Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (921.11 KB, 104 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HƯƠNG NGỌC

THI HÀNH ÁN TREO TỪ THỰC TIỄN
TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HƯƠNG NGỌC

THI HÀNH ÁN TREO TỪ THỰC TIỄN
TỈNH BẮC NINH
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM MINH TUYÊN

HÀ NỘI, 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kì công
trình nào khác.
Hà Nôi, tháng

năm 2017

Tác giả luận văn

NGUYỄN THỊ HƯƠNG NGỌC


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN, THI HÀNH
ÁN TREO ..................................................................................................................7
1.1. Khái niệm về án treo và thi hành án treo ..........................................................7
1.2. Quy định của pháp luật về thi hành hành án treo ...........................................21
Chương 2. THỰC TIỄN THI HÀNH ÁN TREO TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC
NINH HIỆN NAY ...................................................................................................37
2.1 Điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội, tình hình án treoở tỉnh Bắc Ninhvà ảnh
hưởng của nó đối với công tác thi hành án treo .....................................................37
2.2 Thực trạng thi hành án treo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh ..................................40
Chương 3. NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH
ÁN TREO TẠI TỈNH BẮC NINH ........................................................................58
3.1. Quan điểm chỉ đạo thực hiện pháp luật thi hành án treo ................................58
3.2. Giải pháp hoàn thiện và đảm bảo thực hiện pháp luật thi hành án treo ................63
KẾT LUẬN ..............................................................................................................79

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................81
PHỤ LỤC .................................................................................................................87


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật hìnhsự

ĐKTT

Điều kiện thử thách

HĐXX

Hội đồng xétxử

LTHAHS

Luật thi hành án hình sự

UBND

Ủy bannhândân

TAND

Tòa ánnhândân


TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TGTT

Thời gian thử thách


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Biểu đồ 2.1. Diễn biến bị cáo cho hưởng án treo từ năm 2012 đến năm 2016 .........44


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Công tác thi hành án treo là một mảng cấu thành của công tác thi hành án
hình sự, việc thực hiện tốt công tác này là một trong những hoạt động nhằm thực
hiện nguyên tắc pháp chế XHCN đó là bản án và quyết định của Tòa án khi đã có
hiệu lực pháp luật phải được thi hành và phải được các cơ quan, tổ chức và mọi
công dân tôn trọng. Để đảm bảo hoạt động cho công tác thi hành án treo pháp luật
quy định có nhiều cơ quan chức năng, nhiều tổ chức chính trị, xã hội cùng phối hợp
thực hiện như Tòa án nhân dân; Viện kiểm sát nhân dân; Công an; Tư pháp; UBND
cấp xã; cơ quan, tổ chức nơi người được hưởng án treo cư trú, làm việc cũng như
gia đình của người phải thi hành án cùng phối hợp thực hiện.
Làm tốt công tác thi hành án treo sẽ thể hiện được tính nghiêm khắc của
pháp luật Nhà nước ta đối với những người phạm tội, nhưng cũng có tác dụng
khuyến khích, tạo điều kiện cho người bị kết án tự giác cải tạo, tu dưỡng bản thân
để trở thành người có ích cho xã hội và việc cải tạo đó được đặt dưới sự giám sát
của các cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật. Như vậy thi hành án treo
chính là việc xã hội hóa quá trình cải tạo, giáo dục đối với người phạm tội bị xử

phạt tù nhưng được Tòa án cho miễn chấp hành hình phạt có điều kiện. Việc thi
hành án treo sẽ giảm được các chi phí tốn kém của Nhà nước so với việc cải tạo,
giáo dục tội phạm bằng cách tập chung nhưng vẫn đảm bảo việc nâng cao ý thức,
trách nhiệm của người dân trong công tác đấu tranh chống và phòng ngừa các hành
vi vi phạm pháp luật.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính
sách cùng các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh các mối quan hệ trong
công tác thi hành án treo như Pháp lệnh Thi hành án phạt tù năm 1993 (đã được sửa
đổi bổ sung một số điều năm 2007); Nghị định số 61/2000/NĐ- CP ngày 30 tháng
10 năm 2000 quy định việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo; và Luật thi
hành án hình sự được Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khóa
XII đã thông qua đượcngày 17 tháng 6 năm 2010 tại kỳ họp thứ 7, có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2011, khi đi vào thực tiễn, những văn bản trên đã

1


phát huy tác dụng tích cực và có hiệu quả trong công tác thi hành án hình sự nói
chung cũng như công tác thi hành án treo nói riêng.
Thực tiễn công tác thi hành án treo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong năm vừa
qua đã đạt được những kết quả quan trọng, các bản án xét xử bị cáo nhưng cho
hưởng án treo khi có hiệu lực pháp luật đều được ra quyết định thi hành án và tổ
chức thi hành quyết định đó một cách nhanh chóng, đúng thời hạn quy định của
pháp luật. Theo thống kê trong năm qua toàn ngành Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh
đã ra quyết định thi hành án treo đối với 2530 trường hợp. Việc thi hành án treo đều
được mở sổ thụ lý để theo dõi đầy đủ, hồ sơ thi hành án được lập một cách khoa
học, quyết định thi hành án treo đều được Tòa án gửi cho các cá nhân, cơ quan liên
quan nhanh chóng, đúng thời hạn do pháp luật quy định. Quá trình xét giảm thời
gian thử thách cho người phải chấp hành án treo đã được tiến hành thường xuyên,
đúng quy định của pháp luật và có những tiến bộ rõ rệt. Qua công tác thi hành án

treo đã góp phần giữ vững kỷ cương, lòng tin của quần chúng nhân dân đối với
pháp luật cũng như sự ổn định trật tự, an toàn xã hội.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong thời gian qua công tác thi hành án
treo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh cũng còn tồn tại những mặt hạn chế nhất định. Thực
tế cho thấy Công tác thi hành án treo tại các đơn vị trong ngành Tòa án mới chỉ
quan tâm về mặt thủ tục ra các quyết định, vào sổ sách…, mà chưa quan tâm thực
sự đến quá trình thi hành án của các đối tượng. Việc thi hành án treo tuy đã được
Tòa án ra quyết định và đã được giao cho Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
hoặc cơ quan, tổ chức nơi bị án cư trú, làm việc tổ chức việc thực hiện, nhưng nhìn
chung quá trình theo dõi, giám sát, giáo dục các bị án còn chưa được quan tâm đúng
mức còn nhiều bất cập, sơ hở, thiếu sót. Sự phối hợp giữa Tòa án với các cơ quan,
tổ chức trong hoạt động thi hành án treo còn chưa được chú trọng dẫn đến trường
hợp đối tượng phải chấp hành án đi đâu, làm gì trong thời gian dài mà các cơ quan,
tổ chức được giao giám sát, giáo dục cũng không rõ, quá trình chấp hành án ra sao
chưa được báo cáo đầy đủ cho cơ quan đã ra quyết định thi hành án là Tòa án được
biết. Việc lập hồ sơ làm thủ tục rút ngắn thời gian thử thách cho người phải chấp
hành án còn lúng túng, chưa đáp ứng được các điều kiện đặt ra.

