Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.51 KB, 16 trang )

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CHÍNH SÁCH
TỶ GIÁ
1. Tỷ giá
1.1 Khái niệm và phân loại
a) Khái niệm
Vì vậy, tuỳ thuộc vào từng góc độ nghiên cứu, xem xét mà tỷ giá hối đoái có thể được
định nghĩa theo hai cách sau:
Định nghĩa 1: Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này thể hiện bằng
một số đơn vị tiền tệ nước kia.
Theo định nghĩa này, tỷ giá hối đoái được coi là giá cả của một loại hàng hoá đặc biệthàng hoá tiền tệ.
Định nghĩa 2: Tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh giữa hai tiền tệ của hai nước với
nhau mà trong thời đại ngày nay sự so sánh đó là sự so sánh sức mua của các tiền tệ.
b) Phân loại
Trong thực tế tuỳ từng nơi từng lúc khi quan tâm đến một khía cạnh nào đó của tỷ gía
hối đoái người ta thường gọi đến tên đến loại tỷ giá đó. Do vậy cần thiết phải phân loại tỷ
giá hối đoái.
1.2. Cơ sở hình thành tỷ giá hối đoái
a) Thuyết ngang giá vàng
Trong thời kỳ bản vị kim loại, nhất là bản vị vàng (và bạc), các đồng tiền quốc gia đều
được so sánh, quy đổi với nhau trên cơ sở hàm lượng kim loại (vàng) chứa đựng trong đồng
tiền của mình hay do đơn vị đồng tiền của mình đại diện. Trong giai đoạn này, đặc biệt từ
năm 1870 đến thời kỳ đầu đại chiến thế giới lần thứ nhất, người ta xác định tỷ giá giữa các
đồng tiền bằng cách so sánh hàm lượng vàng chứa trong mỗi đơn vị tiền tệ của từng nước.
Trong chế độ bản vị vàng, tỷ giá hối đoái của một nước cũng như trên thế giới khá ổn
định và thường chỉ biến động theo mức tăng giảm hàm lượng vàng chứa đựng trong mỗi đơn
vị tiền tệ.
b) Thuyết ngang giá sức mua ( Purchasing Power Parity - PPP )
Khi tỷ lệ lạm phát của một nước tăng tương đối so với lạm phát của một nước khác,
mức cầu đồng tiền nước đó giảm do xuất khẩu giảm. Ngoài ra, người tiêu dùng và các doanh
nghiệp trong nước có lạm phát cao có xu hướng tăng nhập khẩu. Như vậy, cả hai lực lượng
này tạo áp lực giảm giá đồng tiền của nước có lạm phát cao.Tỷ lệ lạm phát thường khác


nhau giữa các quốc gia, tạo nên các kiểu mẫu mậu dịch quốc tế để điều chỉnh thích hợp và
ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái .
Theo hình thức tuyệt đối, thuyết PPP là sự phát triển của quy luật một giá. Nội dung
cơ bản của quy luật một giá là: nếu hai nước cùng sản xuất một loại hàng hoá giống nhau thì
1


giá cả của hai loại hàng hoá đó giống nhau trên toàn thế giới và không phụ thuộc vào nước
nào sản xuất ra nó.
Trên cơ sở quy luật một giá, thuyết PPP phát biểu rằng: Tỷ giá bất kỳ giữa hai đồng
tiền của hai nước sẽ bằng tỷ số mức giá của hai nước đó tại cùng thời điểm.
Tuy nhiên, trong ngắn hạn nó không được hoàn hảo, thậm chí còn bị sai lệch đáng kể
vì thị trường là không hoàn hảo, tồn tại chi phí vận chuyển, bảo hiểm, thanh toán, thông tin
và nhiều hàng rào thương mại khác, do đó, thuyết PPP tuyệt đối hiếm khi thấy trong thực tế,
nhưng thuyết PPP tương đối lại khá phổ biến.
Thuyết PPP tương đối được duy trì, dù cho sức mua của đồng tiền không giống nhau ở
mọi nơi, thay đổi mức giá cả giữa hai quốc gia được hấp thụ bởi sự biến động của tỷ giá, do
đó, quan hệ PPP được duy trì không thay đổi. Nếu nước A có tỷ lệ lạm phát bằng 0% và
nước B có tỷ lệ lạm phát bằng 10% thì đồng tiền của nước B phải giảm giá 10% so với đồng
tiền của nước A. Sự biến động của tỷ giá sẽ duy trì tỷ lệ giá cả giữa hai nước trước và sau
khi lạm phát xảy ra là không thay đổi.
2. Chính sách tỷ giá
2.1. Khái niệm và hệ thống chính sách tỷ giá
Chính sách tỷ giá là tổng thể các nguyên tắc công cụ biện pháp được nhà nước điều
chỉnh tỷ giá của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định nhằm đạt mục tiêu đã định trong
chiến lược phát triển của quốc gia đó.
Để quản lý và điều hành tỷ giá NHTW thường sử dụng các chính sách chủ yếu sau:
- Chính sách chiết khấu: khi NHTW nâng cao lãi suất chiết khấu làm lãi suất trên thị
trường tăng, làm các nguồn vốn ngắn hạn trên thị trường quốc tế chạy vào nước mình để thu
lợi tức cao làm dịu sự căng thẳng của cầu vượt cung ngoại hối do đó làm tỷ giá giảm xuống

và ngược lại.
- Chính sách hối đoái: khi tỷ giá lên cao NHTW bán ngoại hối ra thị trường kéo tỷ giá
tụt xuống và ngược lại. Tuy nhiên NHTW phải có dự trữ ngoại hối đủ lớn, nếu cán cân thanh
toán thiếu hụt thường xuyên thì khó có đủ ngoại hối thực hiện phương pháp này.
- Phá giá tiền tệ: là sự nâng cao một cách chính thức TGHĐ hay là việc nhà nước hạ
thấp sức mua đồng tiền nước mình so với ngoại tệ làm đẩy mạnh xuất khẩu hạn chế nhập
khẩu cải thiện cán cân thương mại làm tỷ giá bớt căng thẳng.
- Nâng giá tiền tệ: là việc Nhà nước chính thức nâng giá đơn vị tiền tệ nước mình so
với ngoại tệ làm cho tỷ giá giảm xuống.
2.2. Các công cụ của Chính sách tỷ giá
a) Nhóm công cụ trực tiếp
NHTW thông qua việc mua bán đồng nội tệ nhằm duy trì một tỷ giá cố định hay gây
ảnh hưởng làm cho tỷ giá thay đổi đạt tới một mức nhất định theo mục tiêu đã đề ra. Hoạt
động can thiệp trực tiếp của ngân hàng trung ương tạo ra hiệu ứng thay đổi cung tiền có thể
2


