nước đang trong thời
kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và tiến tới hội nhập kinh tế quốc tế thì vấn đề
này lại càng trở nên bức thiết hơn bao giờ hết.
Do vậy, bài luận ngoài việc đề cập đến lý luận về hàng hoá sức lao động
của Mac còn đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao và hoàn thiện thị
trườngsức lao độngở Việt Nam hiện nay.
Trong những năm gần đây ,Việt Nam hội nhập với niền kinh tế thế giới,kinh tế
tri thức trở thành xu hướng phát triển chung của thế giới và Việt Nam cũng không
nằm ngoài xu hướng đó .Yếu tố con người được đặt ở vị trí trung tâm nên vì vậy
việc phát triển thị trường sức lao động sao cho hợp lý là một vấn đề hết sức cần
thiết đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay.

Sức lao động được coi là một hàng hóa đặc biệt,tiền lương được coi là mức
giá của sức lao động và được quyết định bởi sự thỏa thuận giữ hai bên.Cả người
lao động và người sử dụng lao động đều có những quyền cơ bản đảm bảo cho
việc tham gia thị trường lao động .Trước đổi mới chúng ta hầu như không thừa
nhận thị trường sức lao động .Trong điều kiện hiện nay việc thừa nhận nó là tất
yếu .

A-Lí luận về hàng hóa sức lao động của C.Mác
1.Sự chuyển hàng hóa sức lao động thành hàng hóa
a.Khái niệm sức lao động
Theo C.Mac “Sức lao động ,đó là toàn bộ các thể lực và chí lực trong thân thể
một con người ,trong nhân cách sinh động của một con người ,thể lực và chí lực
mà con người phải làm cho hoạt động để sản xuất ra những vật có ích”.
Tóm lại sức lao động là tổng hợp sức thân thể và sức tinh thần tiềm tàng trong
một con người mà được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất=>Vì vậy trong
mọi thời đại kinh tế thì sức lao động luôn là một trong 3 yếu tố cần thiết cho quá
trình lao động sản xuất ra của cải vật chất.


b.Điều kiện biến sức lao động thành hàng hóa lao đông
Trong bất cứ xã hội nào,sức lao động cũng đều là điều kiện cơ bản của sản xuất.
Nhưng không phải trong bất kì điều kiện nào, sức lao động cũng là hàng hóa. Sức
lao động chỉ có thể trở thành hàng hóa trong những điều kiệ lịch sử nhất định sau
đây :
+Thứ nhất, người có sức lao động phải được tự do về thân thể , làm chủ sức lao
động của mình và có quyền bán sức lao động của mình như một hàng hóa .Ví
dụ:một người được tự do về thân thể :tự chủ về hành động ,suy nghĩ của mình là
làm chủ sức lao động của chính mình->Anh ta có thể bán sức lao động của mình
cho bất kì một công ty nào mà anh ta muốn.
+Thứ hai, người có sức lao động không có tư liệu sản xuất cần thiết để tự mình

thực hiện lao động và cũng không có của cải gì khác buộc phải bán sức lao động
cho người khác sử dụng .Thật vậy ,thực tế đã chứng minh :con người ai cũng có
nhưng nhu cầu nhất thiết để tồn tại như cần thức ăn , nước uống ,vật dụng cho
nhu cầu sinh hoạt …cho chính bản thân mình.Và cũng vì vậy khi một người thiếu
những nhu cầu ấy ,họ buộc phải bán sức lao động để có tiền trang trải cho cuộc
sống.
->Như vậy, khi sức lao động trở thành hàng hoá thì tiền tệ mang hình thái là tư
bản.
Việc sức lao động trở thành hàng hóa đánh dấu bước ngoặt cách mạng trong
phương thức kết hợp người lao động với tư liệu sản xuất ,là một bước tiến lịch sử
so với chế độ nô lệ và phong kiến. Chính sự xuất hiện của hàng hóa sức lao động
đãlàm cho sản xuất hàng hóa trở nên có tính chất phổ biến và đã báo hiệu sự ra
đời của một thời đại mới trong lịch sử xã hội –thời đại của chủ nghĩa tư bản.
=>Hàng hóa sức lao động là một hàng hóa đặc biệt và là một phạm trù lịch sử.

2.Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động
Giống như mọi hàng hóa khác, hàng hoa sức lao động cũng có 2 thuộc tính : giá trị
và giá trị sử dụng .
*Gía trị của hàng hóa sức lao động :cũng do thời gian lao động xã hội cần thiết xã
hội để sản xuất và tái sản xuất sức lao động quyết định.Bao gồm:


+Gía trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần để tái sản xuất sức lao
động của bản thân người công nhân
+Phí tổn đào tạo người công nhân
+Giá trị những tư liệu sinh hoạt (về cả vật chất lẫn tinh thần ) cần thiết cho gia
đình người công
nhân => để tái sản xuất sức lao động dự trữ (con cái người công nhân) …Ví dụ
:Một người công nhân bán sức lao động của mình cho một công ty nhưng sức lao
động ấy cũng chỉ tồn tại là có giới hạn vì năng lượng sống cuả con người không

phải vô hạn nên họ không thể làm việc như một cỗ máy .Vì vậy ,họ cần được nghỉ
ngơi và cần có thời gian để có thể tái tạo lại sức lao động. Để làm được điều ấy
người công nhân cần tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt cho việc nghỉ ngơi ,ăn
ở …để đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của họ .
-Mặt khác, hàng hóa sức lao động là hàng hóa đặc biệt nên giá trị hàng hóa sức
lao động khác với hàng hóa thông thường ở chỗ:
+Giá trị hàng hóa sức lao động được đo gián tiếp bằng giá trị của những tư liệu
sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động.
+Giá trị hàng hóa sức lao động ngoài yếu tố vật chất còn bao hàm cả yếu tố tinh
thần và lịch sử, do đó nó không chỉ phụ thuộc vào các điều kiện tự nhiên mà còn
phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử từng nước, từng thời kì, phụ thuộc vào trình độ
văn minh đã đạt được , vào điều kiện lịch sử hình thành giai cấp công nhân.=>Vì
vậy, giá trị hàng hóa sức lao động của các nước khác nhau sẽ khác nhau.

B. Vận dụng lí luận hàng hóa vào phát triển thị trường sức
lao động hàng hóa ở Việt Nam hiện nay:
1.Hiện trạng thị trường sức lao động ở Việt Nam hiện nay:
a. Thị trường sức lao động trong nước:
Năm 1861, để phát triển công nghiệp, nước Mỹ đã chủ trương xóa bỏ chế độ nô
lệ, giải phóng sức lao động của con người bằng sự kiện cuộc nội chiến Nam – Bắc.
Cuộc chiến kết thúc vào năm 1865, kể từ đó, người lao động được bán sức lao
động cho những ai trả giá cao, lương cao. Hàng hóa sức lao động được coi là một
bước tiến của nền kinh tế Việt Nam, chỉ mới được chính thức công nhận từ năm


1986. Hàng hóa sức lao động là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế công
nghiệp, kinh tế thị trường.
a.1, Số lượng lao động:
Theo số liệu thống kê năm 2007, cả nước hiện đang có khoảng 44,2 triệu lao động
đang làm việc trong các ngành kinh tế, văn hóa, xã hội (chiếm 51,76% dân số cả

nước). Trong đó, các ngành kinh tế ngoài Nhà nước chiếm 89,1%, kinh tế Nhà
nước chiếm 9,3% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 1,6%. Mỗi năm, cả
nước có thêm khoảng 2 triệu người tham gia vào thị trường lao động. Lực lượng
lao động nước ta khá đông đảo nhưng có sự phân bố rất không đồng đều giữa
thành thị và nông thôn; giữa đồng bằng, ven biển và miền núi, Tây Nguyên; không
đồng đều giữa cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế.
a.2. Trình độ và phẩm chất người lao động (Chất lượng của hàng hóa sức lao
động):
Nền kinh tế nước ta bước vào thời kỳ mới: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; cuộc cạnh tranh nhằm duy trì và phát triển đang
ngày càng gay gắt. Điều đáng quan tâm là thời kỳ cạnh tranh bằng lao động giá rẻ
đã qua, ngày nay, phải cạnh tranh bằng chất lượng lao động. Thế nhưng, theo
công bố của Tổng cục Thống kê, năng suất lao động của nước ta (tính bằng USD
theo tỷ giá hối đoái năm 2006) chỉ đạt 1.407USD/người, thấp hơn rất nhiều so với
mức năng suất lao động năm 2005 của nhiều nước trong khu vực: Indonesia 2,650 USD; Thái Lan - 2,721 USD;... Năng suất lao động nước ta còn quá thấp là do
nhiều nguyên nhân về cơ cấu kinh tế, về tổ chức và quản lý lao động, nhưng nhìn
chung, nguyên nhân chủ yếu là chất lượng của đội ngũ lao động nước ta còn quá
kém.
Kết quả điều tra lao động - việc làm của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
cuối năm 2005 cho thấy, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo ở nước ta chưa chiếm đến
30%. Trong đó, tỷ lệ người thực sự có tay nghề (lao động kỹ thuật) mới đạt khoảng
15% . Đang có sự mất cân đối lớn giữa tỷ lệ lao động đã được đào tạo Đại học,
Trung học và Công nhân kỹ thuật. Nếu như ở trên thế giới, tỷ lệ này trung bình là
1: 1, 3: 5; thì ở Việt Nam là 1 : 1,13 : 0,92. Điều đó cũng có nghĩa là người lao động
có kỹ thuật còn quá ít cả về số lượng lẫn chất lượng. Về phẩm chất người lao
động, nhiều nhà quản lý nước ngoài nhận xét, lao động Việt Nam cần cù, khéo léo,
thông minh, sáng tạo, tiếp thu nhanh kỹ thuật và công nghệ hiện đại nhưng thiếu


