Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Hoạt động kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 92 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

CHU LAN HOA

HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN NỘI BỘ
TẠI NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ KINH TẾ

HÀ NỘI, Năm 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

CHU LAN HOA

HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN NỘI BỘ
TẠI NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

Chuyên ngành: Quản lý kinh tế

Mã số: 60.34.04.10

LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ KINH TẾ


Người hướng dẫn khoa học: TS. TÔ THỊ ÁNH DƯƠNG
HÀ NỘI, Năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của chính bản thân tôi
với sự hướng dẫn của Tiến sỹ Tô Thị Ánh Dương. Các số liệu và kết quả
nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ công trình nào khác.

Hà Nội, ngày

tháng 8 năm 2017

Tác giả luận văn

Chu Lan Hoa


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC HÌNH VẼ
DANH MỤC PHỤ LỤC KÈM THEO
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TOÁN NỘI BỘ TẠI NGÂN HÀNG
TRUNG ƯƠNG .................................................................................................................... 8

1.1. Những vấn đề cơ bản về kiểm toán ........................................................ 8
1.2. Kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng Trung ương ...................................... 14

1.3. Kinh nghiệm về kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng Trung ương của một
số nước và bài học cho Việt Nam................................................................ 21
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN NỘI BỘ TẠI NGÂN
HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM ..................................................................................... 31

2.1. Khái quát về Ngân hàng Nhà nước Việt Nam...................................... 31
2.2. Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Vụ Kiểm toán nội bộ ..... 33
2.3. Thực trạng hoạt động kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam ............................................................................................................. 37
2.4. Nguyên nhân của những tồn tại và hạn chế ......................................... 51
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN
NỘI BỘ TẠI NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM ................................................. 58

3.1. Định hướng xây dựng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trở thành Ngân
hàng Trung ương hiện đại........................................................................... 58
3.2. Định hướng nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán nội bộ tại
NHNN Việt Nam .......................................................................................... 60
3.3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán nội bộ tại
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam .................................................................. 62
3.4. Kiến nghị .............................................................................................. 76
KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 79

Phụ lục 01: Nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt

Viết đầy đủ


KTNB

Kiểm toán nội bộ

KTNN

Kiểm toán Nhà nước

NHNN

Ngân hàng Nhà nước

NHTW

Ngân hàng Trung ương

TCTD

Tổ chức tín dụng

NHTM

Ngân hàng thương mại
DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Thống kê số lượng các cuộc kiểm toán
nội bộ tại NHNN Việt Nam
Bảng 2.2: Cơ cấu theo ngạch bậc của Vụ Kiểm toán
nội bộ


40

Bảng 2.3. Cơ cấu theo độ tuổi của Vụ Kiểm toán
nội bộ

47

47

DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1. Sơ đồ NHTW Pháp

22

Hình 2.1. Sơ đồ cơ cấu tổ chức Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam
Hình 2.2. Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Vụ Kiểm toán
nội bộ

31
36

DANH MỤC PHỤ LỤC KÈM THEO
Phụ lục 01: Nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua hơn 65 năm xây dựng, củng cố, phát triển Ngân hàng Nhà

nước (NHNN) Việt Nam với vị trí một định chế tài chính đặc biệt, thuộc sở
hữu 100% Nhà nước, được giao quản lý một khối lượng lớn tài sản, tiền bạc
của quốc gia, là đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại các tổ chức tín
dụng (TCTD) Nhà nước và cổ phần có vốn nhà nước đã không ngừng lớn
mạnh, có những bước phát triển vượt bậc; góp phần tạo nên sự chuyển biến
tích cực trong lĩnh vực kinh tế.
Bước vào thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, NHNN Việt Nam đã có
những bước đổi mới căn bản trong xây dựng cơ chế chính sách, chỉ đạo điều
hành, thực thi chính sách tiền tệ; qua đó, hoạt động ngân hàng tiếp tục khẳng
định vai trò quan trọng trong điều hành chính sách kinh tế vĩ mô của Chính
phủ, tạo lập nền tảng cho định hướng phát triển của hệ thống ngân hàng ổn
định, lành mạnh, có sức cạnh tranh, là kênh dẫn vốn hiệu quả trong quá trình
tái cơ cấu, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế đất nước.
Cùng với việc hội nhập quốc tế, áp dụng ngày càng nhiều ứng dụng
công nghệ thông tin vào mọi nghiệp vụ, hoạt động ngành ngân hàng nói
chung và hoạt động của Ngân hàng Trung ương (NHTW) nói riêng đối mặt
với rất nhiều thách thức, rủi ro từ các yếu tố trong nước, ngoài nước và từ các
loại tội phạm công nghệ cao. Trong thời gian qua rất nhiều sai phạm trong
ngành ngân hàng đã được phanh phui; thất thoát của những vụ đại án lên đến
hàng nghìn tỷ đồng mà một trong những nguyên nhân là do sự quản lý, giám
sát lỏng lẻo, yếu kém, thiếu chặt chẽ, minh bạch thanh tra ngân hàng Nhà
nước.
Chính vì lý do đó, để NHNN Việt Nam thực hiện tốt vai trò quản lý
tiền tệ đòi hỏi hệ thống kiểm soát nội bộ (KSNB) tại NHNN Việt Nam phải
1


đủ mạnh để giám sát, kiểm tra thường xuyên, toàn bộ các mảng hoạt động
nhằm kịp thời ngăn chặn và phát hiện những gian lận, giảm thiểu sai sót, bất
cập trong hoạt động ngân hàng; đồng thời, đưa ra các khuyến nghị cần thiết