2


Từ những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài “Thi hành án treo từ thực tiễn
tỉnh Bắc Ninh” để nghiên cứu viết luận văn thạc sĩ luật học của mình, bởi đây bởi
đây là đề tài rất cấp thiết có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực hiện pháp luật là một nội dung quan trọng của Luật Hình sự và tố tụng
hình sự, luật thi hành án được các nhà khoa học pháp lý, các cơ quan thực thi pháp
luật nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Riêng thực hiện pháp luật thi hành
án đối với người được hưởng án treo mang đậm tính nhân đạo Xã hội chủ nghĩa
mà Đảng và Nhà nước ta đang xây dựng và là một vấn đề khá nhạy cảm, mang

tính cấp thiết nên đã có một số công trình nghiên cứu trong lĩnh vực này ở những
khía cạnh nhất định mà tác giả đã tìm hiểu nghiên cứu:
Thứ nhất, về sách và các bài viết đăng trên báo, tạpchí:
- Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam. Sách xuất bản năm 2007,
tác giả Lê văn Luật.
- Một số suy nghĩ về Nghị định 61/2000/NĐ-CP về thi hành hình phạt tù
cho hưởng án treo, Tạp chí Toà án nhân dân, số 3/2001.
- Bàn về án treo từ góc nhìn so sánh, Trịnh Quốc Toản,Tạp chí khoa học và
Tổ Quốc số 22/2004 ngày20/11/2004.
- Án treo và thực tiễn áp dụng, tạp chí Toà án nhân dân, số05/1996.
- Chế định án treo và mô hình lý luận của nó trong luật hình sự Việt Nam,
tạp chí Toà án nhân dân, số02/2005.
- Một số suy nghĩ về chế định án treo, tạp chí Toà án nhân dân số 01/1991.
Nguyễn KhắcCông
- Sự cần thiết của việc áp dụng án treo đối với người phạm tội, tạp chí Toà
án nhân dân,số 6/1994. Lê Văn Dũng.
- Nhân thân người phạm tội và việc áp dụng biện pháp án treo theo điều 44
Bộ luật Hình sự, tạp chí Toà án nhân dân số6/1990.
- Một số vần đề thi hành án hình sự, sách của tác giả Trần QuangTiệp.
- Dự thảo Bộ luật thi hành án.
- Pháp luật thi hành án Việt Nam- những vấn đề lý luận và thực tiễn [72].
Thứ hai, về đề tài khoahọc:

3


Đề tài: Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao trách nhiệm về công tác
quản lý, giáo dục người phải thi hành án phạt tù cho hưởng án treo tại Uỷ ban
nhân dân cấp xã của Tỉnh Vĩnh Phúc- Đề tài khoa học của Viện Kiểm sát nhân dân
Tỉnh Vĩnh Phúc- chủ nhiệm Nguyễn HuyPhượng.

Các công trình nghiên cứu và các bài viết trên chủ yếu phân tích và bình
luận về chế định án treo, cải tạo không giam giữ, hoặc có đề tài không dừng lại ở
phần lý luận mà còn đánh giá thực trạng về thi hành án hình sự đối với người được
hưởng án treo ở địa phương mình, song chưa có công trình nào nghiên cứu dưới
góc độ lý luận và thực trạng về thực hiện pháp luật, lý giải các yếu tố ảnh hưởng
đến chất lượng thực hiện pháp luật, các biện pháp, giải pháp đảm bảo thực hiện
pháp luật thi hành án đối với người được hưởng án treo nói chung và ở tỉnh Bắc
Ninh nói riêng.
Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc kết quả các công trình nghiên cứu, các bài
viết, đồng thời bằng kinh nghiệm thực tiễn và vốn hiểu biết của mình, học viên
trình bày trong luận văn cơ sở lý luận, nội dung thực hiện pháp luật thi hành án
hình sự đối với người được hưởng án treo, đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật ở
địa bàn tỉnh Bắc Ninh, đưa ra nhóm giải pháp đảm bảo hiệu lực các văn bản pháp
luật đã ban hành trong lĩnh vực thi hành án đối với người được hưởng án treo, đáp
ứng vấn đề cấp bách của thực tiễn công tác thi hành án đối với người được hưởng
án treo ở địa phươngmình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mụcđích
Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật thi hành án treo,
đánh giá thực trạng công tác thi hành án treo qua thực tiễn tỉnh Bắc Ninh, chỉ ra
nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong tác này, đề ra các giải pháp nhằm đảm bảo
phát huy hiệu quả công tác thi hành án treo ở Tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Phân tích, làm rõ các khái niệm về thi hành án, khái niệm án treo, trình tự
thủ tục thi hành án, quyền và nghĩa vụ của người bị kết án, quyền và trách nhiệm
của cơ quan, tổ chức có liên quan đối với người bị kếtán.