tính chuyên nghiệp, kỹ năng lao động còn quá thấp, còn duy trì tác phong nông

nghiệp trong công việc, thiếu tính đoàn kết, tự mình giải quyết công việc rất tốt
nhưng nếu đặt trong một nhóm thì hiệu quả kém đi nhiều… Về đời sống vật chất
của người lao động, tại doanh nghiệp, đang còn tồn tại những vấn đề về tiền
lương và thu nhập, điều kiện sống của người lao động cần được giải quyết, nhiều
hạn chế về an toàn lao động, vệ sinh thực phẩm .... Mấy năm gần đây, giá cả nhiều
mặt hàng thiết yếu tăng liên tục (năm 2006 tăng 6,6%; năm 2007 tăng trên 8%),
tiền lương thực tế giảm sút, tiền lương danh nghĩa được điều chỉnh quá chậm.
Mỗi lần tăng lương chẳng đáng là bao vì chênh lệch giữa các bậc lương chỉ có
5.000 đến 10.000 đồng. Có những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã đặt
ra định mức lao động quá cao, đơn giá sản phẩm thấp, khiến cho thu nhập của
người lao động vẫn quá thấp, không đủ trang trải cuộc sống. Quá trình công
nghiệp hóa diễn ra mạnh mẽ, nhiều doanh nghiệp mới được thành lập, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng, điều này tạo điều kiện tăng nhanh đội ngũ
người lao động kỹ thuật đồng thời đòi hỏi không ngừng nâng cao trình độ của
người lao động. Đòi hỏi này lại càng trở nên cấp bách khi Việt Nam đã gia nhập tổ
chức Thương mại thế giới (WTO)
a.3. Thị trường sức lao động và nạn thất nghiệp:
Theo bản báo cáo về thông số nhân lực trực tuyến Việt Nam của
Vietnamworks.com, thị trường lao động Việt Nam trong những năm gần đây đã
xuất hiện những tín hiệu lạc quan. Chỉ số cầu trên thị trường lao động ở quý
II/2007 đã đạt 15.025 điểm, tăng 4.475 điểm (142%) so với quý I/2007. Chỉ số
cung cũng lên 11.580 điểm, tăng thêm 2.716 điểm (30%) so với quý I/2007. Trong
quý II/2007, chỉ số cầu nhân lực của 46 (trong tổng số 56 ngành, nghề) đều tăng.
Lĩnh vực sales (bán hàng) dẫn đầu về tốc độ gia tăng chỉ số cầu nhân lực trong các
nhóm ngành nghề với 447 điểm; lĩnh vực bán lẻ dẫn đầu danh sách chỉ số cầu
theo tỉ lệ với mức tăng 232%. Tiếp theo đó là các lĩnh vực kế toán/ tài chính và
công nghệ thông tin/ phần mềm. Các lĩnh vực lao động thời vụ/ lao động hợp
đồng giảm 25%, đứng đầu trong danh sách sụt giảm cầu nhân lực theo tỉ lệ.
Nguồn lao động trong lĩnh vực da giày giảm 19%. Các lĩnh vực nhà hàng/ dịch vụ
ăn uống, nông nghiệp/ lâm nghiệp cũng giảm từ 15-18%. Trong khi đó, với sự

bùng nổ nhanh chóng của ngành Ngân hàng cùng với sự ra đời của các ngân hàng
mới, lĩnh vực ngân hàng, đầu tư đã vươn lên dẫn đầu tốc độ tăng trưởng trong
danh sách cung nhân lực, tăng 245 điểm so với quý I/2007. Tuy cả chỉ số cung và


cầu trên thị trường lao động trong những năm gần đây đều tăng nhưng tình trạng
thiếu nhân lực có tay nghề vẫn đang tiếp diễn. Theo một số chuyên gia về nhân
lực, nguồn nhân lực ở Việt Nam rất nhiều nhưng lại hạn chế rất lớn về chất lượng.
Trên thị trường lao động hiện tại, luôn xảy ra tình trạng khan hiếm nguồn nhân lực
cao cấp và công nhân tay nghề cao, đặc biệt là tại các khu chế xuất, khu công
nghiệp, các cơ sở sản xuất công nghiệp nằm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh,
Hà Nội và một số tỉnh, thành lớn. Tỷ lệ lao động thất nghiệp cũng theo đó mà tăng
lên do nguồn cung tăng chậm, không đủ đáp ứng cầu và do nhiều nhà quản lý từ
chối tuyển dụng người lao động không có tay nghề hoặc tay nghề kém. Năm 2007,
tỷ lệ lao động thất nghiệp ở nước ta là 4,64%. Theo dự báo của bộ Lao Động, do
khủng hoảng kinh tế, trong năm 2009, sẽ có từ 300 đến 400 ngàn người mất việc
làm.

b. Chính sách tiền công, tiền lương tối thiểu đối với người lao động ở
Việt Nam hiện nay:
- Tiền công: Là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, hay giá cả
của hàng hoá sức lao động, nhưng lại biểu hiện ra bên ngoài thành giá cả của lao
động. Tiền công được hình thành theo quy luật thị trường với sức lao động được
coi như một hàng hóa được phép tự do mua bán, trao đổi. Lý luận về hàng hoá
sức lao động của Mac chính là cơ sở để xây dựng chính sách tiền lương ở Việt
Nam hiện nay. Theo nguyên tắc của C.Mác, tiền lương tối thiểu phải đảm bảo tái
sản xuất sức lao động, đảm bảo duy trì và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của người lao động cùng gia đình họ. Tiền lương cũng được quyết định bởi những
quy luật giá cả của tất cả các hàng hoá khác; bởi quan hệ cung – cầu… Sự phân
phối tiền lương công bằng, hợp lý hay không sẽ quyết định đến sự tận tâm, tận

lực của người lao động đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, tiền lương và
thu nhập phải thể hiện được sự công bằng trong phân phối theo kết quả lao động
và hiệu suất công tác của mỗi người.
b.1. Về chính sách tiền lương tối thiểu:
Ở nước ta, tiền lương tối thiểu được xác định theo nhu cầu tối thiểu, khả năng
của nền kinh tế, tiền công trên thị trường sức lao động, chỉ số giá sinh hoạt. Nó là
căn cứ để tính các mức lương trong hệ thống thang lương, bảng lương, phụ cấp
lương trong khu vực Nhà nước, tính mức lương ghi trong hợp đồng lao động và
thực hiện các chế độ khác cho người lao động theo quy định của pháp luật. Đảng


và Nhà nước luôn quan tâm, cải cách và đổi mới chính sách tiền lương cho phù
hợp sự phát triển của nền kinh tế. Từ khi ban hành Nghị định 235/HĐBT tháng
9/1985 về cải cách tiền lương trong cán bộ công chức, đến đầu năm 1993, Chính
phủ đã có 21 lần điều chỉnh tiền lương nhằm tạo sự hài hòa hơn về lợi ích giữa
người lao động với người sử dụng lao động là Nhà nước. Trong đó, xác định mức
tiền công, tiền lương tối thiểu là căn cứ nền tảng để xác định giá cả sức lao động.
Mức lương tối thiểu luôn được điều chỉnh theo sự biến động của giá cả trên thị
trường. Trong những năm gần đây, chính sách tiền lương được điều chỉnh khá linh
hoạt: Mức tiền lương tối thiểu áp dụng chung từ ngày 1/10/2005 là 350.000
đồng/tháng, từ 01/10/2006 theo Nghị định 94/2006/NĐ-CP là 450.000
đồng/tháng. Dự kiến giai đoạn 2008 – 2012 điều chỉnh từ 450.000 đồng lên
990.000 đồng/tháng (từ ngày 01/01/2008 đã điều chỉnh từ 450.000đồng lên
540.000 đồng/tháng theo Nghị định 166/2007/NĐ-CP ngày 16/11/2007 quy định
mức lương tối thiểu chung).
b.2. Về tiền lương tối thiểu trong doanh nghiệp:
- Đối với các loại hình doanh nghiệp, mức lương tối thiểu là để trả công cho người
lao động làm công việc đơn giản nhất trong điều kiện lao động bình thường.
- Đối với doanh nghiệp Nhà nước, áp dụng mức thấp nhất bằng tiền lương tối
thiểu chung và cao nhất bằng 3 lần mức lương tối thiểu chung, cụ thể là từ