đối với đơn vị được kiểm toán hoặc với Ban Lãnh đạo NHNN để khắc phục
các khó khăn, giải quyết triệt để các tồn tại ở các đơn vị, đảm bảo hệ thống
NHNN hoạt động an toàn, hiệu quả.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, hoạt động KTNB tại NHNN
Việt Nam còn bộc lộ một số tồn tại, bất cập về cơ cấu tổ chức, đội ngũ cán bộ,
chế độ chính sách… đặc biệt là KTNB tại NHNN Việt Nam chưa đáp ứng
được các chuẩn mực kiểm toán quốc tế, khiến hoạt động KTNB chưa phát
huy được hết vai trò của mình.
Xuất phát từ lý do trên mà tác giả đã lựa chọn đề tài: “Hoạt động kiểm
toán nội bộ tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ của
mình với mong muốn sẽ đóng góp cả về mặt lý luận cũng như thực tế cho
hoạt động KTNB tại NHNN Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Các công trình nghiên cứu trong nước
Vấn đề nghiên cứu về nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm toán nội bộ tại
NHNN Việt Nam là đòi hỏi tất yếu khách quan của quá trình phát triển, hội
nhập nhằm đảm bảo hoạt động hệ thống NHNN Việt Nam phát triển ổn định.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học, luận văn Thạc sỹ, Tiến sỹ
liên quan đến hoạt động kiểm toán nói chung và kiểm toán nội bộ tại các
NHTM nói riêng như: Luận án tiến sỹ “ Hoàn thiện kiểm toán nội bộ tại Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam” của tác giả Nguyễn
Minh Phương (năm 2016); Luận án tiến sỹ “ Các nhân tố ảnh hưởng đến sự
hữu hiệu của hệ thống kiểm soát nội bộ trong các ngân hàng thương mại Việt
Nam” của tác giả Hồ Tuấn Vũ (năm 2016); Luận án tiến sỹ “Đánh giá hệ
2


thống kiểm soát nội bộ của ngân hàng thương mại Việt Nam và một số
khuyến nghị” (TS. Phạm Thanh Thủy - 2015)… Các luận án đã đánh giá được
những nhân tố ảnh hưởng đến sự hữu hiệu của hệ thống kiểm soát nội bộ

trong các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam và chỉ ra mức độ cũng
như thứ tự ảnh hưởng của các nhân tố đến sự hữu hiệu của hệ thống kiểm soát
nội bộ trong các NHTM Việt Nam. Tuy nhiên, các luận án mới dừng lại ở
việc nghiên cứu và đưa ra các giải pháp hoàn thiện hoạt động kiểm soát nội
bộ tại NHTM; chưa đề cập đến hoạt động kiểm toán nội bộ tại NHNN Việt
Nam.
Liên quan đến kiểm toán nội bộ NHNN, đã có đề tài khoa học cấp
ngành về “Rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam – Thực trạng và giải pháp” (Lê Quốc Nghị - 2012), đề tài đã phân tích,
đánh giá rủi ro trong hoạt động của NHNN Việt Nam một cách tổng thể, tổng
kết những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế và đề xuất một số biện
pháp về phân tích, đánh giá rủi ro hoạt động của NHNN làm cơ sở đưa ra giải
pháp phòng ngừa và nâng cao chất lượng kiểm toán trên cơ sở rủi ro. Tuy
nhiên, đề tài mới dừng lại ở việc nghiên cứu và đưa ra các biện pháp liên quan
đến kiểm toán nội bộ trên cơ sở rủi ro; chưa đề cập và chưa đi sâu phân tích
thực trạng hoạt động kiểm toán nội bộ tại NHNN Việt Nam.
Tại Việt Nam nói chung và tại NHNN Việt Nam nói riêng, khái niệm
KTNB vẫn còn mờ nhạt, điều này một phần do hệ thống quản lý vẫn còn chưa
đồng bộ, cập nhật theo tình hình mới. Lĩnh vực KTNB chưa thu hút được
nguồn nhân lực có chuyên môn cao trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán. Đi kèm
với nguồn nhân lực chưa được đào tạo bài bản, chuyên nghiệp thì nội dung
kiểm toán cụ thể là chương trình kiểm toán mẫu áp dụng cho loại hình KTNB
chưa được ban hành, để kiểm toán các đơn vị phải tự xây dựng, do vậy rất
khó để đánh giá, kiểm soát chất lượng.
3


Đến thời điểm hiện tại chưa có đề tài khoa học nào đi sâu, nghiên cứu
một cách toàn diện về hoạt động kiểm toán nội bộ tại NHNN, những thuận
lợi, khó khăn khi tiến hành kiểm toán nội bộ và đưa ra những giải pháp để

