Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

luận văn Hợp đồng lao động của thuyền viên tàu biển theo pháp luật lao động Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 77 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THÚY HỒNG

HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG CỦA THUYỀN VIÊN TÀU BIỂN
THEO PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT KINH TẾ

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. Phạm Thị Thúy Nga

Hà Nội, 2017


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới sự hướng dẫn tận tình của Tiến sỹ
Phạm Thị Thúy Nga và lãnh đạo Công ty cổ phần Vận tải Biển Vinafco, các
thầy cô giáo trường Đại học hàng hải Hải Phòng đã tạo điều kiện giúp đỡ cho
tôi hoàn thiện Luận văn Thạc sỹ này.
Do thời gian nghiên cứu không dài và kiến thức chuyên môn còn hạn
chế nên trong Luận văn này không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong
muốn nhận được sự góp ý và chỉ bảo của quý thầy cô giáo và các bạn học
viên để Luận văn hoàn chỉnh hơn và có thể vận dụng tốt hơn trong quá trình
nghiên cứu và làm việc sau này.
Học viên



Nguyễn Thị Thúy Hồng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1 ...................................................................................................... 6
NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LUẬT CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG
CỦA THUYỀN VIÊN TÀU BIỂN ................................................................. 6
1.1 Khái niệm và đặc điểm Hợp đồng lao động của thuyền viên tàu biển ....... 6
1.2. Nội dung pháp luật về hợp đồng lao động của thuyền viên tàu biển ....... 13
CHƢƠNG 2 .................................................................................................... 30
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VỀ HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG
CỦA THUYỀN VIÊN TÀU BIỂN VIỆT NAM HIỆN NAY ..................... 30
2.1. Giao kết hợp đồng lao động của thuyền viên tàu biển ............................. 30
2.2. Chủ thể giao kết hợp đồng lao động của thuyền viên tàu biển ................ 34
2.3. Hình thức hợp đồng lao động của thuyền viên tàu biển ......................... 38
2.4. Loại, nội dung hợp đồng lao động của thuyền viên tàu biển .................. 40
2.5. Thực hiện, thay đổi, tạm hoãn hợp đồng lao động của thuyền viên tàu
biển .................................................................................................................. 54
2.6. Chấm dứt hợp đồng lao động của thuyền viên tàu biển........................... 55
CHƢƠNG 3 .................................................................................................... 60
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT
NAM VỀ HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG CỦA THUYỀN VIÊN TÀU BIỂN 60
3.1. Yêu cầu, mục tiêu, nguyên tắc của việc hoàn thiện hệ thống pháp luật lao
động về Hợp đồng lao động của thuyền viên ................................................. 60
3.2 Một số giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật lao động về hợp đồng lao
động của thuyền viên ...................................................................................... 62
KẾT LUẬN CHUNG .................................................................................... 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 71



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BHXH:

Bảo hiểm xã hội

BLHH:

Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2015

BLLĐ:

Bộ luật lao động năm 2012

HĐLĐ:

Hợp đồng lao động

ILO:

Tổ chức lao động quốc tế

MLC 2006:

Công ước lao động hàng hải 2006

NLĐ:


Người lao động

NSDLĐ:

Người sử dụng lao động


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là quốc gia cửa ngõ cho các hoạt động trung chuyển vận tải
biển quốc tế từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương nên ngành vận tải biển
luôn được Nhà nước đặt mục tiêu phát triển với chiến lược trở thành một quốc
gia biển hùng mạnh. Ngành công nghiệp vận tải biển đã và đang sử dụng một
lực lượng lao động rất lớn, đặc biệt là lao động thuyền viên làm việc trực tiếp
trên các đội tàu biển. Theo báo cáo thống kê của Cục Hàng hải Việt Nam tính
đến 31/12/2015, đội ngũ thuyền viên Việt Nam hiện nay khoảng hơn 33.000
người trên tổng số 1,5 triệu lao động thuyền viên trên toàn thế giới.
Nhìn từ góc độ pháp luật, quan hệ lao động của thuyền viên thuộc quan
hệ lao động trong lĩnh vực hàng hải. Thuyền viên có thể cùng một lúc phải
chịu sự điều chỉnh của nhiều hệ thống pháp luật như: pháp luật của nước mà
tàu mang cờ, pháp luật của nước mà thuyền viên mang quốc tịch, pháp luật
của nước có cảng mà tàu đến hoạt động …. Đây là quan hệ lao động phức tạp
có cả yếu tố nước ngoài. Chính vì vậy mà yêu cầu về một hệ thống pháp luật
của quốc gia mà thuyền viên mang quốc tịch cần đầy đủ chặt chẽ để có thể
bảo đảm quyền lợi cho họ trước khi ký hợp đồng lao động.
Trên thế giới, các quốc gia có ngành hàng hải phát triển như: Nhật Bản,
Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, Philippin đã có hệ thống quy định pháp
luật về HĐLĐ thuyền viên tương đối hoàn thiện và riêng biệt như Luật thuyền
viên của Nhật Bản, Hàn Quốc; Sắc luật thiết chế MAGNA CARTA về thuyền
viên Philippin (An Act Instituting the MAGNA CARTA of FILIPINO