450.000 đến 1.350.000 đồng/tháng. - Đối với doanh nghiệp tư nhân, công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp hợp tác xã có thuê lao động,
doanh nghiệp gia đình có thuê lao động là 450.000 đồng/tháng (từ ngày
01/10/2006).
- Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được trả thấp hơn 710.000
đồng đến 870.000 đồng/tháng, tùy theo khu vực, lãnh thổ do Nhà nước quy định.

c. Thị trường xuất khẩu lao động:
Những năm gần đây, nhờ mở cửa hội nhập kinh tế thế giới, thị trường xuất khẩu
lao động của Việt Nam đang ngày càng sôi động hơn. Năm 2007, đóng góp của
xuất khẩu lao động vào GDP là hơn 8,4 triệu USD, chiếm 14,5% GDP. Con số này
vào năm 2009 được dự đoán sẽ còn cao hơn nữa. Thị trường xuất khẩu lao động
của Việt Nam đang ngày càng mở rộng. Theo Cục quản lý lao động ngoài nước,chỉ
trong vòng 6 tháng đầu năm 2007, cả nước đã có trên 81.000 lao động đi làm việc


ở nước ngoài. Đài Loan là thị trường tiếp nhận nhiều lao động Việt Nam nhất với
25.759 người. Tiếp đó là Ma-lai-xi-a với gần 8.780 người, Hàn Quốc 5.275 người,
Nhật Bản 1.769 người… Bên cạnh việc giữ vững thị trường xuất khẩu lao động
truyền thống là các nước ở khu vực Đông Nam Á và Châu Á, Việt Nam đã đẩy
mạnh hợp tác, liên kết nhằm mở rộng thị trường mới ở khu vực Trung Đông, Châu
Phi, Bắc Âu và Bắc Mỹ. Những thị trường có mức thu nhập cao đang thu hút sự
quan tâm đặc biệt của những người có nhu cầu đi xuất khẩu lao động: Mỹ,
Canada, Australia, Czech… Đây là những thị trường có nhu cầu lao động lớn, có
chế độ đãi ngộ với lao động ngoài nước như dân bản xứ. Người lao động với
những công việc cơ bản như giúp việc nhà, lái xe, phục vụ bàn…ở những nước này
có thể nhận được mức lương từ 2.000 đến 6.000USD/tháng. Với những công việc
đòi hỏi có kỹ thuật như kỹ sư, y tá, công nhân cơ khí…thì mức lương khoảng từ
5.500 đến 8.500 USD/tháng. Tuy nhiên, đó cũng là những thị trường khó tính vào
loại bậc nhất. Yêu cầu khắt khe về ngoại ngữ khiến phần lớn lao động phổ thông

trong nước không thể đáp ứng được.

2. Nguyên nhân của hiện trạng thị trường sức lao động và những bất
cập trong chính sách tiền công, tiền lương ở Việt Nam hiện nay:
a. Nguyên nhân của hiện trạng thị trường sức lao động ở Việt Nam hiện nay:
- Thị trường sức lao động Việt Nam đang ngày càng nóng dần, cả chỉ số cung và
cầu đều tăng mạnh trong những năm qua. Thị trường xuất khẩu lao động cũng
ngày càng mở rộng và thu hút được lượng lao động ngày càng đông đảo. Nguyên
nhân chính của những diễn biến lạc quan này là bởi tốc độ phát triển kinh tế của
nước ta đang đạt ở mức cao, nhất là sau khi gia nhập tổ chức Thương mại thế giới
(WTO): Mức tăng trưởng kinh tế đạt 8,3% năm 2007 và 8,2% năm 2008. Bên cạnh
đó, chính sách mở cửa thị trường của Đảng và Nhà nước đã thúc đẩy tích cực việc
hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó có trao đổi và hợp tác trong lĩnh vực lao động.
Thêm vào đó, sự phát triển thương mại điện tử, sự bùng nổ thông tin và quảng
cáo trên internet cũng là nguyên nhân dẫn tới sự tăng trưởng này.
- Hiện nay, trình độ người lao động và nạn thất nghiệp đang là hai hạn chế lớn,
đáng quan tâm của thị trường hàng hóa sức lao động nước ta. Nguyên nhân của
những hạn chế này là do:
+ Do điều kiện, hoàn cảnh lịch sử của đất nước với nền kinh tế nông nghiệp là chủ
đạo, trải qua một thời gian dài dưới ách nô lệ của thực dân, phong kiến và nhiều


cuộc chiến tranh…, người lao động Việt Nam mang đậm tác phong nông nghiệp
vào sản xuất. Đặc biệt, trước đổi mới năm 1986, sự áp dụng cơ chế quản lý kinh tế
kế hoạch, tập trung, quan liêu, bao cấp của Nhà nước đã trở thành tác nhân quan
trọng kìm hãm sự phát triển, khiến cho trình độ mà nhất là sức sáng tạo và độc
lập của người lao động rơi vào trì trệ.
+ Lao động nước ta đa số làm việc trong lĩnh vực nông – lâm nghiệp (chiếm
khoảng 45,5% tổng số lao động trong các ngành năm 2007). Lao động chủ yếu
xuất phát từ nông thôn, không qua đào tạo, trình độ dân trí thấp, từ đó, ảnh

hưởng đến chất lượng lao động.
+ Vấn đề đào tạo lao động của nước ta còn nhiều hạn chế cả về số lượng lẫn chất
lượng, đặc biệt là việc đào tạo nguồn lao động có kỹ thuật. Về số lượng và quy
mô, các cơ sở, trung tâm đào tạo việc làm tuy có ngày càng mở rộng hơn nhưng
vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu của lượng lao động tăng nhanh mỗi năm. Về chất
lượng đào tạo còn nhiều hạn chế. Phương hướng, nội dung, cách thức đào tạo
của nhiều nơi chưa bắt kịp với nhu cầu của thị trường lao động. Có những ngành
nghề, thị trường không cần nhiều, nhưng lại đào tạo ồ ạt. Có những ngành nghề,
thị trường đòi hỏi người lao động phải có tính chuyên nghiệp cao, thì nội dung
đào tạo còn hời hợt. Công tác dự báo để phục vụ cho đào tạo nguồn nhân lực còn
nhiều hạn chế.
+ Dân số tăng nhanh, lượng lao động bổ sung hàng năm khá cao. Trong khi đó, sự
yếu kém của nền kinh tế lại kéo theo sự thiếu hụt nguồn cầu lao động, không cung
cấp đủ chỗ làm cho lực lượng lao động mới khiến tình trạng thất nghiệp gia tăng.
+ Chất lượng và trình độ người lao động hạn chế, không đủ sức đáp ứng yêu cầu
khắt khe của các thị trường xuất khẩu lao động làm giảm khả năng phát triển của
thị trường này.

b. Những hạn chế, bất cập trong chính sách tiền công, tiền lương:
- Tiền lương chưa phản ánh đúng giá cả sức lao động, chưa thực sự gắn với mối
quan hệ cung cầu lao động trên thị trường, tốc độ tăng tiền lương nhỏ hơn tốc độ
tăng của năng suất lao động. Mức lương tối thiểu còn thấp chưa theo kịp với yêu
cầu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất sức lao động và sự phát triển kinh tế – xã
hội.


- Chính sách tiền lương chưa được đảm bảo cho người lao động, đặc biệt là cán
bộ, công chức, viên chức sống được bằng tiền lương ở mức trung bình khá trong
xã hội; chưa khuyến khích và thu hút được người tài, người làm việc giỏi. Mức
lương trung bình của công chức còn thấp so với mức thu nhập trung bình của lao