hoạt động kiểm toán nội bộ của NHNN Việt Nam được hiệu quả.
2.2. Các công trình nghiên cứu nước ngoài
- Một số công trình nghiên cứu nước ngoài đã đưa ra các chuẩn mực
quốc tế về kiểm toán nội bộ, các yêu cầu về kiểm toán nội bộ như: tính độc
lập, tính minh bạch, sự thành thạo về nghiệp vụ và một số các yêu cầu khác.
- Báo cáo thực tập của các Đoàn kiểm toán nội bộ Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam thực tập tại Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc, Pháp, Singapore sau
khi nghiên cứu mô hình và thực tế kiểm toán nội bộ tại các nước đã đưa ra các
bài học kinh nghiệm để kiểm toán nội bộ tại NHNN Việt Nam áp dụng như:
phương pháp kiểm toán; năng lực, trình độ của kiểm toán viên; công tác tuyển
dụng, đào tạo cán bộ làm công tác kiểm toán nội bộ…
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục tiêu tổng quát: đưa ra các giải pháp và kiến nghị chính sách
nhằm nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam.
- Mục tiêu cụ thể: Để đạt được mục tiêu tổng quát trên cần đạt được các
mục tiêu cụ thể sau:
+ Hệ thống hóa được cơ sở lý luận về hoạt động kiểm toán nội bộ tại
NHNN;
+ Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về hoạt động kiểm toán nội bộ tại
NHTW một số nước và rút ra bài học cho Việt Nam;
+ Nghiên cứu thực trạng hoạt động kiểm toán nội bộ tại NHNN Việt
Nam;

4


+ Đề xuất giải pháp và kiến nghị chính sách để nâng cao chất lượng
hoạt động kiểm toán nội bộ tại NHNN Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi nghiên cứu về không gian: Luận văn giới hạn phạm vi
nghiên cứu về không gian là thực tiễn hoạt động kiểm toán nội bộ tại NHNN
Việt Nam.
+ Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Luận văn giới hạn thời gian nghiên
cứu hoạt động kiểm toán nội bộ tại NHNN Việt Nam từ năm 2011 đến năm
2016, đây là giai đoạn bắt đầu áp dụng phần mềm tin học TeamMate (phần
mềm ghi chép kiểm toán theo từng chuyên đề được lập, cho phép ghi chép kết
quả kiểm toán và bộ phận thẩm định theo dõi kiểm toán trực tuyến) vào hoạt
động kiểm toán nội bộ tại NHNN Việt Nam.
+ Phạm vi nghiên cứu về nội dung: nghiên cứu cơ sở lý luận và vai trò
của hoạt động kiểm toán nội bộ tại NHNN Việt Nam; nghiên cứu kinh
nghiệm hoạt động kiểm toán nội bộ của một số nước để rút ra bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam. Nghiên cứu thực trạng hoạt động kiểm toán nội bộ tại
NHNN Việt Nam để từ đó đề xuất giải pháp và kiến nghị chính sách nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm toán nội bộ tại NHNN.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm ứng dụng vào thực tiễn nên để đạt được mục
đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, tác giả đã sử dụng một số phương
pháp sau:
- Phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử, phương pháp hệ thống...
được sử dụng rong Chương 1 khi nghiên cứu những vấn đề lý luận về kiểm
5


toán nội bộ tại Ngân hàng Trung ương.
- Phương pháp bình luận, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh
và đánh giá, phương pháp đối chiếu... được sử dụng trong Chương 2 khi

nghiên cứu thực trạng hoạt động kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam
- Phương pháp tổng hợp, phương pháp quy nạp, phương pháp phân
tích, phương pháp diễn giải... được sử dụng trong Chương 3 khi nghiên cứu
định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán nội bộ tại
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn hệ thống hóa cơ sở lý luận về hoạt động kiểm toán nội bộ tại
NHTW.
- Luận văn đi sâu phân tích thực trạng hoạt động kiểm toán nội bộ tại
NHNN Việt Nam, đồng thời so sánh với những chuẩn mực chung, thực tế
hoạt động kiểm toán nội bộ một số nước trên thế giới để tìm ra những tồn tại,
yếu kém của hoạt động kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá đó, luận văn đề xuất giải pháp và kiến nghị
chính sách nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam.
7. Cơ cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các chữ viết tắt, danh mục
bảng biểu, hình vẽ và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3 chương:
Chương 1.Cơ sở lý luận về kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng Trung
ương.
Chương 2. Thực trạng hoạt động kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam.

6


Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm toán nội bộ tại
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.


7


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TOÁN NỘI BỘ
TẠI NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG

1.1. Những vấn đề cơ bản về kiểm toán
1.1.1. Khái niệm về kiểm toán
Trên thế giới, thuật ngữ kiểm toán đã có từ lâu, từ khi xuất hiện nhu
cầu xác định tính trung thực, độ tin cậy của thông tin trong báo cáo tài chính,
kế toán và thực trạng tài sản của một chủ thể trong quan hệ kinh tế. Ở Việt
Nam, khái niệm kiểm toán mới xuất hiện vào cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX,
với sự ra đời của các công ty kiểm toán và tư vấn tài chính trực thuộc Bộ Tài
chính.
Hiện nay, có nhiều định nghĩa khác nhau về kiểm toán. Mỗi một định
nghĩa có một góc nhìn thể hiện quan điểm nghiên cứu và đề cập đến những
khía cạnh khác nhau của hoạt động kiểm toán.
Theo định nghĩa của Liên đoàn quốc tế các nhà kế toán (International
Federation of Accountants –IFAC) thì “ Kiểm toán là việc các kiểm toán viên
độc lập kiểm tra và trình bày ý kiến của mình về các bản báo cáo tài chính”.
Theo giáo trình kiểm toán của tác giả Alvin A.Rens và tác giả James
K.Loebbecker thì: “Kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập và có thẩm
quyền thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin có thể định
lượng được của một đơn vị cụ thể nhằm mục đích xác nhận và báo cáo về
mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được thiết
lập”.
Giáo trình Lý thuyết kiểm toán của Trường Đại học Kinh tế quốc dân
cho rằng: “Kiểm toán là xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động
được kiểm toán bằng hệ thống phương pháp kỹ thuật của kiểm toán chứng từ


8


và ngoài chứng từ do các kiểm toán viên có trình độ nghiệp vụ tương xứng
thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực”.
Giáo trình Kiểm toán của Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh nêu:
“Kiểm toán là một quá trình do Kiểm toán viên đủ năng lực và độc lập tiến
hành nhằm thu thập bằng chứng về những thông tin có thể định lượng của
một tổ chức và đánh giá chúng nhằm thẩm định và báo cáo về mức độ phù
hợp giữa những thông tin đó với các chuẩn mực đã được thiết lập”.
Các định nghĩa nêu trên có cách diễn đạt và từ ngữ khác nhau song
chúng đều thống nhất ở những nội dung cơ bản sau:
- Chủ thể tham gia hoạt động kiểm toán: Người thực thi công việc kiểm
toán (kiểm toán viên) và các đơn vị kinh tế (gọi chung là các doanh nghiệp)
có các thông tin kinh tế được kiểm toán.
- Đối tượng kiểm toán: Là các thông tin kinh tế được kiểm toán mà
kiểm toán viên sẽ đưa ra ý kiến về những thông tin này sau quá trình thực
hiện công việc kiểm toán.
- Mục tiêu của kiểm toán: Kết thúc quá trình kiểm toán, kiểm toán viên
đưa ra ý kiến về đối tượng kiểm toán.
1.1.2. Phân loại kiểm toán
Theo các tiêu thức khác nhau, ta có thể phân ra nhiều loại kiểm toán
khác nhau:
1.1.2.1. Theo chủ thể thực hiện kiểm toán
Thông thường có 3 chủ thể thực hiện kiểm toán, do đó có 3 loại kiểm
toán: Kiểm toán Nhà nước (KTNN); Kiểm toán độc lập và Kiểm toán nội bộ.
- Kiểm toán Nhà nước:
Kiểm toán Nhà nước là hệ thống bộ máy chuyên môn của Nhà nước
thực hiện các chức năng kiểm toán tài sản công; KTNN ở các nước phát triển

đều thực hiện chức năng kiểm toán các đơn vị ở khu vực công.
9


Ở Việt Nam, để tăng cường sự kiểm soát của Nhà nước trong việc quản
lý và sử dụng ngân sách Nhà nước và tài sản quốc gia, ngày 11/7/1994, Chính
phủ đã có Nghị định số 70/CP V/v "Thành lập cơ quan Kiểm toán Nhà nước".
Theo đó, Kiểm toán Nhà nước được thành lập để "giúp Thủ tướng chính phủ
thực hiện chức năng kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của tài liệu
và số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của các cơ quan Nhà nước, các đơn vị
sự nghiệp, đơn vị kinh tế Nhà nước, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã
hội sử dụng kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp".
Đối tượng của KTNN là hoạt động có liên quan đến quản lý, sử dụng
ngân sách, tiền và tài sản Nhà nước.
Báo cáo KTNN sau khi được công bố là căn cứ pháp lý phục vụ yêu
cầu điều hành, giám sát, quản lý của Quốc hội, các cơ quan quản lý Nhà nước
và các đơn vị được kiểm toán.
Kiểm toán Nhà nước phải hoạt động theo những nguyên tắc và chuẩn
mực Kiểm toán được Tổng Kiểm toán Nhà nước xây dựng và ban hành trên
cơ sở quy định của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
- Kiểm toán độc lập:
Kiểm toán độc lập là hoạt động đặc trưng của nền kinh tế thị trường.
Đây là các tổ chức kinh doanh dịch vụ kiểm toán và tư vấn theo yêu cầu của
khách hàng. Ở các nước sớm phát triển theo cơ chế thị trường, kiểm toán độc
lập đã hành nghề trước khi có những chuẩn mực chung (về kiểm toán viên) và
chuẩn mực chuyên ngành (về công tác kiểm toán). Cho đến nay, trên thế giới
đã có hàng trăm ngàn tổ chức kiểm toán độc lập hoạt động trong lĩnh vực
kiểm toán và tư vấn tài chính.
Hoạt động kiểm toán độc lập giúp các cơ quan chức năng và những
người sử dụng thông tin tài chính của các đơn vị được kiểm toán có những

căn cứ chắc chắn để khẳng định những thông tin mà họ đang sử dụng là trung
10


thực, khách quan và hợp pháp. Hoạt động Kiểm toán độc lập còn giúp các
đơn vị được kiểm toán phát hiện và chấn chỉnh kịp thời các sai sót do vô tình
hay cố ý, kiểm soát các rủi ro trong kinh doanh.
Hoạt động chủ yếu của Kiểm toán độc lập là xác nhận các bảng cân
đối kế toán và các thông tin tài chính mà không đi sâu vào đánh giá tính hiệu
lực và hiệu quả của toàn bộ quá trình hoạt động của đơn vị.
Hoạt động Kiểm toán độc lập do các Kiểm toán viên chuyên nghiệp
thực hiện, tuân theo các nguyên tắc, chuẩn mực kiểm toán nhất định do Bộ
Tài chính quy định.
- Kiểm toán nội bộ:
Hoạt động của các cơ quan, đơn vị, tổ chức (gọi tắt là đơn vị) trong nền
kinh tế thị trường luôn tồn tại những rủi ro tiềm ẩn mà Kiểm toán Nhà nước
và Kiểm toán độc lập không thể kiểm soát và khống chế được, vì vậy, mỗi
đơn vị đều phải có bộ phận KTNB của mình. KTNB là một chức năng thuộc
một đơn vị, nó không hoàn toàn độc lập với đơn vị đó. Nhưng, trong khi thực
hiện nhiệm vụ KTNB phải hoàn toàn độc lập với bộ phận quản lý và điều
hành hoạt động của đơn vị.
Theo cách hiểu như vậy, KTNB được định nghĩa như sau: “KTNB là
một hoạt động nội kiểm có tính độc lập trong các cơ quan, đơn vị kinh tế,
thực hiện chức năng chính là kiểm tra, đánh giá các hoạt động tài chính và
phi tài chính nhằm nâng cao hiệu quả các hoạt động đó và góp phần hoàn
thiện hệ thống quản lý tại các đơn vị kinh tế cơ sở”.
Kiểm toán viên nội bộ không tham gia trực tiếp vào các hoạt động của
đơn vị. Họ không chịu trách nhiệm về quá trình hoạt động của đơn vị nhưng
họ chịu trách nhiệm về những đánh giá của mình đối với hoạt động của đơn
vị.


11


Trên thế giới, KTNB đã trở thành một nghề có tính chuyên nghiệp.
Hiệp hội các Viện Kiểm toán viên nội bộ đã được thành lập năm 1941, có trụ
sở chính tại Hoa Kỳ. Hiện nay Hiệp hội đã có hơn 100 tổ chức quốc gia tham
dự với số thành viên khoảng 122.000 Kiểm toán viên nội bộ.
1.1.2.2. Theo nội dung kiểm toán
Tùy theo mục đích của người sử dụng thông tin, một cuộc kiểm toán có
thể tiến hành một trong ba loại kiểm toán hoặc đồng thời cả ba loại kiểm toán
sau:
- Kiểm toán hoạt động:
Kiểm toán hoạt động là quá trình kiểm toán đánh giá tính hiệu lực, hiệu
quả hoạt động của một bộ phận hay toàn bộ một tổ chức, một đơn vị. Đánh
giá tính hiệu lực là đánh giá khả năng hoàn thành nhiệm vụ, chức năng được
giao hay mục tiêu đặt ra; đánh giá tính hiệu quả là đánh giá quan hệ giữa kết
quả thu được với chi phí bỏ ra trong quá trình thực hiện các chức năng, nhiệm
vụ của một bộ phận hay đơn vị được kiểm toán.
Đối tượng của kiểm toán hoạt động tương đối đa dạng, từ đánh giá khía
cạnh tài chính của một phương án kinh doanh, một quy trình công nghệ, một
loại tài sản mới được đưa vào hoạt động đến việc luân chuyển chứng từ trong
một bộ phận hay đơn vị,…
Báo cáo kiểm toán hoạt động chủ yếu đánh giá tiềm năng nên không
mang tính công khai. Vì vậy, các tổ chức Kiểm toán độc lập thường không
thực hiện loại kiểm toán này; kiểm toán hoạt động thường áp dụng trong kế
hoạch kiểm toán nội bộ của đơn vị.
Kiểm toán hoạt động là loại kiểm toán khó lượng hóa. Chúng ta có thể
lượng hóa được các tiêu thức về tính hiệu lực và hiệu quả của việc sử dụng
các nguồn lực. Nhưng đối với mối quan hệ giữa các chức năng và hiệu quả

hoạt động của từng chức năng thì lại rất trừu tượng, khó lượng hóa. Vì vậy,
12


khó có thể đưa ra một khuôn mẫu chung cho loại kiểm toán này, việc lựa chọn
chuẩn mực thường mang tính chủ quan tùy thuộc vào nhận thức của kiểm
toán viên. Kết quả kiểm toán hoạt động chủ yếu phục vụ lợi ích cho bản thân
đơn vị được kiểm toán.
- Kiểm toán tuân thủ:
Kiểm toán tuân thủ là quá trình kiểm toán nhằm xác định đơn vị được
kiểm toán trong quá trình hoạt động có tuân thủ các thủ tục, nguyên tắc, quy
chế, quy định của cấp trên và các chế định pháp luật của Nhà nước hay
không. Đồng thời, kiểm toán tuân thủ cũng xem xét xem các đơn vị có thiết
lập các quy trình hoạt động và có thực hiện theo các quy trình đó không.
Đối tượng của kiểm toán tuân thủ rất rộng, đó là toàn bộ các hoạt động
trong một đơn vị, từ việc ban hành các văn bản, chế độ, quy trình nghiệp vụ
đến việc thực hiện từng nghiệp vụ trong đơn vị.
Chuẩn mực dùng trong kiểm toán tuân thủ là các văn bản có liên quan,
như: Luật, Nghị định, Thông tư, các văn bản quy phạm pháp luật, các nội quy,
chế độ,…
Kiểm toán tuân thủ được thực hiện bởi cả Kiểm toán Nhà nước, kiểm
toán độc lập và kiểm toán nội bộ. Kết quả kiểm toán tuân thủ thường phục vụ
cho các cấp thẩm quyền liên quan, các nhà quản lý.
- Kiểm toán báo cáo tài chính:
Kiểm toán báo cáo tài chính là quá trình các Kiểm toán viên có thẩm
quyền kiểm tra một cách độc lập các thông tin liên quan đến báo cáo tài chính
của một đơn vị, tổ chức để xác nhận tính trung thực, hợp pháp và phù hợp với
các nguyên tắc quản lý tài chính và hạch toán kế toán của các thông tin đó.
Đối tượng của kiểm toán báo cáo tài chính là các báo cáo tài chính của
đơn vị, như: Bảng cân đối tài khoản, Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả

kinh doanh,…
13


Kiểm toán báo cáo tài chính là khái niệm kiểm toán gần nghĩa nhất với
khái niệm kiểm toán cổ điển. Thông thường nói đến kiểm toán, người ta nghĩ
ngay đến kế toán, hạch toán và chỉ những gì liên quan đến kế toán.
Trong trường hợp các đơn vị chưa hoạt động theo nề nếp, chưa tuân
theo những nguyên tắc quản lý tài chính và hạch toán kế toán thì kiểm toán
báo cáo tài chính là rất cần thiết.
Kiểm toán báo cáo tài chính không chỉ xác nhận tính trung thực của các
thông tin trên báo cáo tài chính mà còn xác nhận tính chính xác, hợp pháp và
phù hợp của các loại thông tin. Do vậy, khi kiểm toán báo cáo tài chính chúng
ta đã kiểm toán tuân thủ dưới một giác độ nhất định.
Chuẩn mực trong kiểm toán báo cáo tài chính là các chuẩn mực kế toán
hay chế độ kế toán hiện hành. Kết quả kiểm toán báo cáo tài chính phục vụ
Nhà nước, đơn vị, các bên có liên quan.
1.2. Kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng Trung ương
1.2.1. Khái niệm và bản chất của kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng
Trung ương
Từ khái niệm chung về kiểm toán, có thể đưa ra khái niệm về kiểm toán
nội bộ tại NHTW như sau: “KTNB tại NHTW là một quá trình mà trong đó,
một hoặc một số kiểm toán viên đủ năng lực, độc lập, có thẩm quyền tiến
hành thu thập, xác minh, đánh giá các bằng chứng về các thông tin có thể
định lượng liên quan đến các hoạt động của một đơn vị thuộc NHTW hay
toàn bộ hệ thống NHTW nhằm xác định và báo cáo mức độ phù hợp giữa các
thông tin đó với các chuẩn mực đã được thiết lập”.
KTNB hình thành và phát triển xuất phát từ những lý do khách quan
của nhu cầu quản lý của tổ chức. Do vậy, KTNB tại NHTW là loại kiểm toán
được các kiểm toán viên nội bộ tại NHTW thực hiện. KTNB tại NHTW thực


14


hiện các loại kiểm toán, đó là kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ và
kiểm toán báo cáo tài chính, phục vụ yêu cầu quản lý nội bộ tại NHTW.
Tính độc lập của KTNB tại NHTW được thể hiện: công việc kiểm toán
không bị những ràng buộc làm hạn chế phạm vi, hiệu quả của việc kiểm tra
hoặc làm chậm trễ việc báo cáo những phát hiện và kết luận.
Tổ chức KTNB tại NHTW là một tổ chức độc lập của NHTW để thực
hiện kiểm tra và đánh giá những hoạt động của các đơn vị trong NHTW.
KTNB không phải là yếu tố bổ sung hay yếu tố thay thế cho công tác kiểm
soát của người quản lý các hoạt động của NHTW. Trách nhiệm đảm bảo hoạt
động NHTW an toàn và hiệu quả tránh rủi ro thuộc về người quản lý các cấp
và nhân viên liên quan đến các hoạt động nghiệp vụ. KTNB là người tư vấn
và trợ giúp cho các nhà quản lý có thể đánh giá được hệ thống kiểm soát, chỉ
ra những rủi ro có thể xảy ra trong các hoạt động nghiệp vụ; thông qua hoạt
động của mình, kiểm toán nội bộ đề xuất, kiến nghị với các cấp quản lý các
giải pháp để sửa đổi, bổ sung chính sách, quy trình nghiệp vụ nhằm nâng cao
tính hiệu quả, an toàn cho các hoạt động nghiệp vụ NHTW. Bộ máy tổ chức
kiểm toán nội bộ gồm một số kiểm toán viên, kiểm toán viên chính, kiểm toán
viên cao cấp.
Đơn vị được kiểm toán tại NHTW là các đơn vị thuộc NHTW. Báo cáo
kết quả KTNB được gửi cho Thống đốc NHTW.
Các chuẩn mực áp dụng trong kiểm toán NHTW là các quy định mang
tính quy phạm pháp luật, các biện pháp nghiệp vụ, các chuẩn mực về các
nghiệp vụ ngân hàng đã được xây dựng, các chuẩn mực về kiểm toán của
KTNN, Bộ Tài chính và NHTW.
Đơn vị được kiểm toán là các đơn vị thuộc NHTW.
Kết quả kiểm toán: Sau giai đoạn kiểm toán, Đoàn kiểm toán thực hiện

lập báo cáo kiểm toán. Tùy thuộc vào loại kiểm toán, báo cáo kiểm toán có
15


thể khác nhau về nội dung, bản chất nhưng trong mọi trường hợp đều phải
cung cấp cho người sử dụng về mức độ tương quan giữa các thông tin kiểm
toán với các chuẩn mực đã xây dựng. Tùy thuộc loại hình kiểm toán, báo cáo
kiểm toán được gửi cho các đối tượng có nhu cầu sử dụng khác nhau của các
cuộc kiểm toán.
Mục tiêu của kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng Trung ương là đánh giá
tính hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng
Trung ương nhằm đảm bảo độ tin cậy của các số liệu kế toán, tài chính, các
loại báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán; đảm bảo cho các đơn vị thuộc
Ngân hàng Trung ương sử dụng các nguồn lực tiết kiệm, hiệu quả, an toàn tài
sản, tuân thủ pháp luật Nhà nước và các quy định của Ngân hàng Trung ương.
1.2.2. Sự cần thiết của kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng Trung ương
Mỗi tổ chức khác nhau có những rủi ro khác nhau nhưng hầu hết họ
quan tâm đến rủi ro về tiền bạc hoặc rủi ro về uy tín.
Với NHTW thì rủi ro về tiền dẫn đến những rủi ro về uy tín. Chức năng
ổn định tiền tệ là chức năng phổ biến của NHTW các nước. Những thiệt hại
về tiền của NHTW thường là tiền của Nhà nước. Những điều đó liên quan rất
nhiều đến công chúng và nó sẽ làm giảm uy tín của NHTW.
NHTW trong quá trình hoạt động gặp rất nhiều rủi ro, có những rủi ro
bên ngoài nhưng cũng có những rủi ro ngay trong nội bộ ngân hàng. Rủi ro
của NHTW do một số nguyên nhân như: sai sót, gian lận, trộm cắp, vi phạm
luật, mất dữ liệu, tham mưu không đúng dẫn đến việc ra quyết định sai liên
quan đến chính sách tiền tệ, chính sách ngoại hối...
Phát hiện, ngăn ngừa rủi ro và bảo vệ NHTW hoạt động an toàn, hiệu
quả là nhiệm vụ của hoạt động kiểm soát nội bộ. Để kiểm soát toàn bộ rủi ro,
các NHTW phải dựa rất nhiều vào hoạt động KTNB.


16


Ở NHTW các nước, tham gia kiểm soát ngân hàng có rất nhiều thành
phần, bao gồm: Chính phủ, Quốc hội, định chế Kiểm toán tối cao, Kiểm toán
độc lập và KTNB tại NHTW.
Chính phủ và Quốc hội có vai trò quan trọng trong việc tạo ra và duy trì
môi trường pháp lý cho hoạt động kiểm toán đầy đủ và hiệu quả. Ngoài thông
tin do kiểm toán độc lập cung cấp, Chính phủ và Quốc hội còn nhận được
nhiều thông tin khác nhau hỗ trợ cho việc kiểm soát và đánh giá hoạt động
Ngân hàng.
Các định chế Kiểm toán tối cao và tổ chức Kiểm toán độc lập thực hiện
kiểm toán Ngân hàng Trung ương theo luật định.
KTNB do một bộ phận của NHTW thực hiện. Bộ phận này độc lập với
các hoạt động quản lý và điều hành của NHTW nhưng phải tuân theo những
nguyên tắc, chuẩn mực mà Ngân hàng Trung ương quy định phù hợp với thông lệ
quốc tế.
1.2.3. Phạm vi và các loại hình kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng
Trung ương
Phạm vi KTNB tại NHTW rất rộng, không chỉ thực hiện kiểm toán ở
tất cả các mảng nghiệp vụ của ngân hàng về lĩnh vực tài chính mà còn liên
quan đến lĩnh vực phi tài chính. Lĩnh vực cơ bản mà KTNB phải quan tâm đó
là hệ thống kiểm soát nội bộ.
Hoạt động KTNB rất đa dạng, nó khác với KTNN và kiểm toán độc lập
ở chức năng đánh giá độ tin cậy của hệ thống kiểm soát nội bộ. Vì vậy, khi
tiến hành một cuộc kiểm toán, kiểm toán nội bộ Ngân hàng Trung ương có
thể đề cập một trong ba loại hoặc cả ba loại kiểm toán: kiểm toán báo cáo tài
chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động.
1.2.4. Yêu cầu kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng Trung ương theo

chuẩn quốc tế
17


1.2.4.1. Tính độc lập
Tính độc lập trong hoạt động KTNB là yếu tố cơ bản, ảnh hưởng rất
lớn đến chất lượng, hiệu quả công tác KTNB. Tính độc lập được đánh giá trên
hai giác độ: tổ chức KTNB và kiểm toán viên nội bộ.
- Tổ chức KTNB: để đảm bảo tính độc lập, tổ chức KTNB phải thỏa
mãn những yêu cầu sau: Tổ chức KTNB phải độc lập với công việc mà họ
tiến hành kiểm toán, có văn bản chính thức quy định quy chế tổ chức và hoạt
động của tổ chức KTNB. Đối với NHTW, tổ chức KTNB thường là một Vụ
có quy chế tổ chức và hoạt động riêng do Thống đốc quy định. Trong quy chế
phải nêu rõ: địa vị pháp lý của tổ chức KTNB; quyền được tiếp cận hồ sơ, văn
bản và cơ sở vật chất liên quan đến hoạt động KTNB; phạm vi hoạt động của
tổ chức KTNB.
- Tính khách quan của kiểm toán viên nội bộ: các kiểm toán viên nội
bộ phải có thái độ công bằng, không định kiến và tránh những xung đột lợi
ích. Tính khách quan đảm bảo công việc kiểm toán hoàn thành không lệ thuộc
vào ý kiến của người khác.
1.2.4.2. Sự thành thạo nghiệp vụ
Hoạt động KTNB nói chung đòi hỏi cần phải có kiến thức, kỹ năng và
những năng lực cần thiết khác để thực thi những trách nhiệm kiểm toán. Công
việc KTNB đòi hỏi đội ngũ kiểm toán viên nội bộ phải thành thạo về kỹ thuật,
nghiệp vụ và được trang bị bổ sung kiến thức phù hợp để thực hiện nhiệm vụ.
Đồng thời, các kiểm toán viên nội bộ phải yêu cầu có đủ các tiêu chuẩn sau:
- Kiểm toán viên nội bộ phải có kiến thức, kỹ năng nhất định;
- Kiểm toán viên nội bộ phải có kỹ năng giao tiếp, ứng xử;
- Kiểm toán viên nội bộ phải có tính thận trọng nghề nghiệp;
- Để có được sự thành thạo nghiệp vụ đòi hỏi kiểm toán viên nội bộ