4



- Phân tích vai trò thực hiện pháp luật thi hành án trong đời sống, các yếu tố
nhằm đảm bảo phát huy hiệu quả thực hiện pháp luật thi hành án treo .
- Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật thi hành án treo ở Tỉnh Bắc Ninh
từ năm 2011 đến năm 2016, với những kết quả đạt được, những yếu kém và
nguyên nhân, từ đó đề xuất giải pháp đảm bảo tăng cường hiệu quả thực hiện pháp
luật thi hành án treo, kiến nghị sửa đổi và hoàn thiện pháp luật thi hành án hình sự
đối với những vấn đề nêutrên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiêncứu
4.1. Đối tượng nghiêncứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật nói
chung, pháp luật thi hành án treo nói riêng, phân tích đánh giá thực trạng thực
hiện pháp luật thi hành án đối với người được hưởng án treo qua thực tiễn tỉnh
Bắc Ninh.
4.2. Phạm vi nghiêncứu
Về thời gian: Luận văn đánh giá kết quả thực hiện pháp luật thi hành án
hình sự đối với người được hưởng án treo, thời gian từ năm 2012 đến năm2016.
Về không gian: Tác giả khảo sát thực trạng thực thi pháp luật thi hành án
hình sự đối với người được hưởng án treo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chi Minh và quan điểm của Đảng về công tác thi hành án và chiến lược
cải cách tư pháp đến năm2020.
5.2. Phương pháp nghiêncứu
Tác giả sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật của Chủ nghĩa MácLênin, đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phân tích,
chứng minh, tổng hợp, diễn giải, hệ thống hóa, so sánh, đối chiếu trong khi trình
bày luận văn, chẳng hạn tác giả sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp lịch
sử cụ thể khi trình bày sự hình thành và phát triển các chế định án treo, có so sánh
khái niệm với một số quốc gia trên thế giới.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

5


Đây là đề tài mang tính cấp thiết được các cơ quan bảo vệ pháp luật, Cấp ủy
Đảng và chính quyền tỉnh Bắc Ninh thực sự quan tâm, là đề tài đầu tiên đề cập đến
công tác thực hiện pháp luật thi hành án đối với người được hưởng án treo trên địa
bàn Bắc Ninh, những đóng góp mới của luận văn đólà:
Thứ nhất, tác giả phân tích lý luận về thực hiện pháp luật thi hành án treo;
quan điểm của một số nhà khoa học về thi hành án và thực hiện pháp luật thi hành
án. Trên nền tảng lý luận đó, tác giả xây dựng một số khái niệm liên quan đến thực
hiện pháp luật thi hành án treo.
Thứ hai, tác giả trình bày vai trò của thực hiện pháp luật nói chung, pháp
luật thi hành án nói riêng và ý nghĩa của nó trong quá trình xây dựng Nhà nước
pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, các yếu tố nhằm đảm bảo thực hiện pháp luật thi
hành án treo trên thực tế.
Thứ ba, tác giả trình bày thực trạng thực hiện pháp luật thi hành án treo ở
tỉnh Bắc Ninh từ năm 2012 đến 2016, kết quả đạt được, yếu kém và các nguyên
nhân khách quan, chủ quan. Từ thực trạng đó, tác giả xây dựng các quan điểm và
nêu ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật thi hành án,
kiến nghị sửa đổi các qui định của pháp luật về thi hành án, đáp ứng yêu cầu cấp
bách về hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực thi hành án nói chung, thi hành án treo.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, trang phụ bìa,
mục lục, danh mục sơ đồ, luận văn có bố cục ba chương,
Chương 1. Những vấn đề lý luận về thi hành án, thi hành án treo.
Chương 2. Thực tiễn thi hành án treo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Chương 3. Những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án treo tại tỉnh
Bắc Ninh.


6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN, THI HÀNH ÁN TREO
1.1. Khái niệm về án treo và thi hành án treo
1.1.1. Khái niệm thi hành án
Tòa án là cơ quan xét xử, nhân danh Nhà nước ra các phán quyết nhằm góp
phần lập lại trật tự kỷ cương xã hội. Song phán quyết có được thi hành trên
thực tế hay không nhờ một phần rất lớn vào hoạt động thi hàn hán.Theo Từ
điển tiếng Việt,thi hành là:"Thực hiện điều đã chính thức quyết định" [58,tr.1559].
Còn thi hành án được hiểu là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
được tiến hành theo trình tự thủ tục được pháp luật qui định nhằm thực hiện các bản
án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án [5, tr.706]. Hiện nay, xung quanh bản chất
pháp lý của khái niệm thi hành án, còn có nhiều ý kiến khácnhau.
Hiện nay, trong sách báo pháp lí cũng như trên thực tiễn, cụm từ ghép "thi
hành án" thường được dùng chung với các từ khác trong các nhóm từ như công tác
thi hành án, hoạt động thi hành án, lĩnh vực thi hành án, giai đoạn thi hành án... Xét
về mặt cấu trúc ngữ pháp, trong các nhóm từ trên, các từ công tác, hoạt động, lĩnh
vực, giai đoạn là danh từ có nghĩa chung nhất của nội hàm xác định; còn "thi hành
án" lại đóng vai trò với nghĩa là định ngữ, vì vậy nếu hiểu các nhóm từ đó như khái
niệm "thi hành án" thì chưa đúng. Bởi vì, thứ nhất, các từ công tác, hoạt động, lĩnh
vực, giai đoạn có nghĩa không giống nhau nên khi ghép với "thi hành án" chúng
cũng hàm chứa những nội dung khác nhau; thứ hai, nếu sử dụng các nhóm từ đó
cùng với các từ như bản chất, đặc điểm, chức năng, hình thức, mô hình... thì sự sai
lệch lại tăng thêm. Chẳng hạn, khi nói bản chất của công tác thi hành án; đặc điểm
của hoạt động thi hành án; hình thức hoạt động thi hành án (lẽ ra phải là bản chất,
đặc điểm, hình thức của thi hành án)... thì những từ công tác, hoạt động không còn
ý nghĩa ban đầu; ở đây chỉ thấy nổi rõ nghĩa của thi hành án. Khái niệm thường

được biểu đạt bằng danh từ hay cụm từ, trong đó danh từ hay cụm từ là từ loại còn
tính từ chỉ kết hợp để hình thành khái niệm nhánh trong từ loại đó. Ví dụ, khái niệm
quản lí được hiểu là sự tác động liên tục, có tổ chức, có định hướng của chủ thể
quản lí lên đối tượng quản lí. Từ khái niệm đó, ta có thể phân biệt quản lí kinh tế

