Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh bắc ninh (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.83 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HƯƠNG NGỌC

THI HÀNH ÁN TREO TỪ THỰC TIỄN
TỈNH BẮC NINH

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.04

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, 2017


Công trình được hoàn thành tại:
Học viện Khoa học Xã hội

Người hướng dẫn khoa học:
TS. PHẠM MINH TUYÊN

Phản biện 1: TS. ĐẶNG QUANG PHƯƠNG
Phản biện 2: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG VINH

Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ
họp tại: Học Viện Khoa học Xã hội vào lúc: 8 giờ, ngày 19 tháng 10
năm 2017.

Có thể tìm hiểu luận văn tại:


- Thư viên Học viện Khoa học Xã hội


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Công tác thi hành án treo là một mảng cấu thành của công tác
thi hành án hình sự, việc thực hiện tốt công tác này là một trong
những hoạt động nhằm thực hiện nguyên tắc pháp chế XHCN đó là
bản án và quyết định của Tòa án khi đã có hiệu lực pháp luật phải
được thi hành và phải được các cơ quan, tổ chức và mọi công dân tôn
trọng. Để đảm bảo hoạt động cho công tác thi hành án treo pháp luật
quy định có nhiều cơ quan chức năng, nhiều tổ chức chính trị, xã hội
cùng phối hợp thực hiện như Tòa án nhân dân; Viện kiểm sát nhân
dân; Công an; Tư pháp; UBND cấp xã; cơ quan, tổ chức nơi người
được hưởng án treo cư trú, làm việc cũng như gia đình của người
phải thi hành án cùng phối hợp thực hiện.
Thực tiễn công tác thi hành án treo trên địa bàn tỉnh Bắc
Ninh trong năm vừa qua đã đạt được những kết quả quan trọng, các
bản án xét xử bị cáo nhưng cho hưởng án treo khi có hiệu lực pháp
luật đều được ra quyết định thi hành án và tổ chức thi hành quyết
định đó một cách nhanh chóng, đúng thời hạn quy định của pháp luật.
Việc thi hành án treo tuy đã được Tòa án ra quyết định và đã
được giao cho Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ
chức nơi bị án cư trú, làm việc tổ chức việc thực hiện, nhưng nhìn
chung quá trình theo dõi, giám sát, giáo dục các bị án còn chưa được
quan tâm đúng mức còn nhiều bất cập, sơ hở, thiếu sót. Sự phối hợp
giữa Tòa án với các cơ quan, tổ chức trong hoạt động thi hành án treo
còn chưa được chú trọng dẫn đến trường hợp đối tượng phải chấp
1



hành án đi đâu, làm gì trong thời gian dài mà các cơ quan, tổ chức
được giao giám sát, giáo dục cũng không rõ, quá trình chấp hành án
ra sao chưa được báo cáo đầy đủ cho cơ quan đã ra quyết định thi
hành án là Tòa án được biết. Việc lập hồ sơ làm thủ tục rút ngắn thời
gian thử thách cho người phải chấp hành án còn lúng túng, chưa đáp
ứng được các điều kiện đặt ra.
Từ những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài “Thi hành án treo từ
thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” để nghiên cứu viết luận văn thạc sĩ luật học của
mình, bởi đây bởi đây là đề tài rất cấp thiết có ý nghĩa quan trọng cả về
mặt lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Thứ nhất, về sách và các bài viết đăng trên báo, tạp chí:
- Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam. Sách xuất
bản năm 2007, tác giả Lê văn Luật.
- Một số suy nghĩ về Nghị định 61/2000/NĐ-CP về thi hành
hình phạt tù cho hưởng án treo, Tạp chí Toà án nhân dân, số
3/2001. Sự cần thiết của việc áp dụng án treo đối với người phạm
tội, tạp chí Toà án nhân dân,số 6/1994. Lê Văn Dũng.
- Nhân thân người phạm tội và việc áp dụng biện pháp án
treo theo điều 44 Bộ luật Hình sự, tạp chí Toà án nhân dân số
6/1990.
- Một số vần đề thi hành án hình sự, sách của tác giả Trần
Quang Tiệp.
- Dự thảo Bộ luật thi hành án. Pháp luật thi hành án Việt
Nam- những vấn đề lý luận và thực tiễn
2


Thứ hai, về đề tài khoa học:

Đề tài: Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao trách nhiệm
về công tác quản lý, giáo dục người phải thi hành án phạt tù cho
hưởng án treo tại Uỷ ban nhân dân cấp xã của Tỉnh Vĩnh Phúc- Đề
tài khoa học của Viện Kiểm sát nhân dân Tỉnh Vĩnh Phúc- chủ
nhiệm Nguyễn Huy Phượng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật thi
hành án treo, đánh giá thực trạng công tác thi hành án treo qua thực
tiễn tỉnh Bắc Ninh, chỉ ra nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong tác
này, đề ra các giải pháp nhằm đảm bảo phát huy hiệu quả công tác
thi hành án treo ở Tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Phân tích, làm rõ các khái niệm về thi hành án, khái niệm
án treo, trình tự thủ tục thi hành án, quyền và nghĩa vụ của người bị
kết án, quyền và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức có liên quan đối
với người bị kết án.
- Phân tích vai trò thực hiện pháp luật thi hành án trong đời
sống, các yếu tố nhằm đảm bảo phát huy hiệu quả thực hiện pháp
luật thi hành án treo .
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về thực hiện
3


pháp luật nói chung, pháp luật thi hành án treo nói riêng, phân tích
đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật thi hành án đối với người
được hưởng án treo qua thực tiễn tỉnh Bắc Ninh.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Luận văn đánh giá kết quả thực hiện pháp luật
thi hành án hình sự đối với người được hưởng án treo, thời gian từ
năm 2012 đến năm 2016.
Về không gian: Tác giả khảo sát thực trạng thực thi pháp
luật thi hành án hình sự đối với người được hưởng án treo trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chi Minh và quan điểm của Đảng về công
tác thi hành án và chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật của
Chủ nghĩa Mác- Lênin, đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể như: Phân tích, chứng minh, tổng hợp, diễn giải, hệ
thống hóa, so sánh, đối chiếu trong khi trình bày luận văn, chẳng
hạn tác giả sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử cụ
thể khi trình bày sự hình thành và phát triển các chế định án treo, có
so sánh khái niệm với một số quốc gia trên thế giới.
6. Đóng góp về lý luận và thực tiễn
Thứ nhất, tác giả phân tích lý luận về thực hiện pháp luật thi
4


hành án treo; quan điểm của một số nhà khoa học về thi hành án và
thực hiện pháp luật thi hành án. Thứ hai, tác giả trình bày vai trò của
thực hiện pháp luật nói chung, pháp luật thi hành án nói riêng và ý
nghĩa của nó trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội
chủ nghĩa, các yếu tố nhằm đảm bảo thực hiện pháp luật thi hành án

treo trên thực tế. Thứ ba, tác giả trình bày thực trạng thực hiện pháp
luật thi hành án treo ở tỉnh Bắc Ninh từ năm 2012 đến 2016, kết quả
đạt được, yếu kém và các nguyên nhân khách quan, chủ quan.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
trang phụ bìa, mục lục, danh mục sơ đồ, luận văn có bố cục ba
chương,
Chương 1. Những vấn đề lý luận về thi hành án, thi hành án treo.
Chương 2. Thực tiễn thi hành án treo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Chương 3. Những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án treo
tại tỉnh Bắc Ninh.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN, T
HI HÀNH ÁN TREO
1.1. Khái niệm về án treo và thi hành án treo
1.1.1. Khái niệm thi hành án
Tòa án là cơ quan xét xử, nhân danh Nhà nước ra các phán
quyết nhằm góp phần lập lại trật tự kỷ cương xã hội. Song phán quyết
có được thi hành trên thực tế hay không nhờ một phần rất lớn vào hoạt

5


động thi hành án. Theo Từ điển tiếng Việt, thi hành là: "Thực hiện điều
đã chính thức quyết định" [58, tr.1559].
Quan điểm thứ hai: Thi hành án là một giai đoạn mang tính
Hành chính - Tư pháp, bởi vì:
Một là, thi hành án thực chất là hoạt động chấp hành, điều
hành. Điều hành và chấp hành là đặc trưng của quản lý hành chính.
Hai là, với tính chất là hoạt động điều hành, cho dù căn cứ để

thi hành là các bản án, quyết định của Tòa án, nhưng quá trình thi hành
án không chỉ là các hoạt động mang tính tố tụng, không chỉ áp dụng luật
tố tụng, mà nội dung của nó phải áp dụng nhiều văn bản pháp luật khác
để giải quyết luật nội dung.
Ba là, trong quá trình thi hành án, phương pháp áp dụng chủ
yếu là kết hợp giữa giáo dục thuyết phục và mệnh lệnh hành chính, .
Bốn là, việc thi hành án treo được giao cho cơ quan, tổ chức,
chính quyền địa phương thực hiện theo thủ tục hành chính. Pháp luật
được áp dụng không phải chỉ riêng luật tố tụng mà còn bao gồm các
qui định pháp luật hành chính - tư pháp.
Quan điểm thứ ba: Thi hành án là hoạt động tư pháp bởi
những lý do sau đây:
Một là, trước hết cần khẳng định, thi hành án là giai đoạn
tiếp theo của giai đoạn xét xử, hoạt động xét xử là tiền đề của hoạt
động thi hành án.
Hai là, mặc dù có sự lệ thuộc và chịu sự chi phối như trên, nhưng ở
giai đoạn thi hành án, tính chất tố tụng đã chấm dứt, bởi lẽ khi bản
án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, chức năng xét xử
6