phải không ngừng rèn luyện, tăng cường kiến thức, kỹ năng và những năng
18


lực khác thông qua các chương trình tiếp tục phát triển kỹ năng nghề nghiệp
nhằm thực hiện công tác kiểm toán đạt hiệu quả cao.
1.2.4.3. Một số yêu cầu khác
- KTNB phải xác định độ chính xác, đầy đủ của thông tin, bao gồm cả
thông tin tài chính và thông tin quản lý;
- Đánh giá tính tuân thủ của đơn vị được kiểm toán: Kiểm toán viên nội
bộ có trách nhiệm đánh giá đơn vị được kiểm toán có thiết lập hệ thống kiểm
soát nhằm tuân thủ luật pháp, chế độ, chính sách và các quyết định quản lý
không.
- Kiểm toán viên nội bộ phải đánh giá các biện pháp được sử dụng để
đảm bảo an toàn tài sản tại đơn vị được kiểm toán: tài sản do NHTW quản lý
không chỉ là tài sản của bản thân ngân hàng mà còn là dự trữ quốc gia hoặc tài
sản giữ hộ. Vì vậy, kiểm toán viên nội bộ phải đánh giá các biện pháp được
sử dụng để đảm bảo an toàn tuyệt đối tài sản; khi cần thiết, kiểm toán viên nội
bộ phải kiểm tra sự tồn tại của tài sản (thông qua phương pháp kiểm kê).
- Kiểm toán viên nội bộ phải đánh giá tính tiết kiệm và hiệu quả việc sử
dụng các nguồn lực tại đơn vị được kiểm toán: mua sắm tài sản lãng phí, tràn
lan; tài sản công nghệ thông tin chưa được khai thác, sử dụng hiệu quả; bố trí
nhân lực không hợp lý, không phù hợp với khả năng, trình độ...
(Nguồn: Báo cáo khảo sát các Đoàn kiểm toán nội bộ Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam thực tập tại Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc, Pháp,
Singapore).
1.2.5. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán nội bộ
tại Ngân hàng Trung ương
Chất lượng KTNB tại NHTW chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, cả
các nhân tố chủ quan và các nhân tố khách quan.

- Các nhân tố chủ quan:
19


+ Quan điểm của Ban Lãnh đạo ngân hàng về vai trò của KTNB: khi
lãnh đạo ngân hàng quan tâm đúng mức, KTNB sẽ được đặt đúng vị trí, có đủ
quyền hạn, phương tiện, sự phối hợp cần thiết khi kiểm tra, giám sát hoạt
động các đơn vị thuộc NHTW, góp phần tích cực trong việc nâng cao chất
lượng và hiệu quả hoạt động KSNB, đảm bảo hoạt động NHTW diễn ra an
toàn.
+ Mô hình tổ chức và hoạt động của ngân hàng: khi quy mô ngân
hàng càng lớn, hoạt động càng đa dạng, phức tạp đòi hỏi hệ thống KTNB
cũng phải tăng cường ở mức tương ứng, phù hợp. Sự thay đổi nếu không kịp
thời, chất lượng KTNB không thể cao.
+ Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ KTNB: phần mềm quản trị điều
hành, kiểm toán chuyên dụng, hệ thống máy tính, các thiết bị chuyên dùng sẽ
là những công cụ đắc lực giúp nâng cao hiệu quả các hoạt động KTNB.
+ Số lượng và chất lượng đội ngũ kiểm toán viên: đây là nhân tố có
ảnh hưởng quan trọng nhất đến năng lực KTNB bởi vì hoạt động KNB được
thực hiện bởi con người theo những quy trình kiểm toán và công nghệ hỗ trợ.
Một đơn vị KTNB mạnh phải có một đội ngũ cán bộ đủ về số lượng và từng
cán bộ có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp, tinh thần trách
nhiệm với công việc cao.
+ Tiếp nhận thông tin và xử lý thông tin được cung cấp bởi bộ phận
kiểm toán một cách khách quan, kịp thời. Ban Lãnh đạo ngân hàng phải quan
tâm đúng mức tới những thông tin báo cáo do KTNB cung cấp và được tiếp
nhận xử lý một cách khách quan và kịp thời.
- Các nhân tố khách quan:
+ Nhân tố pháp lý: KTNB tại NHTW cần có vị trí độc lập tương đối,
được thể chế trong luật, trong các văn bản dưới luật và trong quy định chức

năng, nhiệm vụ của tổ chức KTNB.
20


×