7


với quản lí văn hoá, xã hội và trong các trường hợp này, quản lí luôn đóng vai trò
danh từ.
Với sự phân tích trên và để bảo đảm tính logic của các khái niệm khoa học
có liên quan đến thi hành án, theo chúng tôi "thi hành án" cần sử dụng như khái
niệm độc lập. Theo đó, chúng ta có những khái niệm chỉ loại hình thi hành án như
thi hành án hình sự, thi hành án dân sự, thi hành án kinh tế, thi hành án lao động, thi
hành án hành chính. Cũng từ cách hiểu này, chúng ta có thể nhìn nhận các vấn đề
cơ bản của thi hành án như bản chất, đặc trưng, chức năng, hình thức, nguyên tắc,
phương pháp, mô hình tổ chức của thi hành án... ở những cấp độ chung và cụ thể
theo từng loại hình và những cụm từ như công tác thi hành án, lĩnh vực thi hành án,
hoạt động thi hành án sẽ được sử dụng theo đúng nghĩa của chúng.
Về khái niệm thi hành án, Hiện còn có những ý kiến rất khác nhau về khái
niệm này nhưng tựu chung những ý kiến đó đều thể hiện rõ ở hai quan niệm cơ bản:
Coi thi hành án là giai đoạn của tố tụng và thi hành án là dạng hoạt động hành chính
- tư pháp. Quan niệm thứ nhất cho rằng, thi hành án là một giai đoạn của tố tụng, vì:
"Có xét xử thì phải có thi hành án, thi hành án dựa trên cơ sở của của công tác xét
xử. Xét xử và thi hành án là hai mặt thống nhất của quá trình bảo vệ lợi ích của
đương sự".[9, tr.43, 44.] Quan điểm này thừa nhận "không phải mọi hoạt động trong
quá trình thi hành án và quyết định của tòa án đều nằm trong phạm vi điều chỉnh
của Luật tố tụng..." nhưng lại cho rằng thi hành án "thực chất là hoạt động tố tụng
của Tòa án, của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nhằm bảo đảm cho bản án và
quyết định của Tòa án được thi hành một cách chính xác, kịp thời".[57, tr.282.]

Quan điểm thứ hai: Thi hành án là một giai đoạn mang tính Hành chính - Tư
pháp, bởi vì:
Một là, thi hành án thực chất là hoạt động chấp hành, điều hành. Điều hành
và chấp hành là đặc trưng của quản lý hành chính. Tuy nhiên đây là hoạt động chấp
hành và điều hành để thực hiện bản án, quyết định của Tòa án, tức là một nội dung
có tính chất tư pháp. Do vậy khó có thể nói nó là giai đoạn của tố tụng.
Hai là, với tính chất là hoạt động điều hành, cho dù căn cứ để thi hành là các
bản án, quyết định của Tòa án, nhưng quá trình thi hành án không chỉ là các hoạt động

8


mang tính tố tụng, không chỉ áp dụng luật tố tụng, mà nội dung của nó phải áp dụng
nhiều văn bản pháp luật khác để giải quyết luật nội dung.
Ba là, trong quá trình thi hành án, phương pháp áp dụng chủ yếu là kết hợp
giữa giáo dục thuyết phục và mệnh lệnh hành chính, mục đích tác động trực tiếp tới
đối tượng thi hành án để họ tự giác thi hành hoặc áp dụng buộc họ phải thực hiện
nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án; giáo dục họ ý thức tôn
trọng pháp luật, tôn trọng lợi ích Nhà nước, tập thể và côngdân.
Bốn là, việc thi hành án treo được giao cho cơ quan, tổ chức, chính quyền địa
phương thực hiện theo thủ tục hành chính. Pháp luật được áp dụng không phải chỉ
riêng luật tố tụng mà còn bao gồm các qui định pháp luật hành chính- tưpháp.
Như vậy có thể nói hoạt động thi hành án là sự kết hợp biện chứng giữa quá
trình tố tụng và thi hành án hình sự, thi hành án là hoạt động mang tính hành chínhtư pháp.
Quan điểm thứ ba: Thi hành án là hoạt động tư pháp bởi những lý do sau đây:
Một là, trước hết cần khẳng định, thi hành án là giai đoạn tiếp theo của giai
đoạn xét xử, hoạt động xét xử là tiền đề của hoạt động thi hành án.
Thi hành án là giai đoạn diễn ra ngay sau giai đoạn xét xử và các bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án là cơ sở để tiến hành hoạt động thi
hành án. Song không thể nói đây là cơ sở pháp lý duy nhất, mà mới chỉ là điều kiện

cần. Để tiến hành hoạt động thi hành án có hiệu quả, phải có các điều kiện đủ là có
cơ quan thi hành án, các nguyên tắc, trình tự, thủ tục thi hành án được quy định cụ
thể trong pháp luật thi hành án. Cho nên, hoạt động thi hành án không chịu sự điều
chỉnh của pháp luật tố tụng mà chịu sự điều chỉnh của pháp luật thi hành án.
Hai là, mặc dù có sự lệ thuộc và chịu sự chi phối như trên, nhưng ở giai đoạn
thi hành án, tính chất tố tụng đã chấm dứt, bởi lẽ khi bản án, quyết định của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật, chức năng xét xử đã hoàn thành, chân lý đã được làm sáng
tỏ, có tội hay vô tội, đúng hay sai đã được phân xử rõ ràng. ở thời điểm này, quyền
lực của Nhà nước mới chỉ được thể hiện trên các bản án, quyết định công nhận các
sự kiện pháp lý, các quan hệ pháp luật hoặc buộc người thi hành án có nghĩa vụ phải
làm một việc hoặc không làm một việc vì lợi ích của Nhà nước hoặc của người
được thi hành án, chứ việc công nhận này chưa được thể hiện trên thực tế. Để thực

9


hiện nhiệm vụ đưa các phán quyết của Tòa án trở thành hiện thực trên thực tế, cơ
quan thi hành án phải có sự phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan, trong
đó có Tòa án. Việc tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án, nhìn chung
không thuộc chức năng của cơ quan xét xử, điều này được thể hiện rõ nhất trong
hoạt động thi hành án dân sự, kinh tế, hành chính, lao động.
Ba là, thi hành án không mang tính chất hành chính, bởi hành chính là hoạt
động chấp hành, điều hành, các quyết định hành chính được đưa ra trên cơ sở mệnh
lệnh có tính bắt buộc thi hành của cấp trên đối với cấp dưới. Hoạt động của cơ quan
hành chính chủ yếu xoay quanh người đứng đầu là Thủ trưởng cơ quan hành chính,
trong khi đó thi hành án là hoạt động tư pháp có những điểm khác cơ bản
Khái niệm tư pháp hiểu theo nghĩa rộng, là một hệ thống các thiết chế, các tổ
chức bảo vệ pháp luật, duy trì, bảo đảm công lý, công bằng xã hội, trong đó hoạt
động xét xử của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là Tòa án giữ vai trò, vị trí quan
trọng, là khâu trung tâm.

Khái niệm tư pháp hiểu theo nghĩa hẹp, đó là hoạt động xét xử của Tòa án,
thông qua những thủ tục tố tụng nhất định nhằm bảo vệ pháp luật, duy trì, bảo đảm
công lý, công bằng xã hội.
Là một trong các hoạt động tư pháp, với mục đích chung là: "Bảo vệ công lý,
bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân" [41], thi
hành án có những đặc trưng cơ bản sauđây:
Thi hành án dựa trên cơ sở kết quả xét xử của Tòa án. Những bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật là căn cứ để các cơ quan nhà nước, người phải thi
hành án, người được thi hành án, người có quyền và lợi ích liên quan thực hiện các
quyền và nghĩa vụ theo đúng nội dung bản án, quyết định của Tòaán.
Chủ thể thi hành án có rất nhiều loại, đó có thể là Tòa án, cơ quan Công an,
cơ quan thi hành án, ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi
người phải thi hành án cư trú, làm việc hoặc các cơ sở chuyên khoa y tế. Vai trò của
từng loại chủ thể khi tham gia vào quá trình thi hành án khác nhau, phụ thuộc vào
từng loại việc thi hành án.

10


Các chủ thể thi hành án phải tuân thủ những quy định rất chặt chẽ về thi hành
án. Những quy định rất chi tiết, cụ thể như: trình tự, thủ tục ra quyết định thi hành
án; cách thức tổ chức việc thi hành án; giải quyết khiếu nại hoặc trả lời kháng nghị
việc thi hành án... Những quy định này được thực hiện một cách độc lập, do người
có thẩm quyền tiến hành mà không phụ thuộc vào các hoạt động tố tụng khác như
trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử.
Bản án, quyết định của Tòa án là văn bản pháp lý của Tòa án nhân danh Nhà
nước tuyên tại phiên tòa, giải quyết về các vấn đề trong vụ án hình sự, dân sự, hôn
nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính. Việc thực hiện bản án, quyết định
của Tòa án có hiệu quả một mặt bảo đảm thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước,

thể hiện sự tôn trọng của xã hội và công dân đối với phán quyết của cơ quan nhân
danh Nhà nước là Tòa án, mặt khác nó là biện pháp hữu hiệu để khôi phục các
quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân bị xâm hại.
Từ sự phân tích ở trên,tác giả có thể đưa ra khái niệm thi hành án như sau:Thi
hành án là hoạt động của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến hành theo
trình tự, thủ tục do pháp luật qui định để đưa bản án, quyết định của Tòa án ra thực
hiện trên thực tế nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, tổ chức và công dân, bảo vệ
trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Về bản chất của thi hành án, thi hành án là dạng hoạt động chấp hành, quản
lí và thể hiện rõ tính chất hành chính, vì vậy, nó phải thuộc chức năng của quyền
hành pháp. Là dạng hoạt động chấp hành vì thi hành án chỉ được tiến hành trên cơ
sở các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và trong khuôn khổ luật định;
toàn bộ quá trình thi hành án với những hoạt động, biện pháp, cách thức khác nhau
đều nhằm thực hiện những nội dung đã được thể hiện trong các bản án, quyết định
của toà án và theo các quy định cụ thể của pháp luật. Là dạng hoạt động quản lí vì
thi hành án là sự tác động tới đối tượng phải thi hành án để họ tự giác thi hành hoặc
áp dụng các biện pháp buộc họ phải thi hành nghĩa vụ đã được xác định trong các
bản án, quyết định của toà án; phải tuân theo các quy định của pháp luật; giáo dục
họ có ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng lợi ích của cá nhân, tôn trọng kỉ luật nhà
nước và trở thành người lương thiện (đối với những người bị kết án phạt tù). Để
thực hiện các hoạt động chấp hành và quản lí nói trên, phương pháp thuyết phục,

11


giáo dục có ý nghĩa quan trọng nhưng phương pháp mệnh lệnh, bắt buộc phải thi
hành có tính chất đặc thù (trong thi hành án hình sự đó là phương pháp chủ yếu và
có tính tiên quyết).
Có ý kiến cho rằng, thi hành án là dạng hoạt động mang tính hành chính - tư
pháp vì: Thứ nhất, căn cứ để thi hành án là các bản án và quyết định của toàn án;

thứ hai, có sự tham gia của các cơ quan tư pháp (theo nghĩa rộng) vào quá trình thi
hành án. Chúng tôi cho rằng quan niệm như vậy có nhiều điểm hợp lí. Tuy nhiên,
như đã phân tích ở đoạn trên, cái căn bản trong thi hành án là tính chất chấp hành,
quản lí và phương pháp bắt buộc, nghĩa là tính hành chính là cái nổi trội, cơ bản,
quán xuyến. Vì vậy, có thể dùng "cái gạch ngang" giữa hành chính và tư pháp để
phản ánh bản chất của thi hành án. Vấn đề đặt ra là có thể xác định được mức độ
(liều lượng) của tính hành chính và tính tư pháp trong thi hành án hay không? Thật
khó có thể xác định rõ được điều này. Tuy nhiên, thực tiễn cũng đã cho thấy rằng,
đặc điểm của mỗi loại hình thi hành án cũng như của mỗi nhóm vụ việc trong từng
loại hình thi hành án quy định mức độ của tính hành chính và tính tư pháp. Theo
chúng tôi, trong thi hành án, tính tư pháp luôn thể hiện ở mức độ hạn chế hơn so với
tính hành chính.
Các đặc trưng của thi hành án, Thi hành án có những đặc trưng cơ bản sau:
Thi hành án là quá trình diễn ra sau quá trình xét xử của toà án. Bản án,
quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật là cơ sở để tiến hành các hoạt động
thi hành án. Vì vậy, có thể nói không có kết quả của hoạt động xét xử thì cũng
không có hoạt động thi hành án. Tuy nhiên, thi hành án lại không phải là giai đoạn
tố tụng (cuối cùng); bản án và quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật không
phải là cơ sở duy nhất để tiến hành các hoạt động thi hành án; thi hành án đòi hỏi
những nguyên tắc, thủ tục và cách thức hoạt động riêng. Ví dụ, để có thể tiến hành
các hoạt động thi hành án thì phải có quyết định thi hành án và phải dựa trên những
quy định cụ thể về thi hành án..
Thi hành án là dạng hoạt động có tính chấp hành, vì thi hành án chỉ được tiến
hành trong khuôn khổ pháp luật quy định nhằm thực hiện các các bản án và quyết
định của toà án đã có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, ở đây tính chất chấp hành trong
thi hành án có những nét riêng thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, nó chủ yếu do cơ quan tư

12



pháp (theo nghĩa rộng) hay đối tượng phải thi hành án tiến hành; thứ hai, cơ sở để
tiến hành các hoạt động thi hành án bao gồm các quy định của pháp luật (được thể
hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật) và bản án, quyết định của toà án (văn
bản áp dụng pháp luật) đã có hiệu lực pháp luật; thứ ba, mục đích cuối cùng của
hoạt động thi hành án là bảo đảm cho các nội dung của các bản án, quyết định của
toà án đã có hiệu lực pháp luật được thực thi chứ không phải là ra các văn bản áp
dụng pháp luật hoặc các quyết định có tính điều hành, nét đặc trưng của cơ quan
hành chính.
Thi hành án là dạng hoạt động có tính quản lí vì thi hành án luôn đòi hỏi các
yếu tố kế hoạch, tổ chức, đôn đốc, kiểm tra, xử lí... nhằm tác động tới các đối tượng
phải thi hành án để họ tự giác thi hành hoặc áp dụng các biện pháp buộc họ phải thi
hành nghĩa vụ đã được xác định trong các bản án, quyết định của toà án, phải tuân
theo các quy định của pháp luật; giáo dục họ có ý thức tôn trọng pháp luật, tôn
trọng lợi ích của cá nhân, tôn trọng kỉ luật nhà nước và trở thành người lương thiện
(đối với những người bị kết án phạt tù). ở đây, tính chất quản lí cũng có đặc trưng
riêng về chủ thể quản lí, đối tượng và khách thể quản lí; phạm vi và phương pháp
quản lí...
Trong thi hành án, phương pháp thuyết phục, giáo dục có ý nghĩa quan trọng
nhưng phương pháp mệnh lệnh, bắt buộc phải thi hành có tính chất đặc thù (trong
thi hành án hình sự đó là phương pháp chủ yếu và có tính tiên quyết). Điều này xuất
phát từ tính chất của thi hành án như đã nêu ở trên. Ngay cả trong trường hợp người
phải thi hành án tự nguyện thực thi hành nghĩa vụ của mình thì cũng là vì họ hiểu
rằng toà án đã phán xét, sự thực đã được làm sáng tỏ (nghĩa là trước đó họ đã không
tự nguyện) và nếu không thi hành thì họ sẽ phải chịu các biện pháp cưỡng chế của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Có nhiều cơ quan tham gia vào quá trình thi hành án, nhất là trong việc tổ
chức thi hành các bản án và quyết định của toà án có những nội dung phức tạp.
Thực tế đã cho thấy rõ, trong thi hành án vai trò của các cơ quan tư pháp là rất quan
trọng, nhất là các cơ quan thi hành án nhưng trong nhiều trường hợp nếu không có
sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tư pháp với cơ quan hành pháp và có sự lãnh


13


đạo của các tổ chức Đảng thì việc thi hành các bản án phức tạp khó đạt được kết
quả tốt.
Về nội dung thi hành án, Nội dung thi hành án rất rộng, bao gồm toàn bộ các
hoạt động từ khi ra quyết định thi hành án cho đến khi giải quyết xong tất cả các
vấn đề của người phải thi hành án, nghĩa là đến khi các đương sự hay người bị kết
án trở lại trạng thái bình thường, trong đó có việc phải tạo điều kiện cho người phải
thi hành án phạt tù có việc làm để bảo đảm cuộc sống bình thường. Có ý kiến khác
lại cho rằng nội dung thi hành án chỉ giới hạn ở việc thực thi về mặt pháp luật các
nội dung thể hiện trong các bản án, quyết định của toà án. Ví dụ, trong thi hành án
dân sự khi người thi hành án đã thực hiện xong nghĩa vụ được xác định trong bản
án hay quyết định của toà án là xong còn hậu quả xã hội có liên quan đến các đương
sự thì họ phải tự lo liệu hoặc đề nghị cơ quan, tổ chức giải quyết theo thủ tục khác.
Trong thi hành án phạt tù, thi hành án sẽ kết thúc khi người bị kết án tù đã chấp
hành xong hình phạt tù hoặc được đặc xá. Tình trạng của người này sau khi ra tù thế
nào được giải quyết theo thủ tục khác. Chúng tôi nghiêng về quan niệm thứ hai, bởi
vì bất cứ dạng hoạt động nào cũng chỉ có giới hạn của nó. Đối với thi hành án, nếu
mở rộng giới hạn của nó như quan niệm thứ nhất thì khó có thể bảo đảm được tính
hiện thực cuả nó.
Về các loại hình thi hành án, ở nước ta có 5 loại hình thi hành án: Dân sự,
hình sự, kinh tế, lao động, hành chính. Bên cạnh những điểm chung, mỗi loại hình
thi hành án lại có những đặc điểm riêng và trong không ít trường hợp chúng có sự
đan xen lẫn nhau. Chính sự đan xen này làm nảy sinh những vướng mắc về mặt lí
luận. Chẳng hạn như việc phạt tiền, tiêu huỷ tang tài vật trong án hình sự; việc nhận
người làm việc lại trong án lao động có thuộc phạm vi thi hành án dân sự không?
Phạm vi thi hành án dân sự có phải chỉ là những vấn đề có liên quan đến tài sản và
bồi hoàn hay bao gồm tất cả những vấn đề có tính dân sự? Những vấn đề liên quan

đến bán đấu giá tài sản, tuyên bố phá sản... có thuộc phạm vi thi hành án dân sự
không?... Tình hình đó đòi hỏi phải nghiên cứu cơ sở lí luận cho việc xác định tính
đặc thù và phân định giới hạn của mỗi loại hình thi hành án để từ đó xác định nội
dung, nguyên tắc, phương pháp và biện pháp phù hợp cho mỗi loại hình đồng thời

14


xây dựng mô hình tổ chức và quản lí thi hành án hợp lí và có hiệu quả. Thực tế hiện
nay ở nước ta đã cho thấy rõ tính bức xúc của các vấn đề nói trên.
Về mô hình tổ chức và quản lí thi hành án, có thể nói hiện nay vấn đề về mô
hình tổ chức và quản lí thi hành án ở nước ta chưa có được phương án tổng thể và
có tính khả thi. Vì vậy, tình trạng vừa tản mạn vừa chồng chéo là không thể tránh
khỏi. Để có được mô hình tổ chức và quản lí thi hành án mang tính thống nhất và có
tính khả thi thì cần thiết phải nghiên cứu và giải quyết đồng bộ các vấn đề nêu trên
đồng thời phải chú trọng tới việc hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật về thi
hành án và xây dựng đội ngũ cán bộ thi hành án. Theo chúng tôi, căn cứ vào bản
chất, đặc trưng, mục đích, nội dung của thi hành án như đã phân tích ở trên, mô
hình thi hành án ở nước ta cần xây dựng theo hướng xây dựng hệ thống tổ chức và
quản lí thống nhất tất cả các loại hình thi hành án do Chính phủ thống nhất quản lí.
Vấn đề xã hội hoá trong thi hành án, xuất phát từ bản chất, đặc trưng của thi
hành án cũng như từ thực tiễn thi hành án, có thể thấy rõ là có cơ sở để thực hiện
vấn đề xã hội hóa trong thi hành án. Xã hội hoá thi hành án đúng đắn chắc chắn sẽ
mang lại nhiều lợi ích như giảm nhẹ bộ máy tổ chức, biên chế; phát huy vai trò và
sức mạnh của các tổ chức, gia đình và cá nhân trong việc giáo dục, thuyết phục,
cảm hoá người bị thi hành án tự giác thực hiện nghĩa vụ của mình; giảm nhẹ sức ép
về tâm lí và tạo điều kiện thuận lợi để gắn công tác thi hành án với việc giải quyết
các vấn đề xã hội... Tuy nhiên, đây cũng là những vấn đề rất khó đòi hỏi phải có sự
nghiên cứu cơ bản, toàn diện cả về mặt lí luận và thực tiễn.
Tóm lại, Thi hành án là hoạt động của cơ quan, tổ chức, người có thẩm

quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật qui định để đưa bản án, quyết
định của Tòa án ra thực hiện trên thực tế nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, tổ
chức và công dân, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủnghĩa. Việc thực hiện bản án,
quyết định của Tòa án có hiệu quả một mặt bảo đảm thực hiện quyền tư pháp của
Nhà nước, thể hiện sự tôn trọng của xã hội và công dân đối với phán quyết của cơ
quan nhân danh Nhà nước là Tòa án, mặt khác nó là biện pháp hữu hiệu để khôi
phục các quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân bị xâmhại.
1.1.2. Khái niệm án treo, bản chất, trình tự, thủ tục thi hành án
1.1.2.1. Khái niệm án treo

15


Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm
tước bỏ, hạn chế quyền lợi của người phạm tội. Theo Điều 27 Bộ luật hình sự năm
1999 thì " Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ
trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của
cuộc sống Xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo
dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm". Bên
cạnh việc áp dụng các hình phạt, Việt nam và một số quốc gia khác sử dụng các
biện pháp khác đó là ántreo.
Án treo là một chế định ra đời từ rất sớm. Trên thế giới, mỗi Quốc gia có qui
định khác nhau về chế định này, chẳng hạn luật hình sự của Anh và Mỹ coi án treo
là trường hợp hoãn tuyên án kèm theo biện pháp bảo lĩnh hoặc biện pháp bảo đảm
bằng tiền. Luật hình sự của Pháp, Bỉ và một số nước coi án treo là việc hoãn hoặc
miễn chấp hành hình phạt. Các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây coi
án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, nhưng cũng có nước
coi án treo là hình phạt chính như Cộng hòa dân chủ Đức [28,tr.8].
Ở nước ta, chế định án treo được qui định ngay từ những năm đầu của Nhà
nước dân chủ nhân dân và tồn tại cho đến ngày nay, mặc dù chưa có văn bản luật

nào đưa ra định nghĩa chính thức án treo là gì, song nhìn chung các văn bản đều đưa
ra những qui định về án treo, điều kiện được hưởng án treo. Trải theo dòng lịch sử
lập pháp Việt Nam, các quy định về án treo có một số thay đổi và ngày càng hoàn
thiện nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh và phòng ngừa tội phạm. Văn bản đầu tiên
quy định về án treo là Sắc lệnh số 21 năm 1946, giai đoạn này án treo được xem là
một biện pháp tạm đình chỉ việc thi hành án: "Khi phạt tù, Tòa án có thể cho tội
nhân được hưởng án treo nếu có những lý do đáng khoan hồng. Bản án xử treo sẽ
tạm đình chỉ việc thi hành án. Nếu trong năm năm bắt đầu từ ngay tuyên án, tội
nhân không bị tòa án làm tội một lần nữa về một tội mới thì bản án đã tuyên sẽ bị
hủy đi, coi như không có. Nếu trong năm năm ấy, tội nhân lại bị kết án một lần nữa
trước một tòa án thì bản án treo sẽ đem ra thi hành". án treo là một biện pháp hoãn
hình có điều kiện, áp dụng chủ yếu đối với những kẻ phạm tội nhẹ, bản chất không
nguy hiểm, xét không cần thiết phải bắt thi hành ngay án phạt tù, nhằm mục đích
khuyến khích họ tự nguyện lao động cải tạo với sự giúp đỡ tích cực của xã hội,

16


đồng thời cảnh báo họ nếu tiếp tục phạm tội trong thời gian thử thách, thì tùy
trường hợp, sẽ buộc phải chấp hành án cũ trong mức độ cần thiết. Ngược lại,"nếu
trong thời gian thử thách, họ không phạm tội gì mới, án trước sẽ được xóa bỏ"[62].
Theo Nghị quyết số 01/1990/NQ-HĐTP ngày 18.10.1990 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân Tối cao thì án treo là một biện pháp miễn chấp hành hình
phạt tù có điều kiện.
Sau này nhiều nhà Luật học có đưa ra các quan điểm về án treo, theo Đinh
Văn Quế thì: "Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được
áp dụng đối với người bị phạt tù không qua ba năm tù, căn cứ vào nhân thân của
người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần bắt họ phải chấp
hành hình phạt tù [34, tr.372].
1. Nghị Quyết số Số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06 tháng 11 năm 2013 của

Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao thì “Án treo là biện pháp miễn chấp
hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt
tù không quá 3 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm
nhẹ, xét thấy không cần buộc phải chấp hành hình phạt tù.”[21]
Theo PGSTSKH Lê Văn Cảm thì: án treo là biện pháp miễn chấp hành hình
phạt tù kèm theo một thời gian thử thách nhất định đối với người bị coi là có lỗi
trong việc thực hiện tội phạm khi có đủ căn cứ và điều kiện do pháp luật hình sự
quyđịnh.
Nhìn chung các tác giả đều thống nhất với sự hướng dẫn, giải thích của Tòa
án nhân dân Tối cao trong Nghị quyết số 01/1990, coi án treo là một biện pháp miễn
chấp hành hành hình phạt tù có điều kiện, và điều kiện đó là: Người phạm tội bị xử
phạt tù không quá ba năm không phân biệt tội gì, có nhân thân tốt, luôn chấp hành
chính sách pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, chưa có tiền án, tiền sự,
có nơi thường trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, và xét thấy không cần thiết
phải bắt họ chấp hành hình phạt tù thì Tòa án xét xử cho họ hưởng án treo.
Với tinh thần của Nghị quyết, trên cơ sở qui định của Bộ luật hình sự hiện
hành, Giáo trình luật hình sự Việt Nam của Trường đại học Luật Hà Nội có nêu: án
treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, án treo thể hiện tính
nhân đạo của Luật Hình sự Việt Nam,có tác dụng khuyến khích người bị kết án tự

17


tu dưỡng và lao động tại cộng đồng với sự giúp đỡ tích cực của xã hội cũng như gia
đình đồng thời cảnh báo họ nếu phạm tội mới trong thời gian thử thách thì buộc họ
phải chấp hành hình phạt tù đãtuyên.
Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự hiện hành cũng xác định án treo
là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Điều 60 khoản 1 Bộ luật
hình sự năm 1999 qui định:"Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân
thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt

chấp hành hình phạt tù, thì tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách
từ một năm đến nămnăm".[46 ].
Tuy nhiên, so với qui định về án treo theo Bộ luật Hình sự năm 1985, thì chế
định án treo được qui định trong Bộ luật Hình sự năm 1999 có nhiều sự thay đổi về
điều kiện được hưởng án treo (Mức hình phạt tù xem xét cho hưởng án treo từ 5
năm theo Bộ luật Hình sự 1985 xuống còn 3 năm tù theo Bộ luật Hình sự 1999),
điều kiện thử thách (điều kiện không phạm tội mới thay thế cho điều kiện không
phạm tội mới do cố ý hoặc không phạm tội mới do vô ý và bị phạttù).
Theo quy định của Bộ luật hình sự 2015 “Khi xử phạt tù không quá 03 năm,
căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy
không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định
thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian
thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự.”
Như vậy Bộ luật hình sự 2015 quy định tương tự như các bộ luật trước thể
hiện tính kế thừa, bên cạnh đó cũng quy định thêm về nghĩa vụ trong thời gian thử
thách được thực hiện theo quy định luật thi hành án hình sự.
Trên cơ sở tra cứu từ điển luật học, các quan điểm của các nhà Luật học về
án treo, hướng dẫn giải thích của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao, quy
định của Bộ luật Hình sự năm 1985, năm 1999, năm 2015về áp dụng hình phạt tù
cho hưởng án treo đối với người phạm tội, tác giả có thể đưa ra khái niệm chung nhất
về án treo như sau:
Án treo không phải là một loại hình phạt mà là một biện pháp miễn chấp hành
hình phạt tù có điều kiện, điều kiện đó là: Người bị phạt tù không quá ba năm bất kể
về tội gì, nhân thân tốt và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, và xét thấy không cần thiết phải

18


cách ly họ ra khỏi xã hội, Tòa án cho họ miễn chấp hành hình phạt tù và ấn định cho
họ một khoảng thời gian thử thách từ một năm đến năm năm, trong khoảng thời gian

đó nếu họ không phạm tội mới thì họ không phải chấp hành hình phạt tù của bản án
đãtuyên. Tuy nhiên tác giả nhận thấy cũng chưa thế hiện rõ quan điểm về “ án treo”.
Bản chất của án treo: Từ khái niệm chung về án treo, rút ra nhận xét về bản
chất của án treo nhưsau:
Thứ nhất: án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện,
không phải là hình phạt tù, đây là điểm cần phân biệt. Pháp luật Hình sự Việt Nam
quy định bảy hình phạt chính trong đó có hình phạt tù,và án treo là biện pháp miễn
chấp hành hình phạt tù trong các trại giam khi người phạm tội có đủ các điều kiện
theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành;
Thứ hai: Người được hưởng án treo sẽ phải chịu một thời gian thử thách từ
một đến năm năm, thời gian thử thách bằng hoặc lớn hơn mức phạt tù. Trong thời
gian thử thách phải chịu sự giám sát, giáo dục của cơ quan tổ chức được Tòa án
giao trách nhiệm giám sát, giáo dục;
Thứ ba: Trong thời gian thử thách, nếu người đó phạm tội mới thì biện pháp
miễn chấp hành hình phạt tù bị xóa bỏ, người được hưởng án treo buộc phải chấp
hành hình phạt tù trong bản án mà Hội đồng xét xử đã cho hưởng án treo trước đó
cộng với hình phạt của bản án về tội phạm mới thực hiện.
Tóm lại: án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Việc
cho bị cáo được hưởng án treo thể hiện chính sách nhân đạo của Pháp luật xã hội chủ
nghĩa, có mục đích khuyến khích người bị kết án tự lao động cải tạo dưới sự giám sát
của xã hội, sự giúp đỡ khuyến khích của cộng đồng, người thân, tạo cho họ có cơ hội
trở thành người có ích mà không nhất thiết bắt buộc cách ly họ ra khỏi xã hội.
Tuy nhiên hiện nay ở một số địa phương, trong từng vụ án cụ thể, trong từng
thời điểm cụ thể do có sự không thống nhất trong nhận thức nên việc vận dụng cho
bị cáo hưởng án treo còn tùy tiện, không đảm bảo tính công bằng xã hội, làm mất đi
ý nghĩa tốt đẹp trong chính sách nhân đạo của Pháp luật Xã hội chủ nghĩa. Vì vậy
có quan điểm cho rằng nên bỏ chế định án treo, quan điểm này cho rằng:
Từ trước đến nay luật chưa định nghĩa án treo là gì, án treo đang "Tạo ra sự
bất công và không hề nhân đạo, làm một điểm tựa của hiện tượng tiêu cực trong


19


×