tạo ra áp lực lạm phát hay thiểu phát không mong muốn cho nền kinh tế vì vậy đi kèm hoạt
động can thiệp này của NHTW thì phải sử dụng thêm nghiệp vụ thị trường mở để hấp thụ
lượng dư cung hay bổ sung phần thiếu hụt tiền tệ ở lưu thông.
Nghiệp vụ thị trường mở ngoại tệ được thực hiện thông qua việc NHTW tham gia
mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ. Một nghiệp vụ mua ngoại tệ trên thị trường của
NHTW làm giảm cung ngoại tệ do đó làm tăng tỷ giá hối đoái và ngược lại. Do đó đây là
công cụ có tác động mạnh lên tỷ giá hối đoái.
Nghiệp vụ thị trường mở nội tệ là việc NHTW mua bán có chứng từ có giá. Tuy nhiên
nó chỉ tác động gián tiếp đến tỷ giá mà lại có tác động trực tiếp đến các biến số kinh tế vĩ mô
khác (lãi suất, giá cả). Nó được dùng phối hợp với nghiệp vụ thị trường mở ngoại tệ để khử
đi sự tăng, giảm cung nội tệ do nghiệp vụ thị trường mở gây ra.
Ngoài ra Chính phủ có thể sử dụng biện pháp can thiệp hành chính như biện pháp kết
hối, quy định hạn chế đối tượng được mua ngoại tệ, quy định hạn chế mục đích sử dụng

ngoại tệ, quy định hạn chế số lượng mua ngoại tệ, quy định hạn chế thời gian mua ngoại tệ,
nhằm giảm cầu ngoại tệ, hạn chế đầu cơ và giữ cho tỷ giá ổn định.
b) Nhóm công cụ gián tiếp
Lãi suất tái chiết khấu là công cụ hiệu quả nhất. Cơ chế tác động đến tỷ giá hối đoái
của nó như sau: Khi lãi suất chiết khấu thay đổi kéo theo sự thay đổi cùng chiều của lãi suất
trên thị trường. Từ đó tác động đến xu hướng dịch chuyển của dòng vốn quốc tế làm thay
đổi tài khoản vốn hoặc ít nhất làm cho người sở hữu vốn trong nước chuyển đổi đồng vốn
của mình sang đồng tiền có lãi suất cao hơn để thu lợi và làm thay đổi tỷ giá hối đoái. Cụ
thể lãi suất tăng dẫn đến xu hướng là một dòng vốn vay ngắn hạn trên thị trường thế giới
sẽ đổ vào trong nước và người sở hữu vốn ngoại tệ trong nước sẽ có xu hướng chuyển đồng
ngoại tệ của mình sang nội tệ để thu lãi suất cao hơn do đó tỷ giá sẽ giảm (nội tệ tăng) và
ngược lại muốn tăng tỷ giá sẽ giảm lãi suất tái chiết khấu.
Muốn giảm tỷ giá hối đoái thì Chính Phủ có thể quy định mức thuế quan cao, quy
định hạn ngạch và thực hiện trợ giá cho những mặt hàng xuất khẩu chiến lược. Và ngược lại
sẽ làm tăng tỷ giá hối đoái.
Ngoài ra Chính Phủ có thể sử dụng một số biện pháp khác như điều chỉnh tỷ lệ dự trữ
bắt buộc bằng ngoại tệ với NHTW, quy định mức lãi suất trần kém hấp dẫn đối với tiền gửi
bằng ngoại tệ. Mục đích là phòng ngừa rủi ro tỷ giá, hạn chế đầu cơ ngoại tệ, làm giảm áp
lực lên tỷ giá khi cung cầu mất cân đối.
2.3. Vai trò của chính sách tỷ giá tới tăng trưởng kinh tế
a) Đối với cán cân thanh toán
Tỷ giá giữa đồng nội tệ và ngoại tệ là quan trọng đối với một quốc gia vì trước tiên
nó tác động trực tiếp tới giá cả hàng xuất nhập khẩu của chính quốc gia đó. Khi TGHĐ tăng
(đồng nội tệ xuống giá) sẽ làm tăng giá trong nước của hàng nhập khẩu và giảm giá ngoài
3


nước của hàng xuất khẩu của nước đó, cải thiện sức cạnh tranh quốc tế của hàng trong nước.
Các nguồn lực sẽ được thu hút vào những ngành sản xuất mà giờ đây có thể cạnh tranh hiệu
quả hơn so với hàng nhâp khẩu và cũng vào ngành xuất khẩu mà giờ đây có thể có hiệu quả

hơn trên các thị trường quốc tế. Kết quả là xuất khẩu tăng nhập khẩu giảm làm cán cân thanh
toán được cải thiện.
b) Với lạm phát và lãi suất
Khi các yếu tố khác không đổi TGHĐ tăng làm tăng giá các mặt hàng nhập khẩu tính
bằng nội tệ. Các hộ gia đình,các nhà sản xuất sử dụng đầu vào nhập khẩu phải tiêu dùng
hàng nhập khẩu với mức giá tăng cùng tỷ lệ phá giá. Kết quả mức giá chung trong nền kinh
tế trở nên cao hơn đặc biệt là nền kinh tế nhỏ, mở cửa với thế giới bên ngoài có xuất khẩu và
nhập khẩu chiếm tỷ lệ cao so với GDP. Nếu TGHĐ tiếp tục có sự gia tăng liên tục qua các
năm có nghĩa là lạm phát đã tăng. Nếu lãi suất tăng ở mức vừa phải có thể kiểm soát sẽ kích
thích tăng trưởng nhưng nếu lạm phát tăng quá cao sẽ tác động làm lãi xuất tăng làm giảm
đầu tư ảnh hưởng không tốt đến đời sống kinh tế.
c) Với sản lượng và việc làm
Đối với các lĩnh vực sản xuất chủ yếu dựa trên nguồn lực trong nước thì khi TGHĐ
tăng, sự tăng giá hàng nhập khẩu sẽ giúp tăng khả năng cạnh tranh cho các lĩnh vực này giúp
phát triển sản xuất từ đó tạo thêm công ăn việc làm giảm thất nghiệp, sản lượng quốc gia có
thể tăng lên và ngược lại.
d) Đối với đầu tư quốc tế
- Đầu tư trực tiếp: TGHĐ tác động tới giá trị phần vốn mà nhà đầu tư nước ngoài đầu
tư hoặc góp vốn liên doanh. Vốn ngoại tệ hoặc tư liệu sản xuất được đưa vào nước sở tại
thường được chuyển đổi ra đồng nội tệ theo tỷ giá chính thức. Bên cạnh đó tỷ giá còn có tác
động tới chi phí sản xuất và hiệu quả các hoạt động đầu tư nước ngoài. Do đó sự thay đổi
TGHĐ có ảnh hưởng nhất định tới hành vi của các nhà đầu tư nước ngoài trong việc quyết
định có đầu tư vào nước sở tại hay không.
- Đầu tư gián tiếp: là loại hình đầu tư thông qua hoạt động tín dụng quốc tế cũng như
việc mua bán các loại chứng khoán có giá trên thị trường.

Trong một thế giới có sự luân chuyển vốn quốc tế tự do khi TGHĐ tăng tổng lợi tức từ
khoản vay bằng ngoại tệ lớn hơn lãi suất trong nước sẽ xảy ra hiện tượng luồng vốn chảy ra
nước ngoài và ngược lại TGHĐ giảm luồng vốn sẽ đổ vào trong nước.
Như vậy muốn tạo môi trường đầu tư ổn định nhằm phát triển kinh tế đòi hỏi các quốc

gia xây dựng và điều chỉnh một chính sách tỷ giá ổn định hợp lý giảm mức độ rủi ro trong
lĩnh vực đầu tư và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
4


e) Với nợ nước ngoài
Các khoản vay nợ nước ngoài thường được tính theo đơn vị tiền tệ nước đó hoặc
những đồng tiền mạnh nên khi TGHĐ tăng lên cũng đồng nghĩa với sự tăng lên của gánh
nặng nợ nước ngoài. Ngày nay khi sự luân chuyển vốn quốc tế ngày càng tự do thì các nước
đặc biệt các nước đang phát triển càng cần phải thận trọng hơn trong chính sách tỷ giá để
đảm bảo tăng trưởng và khả năng trả nợ nước ngoài.
3. Kinh nghiệm của một số quốc gia về chính sách tỷ giá
Hiện nay trên thế giới, các quốc gia nhìn chung đều sử dụng chính sách thả nổi có quản lý
nhưng mức độ quản lý hay thả nổi là khác nhau ở các quốc gia khác nhau.
3.1 Nhóm các nước có đồng tiền mạnh
Những nước này gần như tự do ngoại hối và thống nhất một tỷ giá duy nhất cho tất cả
các hoạt động có liên quan. Các nước này có khả năng dự trữ ngoại tệ của NHTW dồi dào,
có thị trường ngoại hối phát triển ở mức độ cao, các công cụ gián tiếp mà NHTW sử dụng
rất phong phú, đa dạng và có tính chất hỗ trợ nhau. Điển hình ở nhóm này là Mỹ.
Thị trường tiền tệ, ngoại hối của Mỹ là thị trường phát triển và hoàn chỉnh vào loại
nhất thế giới, nghệ thuật điều chỉnh tỷ giá của họ cũng đạt đến độ hoàn hảo và có ảnh hưởng
toàn cầu. Chính sách đồng đô-la yếu, rơi tự do chính là yếu tố kích thích xuất khẩu của Mỹ,
thúc đẩy tăng trưởng tạo ra nhiều nhu cầu việc làm, góp phần giải quyết nạn thất nghiệp vốn
vẫn lơ lửng như một mối đe doạ với siêu cường quốc kinh tế thế giới. Về dài hạn, chính sách
này ít nguy cơ gây tăng mạnh lạm phát và sẽ làm tăng lãi suất và kích thích các nhà đầu tư
nước ngoài tạo ra hàng tỷ đô-la cho Mỹ trang trải các thâm hụt trong ngân sách và tài khoản
vãng lai.
3.3. Nhóm các nước Châu Á và khu vực ASEAN
Các nước ASEAN đa số đều thả nổi TGHĐ, không quy định giới hạn với các NHTM.
Đa số các nước này có thị trường hối đoái phát triển, thị trường chứng khoán có tốc độ tăng

trưởng cao, mức dự trữ ngoại tệ lớn đủ điều kiện để tiến tới tự do hoàn toàn, NHTW có đủ
sức cũng như các công cụ để can thiệp trong trường hợp cần thiết.
Trung Quốc là nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng mạnh và hàng đầu ở Châu Á,
T4/1994 Chính Phủ nước này đã chính thức công bố thực hiện chính sách TGHĐ “thả nổi có
quản lý”: tỷ giá đồng NDT được dao động trong một biên độ hẹp và NHTW có thể điều
chỉnh tỷ giá mục tiêu trên cơ sở các biện pháp kiểm soát chặt chẽ vốn vào ra của Chính phủ.
Điều này không những làm ổn định tiền tệ mà còn tạo được lòng tin của nhõn dõn thông qua
việc đưa đồng tiền đến gần giá trị thực của nó. T12/1996, NDT được chính thức chuyển đổi
trong các giao dịch trên tài khoản vãng lai sau khi đựơc ấn định ở mức 8.27 NDT/USD( biên
độ dao động 0.125% ). Chế độ tỷ giá mới này đã biến Trung Quốc thành khu vực an toàn,
thu hút đầu tư rất mạnh kể cả trong thời kỳ khủng hoảng khu vực, thay thế Mỹ trở thành
5


nước thu hút FDI lớn nhất thế giới, dự trữ ngoại tệ chỉ xếp sau Nhật Bản. Vai trò của đồng
NDT ngày càng được củng cố và nâng cao trên khu vực và thế giới.
Ngày 31/7/2005, Trung Quốc tuyên bố TGHĐ đồng NDT căn cứ vào “giỏ” ngoại
tệ gồm USD, Euro, yên Nhật và đồng won Hàn Quốc. NHTW Trung Quốc mới đây đã tăng
giá NDT 2% nhằm làm dịu tình trạng mất cân bằng trong mậu dịch đối ngoại của Trung
Quốc, mở rộng kích cầu trong nước cũng như nâng cao mức cạnh tranh của doanh nghiệp
trên trường quốc tế, nâng cao hiệu quả tận dụng vốn nước ngoài…Người phát ngôn NHTW
Trung Quốc cho biết: hiện nay khâu quản lý ngoại tệ của nước này đã được nới lỏng dần
dần, việc xây dựng thị trường ngoại tệ không ngừng tăng cường, các cuộc cải cách tiền tệ đã
thu được tiến triển thực chất, kiểm soát vĩ mô thu được thành quả nổi bật, kinh tế quốc dân
tiếp tục duy trì đà tăng trưởng ồn định.Vì vậy Trung Quốc chọn thời điểm này để thực hiện
cải cách tỷ giá.
Kết luận
Khi có một thị trường hối đoái và nội tệ phát triển ở mức cao có đầy đủ công cụ gián
tiếp giúp NHTW linh hoạt trong can thiệp và trung hoà giữa các chỉ tiêu của chính sách tiền
tệ.Bản thân nền kinh tế đó cũng phải phát triển mạnh, có dự trữ đồng tiền có sức mạnh và có

khả năng chuyển đổi, ổn định tương đối, có xu hướng tăng giá.

6


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM
4. Diễn biến Chính sách tỷ giá ở Việt Nam trong những năm gần đây
4.1 Năm 2008:
Giai đoạn 1 (1/1/2008 – 25/3/2008): Tỷ giá VND/USD giảm
Đầu năm 2008, tỷ giá dao dộng quanh mức 16.000 – 16.200 VND/USD, đến giữa tháng
3/2008, tỷ giá giảm xuống còn 15.400 VND/USD.Mặc dù giảm giá USD là phù hợp trong
điều kiện lạm phát trong nước và thế giới tăng cao, thế nhưng trước tình hình này, để hệ
thống ngân hàng không rơi vào tình trạng mất thanh khoản, nhưng vẫn theo chủ trương tăng
giá VND và kiềm chế lạm phát, ngày 10/3/2008, NHNN đã quyết định nới rộng biên độ tỷ
giá từ ± 0.75 % lên ± 1% Bên cạnh đó, NHNN cũng tung ra thị trường 33.000 tỷ đồng vay
ngắn hạn, gấp 1,5 lần số lượng tiền định rút về qua tín phiếu bắt buộc, làm cho lạm phát tăng
nhanh hơn ở những tháng sau ảnh hưởng tới tỷ giá.
- Giai đoạn từ 26/03 – 16/07/2008:tỷ giá usd/vnd Tăng với tốc độ chóng mặt tạo cơn sốt
USD trên cả thị trường liên ngân hàng lẫn thị trường tự do.
Cung ngoại tệ thấp do NHNN không cho phép cho vay ngoại tệ đối với doanh nghiệp
xuất khẩu (theo quyết định số 09/2008/QĐ, NHNN không cho phép vay để chiết khấu bộ
chứng từ xuất khẩu, vay thực hiện dự án sản xuất xuất khẩu) giảm hiện tượng doanh nghiệp
xuất khẩu vay ngoại tế bán lại trên thị trường.
Nhận thấy tình trạng sốt USD đã ở mức báo động, lần đầu tiên trong lịch sử, NHNN đã
công khai công bố dự trữ ngoại hối quốc gia 20,7 tỷ USD khi các thông tin trên thị trường
cho rằng USD đang trở nên khan hiếm, điều chỉnh giảm tỷ giá bình quân liên ngân
hàng, tỷ giá vào cuối tháng 3/2008 là 15.960 VND/USD so với mức 16.091 VND/USD
vào cùng kỳ tháng 1/2008, đồng thời nâng biên độ giao dịch lên mức ±1%. Tỷ giá giảm
một lần nữa tác động xấu đến cán cân thương mại.. Nhờ có sự can thiệp kịp thời của
NHNN, cơn sốt USD đã được chặn đứng.

- Giai đoạn từ 17/07 – 15/10/2008: Giảm mạnh và dần đi vào bình ổn.
Đồng thời lúc này, NHNN đã ban hành một loạt các chính sách nhằm bình ổn thị
trường ngoại tệ như kiểm soát chặt các đại lý thu đổi ngoại tệ (cấm mua bán ngoại tệ trên thị
trường tự do không đăng ký với các NHTM), cấm mua bán USD thông qua ngoại tệ khác để
lách biên độ, cấm nhập khẩu vàng và cho phép xuất khẩu vàng; bán ngoại tệ can thiệp thị
trường thông qua các NHTM lớn.
- Giai đoạn từ 16/10 đến hết năm 2008: tỷ giá USD tăng trở lại
Trong khoảng thời gian từ tháng 10 - tháng 11, nhà đầu tư nước ngoài đẩy mạnh việc
bán ra chứng khoán trong đó bán trái phiếu (700 triệu USD), cổ phiếu (100 triệu USD). Nhu
cầu mua ngoại tệ của khối nhà đầu tư nước ngoài tăng cao khi muốn đảm bảo thanh khoản
của tổ chức tại chính quốc. Nhu cầu mua USD của các ngân hàng nước ngoài cũng tăng
mạnh (khoảng 40 triệu USD/ngày). Cầu USD trên thị trường tự do tăng cao bởi khi NHNN
7


không cho phép nhập vàng thì hiện tượng nhập lậu vàng gia tăng, làm tăng cầu USD để nhập
khẩu (do USD là đồng tiền thanh toán chính). NHNN bán hơn 1 tỷ USD cho các NHTM đáp
ứng nhu cầu nhập khẩu một số mặt hàng thiết yếu. NHNN phải ngừng chiến dịch buộc các
ngân hàng mua tín phiếu bắt buộc trong một thời gian. NHNN phải xác lập trần huy động lãi
suất tiền đồng và ngoại tệ cũng như trần qui mô tín dụng cho các NHTM
4.2 Năm 2009:
Năm 2009 có thể coi là năm “tiền tệ” tại Việt Nam. Nguyên nhân của hiện tượng này
trước hết là dòng vốn nước ngoài như FDI, FII, ODA, kiều hối đều giảm do nền kinh tế
toàn cầu suy giảm vì cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Một nguyên nhân góp phần
đáng kể căng thẳng USD trong giai đoạn này là tác động tiêu cực của gói kích cầu thông
qua hỗ trợ lãi suất 4% của Chính phủ. Với chính sách này, lãi suất vay VND giảm một
cách tương đối so với vay USD. Các doanh nghiệp nhập khẩu thay vì vay USD đã tăng
cường vay VND sau đó mua USD thanh toán hàng nhập khẩu. Điều này làm tăng cầu
vốn bằng VND và làm khan hiếm USD trong nền kinh tế. Trong khi đó, nguồn cung
USD từ các doanh nghiệp xuất khẩu lại hạn chế. Do kỳ vọng USD tăng giá nên các nhà

xuất khẩu găm giữ USD trên tài khoản. Cung USD giảm, cầu USD tạo áp lực tăng tỷ giá.
Trước tình thế này, NHNN quyết định nâng biên độ giao dịch lên mức ±5% (24/3/2009)
và sau đó giảm xuống ± 3% (26/11/2009). Tỷ giá BQLNH trong suốt 9 tháng đầu năm 2009
được NHNN giữ gần như là cố định, tỷ giá BQLNH cuối tháng 9/2009 chỉ tăng 0.08% so
với cuối tháng 1/2009, trong khi đó tỷ giá trên thị trường tự do liên tục tăng mạnh. càng
về cuối năm tỷ giá càng biến động và mất giá mạnh, thị trường ngoại hối luôn có biểu hiện
căng thẳng, đồng thời USD tín dụng thì thừa, USD thương mại thì thiếu. Các ngân hàng
không có ngoại tệ để bán cho doanh nghiệp và nếu có bán thì mức tỷ giá cũng cao hơn mức
tỷ giá trần do NHNN quy định. Những bất ổn trên thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái đã
tiếp tục gây ra những khó khăn cho hoạt động xuất nhập khẩu. Hơn nữa, đồng tiền mất giá
còn ảnh hưởng đến lạm phát trong nước do giá hàng nhập khẩu tăng mạnh.
Tuy là khan hiếm ngoại tệ nhưng NHTW vẫn không thực hiện chính sách kết hối mà chỉ kêu
gọi khuyến khích các tổ chức nắm giữ nhiều ngoại tệ bán ngoại tệ ra.
NHNN bán ngoại tệ cho các ngân hàng có trạng thái ngoại hối âm

8


Diễn biến tỷ giá USD/VNĐ 2008-2009
4.3 Năm 2010:
Năm 2010, USD lại tiếp tục căng thẳng, giá mua bán USD tại các NHTM luôn
chạm trần. Sau một thời gian dài không điều chỉnh tỷ giá BQLNH, ngày 11/2/2010,
NHNN đã bất ngờ tăng giá USD 3%. Mặc dù tăng tỷ giá nhưng áp lực về cầu USD vẫn
không giảm. Tình trạng găm giữ ngoại tệ vẫn không suy giảm. Nhiều NHTM không cân
đối được nguồn ngoại tệ đã buộc phải thương lượng giá với bên cung rồi cộng thêm
khoản phí vào giá bán USD cho người có nhu cầu mua ngoại tệ. Tỷ giá bị chèn ép. Ngày
17.8.2010, lần thứ hai trong năm, NHNN điều chỉnh USD tăng 2,1% từ 18,544 lên 18,932,
với biên độ được giữ nguyên ở mức +/-3%, áp dụng từ ngày 18/08/2010.. Tỷ giá bình quân
liên ngân hàng từ 18.544 đã tăng lên 18.932 VND/USD. Các NHTM được phép mua
bán USD ở mức giá 19.500 VND/USD, tăng 400VND/USD so với ngày 17.8.2010.

Việc tỷ giá được điều chỉnh một cách bất ngờ và nhát ngừng đã thành viên thị trường
thêm hoang mang, và không làm “giảm nhiệt” thị trường ngoại tệ. Cuối năm 2010, khi
các thông tin về tình hình kinh tế vĩ mô không khả quan như gia tăng tỷ lệ lạm phát, nợ
nược ngoài, nợ công, thâm hụt ngân sách, dự trữ ngoại hối quốc gia suy giảm, cũng
như việc tăng giá vàng trên thị trường Thế giới đã tạo áp lực lên tỷ giá. Hiện tượng các
doanh nghiệp tự thỏa thuận giá mua bán ngoại tệ vượt mức trần cho phép đã trở thành
phổ biến. Tỷ giá thị trường tự do có thời điểm đạt trên 21.500 VND/USD, lệch 2.000
VND/USD so với tỷ giá chính thức.
4.4 Năm 2011:
Trong 4 tháng đầu năm, giá USD liên tục biến động tăng mạnh so với VNĐ khiến . Quả
thực, giá USD đã lên đến đỉnh điểm vào ngày 19/4 khi đạt mốc mua vào là 20.915đ/USD,
chuyển khoản 20.925đ/USD và bán ra là 20.940đ/USD rồi sau đó giảm khá mạnh và duy trì
trong biên độ hẹp. Sau khi có Quyết định của Chính phủ về việc cấm mua bán USD trên thị
9


trường tự do đã mang lại hiệu quả tích cực làm minh bạch thị trường ngoại tệ vốn đã ít
nhiều ảnh hưởng tới nền kinh tế nước ta những năm qua. Ngoài ra, kể từ tháng 4, các Ngân
hàng thương mại trên toàn quốc đã đồng loạt giảm lãi suất tiền gửi bằng USD xuống dưới
3%/năm khiến không ít người dân có ngoại tệ đã chuyển đổi sang tiền đồng để gửi tiết kiệm,
các doanh nghiệp bán lại USD cho ngân hàng nhiều hơn so với trước, lượng cung USD đang
tăng mạnh tại các ngân hàng thương mại. Những quyết định của Chính phủ và bước đi chắc
chắn của Ngân hàng Nhà nước cùng các Ngân hàng thương mại đã chấm dứt hẳn tình trạng
buôn bán ngoại tệ tự do trên thị trường và tình trạng đôla hoá nền kinh tế. Thời điểm ngày
30/6, USD giao dịch tại Chi nhánh Vietcombank Hải Dương với mức giá mua vào là
20.540đ/USD, chuyển khoản 20.550đ/USD và bán ra là 20.600đ/USD. Như vậy, chỉ trong 6
tháng qua, giá USD đã tăng hơn 5% so với những ngày đầu năm.
4.5. Đánh giá chính sách tỷ giá trong giai đoạn 2008 – 2011
Nhìn chung, từ 2008 đến 2011, thị trường ngoại tệ diễn biến phức tạp, nên mặc dù
NHNN đã có những can thiệp mạnh vào tỷ giá, biên độ tỷ giá, lãi suất cũng như nguồn

cung ngoại tệ nhưng chỉ có thể kiềm chế phần nào sức nóng của thị trường, vấn đề căng
thẳng cung cầu trên thị trường ngoại tệ vẫn thực sự chưa được giải quyết. Bởi vì:
+ Các biện pháp sử dụng để điều hành chính sách tỷ giá vẫn chủ yếu là các biện
pháp hành chính, sự can thiệp trực tiếp vào cung ngoại tệ của NHNN còn nhiều hạn chế.
+ Các công cụ được sử dụng đồng loạt và có hỗ trợ cho nhau để tác động lên thị
trường nhưng mang tính bị động.
NHNN đã chậm trễ trong việc điều chỉnh tỷ giá cho phù hợp với tình hình thực tế
mà luôn có khuynh hướng cố định, giữ mức tỷ giá bằng việc chỉ thực hiện những điều
chỉnh rất nhỏ. NHNN chỉ điều chỉnh mạnh vào những lúc thị trường thật sự nóng. Việc
điều hành chính sách tỷ giá trong giai đoạn này dường như là sự chạy theo diễn biến của
thị trường chứ không phải hướng thị trường theo chính sách.
• Ưu điểm
-