Seafarers); Các quy định về thuyền viên của nước Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa (Regulations of the People’s Republic of China on Seafarers) do Quốc
hội Trung quốc biểu quyết thông qua và Thủ tướng chính phủ ban hành hay
Thỏa ước lao động tập thể riêng cho Thuyền viên. Trong các sắc luật và quy
định này, các quốc gia đã khẳng định rất chi tiết về nghĩa vụ và bảo về quyền
lợi của thuyền viên về HĐLĐ, huấn luyện đào tạo, đãi ngộ và trách nhiệm
pháp lý của nhà nước, doanh nghiệp đối với thuyền viên.
1


Các vấn đề liên quan đến thuyền viên và HĐLĐ của thuyền viên ở Việt
Nam được quy định trong các văn bản pháp luật lao động chung, pháp luật
chuyên ngành và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Ngoài các
quy định chung của pháp luật lao động áp dụng cho tất cả các đối tượng người
lao động, mới đây, BLHH đã dành một chương quy định về Thuyền bộ và
Thuyền viên. Đây là một bước tiến lớn. Tuy nhiên, các quy định pháp luật về
HĐLĐ của thuyền viên trong BLHH cũng chỉ quy định rất chung chung tại
Điều 62 mà chưa có quy định cụ thể nhằm bảo đảm quyền và lợi ích của
thuyền viên, một số vấn đề về mức lương, chế độ bảo hiểm, thời giờ làm việc
… cũng cần phải có các văn bản hướng dẫn cụ thể mới có thể thực thi tốt. Mặt
khác, quy định pháp luật Việt Nam điều chỉnh các vấn đề liên quan đến
thuyền viên chưa có tính đặc thù phù hợp do lao động thuyền viên có các chế
độ làm việc đặc thù khác biệt so với lao động phổ thông khác. Chính vì vậy,
cần sớm hoàn thiện các quy định về chế độ lao động của thuyền viên Việt
Nam đồng thời hướng tới thực hiện Công ước lao động hàng hải mà Việt Nam
đã gia nhập năm 2013 để có cơ sở pháp lý bảo vệ quyền lợi cho thuyền viên.
Luận văn này sẽ nghiên cứu những vấn đề cơ bản về HĐLĐ của thuyền viên
tàu biển theo pháp luật quốc tế; các quy định của pháp luật lao động Việt Nam
hiện nay trên cơ sở phân tích thực trạng và đưa ra một số giải pháp để hoàn
thiện chế độ pháp luật về HĐLĐ của thuyền viên Việt Nam.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên thế giới, pháp luật lao động về thuyền viên được nhiều tác giả ở
nhiều quốc gia nghiên cứu, điển hình là Đề tài: “Phân tích pháp luật về lao
động của thuyền viên tàu biển của nước Cộng hoà Slovenia năm 2016 của hai
tác giả Lorna Prelaz và Jelenko Švetak, Đại học Dubrovnik (Croatia) trong đó
có phân tích các quy định trong pháp luật quốc gia nước Slovenia và pháp luật
quốc tế liên quan tới thuyền viên tàu biển. Điểm quan trọng của đề tài này là
xác định các cam kết bổ sung cho người thuê lao động phải được đưa vào hợp
đồng với thuyền viên tàu biển để đánh giá và đăng ký đồng thời quy định
quản lý mã các HĐLĐ được ký giữa thuyền viên tàu biển và chủ tàu hoặc
2


người đại diện [23, tr. 2]. Đề tài cũng trình bày các giải pháp mà pháp luật
nên xem xét cân nhắc khi soạn thảo các điều khoản lao động của thuyền viên
tàu biển để đảm bảo định hướng có tính hệ thống, công bằng, xã hội và hợp
pháp đồng thời mục tiêu chính là tìm ra các điểm còn hạn chế và những điều
cần cải tiến khi thực hiện Công ước MLC về HĐLĐ ở quốc gia này.
Năm 2007, tại Moscow, Alina Bolshakova đã bảo vệ thành công Luận
văn tiến sỹ khoa học chuyên ngành Luật lao động với đề tài “Hợp đồng lao
động thuyền viên tàu biển – so sánh giữa quy định của luật pháp Liên bang
Nga và Ucraina”. Công trình nghiên cứu hướng tới mục đích xác định các vấn
đề pháp lý nảy sinh trong quá trình ký kết HĐLĐ thuyền viên và xây dựng ý
tưởng phát triển trong tương lai cho các quy định pháp luật liên quan đến vấn
đề HĐLĐ thuyền viên tại hai quốc gia trên.
Ở Việt Nam, vấn đề chế độ lao động và HĐLĐ của thuyền viên đến
nay chưa có nhiều đề tài hay công trình nghiên cứu. Qua tìm hiểu, mới chỉ có
luận văn Thạc sỹ luật quốc tế của Tống Văn Băng, khoa Luật Đại học quốc
gia Hà Nội năm 2009 với đề tài: “ Pháp luật lao động Việt Nam về thuyền
viên làm việc trên các tàu vận tải biển nước ngoài, thực trạng và giải pháp”.

Đề tài này đã làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến quan hệ lao động có
yếu tố nước ngoài, đặc biệt là quan hệ lao động của thuyền viên Việt Nam
làm việc trên tàu biển nước ngoài đồng thời đưa ra một số giải pháp mới trong
đó có đề cập đến nhu cầu cần thiết phải xây dựng HĐLĐ thuyền viên tiêu
chuẩn [2, tr. 17]. Một Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường: “Nghiên cứu
hoàn thiện các quy định pháp luật về hợp đồng lao động thuyền viên” của
Nguyễn Thành Lê và Vũ Việt Dũng, Trường Đại học Hàng hải Việt Nam,
năm 2016. Với đề tài này, các tác giả đã đưa ra một số phân tích cụ thể các
quy định pháp luật Việt Nam về HĐLĐ của thuyền viên tàu biển, làm rõ về
khái niệm, đặc trưng, nội dung của Hợp đồng này cũng như đề xuất xây dựng
những điều khoản cơ bản trong HĐLĐ của thuyền viên tàu biển.
Với mục đích tìm hiểu và hoàn thiện, tôi chọn đề tài: “Hợp đồng lao
động của thuyền viên tàu biển theo pháp luật lao động Việt Nam hiện nay” để
3


nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề lý luận về pháp luật HĐLĐ của thuyền viên,
phân tích thực trạng và hoàn thiện chế độ pháp luật về HĐLĐ của thuyền viên
Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích:
Mục đích của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn
về pháp luật hợp đồng lao động của thuyền viên, phân tích những ưu điểm và
hạn chế của pháp luật lao động Việt Nam hiện hành về hợp đồng lao động của
thuyền viên để từ đó đề xuất một số ý kiến đóng góp xây dựng và hoàn thiện
các quy định pháp luật về vấn đề này cho phù hợp với MLC 2006.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận pháp luật về hợp đồng lao động
của thuyền viên như khái niệm, đặc điểm, các điều khoản bắt buộc…
- Đánh giá thực trạng pháp luật lao động Việt Nam HĐLĐ của thuyền viên,

chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó.
- Đề xuất một số yêu cầu, định hướng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật lao
động về hợp đồng lao động của thuyền viên Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật lao động Việt Nam về
HĐLĐ của thuyền viên theo nghĩa rộng trong đó bao gồm pháp luật lao động
chung (Bộ luật lao động năm 2012) và pháp luật chuyên ngành hàng hải (Bộ
luật hàng hải năm 2015) về lao động thuyền viên. Trong quá trình nghiên cứu,
ở một chừng mực nhất định, Luận văn nghiên cứu nội dung MLC 2006 và
pháp luật về HĐLĐ của thuyền viên tàu biển ở một số quốc gia.
Vì lý do hạn chế về thời gian và điều kiện nghiên cứu, Luận văn chưa
đề cập đến vấn đề xử lý hậu quả HĐLĐ thuyền viên vô hiệu và vấn đề giải
quyết tranh chấp liên quan đến HĐLĐ thuyền viên.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Với tính chất là một đề tại thuộc lĩnh vực khoa học xã hội, Luận văn
dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
4


nền tảng cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên cứu, đánh giá các vấn đề.
Đó là các phương pháp nghiên cứu truyền thống như phương pháp lôgíc,
phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, điều tra… Các số liệu
có liên quan được nêu trong luận văn được thu thập và phân tích từ các báo
cáo tổng kết của các cơ quan quản lý nhà nước thuyền viên như Cục Hàng
hải, Bộ Lao động thương binh xã hội… kết hợp các vụ việc được nêu trên các
báo, trang mạng internet… để chứng minh làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Kết quả nghiên cứu của đề tài này sẽ góp phần hệ thống hóa và làm rõ
hơn các vấn đề lý luận và thực tiễn về HĐLĐ của thuyền viên trong pháp luật
lao động.

Đề tài là tài liệu tham khảo hữu ích phục vụ công tác giảng dạy, học tập,
nghiên cứu vấn đề bảo vệ quyền lợi lao động thuyền viên và pháp luật bảo vệ
quyền lợi lao động thuyền viên. Đồng thời, đề tài cũng có giá trị nhất định đối
với các nhà hoạch định chính sách, các cơ quan, tổ chức trong việc nghiên cứu
tiếp tục hoàn thiện những quy định bảo vệ quyền lợi lao động thuyền viên
dưới góc độ pháp luật.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề pháp luật cơ bản về hợp đồng lao động của thuyền
viên tàu biển.
Chương 2: Thực trạng pháp luật lao động Việt Nam về HĐLĐ của thuyền
viên tàu biển hiện nay
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật lao động Việt Nam về hợp
đồng lao động của thuyền viên tàu biển.

5


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LUẬT CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG
CỦA THUYỀN VIÊN TÀU BIỂN
1.1. Khái niệm và đặc điểm Hợp đồng lao động của thuyền viên tàu biển
1.1.1. Khái niệm
Theo ILO, HĐLĐ được định nghĩa là: “Một thỏa thuận ràng buộc pháp
lý giữa một NSDLĐ và một công nhân, trong đó xác lập các điều kiện và chế
độ việc làm” [15, tr.214].
Khái niệm này có thể coi là có tính chất khái quát theo nghĩa đã phản
ánh được bản chất của hợp đồng nói chung, phù hợp với quan niệm “hợp
đồng, định nghĩa một cách đơn giản nhất là những thỏa thuận có giá trị pháp

lý ràng buộc các bên” đồng thời xác định được các bên trong HĐLĐ và một
phần nội dung của quan hệ hợp đồng lao động.
Khái niệm này cũng chỉ rõ chủ thể trong hợp đồng lao động, một bên là
“người sử dụng lao động” và một bên là “một công nhân” trong đó chủ thể
người lao động trong quan hệ hợp đồng bị thu hẹp với định nghĩa “một công
nhân”. Ở đây, công nhân (worker) được hiểu chỉ là người lao động trực tiếp
trong môi trường công nghiệp (nhà máy, xí nghiệp). Tuy nhiên, với thực tế
như hiện nay, khái niệm HĐLĐ theo quan điểm ILO đã được ngầm hiểu cho
nhiều đối tượng khác nhau theo nghĩa rộng người làm thuê (employer), bao
hàm đầy đủ các thành phần người lao động tham gia quan hệ hợp đồng.
Trong khái niệm này, nội dung Hợp đồng lao động được đề cập bao
gồm các điều kiện lao động và chế độ việc làm. Đây là phần nội dung cơ bản,
chủ yếu của HĐLĐ như công việc, điều kiện làm việc, quyền và nghĩa vụ các
bên nhưng chưa bao hàm đầy đủ phạm vi ở một số nội dung khác như quyền
và nghĩa vụ cụ thể của các bên, bảo hiểm, trợ cấp và phúc lợi khác…
Về HĐLĐ của thuyền viên, Công ước MLC 2006 có quy định:
6


“Các thuyền viên làm việc trên tàu mang cờ quốc gia của mình đều có
một hợp đồng lao động (thỏa thuận tuyển dụng) được ký kết bởi cả thuyền
viên và chủ tàu hoặc một đại diện của chủ tàu (hoặc, nếu họ không phải là
người lao động hợp đồng thì phải có bằng chứng khế ước hoặc thỏa thuận làm
việc tương tự) cung cấp cho họ các điều kiện sống và làm việc phù hợp trên
tàu theo quy định của Công ước” [19, tr. 25]
Sắc luật thiết chế MAGNA CARTA về thuyền viên Philippin có định
nghĩa về một “Hợp đồng thuyền viên tiêu chuẩn” [25, tr. 7]
“Phải có một Hợp đồng bằng văn bản giữa chủ tàu và thuyền viên mà
trong đó bao gồm các điều khoản sau:
a) Tên đầy đủ, ngày sinh, nơi sinh của thuyền viên;

b) Tên và địa chỉ của chủ tàu;
c) Ngày và nơi ký kết HĐLĐ;
d) Năng lực của Thuyền viên;
e) Mức lương hoặc cách tính lương của thuyền viên;
f) Giờ làm việc, giờ nghỉ ngơi;
g) Các khoản tiền phúc lợi như tiền nghỉ lễ, nghỉ phép, làm thêm giờ,
lương tháng 13..- nếu có; .v..v…
Như vậy, theo các nội dung trên, có thể đưa ra một định nghĩa ngắn gọn
về hợp đồng lao động của thuyền viên tàu biển như sau: “Hợp đồng lao động
của thuyền viên tàu biển là thỏa thuận giữa thuyền viên và chủ tàu hoặc đại
diện có thẩm quyền (ký kết HĐLĐ) về các điều kiện sống và làm việc của
thuyền viên trên tàu”.
Định nghĩa này phù hợp về bản chất, chủ thể và một số nội dung của
với khái niệm chung về HĐLĐ theo ILO.
Tuy nhiên, MLC 2006 còn đưa ra khái niệm “Thỏa thuận tuyển dụng
của thuyền viên bao gồm cả thỏa thuận tuyển dụng và các điều khoản thỏa
thuận”. [19, tr. 3] Khái niệm này rộng hơn và bao trùm cả Hợp đồng lao động
7


cũng như các thỏa thuận khác giữa Chủ tàu và thuyền viên.
1.1.2. Đặc điểm hợp đồng lao động của thuyền viên tàu biển
Dù có sự khác biệt nhất định trong góc độ tiếp cận về các đặc trưng của
HĐLĐ ở mỗi quốc gia nhưng đều có đặc điểm chung là “coi yếu tố quản lý
của NSDLĐ và NLĐ là đặc trưng quan trọng nhất của HĐLĐ” [17, tr. 235]
Ngoài các đặc điểm chung như HĐLĐ thông thường, HĐLĐ của
thuyền viên tàu biển có một số điểm đặc thù khác biệt.
Thứ nhất, HĐLĐ có sự phụ thuộc pháp lý giữa các bên trong quan hệ
lao động. Đây được coi là đặc trưng tiêu biểu nhất của HĐLĐ mà các hệ
thống pháp luật khác nhau đều thừa nhận. Có thể thấy trong tất cả các loại

quan hệ khế ước, duy nhất HĐLĐ tồn tại đặc trưng này. Nói cách khác, trong
quá trình thực hiện HĐLĐ dường như yếu tố bình đẳng “lẩn”, khuất” ở đâu
đó mà biểu hiện ra bên ngoài là sự không bình đẳng bởi một bên trong quan
hệ có quyền ra các mệnh lệnh, chỉ thị và bên kia có nghĩa vụ thực hiện [16,
tr. 235].
Trong HĐLĐ của thuyền viên tàu biển, chủ thể của hợp đồng lao động
của thuyền viên là thuyền viên và chủ tàu. Sự phụ thuộc pháp lý giữa thuyền
viên với chủ tàu trong hợp đồng lao động thuyền viên là một yếu tố khách
quan và phổ biến. Chủ tàu có quyền tổ chức quản lý và điều hành, thuyền
viên thực hiện nghĩa vụ theo HĐLĐ bằng chính sức lao động của mình.
Thứ hai, đối tượng của HĐLĐ là việc thực hiện chức trách nhiệm vụ
có trả công. HĐLĐ là một loại quan hệ mua bán đặc biệt. Một trong những
khía cạnh đặc biệt của quan hệ này thể hiện ở chỗ hàng hóa mang ra trao đổi
– sức lao động luôn tồn tại gắn liền với cơ thể NLĐ. NLĐ phải cung cứng
sức lao động từ thể lực và trí lực của chính mình [16, tr. 237].
Khoa học luật lao động của Pháp cũng cho rằng: “Đối tượng của HĐLĐ
là một công việc mà người làm công ăn lương phải hoàn thành thông qua việc
cung ứng sức lao động của mình và được NSDLĐ trả công” [16, tr. 238].
8


Trong HĐLĐ của thuyền viên tàu biển, khi một thuyền viên ký kết
HĐLĐ để hoàn thành công việc như đã thỏa thuận thì chủ tàu có trách nhiệm
phải trả lương cho thuyền viên.
Quy định 2.2 Công ước MLC nêu rõ: “Tất cả các thuyền viên đều phải
được trả công đều đặn và đầy đủ như quy định trong HĐLĐ” [19, tr. 27] Mục
đích quy định này nhằm đảm bảo cho các thuyền viên được trả lương cho
công việc của mình.
Tiền lương/tiền công cơ bản trả cho một tháng làm việc của thuyền
viên đủ năng lực sẽ không thấp hơn mức quy định do Ủy ban hợp tác hàng hải

hoặc một cơ quan có thẩm quyền khác của Ủy ban lao động quốc tế chỉ thị
[19, tr. 30]
Các quốc gia thành viên Công ước MLC 2006 sau khi tham khảo ý kiến
của các đại diện hiệp hội chủ tàu và thuyền viên sẽ xây dựng các quy trình
xác định mức tiền lương/tiền công tối thiểu cho thuyền viên và không mẫu
thuẫn với các nguyên tắc về tự do thỏa thuận tập thể. Các tổ chức đại diện
hiệp hội chủ tàu và thuyền viên cần tham dự vào việc xây dựng quy trình này
[19, tr. 30]
Thứ ba, HĐLĐ do đích danh thuyền viên thực hiện. Đặc trưng này
xuất phát từ bản chất quan hệ HĐLĐ. Khi NSDLĐ thuê mướn NLĐ, họ
không chỉ quan tâm đến trình độ chuyên môn của NLĐ mà còn quan tâm
đến đạo đức, ý thức, phẩm chất… tức nhân thân của NLĐ. Do đó, NLĐ phải
trực tiếp thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết, không được dịch chuyển cho
người thứ ba, ngay cả người có trình độ chuyên môn cao hơn, nghĩa vụ lao
động mà họ tạo ra cũng sẽ chấm dứt khi họ chết, không được chuyển giao
cho người thừa kế. Mặt khác, trong HĐLĐ ngoài những quyền lợi do hai
bên thỏa thuận thì NLĐ còn có một số chế độ, quyền lợi theo quy định của
pháp luật như nghỉ lễ tết, nghỉ phép, chế độ hưu trí... mà những quyền lợi
này của NLĐ chỉ được hiện thực hóa trên cơ sở sự cống hiến cho xã hội của
9


NLĐ (chủ yếu thể hiện thông qua thời gian làm việc mức tiền lương). Vì
vậy, để được hưởng những quyền lợi nói trên NLĐ phải trực tiếp thực hiện
HĐLĐ [16, tr. 239].
Đối với HĐLĐ của thuyền viên tàu biển, thuyền viên là đối tượng lao
động đặc biệt, phải tuân thủ các điều kiện nghiêm ngặt về chức danh,
chuyên môn, độ tuổi, sức khỏe theo tiêu chuẩn quốc tế phù hợp khác với
một số đối tượng lao động thông thường khác.
Không một ai dưới độ tuổi quy định được phép thuê để làm việc trên

tàu. Tuy nhiên, mỗi quốc gia có thể quy định trong pháp luật nước mình
mức độ tuổi tối thiểu của lao động thuyền viên.
Độ tuổi tối thiểu cho thuyền viên tại thời điểm Công ước MLC 2006
có hiệu lực là 16 tuổi [19, tr. 17]. Độ tuổi tối thiểu của thuyền viên theo quy
định của Philippin là 18 tuổi [25, tr. 5]
Thuyền viên không được làm việc trên tàu nếu họ không được cấp giấy
chứng nhận bảo đảm đủ sức khỏe làm việc trên tàu [19, tr. 18]. Thuyền viên
được chứng nhận đủ năng lực mới được làm việc trên tàu [19, tr. 19]
Với những yêu cầu, tiêu chuẩn điều kiện làm việc trên, thuyền viên
phải trực tiếp thực hiện nghĩa vụ theo vị trí chức trách được tuyển dụng mà
không được phép dịch chuyển công việc cho người khác cũng như thực hiện
công việc của thuyền viên khác.
Cơ quan quản lý tàu biển của mỗi quốc gia đều quy định về định biên
an toàn tối thiểu trên tàu, đồng thời, chủ tàu quy định về định biên thuyền
viên làm việc tại mỗi tàu. Vì vậy, mỗi thuyền viên thực hiện đúng vị trí chức
danh theo định biên của chủ tàu mà không thể chuyển giao nghĩa vụ này cho
bất kỳ cá nhân nào khác.
Công việc của thuyền viên là công việc dịch vụ trên tàu. Khác hẳn
với những HĐLĐ bình thường khác, hợp đồng lao động của thuyền viên qui
định rất rõ giới hạn lao động của thuyền viên; nơi làm việc của thuyền viên
10


là trên tàu. Tiếp theo, phạm vi lao động dịch vụ của thuyền viên đều rất rõ
ràng, để đảm bảo an toàn hành trình và các thao tác khác trên tàu, mỗi thuyền
viên đều đảm nhận một vị trí nhất định và chỉ cần hoàn thành công việc đó là
được. Lao động thuyền viên phải chấp hành sự chỉ huy của thuyền trưởng. Vì
thuyền trưởng là người phụ trách cao nhất quản lý, mọi sĩ quan, thuyền viên
khác đều phải chấp hành mệnh lệnh của thuyền trưởng, bao gồm mệnh lệnh
điều hành công việc lao động của thuyền viên [11, tr. 12].

Mỗi thuyền viên được cung cấp bản ghi về quá trình lao động của
mình trên tàu được gọi là Sổ thuyền viên (Seaman Book), mà trong đó ghi
rõ chức danh, vị trí làm việc tại từng giai đoạn trên tàu.
Thứ tư, sự thỏa thuận của các bên trong HĐLĐ của thuyền viên phải
trong khuôn khổ các quy định của pháp luật. Bất cứ sự thỏa thuận nào của
các bên trong quan hệ lao động cũng thường bị khống chế bởi những giới
hạn pháp lý nhất định. Giới hạn sự thỏa thuận đó được xây dựng trên
nguyên tắc là đối với quyền lợi của NLĐ thì các bên được thỏa thuận tối
đa, còn về nghĩa vụ của NSDLĐ thì các bên không được thỏa thuận thấp
hơn mức tối thiểu chứ không giới hạn mức tối đa. Sự giới hạn cũng được
xác định cụ thể đối với từng nội dung quyền và nghĩa vụ tương ứng với
các chế định có liên quan đến việc thực hiện HĐLĐ: độ tuổi làm việc trên
tàu, giờ làm việc, giờ nghỉ ngơi, giờ đi ca,…
Trong tất cả các quan hệ hợp đồng, thỏa thuận của các bên bao giờ
cũng phải đảm bảo các quy định bình đẳng, tự do, tự nguyện, không trái pháp
luật. Với HĐLĐ của thuyền viên, sự thỏa thuận ngoài việc bị khống chế bởi
quy định của pháp luật thì còn là các quy định khác như thỏa ước lao động
tập thể, nội quy lao động … Ở đó, quy định ngưỡng quyền tối thiểu của NLĐ
mà sự thỏa thuận chỉ được cao hơn, không được thấp hơn, còn ngưỡng nghĩa
vụ lại là tối đa, thỏa thuận chỉ được thấp hơn, không được cao hơn. Sự khác
biệt là trong các quan hệ hợp đồng khác, khung pháp lý cho sự thỏa thuận rất
11


rộng, đảm bảo tối đa quyền định đoạt của các bên còn trong quan hệ HĐLĐ,
quyền tự do định đoạt này bị chi phối bởi những giới hạn tương đối chặt chẽ.
Thứ năm, HĐLĐ được thực hiện trong một khoảng thời gian nhất
định hay vô hạn định.
Điểm đặc biệt của HĐLĐ của thuyền viên với HĐLĐ của các đối tượng
lao động thông thường khác là thời gian làm việc của thuyền viên không có tính

liên tục trong thời hạn của Hợp đồng. Thời hạn hiệu lực hợp đồng thuyền
viên rất linh động. Có thể nói thời gian ký kết hợp đồng lao động của
thuyền viên thường ngắn và không liên tục bởi hai lý do.
Một là, thời gian hợp đồng ngắn là do thuyền viên có tính đặc thù
nghề nghiệp cao, yêu cầu đối với thuyền viên khắt khe, lương cho thuyền
viên trên thị trường thuyền viên chuyên nghiệp tăng cao, cho nên thuyền
viên muốn ký kết hợp đồng lao động ngắn hạn, để cho mức lương của mình
sát với mức lương trên thị trường. Bởi vì khi kí kết hợp đồng lao động với
chủ tàu, nếu trong thời gian đó không phát sinh dịch vụ lao động thì theo
Luật hợp đồng lao động chủ tàu sẽ căn cứ theo mức tiêu chuẩn lương thấp
nhất do chính phủ nước sở tại qui định để trả cho thuyền viên, mức lương
này thấp hơn rất nhiều so với mức lương trên thị trường, những thuyền viên
đặc biệt là thuyền viên tự do rất ít ký kết những hợp đồng lao động nhiều
hơn 2 năm, vì điều này nói chung là bất lợi cho lợi ích của thuyền viên.
Hai là, quy định về thời gian tối đa làm việc trên tàu thì thuyền viên
được quyền hồi hương làm cho thời gian làm việc của của thuyền viên
không liên tục trong thời hạn HĐLĐ [11, tr. 12].
Trong trường hợp Hợp đồng không có thời hạn nhất định thì phải có
điều kiện cho phép một trong hai bên được phép kết thúc hợp đồng, khoảng
thời gian thông báo, khoảng thời gian đó phải cân bằng cho cả chủ tàu và
thuyền viên [19, tr. 17].

12


1.2. Nội dung pháp luật về hợp đồng lao động của thuyền viên tàu biển
1.2.1. Giao kết hợp đồng lao động của thuyền viên tàu biển
1.2.1.1. Các nguyên tắc giao kết hợp đồng lao động của thuyền viên tàu biển
Giao kết Hợp đồng lao động là giai đoạn đầu thể hiện sự hợp tác của các
bên để đi đến sự thống nhất ý chí nhằm tạo lập quan hệ lao động, là quá trình

để các bên tìm hiểu, đánh giá về nhau một cách trực tiếp, từ đó lựa chọn và ra
quyết định chính thức.
Theo Khoản 2, Quy định 2.1 MLC 2006: “HĐLĐ của thuyền viên phải
được thuyền viên đồng ý theo các điều kiện đảm bảo thuyền viên có một cơ
hội xem xét và tìm kiếm sự tham vấn về các điều kiện và các điều khoản trong
thỏa thuận và tự nguyện chấp nhận trước khi ký kết” [19, tr. 25].
Và điểm b, khoản 1, Tiêu chuẩn A2.1 MLC 2006 “Các thuyền viên
trước khi ký kết hợp đồng phải có điều kiện kiểm tra nội dung hợp đồng, tự
nguyện ký kết hợp đồng đó sau khi đã hiểu rõ về quyền lợi và trách nhiệm của
mình” [19, tr. 25]
Như vậy, HĐLĐ của thuyền viên được giao kết dựa trên các nguyên tắc
cơ bản sau:
- Nguyên tắc tự nguyện:
Nguyên tắc này biểu hiện về mặt chủ quan của người giao kết HĐLĐ ở
chỗ: các chủ thể hoàn toàn tự do, tự nguyện về mặt ý chí và lý trí, cấm các
hành vi dùng thủ đoạn để lừa dối, ép buộc, đe dọa nhằm buộc các bên phải
giao kết hợp đồng trái với ý chí của họ. Khi tham gia quan hệ HĐLĐ, kết quả
của quan hệ trước hết là sự truyền tải tuyệt đối, trọn vẹn, đầy đủ yếu tố ý thức
tinh thần, sự mong muốn đích thực của chính các bên trong quan hệ.
- Nguyên tắc không trái pháp luật và thỏa ước lao động tập thể.
Theo Quy định 2.1 và tiêu chuẩn A2.1 MLC2006, “Hợp đồng lao động
của thuyền viên có thể được phép bao gồm các thỏa ước tập thể đang áp dụng
với điều kiện là luật quốc gia của nước thành viên cho phép. Trường hợp hợp
13


đồng lao động của thuyền viên bao gồm một thỏa ước tập thể thì trên tàu cũng
phải có bản sao của thỏa ước đó” [19, tr. 25].
Ngoài nội dung của hợp đồng mà thuyền viên được tìm hiểu thì khi giao
kết HĐLĐ, thuyền viên được thông báo về tất cả các quy định liên quan nhằm

đảm bảo cho thuyền viên nắm rõ các quy định và kiểm tra các quy định này
trên cơ sở phù hợp với pháp luật và thỏa ước lao động tập thể.
Khi giao kết HĐLĐ, nguyên tắc tự do, tự nguyện bao gồm sự tôn trọng
cái riêng tư, cá nhân của các bên. Nhưng để được xã hội tôn trọng, pháp luật
chấp thuận và bảo vệ thì cái riêng phải đặt trong cái chung của xã hội, tức tuân
thủ nguyên tắc không trái pháp luật. Vì vậy, các quy định chung của pháp luật
lao động, đặc biệt là thỏa ước lao động tập thể là nguồn bổ trợ, hướng dẫn chi
tiết để thực hiện hóa cam kết của các bên trên thực tế.
1.2.1.2. Trình tự giao kết hợp đồng lao động của thuyền viên tàu biển
Quá trình giao kết HĐLĐ có thể chia làm ba giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Các bên bày tỏ mong muốn thiết lập quan hệ HĐLĐ:
Đây là giai đoạn cụ thể hóa nguyên tắc tự do, tự nguyện. Khi các bên có nhu
cầu giao kết HĐLĐ thì phải biểu lộ ra ngoài dưới hình thức nào đó. NSDLĐ
có thể thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, đăng tin tuyển dụng,
thông báo tuyển dụng qua các đơn vị giới thiệc việc làm… NLĐ khi tiếp nhận
thông tin được thông tin nếu có nhu cầu làm việc và thấy phù hợp có thể trực
tiếp đến đơn vị hay thông qua trung tâm môi giới để bày tỏ nguyện vọng của
mình. Đây là giai đoạn các bên chưa có chi phối lẫn nhau và họ có thể chấm
dứt quan hệ ngay lần gặp đầu tiên mà không có sự ràng buộc về mặt pháp lý.
- Giai đoạn 2: Các bên thương lượng đàm phán nội dung Hợp đồng
Đây vẫn là giai đoạn chưa làm nảy sinh các quyền và nghĩa vụ cụ thể, hai bên
chỉ cần tuân thủ các nguyên tắc giao kết HĐLĐ còn nếu thương lượng không
đạt kết quả thì không hề có ràng buộc nghĩa vụ pháp lý. Song xét thực tế, đây
là giai đoạn rất quan trọng. Chất lượng quan hệ lao động phụ thuộc rất lớn vào
14


thái độ, sự thiện chí và ý thức của các bên khi thương lượng.
- Giai đoạn 3: Hoàn thiện và giao kết HĐLĐ
Giai đoạn đàm phát kết thúc bằng việc thống nhất những thỏa thuận và chuyển

sang giao kết HĐLĐ. Đối với HĐLĐ bằng lời nói, khi giao kết nếu cần thiết
thì có thể yêu cầu người làm chứng. Đối với hợp đồng bằng văn bản, các bên
thể hiện những thỏa thuận vào các điều khoản và sau đó ký kết HĐLĐ. Thực
tế, dường như tất yếu này lại đặc biệt quan trọng về mặt pháp lý vì hành vi đó
được coi là căn cứ pháp lý phát sinh quan hệ lao động.
Điểm đặc thù trong quá trình giao kết HