Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn “tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn HP (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.14 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HÒA

TỘI CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC
GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHOẺ CỦA NGƢỜI KHÁC
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.04

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, 2017


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội

Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Đức Hồng Hà

Phản biện 1:…………………………….
Phản biện 2:…………………………….

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ họp
tại: Học viện Khoa học xã hội
Vào hồi:……giờ……ngày….tháng…năm…

Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Học viện Khoa học xã hội




MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hải Phòng là thành phố cảng quan trọng, trung tâm công nghiệp,
cảng biển lớn nhất phía Bắc Việt Nam, đồng thời cũng là trung tâm
kinh tế, văn hoá, y tế, giáo dục, khoa học, thương mại và công nghệ
của Vùng duyên hải Bắc Bộ. Đây là thành phố lớn thứ 3 cả nước, lớn
thứ 2 miền Bắc sau Hà Nội. Sự phát triển đô thị hóa nhanh, đã kéo
theo sự gia tăng của tội phạm và tệ nạn xã hội nói chung và tội phạm
cố ý gây thương tích nói riêng. Đặc điểm của loại tội phạm cố ý gây
thương tích luôn liều lĩnh, nguy hiểm, các động thái tội phạm đang có
xu hướng gia tăng tính bạo lực, tính chuyên nghiệp. Hiện nay, tình
hình tội phạm cố ý gây thương tích trên địa bàn thành phố Hải Phòng
có những chuyển biến phức tạp. Tội phạm này có xu hướng trẻ hóa
với tính chất nghiêm trọng tăng nhanh, có chiều hướng gia tăng cả về
số vụ và tính nguy hiểm, không chỉ trực tiếp gây thiệt hại về sức khỏe
của người khác mà còn gây mất trật tự trị an trên địa bàn, tạo tâm lý
bất an cho người dân.
Trước tình hình trên các cơ quan bảo vệ pháp luật ở thành phố
Hải Phòng đã áp dụng các biện pháp có hiệu quả trong đấu tranh
phòng chống tội phạm nói chung tội phạm cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng, xử lý kịp thời
nghiêm minh mọi hành vi phạm tội và người phạm tội. Tuy nhiên,
thực tiễn xét xử các tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác vẫn còn gặp nhiều khó khăn như việc
áp dụng các quy định của pháp luật hình sự để xử lý loại tội phạm
này vẫn còn những nhận thức khác nhau; nhiều văn bản hướng dẫn
áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về một số tình tiết vẫn
chưa có sự thống nhất trong nhận thức áp dụng, có những trường hợp

1


định sai tội danh, bỏ lọt tội phạm dẫn đến vụ án bị trả hồ sơ để điều
tra bổ sung hoặc bị sửa, hủy... Tình hình trên do nhiều nguyên nhân
chủ quan và nguyên nhân khách quan.
Từ thực tiễn đó mà tác giả chọn đề tài của đề tài và cũng là lý do
chọn đề tài: “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành
phố Hải Phòng” làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam là một trong các vấn đề
nóng trong xã hội nên đã được nhiều nhà khoa học Luật gia nghiên
cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác đã được đề cập, nghiên cứu ở nhiều
hình thức, mức độ, khía cạnh khác nhau như: Trong các giáo trình
luật hình sự; Trong các công trình nghiên cứu khoa học về luật hình
sự; Trong các tập bình luận khoa học về luật hình sự, trong các luận
văn thạc sỹ, tiến sỹ của một số tác giả, tiêu biểu như bài viết: Luận
văn thạc sỹ Luật học về “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ
thực tiễn tỉnh Bình Phước của tác giả Tô Ngọc Đường - Học viện
khoa học xã hội, năm 2011... Tuy nhiên mỗi vùng miền lại có những
đặc thù về kinh tế, văn hóa, xã hội dẫn đến tình hình tội phạm cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ở mỗi
nơi là khác nhau. Đặc biệt thành phố Hải Phòng - một trong những
thành phố có nền kinh tế trọng điểm là góc độ mà sẽ có những cái
nhìn mới mẻ hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
2


Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một cách có hệ thống về
mặt lý luận những quy định về các tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác theo luật hình sự Việt Nam và
việc áp dụng quy định này trong thực tiễn trên địa bàn thành phố Hải
Phòng. Trên cơ sở làm rõ những hạn chế, vướng mắc trong xét xử và
nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong xét xử loại tội
phạm này, từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng xét xử tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
và việc áp dụng pháp luật trong lĩnh vực xét xử loại tội phạm này của
các Tòa án Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, trong quá trình thực hiện đề tài tác
giả luận văn đặt cho mình các nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau:
Một là: Nghiên cứu về các vấn đề lý luận chung của tội CYGTT
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo quy định của
pháp luật hình sự Việt Nam.
Hai là: Nghiên cứu thực tiễn áp dụng tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ở thành phố Hải
Phòng trong thời gian 05 năm (từ năm 2012 đến 2016).
Ba là: Trên cơ sở đó tìm ra nguyên nhân và các giải pháp góp
phần nâng cao chất lượng xét xử tội phạm này.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận
chung và thực tiễn áp dụng về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác cụ thể: nghiên cứu các quy phạm

pháp luật, các dấu hiệu pháp lý, cũng như thực tiễn áp dụng đối với
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
3


khác, từ đó tìm ra nguyên nhân và đưa ra những giải pháp và nâng
cao chất lượng xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nội dung đề tài thực hiện trong phạm vi của chuyên ngành luật
hình sự và tố tụng hình sự.
Đề tài tập trung nghiên cứu các vụ án cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn của thành phố
Hải Phòng trong năm (2012-2016); nghiên cứu những kết quả đạt
được và những hạn chế, vướng mắc trong hoạt động xét xử tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn giải quyết các nội dung khoa học của đề tài dựa trên
cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng của Triết
học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng; các văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước
ban hành; các đề tài, công trình nghiên cứu khoa học trước đó và các
tài liệu tham khảo chuyên ngành.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn đã sử dụng các phương pháp: phương pháp phân tích
tổng hợp, phương pháp thống kê số liệu, phương pháp so sánh đối
chiếu, phương pháp logic, phương pháp khảo sát, thực tiễn để hoàn
thành các nhiệm vụ mà luận văn đã đặt ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài góp phần hoàn thiện nội dung quy định của Điều 104 đến
106 BLHS năm 1999 (về nhóm các tội cố ý gây thương tích hoặc gây
4


tổn hại cho sức khỏe của người khác). Qua đó góp phần nâng cao
hiệu quả phòng ngừa và đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung
và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác nói riêng ở Việt Nam; giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn
xã hội. Nâng cao chất lượng xét xử loại tội này nói chung và ở thành
phố Hải Phòng nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng để tham khảo
và vận dụng xây dựng các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của
cuộc đấu tranh phòng, chống tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trong hoạt động xét xử của hệ thống
TAND Việt Nam.
Bên cạnh đó còn có thể được làm tài liệu tham khảo cho công tác
đào tạo, giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật hình
sự Việt Nam về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm
1999 về tội cố ý gây thương tích hoặc hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác ở thành phố Hải Phòng trong thời gian qua.
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy

định của Bộ luật Hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác ở thành phố Hải Phòng trong thời gian
tới.

5


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI CỐ Ý
GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI KHÁC
1.1. Những vấn đề lý luận về tội cố ý gây thƣơng tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác
1.1.1. Khái niệm và dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
1.1.1.1. Khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác
Trong các Bộ luật Hình sự Việt Nam chưa có định nghĩa cụ thể
về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác nên sẽ có nhiều cách hiểu khác nhau. Tội cố ý gây thương tích
là hành vi cố ý làm cho người khác bị thương, xâm phạm quyền được
bảo hộ về sức khoẻ của con người. Hành vi cố ý gây thương tích bị
coi là tội phạm, tội phạm đó được quy định tại Điều 104 Bộ luật Hình
sự năm 1999. Tội phạm này xâm phạm quyền được bảo hộ về sức
khoẻ của con người. Gây thương tích được hiểu là hành vi tác động
của người này vào cơ thể của người khác và làm người đó bị thương.
Hành vi gây thương tích có thể được thực hiện với sự hỗ trợ của công
cụ, phương tiện hoặc dùng sự tác động bằng thực thể. Hậu quả của
tội phạm này là gây thương tích cho người khác có tỷ lệ thương tật từ

11% trở lên hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp
quy định tại điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 104 BLHS.
Trên cơ sở các quan điểm cũng như các quy định của BLHS
hiện hành, tác giả đưa ra khái niệm về tội CYGTT hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác như sau: “Tội CYGTT hoặc gây tổn hại
6


cho sức khỏe của người khác là hành vi cố ý tác động trái pháp luật
đến thân thể của người khác, gây thiệt hại cho sức khỏe của người
khác với tỷ lệ tổn thương cơ thể nhất định theo quy định của Bộ luật
Hình sự, do người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực
trách nhiệm hình sự thực hiện”.
1.1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác
a) Khách thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác
Trong khoa học pháp lý cũng như trong thực tiễn các ý kiến đều
thống nhất khách thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác là những quan hệ xã hội được luật hình
sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại hoặc đe dọa gây thiệt hại ở một
mức độ nhất định. Trong tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác thì khách thể trực tiếp chính là sức khỏe
con người.
b) Mặt khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác
Mặt khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác là mặt bên ngoài của tội phạm bao gồm
những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới
khách quan. Dấu hiệu của mặt khách quan của tội phạm là những

biểu hiện ra bên ngoài bằng giác quan mà con người có thể nhận biết
được bao gồm: Hành vi nguy hiểm cho xã hội; Hậu quả nguy hiểm
cho xã hội; Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.
c) Chủ thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác

7


Chủ thể của tội phạm theo luật hình sự Việt Nam hiện hành chỉ
có thể là con người cụ thể. Chủ thể của tội phạm là người có năng lực
trách nhiệm hình sự đạt độ tuổi nhất định và đã thực hiện hành vi
phạm tội cụ thể. Và khi thực hiện hành vi phạm tội người ấy có khả
năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội về hành vi của
mình và có khả năng điều chỉnh được hành vi ấy.
d) Mặt chủ quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác
Mặt chủ quan của tội cố ý gây thương tích là diễn biến bên trong
phản ánh trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành vi cố ý gây
thương tích và hậu quả phát sinh từ hành vi gây thương tích gây ra.
Mặt chủ quan của tội cố ý gây thương tích bao gồm: Lỗi, động cơ và
mục đích phạm tội.
Lỗi được hiểu là lỗi cá nhân tức là lỗi của con người cụ thể khi
họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Lỗi thực hiện dưới hành
vi cố ý hoặc vô ý. Động cơ phạm tội được hiểu là động lực bên trong
thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội cố ý. Dấu hiệu
động cơ và dấu hiệu mục đích có mối quan hệ chặt chẽ với nhau vì có
động cơ thúc đẩy thì người phạm tội mới thực hiện tội phạm để thỏa
mãn động cơ. Đối với tội cố ý gây thương tích thì thông thường động
cơ chủ yếu thúc đẩy người phạm tội là gây thương tích cho người

khác. Hậu quả của tội phạm là hiện tượng thuộc về thế giới khách
quan có quan hệ với mục đích. Hậu quả là kết quả thực tế mà người
phạm tội khi họ thực hiện hành vi để đạt được mục đích.
1.1.2. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác với một số tội phạm khác
1.1.2.1. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác với tội giết người chưa đạt
8


Để phân biệt tội giết người trong trường hợp phạm tội chưa đạt
với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, chúng
ta chủ yếu tập trung phân tích yếu tố lỗi của người phạm tội. Do đó,
để định đúng tội danh chúng ta cần phải phân biệt hai tội này qua tiêu
chí cơ bản sau đây:
- Nếu lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp thì định tội giết
người (chưa đạt). Đây là trường hợp người phạm tội nhận thức rõ
hành vi của mình có thể làm nạn nhân chết mà vẫn thực hiện vì mong
muốn nạn nhân chết. Sở dĩ nạn nhân không chết là do nguyên nhân
khách quan ngoài ý muốn của người phạm tội.
- Nếu lỗi của người phạm tội không phải là lỗi cố ý trực tiếp gây
ra cái chết cho nạn nhân thì định tội CYGTT.
1.1.2.2. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh
Xét về bản chất, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
là trường hợp phạm tội có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt TNHS của tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

So với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác, tội này có hai điểm khác là:
- Chủ thể thực hiện hành vi phạm tội trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân
đối với mình hoặc đối với người thân thích của mình.
- Hậu quả của tội phạm phải ở mức độ tỷ lệ thương tật từ 31%
trở lên.

9


1.1.2.3. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trong trường hợp vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng
Về bản chất, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng cũng
là trường hợp phạm tội có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt TNHS của tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
So với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác, tội này có hai điểm khác là:
- Chủ thể thực hiện hành vi phạm tội do động cơ phòng vệ
nhưng đã vượt quá giới hạn cho phép.
- Hậu quả của tội phạm phải ở mức độ tỷ lệ thương tật từ 31%
trở lên...
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội cố ý gây
thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác từ
năm 1945 đến nay
1.2.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ năm

1945 đến trước khi Bộ luật Hình sự năm 1985 có hiệu lực thi hành
Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công đã khai sinh ra nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa. Do vừa trải qua cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp hao tốn cả sức người, sức của nên Nhà nước ta đã phải
đối mặt với vô vàn khó khăn… Các đạo luật hình sự là một trong
những đạo luật đầu tiên cùng với các sắc lệnh trên các lĩnh vực như
trừng trị phản động, âm mưu hành động phản quốc, sắc lệnh quy định
về trốn tránh nghĩa vụ, sắc lệnh về phòng, chống các tội phạm cụ thể