động xã hội. Do vậy đã gây nên sự biến động, dịch chuyển lao động lớn và tỉ lệ lao
động bỏ việc, nghỉ việc ngày một tăng. - Hệ thống tiền lương còn quá nhiều thang,
bảng lương và khoảng cách giữa các bậc lương nhỏ, tiền lương danh nghĩa tăng
nhưng tiền lương thực tế lại giảm sút. Đối với mức lương, bậc lương giữa các loại
cán bộ, công chức một số chức danh trong hệ thống chính trị (Đảng, Nhà nước,
Mặt trận và các đoàn thể) đã bộc lộ những bất hợp lý.
- Chế độ tiền lương chủ yếu vẫn dựa trên hệ thống phân phối theo việc, gắn cứng
tiền lương với hệ số lương tối thiểu như nhau dù có trình độ khác nhau, nên
không tạo được động lực làm việc hiệu quả. Đồng thời chưa có sự phân biệt giữa
tiền lương tối thiểu của cán bộ công chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước với
tiền lương tối thiểu của lao động trong khu vực hoạt động sản xuất kinh doanh,
tạo ra những tác động cản trở, sự chênh lệch về thu nhập giữa các đơn vị có
nguồn thu và không có nguồn thu. Các chế độ phụ cấp, bảo hiểm xã hội, an toàn…
còn chưa được coi trọng.
- Có sự chênh lệch khá lớn về mặt bằng tiền lương, thu nhập giữa các vùng, khu
vực thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, giữa lao động có kĩ
thuật, có tay nghề với lao động phổ thông giữa các tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng
điểm và các địa phương khác. Sự phân hoá giàu nghèo giữa các vùng, giữa thành
thị và nông thôn và giữa các tầng lớp dân cư tăng nhanh; khoảng cách chênh lệch
về thu nhập, mức sống giữa các tầng lớp nhân dân, giữa các vùng có xu hướng
doãng ra, nhất là giữa nông thôn và thành thị. Tỷ lệ nghèo ở vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số cao hơn nhiều mức bình quân cả nước. Chúng ta
có thể thấy, với cố gắng nỗ lực trong công cuộc xoá đói giảm nghèo của Đảng, Nhà
nước và toàn xã hội thì đến cuối năm 2006, tỷ lệ nghèo cả nước còn khoảng
18,1%, giảm trên 3% so với giữa năm 2005, trong đó: Tây Bắc 37,36%; Đông Bắc
28,33%; Đồng bằng sông Hồng 11,64%; Khu 4 cũ 27,51%; Duyên hải miền Trung
19,06%; Tây Nguyên 25,85%; Đông Nam Bộ 7,44%; Đồng bằng sông Cửu Long
15,58%.
- Trong các doanh nghiệp nhà nước, cơ chế phân phối tiền lương chưa thực sự
theo nguyên tắc thị trường, còn mang nặng tính bình quân. Mức độ chênh lệch về



tiền lương, thu nhập giữa các loại lao động không lớn, chưa khuyến khích người
có trình độ chuyên môn cao vào khu vực nhà nước. Các doanh nghiệp ngoài nhà
nước có tình trạng ép mức tiền công của người lao động, không thực hiện đúng
công tác bảo hiểm xã hội…

3. Một số giải pháp nhằm bình ổn thị trường sức lao động; phát triển
nguồn lao động và hoàn thiện chính sách tiền công, tiền lương ở Việt
Nam:
a. Giải pháp bình ổn thị trường sức lao động và phát triển năng lực của
nguồn lao động:
- Thực hiện phân bố lại dân cư và lao động giữa các vùng bằng việc mở thêm
nhiều nhà máy, xí nghiệp, khu chế xuất…tăng cường ở những vùng kinh tế kém
phát triển hơn nhằm cân đối lại thị trường lao động để khai thác hết tiềm năng
của đất nước.
- Các biện pháp kích cầu lao động:
+ Nhanh chóng được sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước theo hướng cổ phần
hóa, tập trung đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hóa thiết bị công nghệ, tạo môi
trường cạnh tranh lành mạnh để phát triển và thu hút lao động.
+ Thực hiện các chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Chuyển dịch
mạnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa, phát
triển các ngành nghề phi nông nghiệp, đẩy mạnh dịch vụ. Đặc biệt, chú trọng phát
triển mạnh quan hệ kinh tế với nước ngoài bằng nhiều hình thức để tạo nguồn
xuất khẩu lao động tại chỗ, tăng đầu tư khai thác, mở rộng xuất khẩu lao động
sang các khu vực, thị trường truyền thống và một số thị trường mới; khai thác, sử
dụng có hiệu quả các nguồn vốn tạo việc làm, ưu tiên vốn vay cho các doanh
nghiệp thu hút, sử dụng nhiều lao động.
- Nâng cao chất lượng và trình độ người lao động là một giải pháp quan trọng
nhằm phát triển nguồn cung cho thị trường hàng hóa sức lao động. Trước hết, cần

tập trung phát triển mạnh hệ thống trung học chuyên nghiệp, dạy nghề theo
hướng đồng bộ về cơ cấu, ưu tiên các ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghệ
cao như năng lượng, vi điện tử, tự động hóa, công nghệ sinh học... Đồng thời, có
các chính sách thu hút nhân tài, đãi ngộ giáo viên, cơ chế ưu đãi để khuyến khích


các thành phần kinh tế, tổ chức cá nhân tham gia vào công tác đào tạo, chuyển
đổi nghề cho người lao động.
- Đầu tư xây dựng một trung tâm giao dịch lao động đạt tiêu chuẩn khu vực với
trang thiết bị hiện đại. Đây sẽ là đầu mối cung cấp các thông tin đầy đủ nhất về
cung - cầu lao động trên thị trường. Ngoài ra, một hệ thống thông tin bao gồm
hướng nghiệp dạy nghề; dịch vụ việc làm; thống kê thị trường lao động... cũng sẽ
được thiết lập từ thành phố đến từng quận, huyện và xã, phường nhằm cung cấp
thong tin về việc làm nhanh chóng và chuẩn xác nhất cho người lao động.
- Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước trong thị trường sức lao động. Theo
đó, việc tuyên truyền, phổ biến rộng rãi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước về việc làm, đào tạo nghề và các vấn đề liên quan đến thị
trường lao động sẽ được phổ biến sâu rộng tới người lao động. Công tác thanh
tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chế độ, chính sách đối với người lao
động cũng được đẩy mạnh. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về tiền lương,
tiền công trên thị trường lao động nhằm thúc đẩy các giao dịch trên cơ sở đó hình
thành giá cả thị trường sức lao động, đồng thời điều tiết giám sát tiền lương, tiền
công để hạn chế tính tự phát. Công đoàn và các tổ chức đoàn thể cần có vai trò
quan trọng trong việc điều tiết thị trường lao động và bảo vệ quyền lợi hợp pháp
cho người lao động...

b. Giải pháp hoàn thiện chính sách tiền công, tiền lương:
“Thị trường sức lao động cũng nằm trong bối cảnh chung của mở cửa hội nhập,
sự liên thông ngày càng cao với thị trường khu vực và quốc tế. Do đó, tiền lương
phải được coi là giá cả sức lao động, hình thành theo quy luật thị trường. Hệ

thống chính sách, pháp luật về tiền lương, tiền công phải sớm hoàn thiện theo
nguyên tắc đó; lộ trình điều chỉnh tiền lương và trợ cấp xã hội giai đoạn 2008 2012 cần đẩy nhanh hơn, thực hiện tốt hơn đi đôi với kiểm soát lạm phát để bảo
đảm thu nhập thực tế ngày càng tăng cho người hưởng lương”.Trích (Nghị quyết
HN lần 6, BCH TW Đảng khóa X - 03/2008).
Theo đó, Việt Nam đang thực hiện một số biện pháp cụ thể nhằm hoàn thiện
chính sách tiền công, tiền lương cho người lao động nhằm đảm bảo và từng bước
cải thiện đời sống cho họ: - Tăng lương tối thiểu.
- Cần thêm những động thái tích cực nhằm kích cầu tiêu dung.


- Tăng khoảng cách giữa các bậc liền kề trong bảng lương.
- Hoàn thiện chính sách tiền lương, tiền công theo hướng thị trường.
- Cần có chế độ, chính sách về tiền lương và phụ cấp đối với cán bộ, công chức cơ
sở cho phù hợp sự phát triển kinh tế thị trường.
- Tăng cường phối hợp cơ chế 3 bên trong ban hành chính sách tiền lương, hình
thành cơ chế thỏa thuận tiền lương.
- Cần quy định các nguyên tắc xây dựng thang lương, bảng lương để người lao
động và người sử dụng lao động có cơ sở xác định tiền lương, đồng thời tăng
cường công tác kiểm tra, thanh tra để đảm bảo quyền lợi của người lao động.
- Hoàn thiện môi trường pháp lý, gắn cải cách tiền lương với cải cách kinh tế, tạo
sự gắn kết đồng bộ giữa các loại thị trường để thúc đẩy nhau phát triển lành
mạnh.
- Tăng cường sự quản lý và giám sát của Nhà nước đối với thị trường sức lao
động.
- Tạo cung lao động đáp ứng thị trường về số lượng, chất lượng và cơ cấu ngành
nghề, đặc biệt là tỷ lệ lao động đã qua đào tạo. Tăng cầu lao động thông qua phát
triển kinh doanh sản xuất dịch vụ trong các thành phần kinh tế.

C. Phần kết luận:
Yếu tố con người có ý nghĩa quyết định hàng đầu trong chiến lược phát triển

kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Những chính sách, giải pháp đúng trong phát
triển thị trường hàng hóa sức lao động phải dựa trên một cơ sở lý luận vững chãi
và phải hướng tới hình thành một nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời đại ngày nay. Sự kết hợp hài hòa giữa lý
luận về hàng hóa sức lao động của Mac với thực tiễn thị trường sức lao động ở
Việt Nam vừa là nhiệm vụ hàng đầu của nền kinh tế lại vừa là mục tiêu quan trọng
nhằm phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, phát triển giáo dục toàn diện,
xây dựng các cộng đồng dân cư văn minh, phát triển đội ngũ trí thức, đặc biệt là
trí thức tinh hoa, có đủ năng lực để thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, đóng góp tích cực nhằm hình thành và phát triển “nền kinh tế
tri thức” của Việt Nam.



×