-

Ổn định tỷ giá, góp phần hạn chế tốc độ tăng tỷ giá, thu hẹp chênh lệch tỷ giá chính thức
với tỷ giá trên thị trường tự do, sẽ giúp cải thiện dự trữ ngoại hối của Việt Nam.
Giá cả ngoại tệ từng bước được gắn với cung cầu ngoại tệ trên thị trường, tăng cường tập
trung và quản lý kinh doanh ngoại tệ trên thị trường có tổ chức.
Đồng thời, nó cũng giúp cho các doanh nghiệp được tính đúng, tính đủ chi phí vốn ngoại
tệ trong bảng hạch toán kinh doanh của mình, mà trước đó thường phải che giấu, hợp lý
hóa các khoản mua USD trên thị trường tự do với giá cao hơn giá chính thức, Từng bước
nâng cao vị thế của VND
Có nhiều chuyển biến về mặt chính sách theo hướng tỷ giá ngày càng linh hoạt
Sử dụng rổ tiền tệ làm nền tảng cho chính sách tỷ giá
10


-


Về tổng quát và lâu dài, việc điều chỉnh tỷ giá này có tác dụng tốt nhằm hạn chế, giải toả
tình trạng găm giữ cũng như kỳ vọng đầu cơ, cân đối theo nguyên tắc thị trường cungcầu về ngoại tệ, kích thích xuất khẩu trong nước, từ đó góp phần kiềm chế vững chắc
lạm phát, giúp tăng sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam, hạn chế nhập siêu, nhất
là những sản phẩm trong nước có thể sản xuất thay thế. Việc tiền đồng giảm giá khiến
các nhà xuất khẩu sẽ được lợi, còn hàng hóa nhập khẩu sẽ trở nên đắt hơn.
• Nhược điểm

-

Việc định giá VND cao so với USD trong một thời gian dài đã góp phần làm giảm năng
lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu, đồng thời khuyến khích nhập khẩu, giảm dự trữ ngoại
hối. Điều này được chứng minh bằng một thực tế là nhập siêu của Việt Nam tăng nhanh
liên tục trong mấy năm trở lại đây, từ 2,8 tỷ USD trong năm 2006 lên 8,2 tỷ USD năm
2007 và 17,5 tỷ USD trong năm 2008
- Thâm hụt thương mại của Việt Nam trong năm 2009 vào khoảng 12 USD.
- Nhập siêu tăng nhanh trở lại trong khi các nguồn thu ngoại tệ chính như xuất khẩu, đầu
tư nước ngoài, kiều hối và du lịch đều giảm sút mạnh so với năm 2008; và cùng với việc
doanh nghiệp và người dân chuyển sang nắm USD và vàng đã làm cho cán cân thanh
toán của Việt Nam thâm hụt nặng.
- Dự trữ ngoại hối của Việt Nam giảm một cách tương ứng (từ khoảng 23 tỷ USD vào cuối
năm 2008 xuống còn hơn 17 tỷ USD vào quý 3/2009), mặt khác khiến áp lực giảm giá
VND tiếp tục được duy trì.
• Nguyên nhân
-

Chưa xây dựng được mục tiêu điều hành tỷ giá trong dài hạn, các quyết định điều chỉnh
tỷ giá đều mang tính đối phó với biến động thị trường.
Hệ thống thị trường tiền tệ, thị trường ngoại hối phát triển không kịp với nhu cầu ngoại
tệ của nền kinh tế.

Quy định quản lý ngoại hối còn nhiều bất cập, chế tài xử phạt không nghiêm

11


CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ
TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP
1. Thiết lập chế độ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của Nhà nước
Về chiến lược dài hạn, phải áp dụng tỷ giá thả nổi vì chế độ tỷ giá này phù hợp với
quy luật cung cầu ngoại tệ, xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế và khu vực, mà Việt
Nam là một thành viên. Về chiến lược ngắn hạn, cần áp dụng tỷ giá thả nổi có điều tiết của
Nhà nước, vì những điều kiện để áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi chưa xuất hiện đầy đủ. Do đó
NHNN cần áp dụng 1 số biện pháp như sau:
- Tiếp tục hoàn thiện thị trường ngoại hối và thị trường nội tệ
- Tập trung tích luỹ ngoại tệ do Ngân hàng Trung ương quản lý
- Hoàn thiện các văn bản pháp quy về quản lý ngoại hối ,cách thức điều hành tỷ giá .
- Tiến hành tự do hoá lĩnh vực tài chính , tự do hoá tài khoản vốn và đưa đồng Việt
Nam trở thành có khả năng chuyển đổi.
- Ổn định kinh tế vĩ mô, giảm lạm phát thực hiện các chương trình sản xuất hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu nhằm cân đối cán cân thanh toán
- Cần tiếp tục duy trì cơ chế điều hành tỷ giá hiện nay trong thời gian ngắn tới theo
hướng nới rộng kiểm soát cho phép tỷ giá được hình thành khách quan hơn theo
các quy luật của thị trường
2. Thực hiện chính sách đa ngoại tệ
Hiện nay, trên thị trường ngoại tệ, mặc dù USD có vị thế mạnh hơn hẳn các ngoại tệ
khác, song nếu trong quan hệ tỷ giá chỉ áp dụng một loại ngoại tệ duy nhất sẽ làm cho tỷ giá
bị ràng buộc vào ngoại tệ đó, cụ thể là USD. Khi có sự biến động về giá cả của USD trên thế
giới, lập tức sẽ ảnh hưởng đến quan hệ tỷ giá giữa USD và VND, mà thông thường là những
ảnh hưởng rất bất lợi.
Hiện nay, có nhiều loại ngoại tệ có giá trị thanh toán quốc tế như EURO (EMU), JPY

(Nhật), CAD (Canada), GBP (Bảng Anh)... Điều này tạo điều kiện cho ta có thể thực hiện
chính sách đa ngoại tệ trong thanh toán quốc tế, từ đó ta có thể chọn những ngoại tệ tương
đối ít biến động về tỷ giá hoặc có quan hệ mua bán lớn để thực hiện các khoản thanh toán.
Phương pháp tính tỷ giá của các đồng tiền tập thể này đều giống nhau, chỉ khác nhau ở số
lượng, cơ cấu và tỷ trọng những đồng tiền được chọn đưa vào cụm tiền tệ. Điều quan trọng
là làm sao xác định được tỷ giá danh nghĩa tương ứng với một tỷ giá thực của VND trong
thời gian tới cho phù hợp với khả năng cạnh tranh thực tế của hàng hoá Việt Nam trên thị
trường quốc tế và nhất là sau khi ta đã gia nhập khối ASEAN, AFTA, APEC và tiến tới là
WTO.

12


3. Kết hợp đồng bộ với các chính sách quản lý vĩ mô khác của Nhà nước
Chính sách tỷ giá của Việt Nam được xác định là một bộ phận của chính sách tiền tệ
và có nhiệm vụ đảm bảo ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát, góp phần tăng trưởng kinh tế ở
mức độ cao, bền vững đảm bảo các mục tiêu kinh tế:
Chính sách tỷ giá phải hướng vào xử lý và điều hành tỷ giá theo đúng bản chất vốn
có của nó – là một cơ chế thị trường.
Phối hợp điều hành công cụ tỷ giá và lãi suất nhằm thực hiện những mục tiêu
chung của chính sách tiền tệ. Việc điều hành lãi suất cần gắn liền với điều chỉnh tỷ giá.
Riêng đối với tỷ giá, thay cho việc gắn đồng Việt Nam với đồng USD, tỷ giá chính thức
nên được gắn với rổ tiền tệ (gồm USD và các đồng tiền của các bạn hàng lớn như Nhật,
NIE, khối EU và các nước trong trong khu vực). Hơn nữa, NHNN cần có các biện pháp
tiếp tục phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng để tỷ giá thực sự do các lực lượng
thị trường quyết định. Đối với cơ chế điều hành lãi suất, NHNN có thể xem xét điều
chỉnh linh hoạt lãi suất cơ bản và biên độ lãi suất cho vay, làm cho lãi suất cơ bản thực
sự đóng vai trò là tín hiệu để điều tiết lãi suất thị trường, tiến tới quy định thống nhất
một mức biên độ lãi suất cho vay áp dụng chung cho các kỳ hạn, cuối cùng bỏ quy định
biên độ, cho phép các tổ chức tín dụng tự ấn định lãi suất huy động và cho vay theo các

nguyên tắc thị trường.
Chính sách tỷ giá phải hỗ trợ tốt nhất cho chính sách khuyến khích xuất khẩu để cải
thiện cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại tệ.
Chính sách tỷ giá không được tách rời sự quản lý của Nhà nước. Bởi vì, trong bối
cảnh quốc tế hoá và toàn cầu hoá ngày càng gia tăng, sự vận hành của tỷ giá phải nằm
trong sự quản lý của nhà nước – tỷ giá thả nổi có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước
phải biết huy động sức mạnh quốc tế để phát triển kinh tế, đồng thời phải có kinh nghiệm
nhìn xa trông rộng, tìm cách tiếp cận, điều chỉnh tỷ giá linh hoạt kịp thời theo những
biến động trong và ngoài nước sao cho giữ được tỷ giá trong mối quan hệ hài hoà với lãi
suất, dự trữ ngoại tệ, cán cân thanh toán, tăng trưởng kinh tế, thâm hụt ngân sách và duy
trì chúng theo hướng tích cực.
4. Hoàn thiện công tác quản lý ngoại hối
- Quản lý tốt dự trữ ngoại hối, tăng tích lũy ngoại tệ: xây dựng chính sách phát triển
xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Tiết kiệm chi ngoại tệ, chỉ nhập những hàng hóa cần thiết
cho nhu cầu sản xuất và những mặt hàng thiết yếu trong nước chưa sản xuất được. Ngoại tệ
dự trữ khi đưa vào can thiệp trên thị trường phải có hiệu qủa. Lựa chọn phương án phù hợp
cho việc dự trữ cơ cấu ngoại tệ. Trong thời gian trước mắt vẫn xem đồng USD có vị trí quan
trọng trong dự trữ ngoại tệ của mình nhưng cũng cần đa dạng hóa ngoại tệ dự trữ để phòng
tránh rủi ro khi USD bị mất giá.
13


- Nới lỏng tiến tới tự do hóa trong quản lý ngoại hối, hoạt động này bao gồm việc
giảm dần , tiến đến loại bỏ sự can thiệp trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước trong việc xác
định tỷ giá, xóa bỏ các qui định mang tính hành chính trong kiểm soát ngoại hối, thiết lập
tính chuyển đổi cho đồng tiền Việt Nam, sử dụng linh hoạt và hiệu quả các công cụ quản lý
tỷ giá, nâng cao tính chủ động trong kinh doanh tiền tệ của các ngân hàng thương mại …
- Mở rộng thị trường ngoại hối để các doanh nghiệp, các định chế tài chính phi ngân
hàng tham gia thị trường ngày một nhiều, tạo thị trường hoàn hảo hơn, nhất là thị trường kỳ
hạn và thị trường hoán chuyển để các đối tượng kinh doanh có liên quan đến ngoại tệ tự bảo

vệ mình.
- Quản lý chặt chẽ các khoản vay, nợ nước ngoài, đặc biệt là vay ngắn hạn. Kiểm
soát chặt chẽ việc bảo lãnh vay trả chậm của các NHTM cho các doanh nghiệp vay từ nước
ngoài. Do dự trữ ngoại hối của NHNN còn mỏng, nên NHNN cần tiếp tục kiên trì các biện
pháp thu hút kiều hối: mở rộng đối tượng được uỷ thác, làm dịch vụ chi trả kiều hối…
- NHNN cần từng bước thực hiện cơ chế tự do hoá các giao dịch vãng lai, từng bước
tự do hoá các giao dịch vốn, cho phép một số ngân hàng thương mại tiếp tục thực hiện thí
điểm một số nghiệp vụ giao dịch hối đoái theo thông lệ quốc tế, nâng cao tính linh hoạt của
thị trường ngoại hối .
- Tiến tới hoàn thiện thị trường ngoaị tệ liên ngân hàng với đúng nghĩa là một “thị
trường thực sự” làm cơ sở xác định tỷ giá bình quân liên ngân hàng sát với cung- cầu ngoại
tệ trên thị trường. Thị trường ngoại tệ LNH là một cơ sở hạ tầng quan trọng để NHNN can
thiệp và điều hành tỷ giá, do đó thị trường ngoại tệ LNH phải hoạt động thông suốt, liên tục,
không bị giới hạn bởi không gian và thời gian để tạo điều kiện cho các ngân hàng trong hoạt
động mua bán ngoại tệ, qua đó giải quyết nhanh chóng nhu cầu thanh toán ngoại tệ cho các
doanh nghiệp. Đồng thời có cơ chế ràng buộc các tổ chức tài chính, tín dụng tham gia trên
thị trường ý thức được trách nhiệm và quyền lợi của mình để xây dựng một mô hình thị
trường ngoai tệ liên NH hoàn thiện, điều tiết can thiệp mua, bán ngoại tệ nhằm cân đối cung
cầu và thực hiện chính sách tỷ giá theo định hướng của Nhà nước.
- Củng cố và phát triển thị trường nội tệ liên NH với đầy đủ các nghiệp vụ hoạt động
của nó để tạo điều kiện cho NHNN phối hợp, điều hòa giữa hai khu vực thị trường ngoại tệ
và nội tệ một cách thông suốt.
5. Nâng cao hiệu quả quản lý dự trữ ngoại hối của NHNN
Dự trữ ngoại hối của NHNN nhằm 3 mục đích: nhu cầu giao dịch, dự phòng can
thiệp và tích trữ tài sản, trong đó mục đích can thiệp vào thị trường ngoại hối được coi là
mục đích quan trọng nhất của việc duy trì dự trữ ngoại hối. Một lượng dự trữ ngoại hối đủ
mạnh là công cụ quan trọng để NHNN có thể can thiệp, điều tiết, duy trì tỷ giá hối đoái ở
mức nhất định theo mục tiêu quản lý tỷ giá hối đoái ngắn hạn và mục tiêu quản lý tỷ giá
trung – dài hạn.
14



Với cơ chế tỷ giá hối đoái của Việt Nam hiện nay, việc có một lượng dự trữ ngoại tệ
hùng hậu là yếu tố vô cùng quan trọng cho phép NHNN có thể can thiệp, điều tiết tỷ giá hối
đoái theo mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Nhưng, với thực trạng nền kinh tế Việt Nam
hiện nay: dự trữ ngoại tệ ngày càng giảm sút trong lúc nợ nước ngoài ngày càng gia tăng,
nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị với công nghệ hiện đại phục vụ công cuộc công nghiệp
hoá và hiện đại hoá đất nước ngày càng lớn, việc tăng cường lượng dự trữ ngoại tệ trước mắt
còn rất nhiều khó khăn. Trong khi đó, vai trò can thiệp điều tiết của NHNN nhằm thực hiện
những mục tiêu của chính sách tỷ giá hối đoái cũng như chính sách tiền tệ phục vụ công
cuộc xây dựng và phát triển đất nước hiện nay là rất lớn. Với một nguồn dự trữ ngoại tệ còn
mỏng manh như vậy, để thực hiện trọng trách của NHNN, không những cần phải nhanh
chóng tăng cường dự trữ ngoại hối mà vấn đề đặt ra trước mắt là phải nâng cao hiệu quả
quản lý và sử dụng quỹ này để hoạt động điều tiết của NHNN được thực hiện kịp thời, linh
hoạt và mang lại hiệu quả cao.
6. Nâng cao vị thế đồng tiền Việt Nam
Nâng cao sức mạnh cho đồng tiền Việt Nam bằng các giải pháp kích thích nền kinh tế
như: hiện đại hoá nền sản xuất trong nước, đẩy mạnh tốc độ cổ phần hóa doanh nghiệp quốc
doanh làm ăn thua lỗ, tăng cường thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, xây dựng chính
sách thích hợp để phát triển nông nghiệp, khuyến khích xuất khẩu, bài trừ tham nhũng …
Tạo khả năng chuyển đổi từng phần cho đồng tiền Việt Nam: đồng tiền chuyển đổi
được sẽ tác động tích cực đến hoạt động thu hút vốn đầu tư , hạn chế tình trạng lưu thông
nhiều đồng tiền trong một quốc gia. Hiện tượng đô la hóa nền kinh tế được hạn chế. Việc
huy động các nguồn lực trong nền kinh tế trở nên thuận lợi hơn, hoạt động xuất nhập khẩu
của quốc gia đó năng động hơn. Đồng tiền tự do chuyển đổi làm giảm sự can thiệp trực tiếp
của Chính phủ vào chính sách quản lý ngoại hối và cơ chế điều hành tỷ giá, giúp cho tốc độ
chu chuyển vốn được đẩy mạnh, góp phần đẩy nhanh tiến độ hội nhập kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, muốn tạo khả năng chuyển đổi cho VND phải có đủ lượng ngoại tệ dự trữ
và nền kinh tế vững mạnh. Khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp
Việt Nam phải được nhanh chóng cải thiện.


KẾT LUẬN

15


Có thể nói rằng, tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế rất phức tạp và rất nhạy cảm.
Một chính sách tỷ giá phù hợp với nền kinh tế sẽ trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự
tăng trưởng, nhưng ngược lại một chính sách tỷ giá không phù hợp sẽ trở thành lực cản và
thậm chí còn có thể gây nên những hậu quả khó lường. Vì vậy, việc xây dựng chính sách tỷ
giá hối đoái như thế nào để có thể thực hiện được những mục tiêu phát triển kinh tế của đất
nước là vấn đề mà các quốc gia trên thế giới đều quan tâm.
Là một nước mới chuyển sang nền kinh tế thị trường như Việt Nam thì vấn đề quản lý
tỷ giá ít nhiều cũng còn khá mới mẻ đối với chúng ta. Tuy nhiên, với những kết quả đạt được
sau hơn 10 năm đổi mới, có thể khẳng định rằng chính sách tỷ giá của Việt Nam đã từng
bước được điều chỉnh để phù hợp với các giai đoạn phát triển của đất nước. Điều này thể
hiện những nỗ lực quan trọng của chính phủ trong việc đổi mới và hoàn thiện chính sách
kinh tế vĩ mô nói chung và chính sách điều hành tỷ giá nói riêng. Mặc dù vậy, chính sách tỷ
giá vẫn cần được cải cách hơn nữa, đặc biệt khi thời gian thực hiện AFTA đang tới gần để
chúng ta không bị thiệt hại khi tham gia hội nhập quốc tế mà trái lại, luôn ở vào thế có lợi
trong tiến trình này. Ngoài ra, những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế và khu vực đòi
hỏi chúng ta phải đẩy mạnh công cuộc đổi mới, nâng cao năng lực sản xuất trong nước –
hướng vào xuất khẩu – thay thế nhập khẩu các mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả
trên cơ sở dựa vào sức mình là chính là chính.

16




×