đã hoàn thành, chân lý đã được làm sáng tỏ, có tội hay vô tội, đúng
hay sai đã được phân xử rõ ràng. Ba là, thi hành án không mang tính
chất hành chính, bởi hành chính là hoạt động chấp hành, điều hành,
các quyết định hành chính được đưa ra trên cơ sở mệnh lệnh có tính
bắt buộc thi hành của cấp trên đối với cấp dưới.
Từ sự phân tích ở trên, tác giả có thể đưa ra khái niệm thi hành án như
sau: Thi hành án là hoạt động của cơ quan, tổ chức, người có thẩm
quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật qui định để đưa
bản án, quyết định của Tòa án ra thực hiện trên thực tế nhằm bảo

đảm lợi ích của Nhà nước, tổ chức và công dân, bảo vệ trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa.
Có ý kiến cho rằng, thi hành án là dạng hoạt động mang tính hành
chính - tư pháp vì: Thứ nhất, căn cứ để thi hành án là các bản án và
quyết định của toàn án; thứ hai, có sự tham gia của các cơ quan tư
pháp (theo nghĩa rộng) vào quá trình thi hành án
Thi hành án là quá trình diễn ra sau quá trình xét xử của toà án. Bản
án, quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật là cơ sở để tiến
hành các hoạt động thi hành án. Vì vậy, có thể nói không có kết quả
của hoạt động xét xử thì cũng không có hoạt động thi hành án.
Thi hành án là dạng hoạt động có tính chấp hành, vì thi hành án chỉ
được tiến hành trong khuôn khổ pháp luật quy định nhằm thực hiện
các các bản án và quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật.
Thi hành án là dạng hoạt động có tính quản lí vì thi hành án luôn đòi
hỏi các yếu tố kế hoạch, tổ chức, đôn đốc, kiểm tra, xử lí...

7


Về nội dung thi hành án, Nội dung thi hành án rất rộng, bao
gồm toàn bộ các hoạt động từ khi ra quyết định thi hành án cho đến
khi giải quyết xong tất cả các vấn đề của người phải thi hành án,
nghĩa là đến khi các đương sự hay người bị kết án trở lại trạng thái
bình thường, trong đó có việc phải tạo điều kiện cho người phải thi
hành án phạt tù có việc làm để bảo đảm cuộc sống bình thường.
Về các loại hình thi hành án, ở nước ta có 5 loại hình thi
hành án: Dân sự, hình sự, kinh tế, lao động, hành chính. Bên cạnh
những điểm chung, mỗi loại hình thi hành án lại có những đặc điểm
riêng và trong không ít trường hợp chúng có sự đan xen lẫn nhau.
Chính sự đan xen này làm nảy sinh những vướng mắc về mặt lí luận.

Về mô hình tổ chức và quản lí thi hành án, có thể nói hiện
nay vấn đề về mô hình tổ chức và quản lí thi hành án ở nước ta chưa
có được phương án tổng thể và có tính khả thi.
Vấn đề xã hội hoá trong thi hành án, xuất phát từ bản chất,
đặc trưng của thi hành án cũng như từ thực tiễn thi hành án, có thể
thấy rõ là có cơ sở để thực hiện vấn đề xã hội hóa trong thi hành án.
1.1.2. Khái niệm án treo, bản chất, trình tự, thủ tục thi hành án
1.1.2.1. Khái niệm án treo
Ở nước ta, chế định án treo được qui định ngay từ những
năm đầu của Nhà nước dân chủ nhân dân và tồn tại cho đến ngày
nay, mặc dù chưa có văn bản luật nào đưa ra định nghĩa chính thức
án treo là gì, song nhìn chung các văn bản đều đưa ra những qui định
về án treo, điều kiện được hưởng án treo.

8


Thứ nhất: án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù
có điều kiện, không phải là hình phạt tù, đây là điểm cần phân biệt.
Thứ hai: Người được hưởng án treo sẽ phải chịu một thời
gian thử thách từ một đến năm năm, thời gian thử thách bằng hoặc
lớn hơn mức phạt tù. Trong thời gian thử thách phải chịu sự giám
sát, giáo dục của cơ quan tổ chức được Tòa án giao trách nhiệm giám
sát, giáo dục;
Thứ ba: Trong thời gian thử thách, nếu người đó phạm tội
mới thì biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù bị xóa bỏ, người được
hưởng án treo buộc phải chấp hành hình phạt tù trong bản án mà Hội
đồng xét xử đã cho hưởng án treo trước đó cộng với hình phạt của
bản án về tội phạm mới thực hiện.
Tóm lại: án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có

điều kiện. Việc cho bị cáo được hưởng án treo thể hiện chính sách
nhân đạo của Pháp luật xã hội chủ nghĩa, có mục đích khuyến khích
người bị kết án tự lao động cải tạo dưới sự giám sát của xã hội, sự
giúp đỡ khuyến khích của cộng đồng, người thân, tạo cho họ có cơ
hội trở thành người có ích mà không nhất thiết bắt buộc cách ly họ ra
khỏi xã hội.
Trình tự, thủ tục thi hành án treo Trình tự thủ tục thi hành án
treo được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật thi hành án
hình sự. Sau khi nhận được bản án, quyết định của Tòa án nhân dân,
cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục người bị kết án tổ chức thi hành
án, ra quyết định phân công người trực tiếp giám sát, giáo dục người
bị kết án
9


Tóm lại, án treo không phải là một loại hình phạt mà là một
biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, điều kiện đó là:
1.2. Quy định của pháp luật về thi hành hành án treo
Chủ thể thực hiện pháp luật thi hành án phạt tù cho
hưởng án treo
Thứ nhất, Tòa án nhân dân:
Thứ hai, Viện kiểm sát nhân dân: Theo Điều 107 Hiến pháp và luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014. Viện kiểm sát nhân dân thực
hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.
Thứ ba, về quyết định thi hành án treo và những nội dung sau
Thứ tư, trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan, tổ chức giám sát giáo
dục người bị kết án.
Thứ năm, nghĩa vụ của người được hưởng án treo và việc lao động
học tâp của người được hưởng án treo.
Thứ sáu, về thủ tục rút ngắn thời gian thử thách

Thứ bảy, Thực hiện việc kiểm điểm người được hưởng án treoThứ
tám, Bổ sung hồ sơ thi hành án treo
Thứ chín, Giải quyết trường hợp người được hưởng án treo thay đổi
nơi cư trú hoặc nơi làm việc
Hai là, Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi làm việc
trong phạm vi quân khu thì đơn vị quân đội có trách nhiệm thông báo
cho cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu để làm thủ tục chuyển
giao hồ sơ thi hành án cho đơn vị quân đội nơi người được hưởng án
treo đến làm việc để giám sát, giáo dục.
Thứ 10, Trách nhiệm của gia đình người được hưởng án treo
10


Một là, Gia đình người được hưởng án treo có trách nhiệm phối hợp
với Ủy ban nhân dân cấp xã và người được phân công trong việc
giám sát, giáo dục người được hưởng án treo. Hai là, Bồi thường
thiệt hại và thực hiện các nghĩa vụ dân sự khác do người được hưởng
án treo là người chưa thành niên gây ra theo bản án, quyết định của
Tòa án. Ba là, Phải có mặt tại cuộc họp kiểm điểm người được hưởng
án treo theo yêu cầu của Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát,
giáo dục.
Chương 2
THỰC TIỄN THI HÀNH ÁN TREO TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH BẮC NINH HIỆN NAY
2.1 Điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội, tình hình án treo ở
tỉnh Bắc Ninh và ảnh hưởng của nó đối với công tác thi hành án
treo
Điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội ở Bắc Ninh với thi hành án treo
ở tỉnh Bắc Ninh
* Khái quát chung

Bắc Ninh là tỉnh nằm trong vùng châu thổ Sông Hồng, thuộc
khu vực đồng bằng Bắc Bộ. Vị trí địa lý nằm trong phạm vi từ 20o
58’ đến 21o 16’ vĩ độ Bắc và 105o 54’ đến 106o 19’ kinh độ Đông.
Phía Bắc giáp tỉnh Bắc Giang; Phía Đông và Đông Nam giáp với tỉnh
Hải Dương; Phía Nam giáp tỉnh Hưng Yên; Phía Tây giáp thành phố
Hà Nội.
Đặc điểm về vị trí địa lý, tự nhiên
Với vị trí thuận lợi cả về đường thủy và đường bộ đã giúp
11


cho các hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn xuất hiện sớm
và ngày càng phát triển theo sự thay đổi của thời gian.
Đặc điểm về kinh tế, văn hóa - xã hội.
Nền kinh tế của tỉnh Bắc Ninh chủ yếu dựa vào sản xuất nông
nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp hiện đại hầu như không
đáng kể. Công cuộc đổi mới về kinh tế đã đem lại cho Bắc Ninh
nhiều thành tựu về phát triển kinh tế.
Bắc Ninh là tỉnh có điều kiện thuận lợi để phát triển giao
thông vận tải. Mạng lưới giao thông bao gồm đường sắt, đường bộ,
đường thủy đã được hình thành từ lâu.
Đặc điểm về dân cư, tôn giáo.
Bắc Ninh có hai tôn giáo chính là Phật giáo và Công giáo,
ngoài ra còn có một hệ thống tín ngưỡng dân gian rất phong phú.
Đạo Nho được truyền vào Bắc Ninh từ đầu Công nguyên, từ đó lan
tỏa đi các nơi. Đây là quê hương, nơi phát xuất của các dòng Phật
giáo nước ta.
2.2 Thực trạng thi hành án treo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
2.2.1. Thành tựu và nguyên nhân
Bắc Ninh là tỉnh đồng bằng, diện tích nhỏ, có vị trí giáp với

thủ đô Hà Nội, có nhiều tuyến Quốc lộ chạy qua. Đặc biệt đây là địa
bàn tập trung nhiều khu công nghiệp lớn ở miền Bắc, thu hút nhiều
lao động trong và ngoài nước.
Theo báo cáo công tác tổng kết của TAND tỉnh Bắc Ninh
cho thấy từ năm 2011 đến năm 2016 hai cấp TAND tỉnh Bắc Ninh đã
thụ lý một số lượng rất lớn vụ án các loại, trong đó riêng về xét xử án
12


hình sự theo thủ tục sơ thẩm là rất lớn, cụ thể: xem Phụ lục 1 của
luận văn.
* Thực tiễn công tác thi hành án treo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
Trong năm vừa qua đã đạt được những kết quả quan trọng,
các bản án xét xử bị cáo nhưng cho hưởng án treo khi có hiệu lực
pháp luật đều được ra quyết định thi hành án và tổ chức thi hành
quyết định đó một cách nhanh chóng, đúng thời hạn quy định của
pháp luật.
Công tác thi hành án treo tại tỉnh Bắc Ninh ngày càng được
quan tâm. Cụ thể để tổ chức triển khai thực hiện UBND cấp xã đã
phân công nhiệm vụ cho Công an cấp xã có trách nhiệm trực tiếp
tham mưu giúp UBND xã thực hiện đúng các quy định; đồng thời
cũng giao cho cán bộ tư pháp và các tổ chức đoàn thể phối hợp với
Công an xã trong việc quản lý, giám sát, giáo dục người được hưởng
án treo .
Đối với những người đã chấp hành xong thời gian thử thách,
thời gian chấp hành án UBND xã đã thiết lập hồ sơ và làm thủ tục bàn
giao hồ sơ cho Cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện để cấp giấy
chứng nhận đã chấp hành xong thời gian thử thách, chấp hành xong án
phạt cải tạo không giam giữ theo đúng thời hạn quy định.
2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân

Thứ nhất, khó khăn trong việc quản lý, giám sát, giáo dục
của Uỷ ban nhân dân cấp xã đối với những bị án. Khoản 2 Điều 65
Luật THAHS quy định “Trong thời gian thử thách, người được
hưởng án treo không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều
13


này được Uỷ ban nhân dân cấp xã tạo điều kiện để người đó tìm việc
làm” và tại điểm đ, khoản 1 Điều 63 Luật THAHS quy định một
trong những nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp xã được
giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo là: “Giải quyết cho
người được hưởng án treo được vắng mặt ở nơi cư trú theo quy định
của Luật này và pháp luật về cư trú”.
Thứ hai, Viện kiểm sát không nhận được giấy chứng nhận đã
chấp hành xong thời gian thử thách.
Tình trạng này không những ảnh hưởng tới công tác quản lý,
giáo dục người được hưởng án treo, người phải chấp hành án treo, cải
tạo không giam giữ không được quản lý, giám sát giáo dục vẫn
“nhởn nhơ” ngoài xã hội mà còn gây ra một hệ lụy lớn đối với các
Cơ quan tiến hành tố tụng. 2.2.3. Đánh giá thực tiễn việc thi hành án
treo
Đánh giá kết quả công tác thi hành án treo của UBND xã, thị
trấn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, trong thời gian kể từ khi Luật thi
hành án hình sự có hiệu lực thi hành ngày 01/10/2011 cho đến
30/09/2016, công tác thi hành án treo của UBND các cấp trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh đã đạt những kết quả cụ thể như sau:
Về thi hành án treo:Số đối tượng UBND các xã, thị trấn đã
tiếp nhận hồ sơ để giám sát, giáo dục từ năm 01/10/2011 đến
30/9/2016 là 4331 bị cáo.
Có được những kết quả đó là sự phối hợp giữa cáo cơ quan

Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, Công an, chính quyền các

14


cấp và các đoàn thể chính trị xã hội trên đại bàn tỉnh, đặc biệt là vai
trò của ủy ban nhân dân cấp xã, phường trong việc thi hành án treo.
Trong quá trình tổ chức thực hiện thi hành án treo, UBND
cấp xã đã có sự chỉ đạo Công an, tư pháp và các tổ chức đoàn thể ở
xã phối hợp với gia đình, tổ chức nơi người được hưởng án treo làm
việc, học tập để theo dõi, giám sát, giáo dục các bị án, đồng thời tạo
điều kiện để người đó tiếp tục học tập, làm việc, tìm kiếm việc làm.
2.2.3.1. Đánh giá thuận lợi, khó khăn vướng mắc
Việc phối hợp giữa các cơ quan thi hành án trong việc thi hành án
treo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh có vai trò quan trọng ảnh hưởng trực tiếp
đến kết quả thi hành án treo của tỉnh. Đặc biệt việc triển khai công tác thi
hành án treo của UBND cấp xã theo quy định của Luật thi hành án hình
sự có những thuận lợi đó là có sự quan tâm, chỉ đạo thường xuyên của
Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, UBND huyện và sự hướng dẫn nghiệp
vụ của Cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện.
Tuy nhiên bên cạnh những mặt thuận lợi thì công tác thi hành
án treo của UBND cấp xã cũng còn có rất nhiều khó khăn, vướng
mắc như: Địa bàn rộng, kinh tế phát triển nhanh, nhân dân chủ yếu là
làm nông nghiệp nên điều kiện đời sống , trình độ dân trí không đồng
đều, nhận thức pháp luật của một bộ phận nhân dân còn hạn chế.
2.2.3.2. Đánh giá về ưu điểm và thiếu sót, tồn tại
Một là, sau khi tiếp nhận hồ sơ thi hành án treo từ Cơ quan
thi hành án hình sự Công an huyện bàn giao, một số UBND cấp xã
chưa thực hiện triển khai ngay việc tổ chức giám sát, giáo dục các bị
án mà để một thời gian dài sau đó mới thực hiện. Hai là, việc phân

15


công người trực tiếp giám sát, giáo dục người được hưởng án treo,
cải tạo không giam giữ ở một số đơn vị cũng chưa đảm bảo đúng quy
định. Ba là, một số UBND cấp xã chưa yêu cầu người được hưởng án
treo, cải tạo không giam giữ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình; có
biện pháp giáo dục, phòng ngừa khi người đó có dấu hiệu vi phạm
pháp luật theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 63, Điểm c Khoản
1 Điều 74 Luật thi hành án hình sự.Bốn là, việc giám sát, giáo dục
của những người được giao trực tiếp giám sát, giáo dục các bị án
cũng chưa thật sự chặt chẽ, có hiệu quả, vẫn chỉ mang tính hình thức
qua loa. Năm là, việc giải quyết cho người được hưởng án treo được
vắng mặt ở nơi cư trú cũng chưa đảm bảo đúng theo quy định của
Luật thi hành án hình sự và pháp luật về cư trú. Sáu là, trong quá
trình tổ chức thi hành án treo có nhiều bị án đã tự giác chấp hành tốt,
có đủ điều kiện để được xem xét rút ngắn thời gian thử thách án treo
Bảy là, việc chuyển hồ sơ cho Cơ quan thi hành án hình sự
Công an huyện để xem xét cấp giấy chứng nhận cho những trường
hợp đã chấp hành xong thời gian thử thách. Tám là, việc thiết lập và
lưu trữ hồ sơ quản lý thi hành án treo ở một số xã chưa đảm bảo
đúng quy định; hồ sơ thường thiếu những tài liệu mà theo quy định
tại Điều 68, Điều 80 thì UBND cấp xã có trách nhiệm phải bổ sung
như quyết định phân công. MChín là, việc mở sổ sách theo dõi thi
hành án hình sự và việc ghi chép cập nhật ở một số xã chưa nghiêm
túc.

16



Chương 3
NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI
HÀNH ÁN TREO TẠI TỈNH BẮC NINH
3.1. Quan điểm chỉ đạo thực hiện pháp luật thi hành án treo
3.1.1. Quán triệt quan điểm của Đảng về công tác thực hiện pháp
luật thi hành án treo.
Một là, "Trên cơ sở tổng kết, đánh giá về công tác thi hành
án, cần sớm xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách và nâng cao
trách nhiệm của cơ quan thi hành án, bảo đảm các bản án của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật phải được tôn trọng và thi hành nghiêm
chỉnh" [2].
Hai là, trong xây dựng pháp luật thi hành án treo phải quán
triệt quan điểm của Đảng: xác định rõ trách nhiệm của ủy ban nhân
dân xã, phường, thị trấn và xác định rõ các cơ quan chuyên môn của
ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trong việc thi hành một số hình phạt
tù, thực hiện nghiêm túc các bản án của Tòa án [4].
3.1.2. Thực hiện pháp luật thi hành án treo phải đặt trong mối
quan hệ với việc thực hiện pháp luật thi hành án nói chung
3.1.3. Thực hiện pháp luật thi hành án treo phải đảm bảo sự thống
nhất từ Trung ương đến địa phương và cơ sở
Pháp luật là thống nhất, bất luận trong trường hợp nào và vì
lý do gì thì việc thực hiện pháp luật cũng phải đảm bảo tính thống
nhất từ trung ương đến địa phương và cơ sở, góp phần giữ gìn nền
pháp chế xã hội chủ nghĩa.

17


Đảm bảo sự thống nhất trong bộ máy thi hành án từ trung
ương xuống địa phương và cơ sở.

3.1.4. Thực hiện pháp luật thi hành án treo phải đảm bảo nguyên
tắc pháp chế
Các văn bản pháp luật về thi hành án treo phải trên cơ sở tôn
trọng các Đạo luật Bộ luật hình sự và Tố tụng hình sự, không được
trái với các đạo luật và phải cụ thể hóa các quy định về thi hành án
treo trong các đạo luật này.
3.1.5. Trong thực hiện pháp luật thi hành án treo phải tôn trọng
và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kết án
- Khi thực hiện pháp luật thi hành án treo, cơ quan thi hành
án, các cơ quan hữu quan, người có trách nhiệm, các tổ chức xã hội,
đoàn thể, mọi công dân (gọi chung là chủ thể thực hiện pháp luật thi
hành án) phải tôn trọng và bảo đảm quyền công dân, quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị kết án, không được có thái độ phân biệt
đối xử, hạn chế quyền tự do công dân của họ khi pháp luật không
quy định.
- Các cơ quan có trách nhiệm phải thường xuyên kiểm tra,
kiểm sát tính hợp pháp và có căn cứ của các quyết định thi hành án,
xem quyết định thi hành án có đảm bảo về nội dung và hình thức
của văn bản áp dụng pháp luật không, thời gian thử thách của án
treo đúng không.
3.1.6. Thi hành án treo cần phải xã hội hóa
Tuy nhiên toàn bộ hoạt động giám sát, giáo dục của các tổ
chức này phải đặt dưới sự quản lý, giám sát chung của ủy ban nhân
18


dân xã, phường thị trấn và các cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án
học tập, cư trú, đảm bảo nguyên tắc chung thống nhất trên cơ sở phối
hợp.
3.2. Giải pháp hoàn thiện và đảm bảo thực hiện pháp luật thi

hành án treo
3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thi hành
án treo
-Tỉnh ủy Bắc Ninh và các huyện ủy cần sớm ban hành nghị
quyết, chỉ thị yêu cầu ủy ban nhân dân các cấp tăng cường quản lý
hoạt động thi hành án trong phạm vi địa phương.
- Cấp ủy Đảng tăng cường lãnh đạo công tác tổ chức, bộ
máy, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành án, lựa chọn
sắp xếp Đảng viên làm công tác thi hành án.
- Tỉnh ủy cần có chính sách quan tâm đầu tư cơ sở vật chất
cho hoạt động thi hành án, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ làm
công tác thi hành án treo ở cấp xã, phường, thị trấn.
- Lãnh đạo công tác thanh tra, kiểm tra vi phạm, giải quyết
khiếu nại tố cáo, công tác thi đua khen thưởng trong hoạt động thi
hành án.
3.2.2. Hoàn thiện pháp luật về thi hành án hình sự
Thứ nhất, khó khăn trong việc quản lý, giám sát, giáo dục
của Uỷ ban nhân dân cấp xã đối với những bị án. Khoản 2 Điều 65
Luật THAHS quy định “Trong thời gian thử thách, người được
hưởng án treo không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều
này được Uỷ ban nhân dân cấp xã tạo điều kiện để người đó tìm việc
19


làm” và tại điểm đ, khoản 1 Điều 63 Luật THAHS quy định một
trong những nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp xã được
giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo là: “Giải quyết cho
người được hưởng án treo được vắng mặt ở nơi cư trú theo quy định
của Luật này và pháp luật về cư trú”. "Trong thời gian thử thách, nếu
người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của

Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định
buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng
án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc
người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với
hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này."
Thứ hai, Viện kiểm sát không nhận được giấy chứng nhận đã
chấp hành xong thời gian thử thách.
Từ quy định trên cho thấy, Viện kiểm sát không phải là chủ
thể được nhận giấy chứng nhận đã chấp hành xong thời gian thử
thách trong khi đó Viện kiểm sát lại là cơ quan có chức năng kiểm sát
việc thi hành án hình sự. Quy định này đã gây khó khăn cho Viện
kiểm sát trong việc theo dõi và kiểm sát cơ quan được giao nhiệm vụ
quản lý, giám sát bị án treo và cơ quan thi hành án hình sự Công an
cấp huyện khi cấp giấy chứng nhận cho bị án đã hết thời gian thử
thách.
3.2.3. Các chủ thể thực hiện pháp luật thi hành án treo phải phát
huy năng lực trong công tác thi hành án treo.
Thứ nhất, ủy ban nhân dân tỉnh và ủy ban nhân dân cấp
huyện cần tăng cường quản lý trong lĩnh vực thi hành án phạt tù
20


cho hưởng án treo.
Thứ hai, cơ quan thi hành án chủ động, tích cực thực hiện
quyền và trách nhiệm của mình trong hoạt động thi hành án treo .
Thứ ba, cán bộ trực tiếp thi hành án: cần nắm vững và thực
hiện đầy đủ quyền và trách nhiệm của mình theo luật thi hành án
hình sự năm 2011 và các văn pháp luật khác, thường xuyên rèn
luyện bồi dưỡng kiến thức pháp luật, trau dồi đạo đức, rèn luyện kỹ
năng thao tác nghiệp vụ thi hành án.