10


như hành vi trộm cắp… tạo cơ sở pháp lí cho việc trấn áp tội phạm,
bảo vệ nhà nước non trẻ.
1.2.2. Quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trong Bộ luật Hình sự năm 1985
BLHS Việt Nam 1985 ra đời trong bối cảnh điều kiện đất nước
có những đặc trưng là cần bảo vệ nền kinh tế bao cấp chủ yếu dựa
trên hai hình thức sở hữu: Nhà nước và tập thể theo cơ chế bao cấp.
Vì thế, BLHS đã dần biểu hiện những bất cập hạn chế, như Điều 109
quy định về tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác, nhưng nhà làm luật lại đưa nhiều hành vi phạm tội với tính chất
và mức độ nguy hiểm khác nhau vào trong cùng một điều luật. Hơn
nữa Điều 109 chỉ nêu tên tội danh mà không mô tả các dấu hiệu pháp
lý đặc trưng của tội phạm, các điểm, khoản quy định còn chung
chung, trừu tượng.
1.2.3. Quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trong Bộ luật Hình sự năm 1999
Đặc trưng cơ bản của pháp luật hình sự trong giai đoạn này đã thể
hiện trong BLHS năm 1999 là: Điều chỉnh tối đa về mặt lập pháp những

chế định cơ bản, quan trọng của luật hình sự; phân hóa triệt để TNHS và
hình phạt; nêu cao tinh thần nhân đạo của luật hình sự. BLHS 1999 có
nhiều nội dung mới so với BLHS 1985 được thể hiện cả ở phần chung
và phần các tội phạm, thể hiện rõ những điểm mới trong chính sách hình
sự của Nhà nước ta nói chung, đối với xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
danh dự và nhân phẩm của con người nói riêng.

11


Chƣơng 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY
TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI KHÁC TẠI THÀNH
PHỐ HẢI PHÒNG TRONG THỜI GIAN QUA
2.1. Một số kết quả đạt đƣợc trong thực tiễn áp dụng quy
định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội cố ý gây thƣơng tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác
Từ đầu năm 2012 đến cuối năm 2016, TAND thành phố Hải
Phòng đã xét xử 6633 vụ, 1060 án CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác, chiếm tỉ lệ 16% trong tổng số án thụ lý xét xử
trên địa bàn. Tội cố ý gây thương tích so với tổng số tội phạm đã xét
xử trên địa bàn thành phố Hải Phòng (Từ 2012-2016) chiếm số lượng
lớn nhất. Đặc điểm của loại tội phạm cố ý gây thương tích luôn liều
lĩnh, nguy hiểm, các động thái tội phạm đang có xu hướng gia tăng
tính bạo lực, tính chuyên nghiệp.
Tuy tội phạm cố ý gây thương tích ở trên địa bàn thành phố Hải
Phòng có nhiều diễn biến phức tạp nhưng thực tế các cơ quan tiến
hành tố tụng cũng thể hiện được đúng vai trò của mình, các vụ án
mau chóng được đưa ra điều tra, truy tố, xét xử.

Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về
tình tiết định khung của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hải Phòng đã đạt
được những kết quả nhất định. Tình tiết định khung đã giúp cho các
cơ quan tiến hành tố tụng có cơ sở để quyết định hình phạt được
chính xác.
Quyết định hình phạt đúng pháp luật, công bằng và hợp lý là tiền
đề, điều kiện để đạt được mục đích hình phạt. Theo thống kê của văn
12


phòng tổng hợp Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng, loại chế tài
đã áp dụng đối với 1480 bị cáo đã bị xét xử về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn giai
đoạn 2012-2016 như sau: phạt tiền có 02 bị cáo; đưa vào trường giáo
dưỡng có 03 bị cáo; phạt cải tạo không giam giữ có 04 bị cáo; phạt tù
cho hưởng án treo có 394 bị cáo; dưới 3 năm tù giam có 767 bị cáo;
tù từ 3 năm đến dưới 7 năm có 253 bị cáo; tù từ 7 năm đến dưới 15
năm có 54 bị cáo; tù trên 15 năm có 03 bị cáo.
Qua số liệu thống kê trên cho thấy mức hình phạt đã áp dụng đối
với các bị cáo trên địa bàn thành phố Hải Phòng trong giai đoạn 20122016 chủ yếu là hình phạt tù giam. Tổng tất cả các hình phạt tù giam
chiếm 72,8% trên tổng số loại chế tài đã áp dụng. Còn lại chiếm 27,2%.
Điều này cho thấy tính chất nghiêm trọng của các hành vi phạm tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa
bàn thành phố Hải Phòng. Cách thức phạm tội ngày càng tinh vi, phức
tạp và có mức độ nguy hiểm tăng dần, xu hướng dùng vũ khí nguy hiểm
với động cơ đê hèn ngày càng tăng cao.
2.2. Một số hạn chế, vƣớng mắc trong thực tiễn áp dụng quy
định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội cố ý gây thƣơng tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác

2.2.1. Một số hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng quy
định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tình tiết định tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
2.2.1.1. Một số hạn chế, vướng mắc trong việc phân biệt tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với
các tội phạm khác
Vấn đề đầu tiên là nhiều tội chưa có ranh giới rõ ràng như cố ý
gây thương tích với cố ý gây thương tích trong trạng thái tinh thần
13


kích động mạnh, hay cố ý gây thương tích dẫn đến chết người với
giết người... Vì thế, việc xác định tội danh của người phạm tội
thường gây ra nhiều quan điểm khác nhau giữa các ngành tố tụng
cũng như giữa các cấp xét xử. Bên cạnh đó các cơ quan tố tụng còn rất
băn khoăn về việc: Trong tội cố ý gây thương tích do vượt quá phòng vệ
chính đáng, làm sao xác định sự chống trả như thế nào là cần thiết hay
không cần thiết? Ngoài ra, việc phân biệt giữa tội cố ý gây thương tích
dẫn đến chết người và tội giết người dù đã có nhiều văn bản hướng dẫn
nhưng thực tế áp dụng vẫn xảy ra nhiều tranh cãi…
2.2.1.2. Một số hạn chế, vướng mắc trong việc phân biệt có
phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác hay không phạm tội
a) Trường hợp gây cố tật nhẹ cho nạn nhân
Việc xác định cố tật thường dựa vào ý chí chủ quan của các chủ thể
tiến hành tố tụng, dẫn tới việc áp dụng không đồng nhất quy định này.
b) Trường hợp phạm tội có tính chất côn đồ
Qua nghiên cứu các vụ án đã xét xử cho thấy, tuy hậu quả tỷ lệ
thương tật của người bị hại từ 11% đến 30% và đảm bảo các yêu cầu
về khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan và chủ thể của tội phạm

CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Nhưng vô cớ
hoặc vì nguyên cớ nhỏ nhặt các bị cáo đã có hành vi gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho người bị hại.
c) Trường hợp người phạm tội dùng hung khí nguy hiểm

Quy định về hung khí còn hạn chế để xác định tội danh.
Khó ở chỗ cơ quan điều tra khó xác định những thứ khác là
hung khí nguy hiểm là những thứ gì. Nên định tội sẽ phụ thuộc
vào ý chí chủ quan của người tiến hành tố tụng, khiến cho việc
áp dụng không đồng nhất.
14


2.2.1.3. Một số hạn chế, vướng mắc khác
a) Khó khăn trong việc thu thập chứng cứ để xử lý
Nhiều vụ án, cơ quan điều tra không thể thu thập được chứng cứ
để xử lý. Trong án cố ý gây thương tích, nếu nạn nhân bị nhiều người
cùng tham gia hành hung thì việc thu thập chứng cứ để xác định tỉ lệ
thương tật do từng thủ phạm gây ra là rất khó.
b) Giám định kéo rê
Khi giải quyết án cố ý gây thương tích, một yêu cầu bắt buộc là
phải xác định tỉ lệ thương tật của nạn nhân. Việc này do cơ quan
giám định thực hiện theo trưng cầu của cơ quan tố tụng. Thực tế rất
nhiều vụ án, thời hạn giám định này kéo dài làm ảnh hưởng đến thời
hạn tố tụng.
c) Một số tình huống pháp luật chưa có hướng dẫn cụ thể
Trường hợp thứ nhất: Vụ án có nhiều người tham gia nhưng nạn
nhân chỉ bãi nại cho mỗi mình người chủ mưu. Theo luật, đối với
những vụ cố ý gây thương tích theo khoản 1 Điều 104 BLHS, cơ
quan chức năng chỉ được khởi tố theo yêu cầu của nạn nhân. Như

vậy, nạn nhân bãi nại cho người chủ mưu thì không thể khởi tố người
này. Nhưng nếu chỉ đem những người thực hành, giúp sức ra xử lý
thì sẽ bất công vì vai trò của người chủ mưu nặng hơn họ rất nhiều
mà lại không hề hấn gì…
Trường hợp thứ hai: Không lấy được yêu cầu của nạn nhân bằng
văn bản.
Trường hợp thứ ba: Nạn nhân liên tục thay đổi yêu cầu khởi tố,
thay đổi lời khai...
d) Khó khăn trong việc xác định hậu quả
Qua thực tiễn cho thấy để xác định một người thực hiện hành vi
cố ý gây thương tích cho người khác có phạm tội hay không, nếu
15


phạm tội thì phạm vào khoản nào được quy định tại Điều 104 Bộ luật
Hình sự, bắt buộc phải giám định mức độ tổn hại thương tích của nạn
nhân, mới xác định được. Nhưng qua thực tiễn đấu tranh với loại tội
phạm này thì việc xác định mức độ tổn hại thương tích của nạn nhân
gặp rất nhiều bất cập, khó khăn. Từ phía nạn nhân kiên quyết không
chịu đi giám định, hoặc để quá lâu mới tố giác hành vi bị xâm hại khi
đó vết thương đã lành, quá trình chữa trị thương tích không chịu lấy
hóa đơn và không làm bệnh án nên đã gây rất nhiều khó khăn, lúng
túng cho các cơ quan tiến hành tố tụng khi thụ lý và giải quyết.
e) Cách hiểu không thống nhất về dấu hiệu đồng phạm
Dấu hiệu đồng phạm trong những vụ án cố ý gây thương tích
cũng là vấn đề có nhiều quan điểm khác nhau. Hơn nữa một số quan
điểm cho rằng do không cùng bị xử lý trong một điều luật, nên không
thể có yếu tố đồng phạm được. Do đó, cần tách thương tích ra để xét
xử đối với từng người.
d) Người bị hại không đề nghị khởi tố khi thương tích dưới 11%

Với mức thương tích dưới 11% thì phải thuộc một trong các
trường hợp được quy định từ điểm a đến điểm k, khoản 1, Điều 104
BLHS mới cấu thành tội cố ý gây thương tích. Tuy nhiên, thường
trong những trường hợp này người bị hại không đề nghị khởi tố mà
hòa giải hai bên cho xong chuyện. Nếu người bị hại không có đơn
yêu cầu khởi tố thì không được truy cứu trách nhiệm hình sự người
đã thực hiện hành vi cố ý gây thương tích, gây tổn hại sức khoẻ của
người khác.
2.2.2. Một số hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng quy
định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tình tiết định khung của tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

16


Thứ nhất, về tình tiết “có tính chất côn đồ” chưa có văn bản
hướng dẫn cụ thể nên dẫn tới sự áp dụng tùy tiện của người tiến hành
tố tụng.
Thứ hại, xác định hung khí theo hướng dẫn tại các tiểu mục 2.1
và 2.2 mục 2 Phần I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày
17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao còn hạn
chế để định khung hình phạt. Khó ở chỗ “...”cơ quan tiến hành tố
tụng khó xác định những thứ khác là hung khí nguy hiểm là những
thứ gì.
Thứ ba, Bộ luật Hình sự năm 1999 chỉ quy định gây cố tật nhẹ,
trong khi đó thực tiễn xét xử có nhiều trường hợp người bị hại bị cố
tật nặng, thâm chí rất nặng như bị mù cả hai mắt, cụt cả hai tay...
Cách quy định này tuy thuận tiện cho việc áp dụng Điều 104 Bộ luật
Hình sự đối với hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác, nhưng sẽ không phù hợp với một số trường

hợp thực tế xảy ra.
Thứ tư, Thực tiễn xét xử cho thấy trường hợp cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác dẫn đến chết
người thì trong thực tế còn có một số trường hợp mặc dù thương tích
mà người phạm tội gây ra cho nạn nhân chưa phải là nặng thậm chí
không đáng kể, nhưng tính chất của tội phạm rất nghiêm trọng, tuy
nhiên chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể về trường hợp cố ý gây
thương tích thế nào là thuộc trường hợp nghiêm trọng.
2.2.3. Một số hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng quy
định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về hình phạt của tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
2.2.3.1. Quyết định hình phạt quá nhẹ so với tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội
17


Trong thực tiễn xét xử các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác tại thành phố Hải Phòng thời
gian qua hoạt động quyết định hình phạt được thực hiện tương đối
hiệu quả đảm bảo người phạm tội phải chịu hình phạt tương xứng với
hành vi do mình gây ra. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn tồn tại trường
hợp hội đồng xét xử đưa ra phán quyết về hình phạt cho bị cáo tương
đối “nương nhẹ”.
2.2.3.2. Quyết định hình phạt quá nặng so với tính chất và mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội
Thực tiễn xét xử cho thấy: trong một số trường hợp người phạm
tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 BLHS, được áp
dụng quy định tại Điều 47 BLHS và xử phạt bị cáo dưới mức thấp
nhất của khung hình phạt của điều luật áp dụng với bị cáo, mức xử
phạt đó là trong khung hình phạt thấp hơn liền kề của điều luật nhưng

vẫn là quá nặng đối với bị cáo.
2.3. Nguyên nhân của hạn chế, vƣớng mắc trong thực tiễn áp
dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội cố ý gây
thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác
2.3.1. Nguyên nhân khách quan của hạn chế, vướng mắc trong
thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
- Những hạn chế, vướng mắc trên là do pháp luật nói chung và
BLHS chưa quy định chặt chẽ, không có văn bản hướng dẫn thi hành
cũng như chứng cứ thu thập trong hồ sơ là chưa đầy đủ, chính xác.
- Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho nhân dân còn
hạn chế; một số văn bản hướng dẫn còn thiếu và chồng chéo; việc
triển khai thực hiện một số chuyên đề phòng, chống tội phạm và
phòng ngừa tệ nạn xã hội ở một số đơn vị còn mang tính hình thức …
18


- Công tác phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong
việc giải quyết các vụ án cố ý gây thương tích đã được ngành Tòa án
nhân dân đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên, hiệu quả phối hợp giữa các
cơ quan vẫn chưa cao.
- Các nhà làm luật hiện nay vẫn chưa xây dựng được án lệ về
loại tội phạm này nhằm giúp cho quá trình xét xử các vụ án có tính
chất đặc biệt một cách dễ dàng hơn, tiết kiệm thời gian và công sức
của người tiến hành tố tụng.
2.3.2. Nguyên nhân chủ quan của hạn chế, vướng mắc trong
thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
- Người tiến hành tố tụng nhận thức chưa đúng các tình tiết giảm
nhẹ TNHS quy định tại Điều 46 BLHS.

- Đội ngũ cán bộ làm công tác giám định ở cấp huyện hiện nay còn
thiếu, về chuyên môn nghiệp vụ và phương tiện làm việc còn hạn chế.
- Đội ngũ cán bộ, Thẩm phán chưa thực sự ổn định, chuyên
nghiệp; trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, Thẩm phán tuy đã
được nâng lên một mức nhưng chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ
và còn nhiều bất cập, hạn chế.
- Đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán còn tùy tiện
trong việc vận dụng các quy định của pháp luật trong quá trình điều
tra, truy tố và xét xử dẫn đến hậu quả của quá trình điều tra, truy tố
chưa thực sự khách quan còn tùy tiện trong việc khởi tố và truy tố.
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và nhất là
Thẩm phán còn chậm được đổi mới, chưa gắn với yêu cầu xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp, hiện đại, phục vụ nhu cầu
của sự nghiệp đổi mới.

19


- Hoạt động giám đốc việc xét xử đã bộc lộ những khiếm khuyết
thiếu sót chưa đáp ứng được chất lượng xét xử các vụ án hình sự và
đòi hỏi cần phải được hoàn thiện.
Chƣơng 3
YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI KHÁC
TẠI THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật
hình sự về tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của ngƣời khác

3.1.1. Yêu cầu của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Nội dung của nguyên tắc pháp chế trong tố tụng hình sự được
biểu hiện như sau: a) Các hoạt động tố tụng, trình tự thủ tục khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, chức năng nhiệm vụ,
quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan THTT, quyền và nghĩa
vụ của những người tham gia tố tụng và của các cơ quan Nhà nước,
tổ chức xã hội và công dân phải được quy định trong Luật tố tụng
hình sự một cách cụ thể, rõ ràng, phù hợp với thực tế; b) Mục đích
giải quyết vụ án theo hướng phát hiện nhanh chóng, xử lý công minh,
kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm và người phạm
tội, tránh làm oan người vô tội chỉ có thể đạt được khi có sự chấp
hành một cách tự nguyện, triệt để pháp luật tố tụng hình sự của các
chủ thể.
3.1.2. Yêu cầu bảo vệ quyền con người, quyền công dân

20


Pháp luật tố tụng hình sự (TTHS) cũng có vị trí quan trọng trong
việc bảo vệ quyền con người thông qua việc “chủ động phòng ngừa,
ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công
minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không
làm oan người vô tội” hướng tới mục đích “góp phần bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa,
đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm”.
Không dừng lại, BLHS phải được tiếp tục hoàn thiện hơn nữa để
góp phần tạo ra một khung pháp lý đủ mạnh nhằm bảo vệ một môi
trường sống an lành cho người dân; bảo vệ tốt hơn các quyền con

người, quyền tự do, dân chủ của công dân; động viên khuyến khích
mọi tầng lớp nhân dân yên tâm tham gia đấu tranh phòng, chống tội
phạm, phát triển kinh tế, sáng tạo khoa học.
3.1.3. Yêu cầu của cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước
pháp quyền
Cải cách tư pháp phải hướng tới việc thực hiện đầy đủ các
nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động tư pháp như: mỗi cơ quan
thực hiện từng khâu của tiến trình tố tụng phải chịu trách nhiệm độc
lập về kết luận của mình; bảo đảm tính khách quan của việc xét xử
hai cấp; thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi
xét xử; mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; quyền bào chữa
của bị can, bị cáo được bảo đảm; nhân dân tham gia, kiểm tra và
giám sát hoạt động tư pháp…
Về phương pháp tiến hành, cần chọn cải cách tòa án là khâu đột
phá trong cải cách tư pháp, bởi vì trong hệ thống các cơ quan tư

21


pháp, tòa án có vai trò đặc biệt quan trọng. Tăng cường đội ngũ thẩm
phán và hội thẩm nhân dân cả về số lượng và chất lượng.
3.2. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp
luật hình sự về tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của ngƣời khác
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự về
tình tiết định tội, tình tiết định khung và hình phạt của tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
BLHS năm 1999 (Sửa đổi, bổ sung năm 2009) đánh dấu một
bước tiến trong công tác lập pháp của chúng ta. Tuy nhiên trong quá
trình áp dụng BLHS năm 1999 nói chung và đối với tội cố ý gây

thương tích nói riêng còn có nhiều bất cập nên ngày 27/11/2015 tại
kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua BLHS năm 2015.
Trong khi đó, dù đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, nhưng các
quy định pháp luật vẫn là "những cái chung cho những trường hợp
riêng cụ thể", do đó, những quy định của BLHS năm 2015 cần được
tiếp tục giải thích, hướng dẫn áp dụng cụ thể.
3.2.2. Tăng cường giải thích, hướng dẫn áp dụng các quy định
của Bộ luật Hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác
Công tác hướng dẫn áp dụng pháp luật cần được triển khai kịp
thời, tránh việc xử lý oan sai, bỏ lọt tội phạm hoặc cùng một điều
luật, một tình tiết nhưng các cơ quan THTT lại có những cách hiểu
khác nhau dẫn đến có những quyết định và hình phạt khác nhau ảnh
hưởng đến bị can bị cáo.
3.2.3. Chú trọng tổng kết thực tiễn và nâng cao năng lực của
những người tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng các vụ án cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
22


Qua tổng kết thực tiễn đưa ra những đánh giá thực chất về sự
chính xác, phù hợp thực tiễn của các quy phạm pháp luật sau khi
được Nhà nước ban hành: Những quy phạm pháp luật nào phát huy
tác dụng tốt; quy phạm pháp luật nào còn mang tính chung chung,
trừu tượng khó thực hiện; quy phạm pháp luật nào quy định quá cụ
thể, cứng nhắc không đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống xã hội.
Từ đó cần có những đề nghị, xem xét sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, giải
thích, hướng dẫn những quy phạm pháp luật nhằm không ngừng nâng
cao tính khả thi của các văn bản pháp luật.
Cần chú trọng việc kiện toàn và nâng cao trình độ chuyên môn

nghiệp vụ, trình độ lý luận, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối
sống lành mạnh của đội ngũ cán bộ, công chức trong ngành, đặc biệt
là đội ngũ Thẩm phán, do đó đội ngũ cán bộ, Thẩm phán ngành Tòa
án nhân dân đã không ngừng được tăng cường về số lượng và nâng
cao về chất lượng. Bên cạnh đó cần có các giải pháp để phát triển và
nâng cao năng lực của đội ngũ Luật sư là vô cùng quan trọng.
3.2.4. Một số giải pháp khác bảo đảm áp dụng đúng quy định
của Bộ luật Hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác
Quan tâm cải thiện cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, chế độ
chính sách; bổ sung kinh phí hoạt động cho Toà án các cấp để tổ
chức xét xử tốt các vụ án về cố ý gây thương tích, đặc biệt là các vụ
án điểm; đồng thời, tăng cường công tác xét xử lưu động, góp phần
nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật trong nhân dân.
Ngoài việc thực hiện hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của ngành,
cần chủ động tích cực hơn nữa trong công tác phối hợp với các cơ
quan hữu quan.

23


×