Thứ tư, người bị kết án và gia đình:
Thứ năm, các chủ thể khác như Tòa án, Viện kiểm sát chủ
động thực hiện nhiệm vụ theo quy định pháp luật.
3.2.4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật thi hành án treo
Các cấp ủy đảng, chính quyền trên địa bàn tỉnh đặc biệt là
chính quyền cấp xã, phường, thị trấn cần quan tâm chỉ đạo, phối
hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan như HĐND, cơ quan tư
pháp, Công an, Tòa án, Kiểm sát, cơ quan thông tin đại chúng thực
hiện công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật, coi đây là
hoạt động thường xuyên, liên tục của cấp ủy, chính quyền địa
phương.
3.2.5. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm hành
vi vi phạm pháp luật thi hành án
Các cơ quan nhà nước trong phạm vi trách nhiệm của mình,
kịp thời xử lý nghiêm minh cá nhân có vi phạm trong công tác thi
hành án treo ở địa phương mình.
21


3.2.6. Đảm bảo các điều kiện cần thiết và có chế độ đãi ngộ cho
cán bộ làm công tác thi hành án
Chính phủ cần có chính sách đãi ngộ, tạo điều kiện vật chất
cho người làm công tác thi hành án nhất là đối với lực lượng công
an viên vì từ trước đến nay, họ đang là lực lượng quan trọng làm
công tác thi hành án treo nhưng chưa được hưởng chế độ tiền
lương, Nhà nước cần tạo điều kiện hỗ trợ cho họ một tháng từ hai
trăm ngàn đến ba trăm ngàn, giúp họ cải thiện cuộc sống.
3.2.7. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các chủ thể thực
hiện pháp luật thi hành án

Công tác thi hành án là hoạt động mang tính xã hội rộng rãi,
cần có sự phối kết hợp giữa các chủ thể thực hiện pháp luật. Có thể
nêu lên các mối quan hệ phối hợp chủ yếu sau đây:
Quan hệ phối hợp giữa Tòa án nhân dân tỉnh và huyện, thị
xã, thành phố với xã phường, thị trấn và các cơ quan, tổ chức khác
trong việc giao nhận bản án, quyết định thi hành án, việc xem xét,
theo dõi kết quả thi hành án, đề nghị lập hồ sơ rút ngắn thời gian thử
thách hay giảm thời hạn chấp hành án.
Thực tiễn công tác thi hành án ở địa phương cho thấy sự
phối hợp giữa các chủ thể còn rất lúng túng, kém hiệu quả. Để đảm
bảo sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng trong công tác thi hành án treo
, cần thiết phải xây dựng quy chế phối hợp; nguyên tắc phối hợp,
nội dung phối hợp, trách nhiệm các chủ thể trong quan hệ phối hợp
nhằm phát huy hiệu quả công tác thực hiện pháp luật thi hành án.

22


KẾT LUẬN
Việc thực hiện nghiêm chỉnh các văn bản pháp luật đã ban hành,
đưa pháp luật đi vào cuộc sống và phát huy sức điều chỉnh của nó là
một trong các yêu cầu xây dựng nhà nước Pháp quyền xã hội chủ
nghĩa.Với ba hình thức cơ bản: xây dựng pháp luật, thực hiện pháp
luật và bảo vệ pháp luật, Nhà nước Việt Nam đang tiếp tục phát huy
vai trò quản lý Nhà nước bằng pháp luật trên mọi mặt của đời sống,
trong đó thực hiện pháp luật chiếm vị trí quan trọng.
Thực hiện pháp luật thi hành án đối với người được hưởng án
treo là một nội dung không rộng, song nó có ý nghĩa thực tiễn sâu
sắc, mang đậm tính nhân đạo của pháp luật Xã hội chủ nghĩa. Tuy
nhiên trên thực tế, việc nhận thức tầm quan trọng và ý nghĩa việc

thực hiện các chế định án treo còn nhiều hạn chế, dẫn đến thực
trạng công tác thi hành án đối với loại hình phạt trên chưa đạt được
kết quả mong muốn.
Xuất phát từ thực trạng công tác này, học viên đã lựa chọn
đề tài: "Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh" làm đề luận
văn tốt nghiệp Thạc sỹ, bằng kinh nghiệm của bản thân và những lý
luận cơ bản, trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm hay của một số tỉnh
bạn, học viên tìm tòi, khảo sát số liệu, đi sâu phân tích thực trạng
công tác thi hành án trên phạm vi toàn tỉnh, tìm hiểu các nguyên
nhân dẫn đến yếu kém trong công tác này, trăn trở xây dựng các giải
pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật thi hành
án. Học viên mong muốn đề tài này thực sự hữu ích cho công tác thi
hành án treo ở địa bàn tỉnh Bắc Ninh và các địa phương trong cả nước.
23


×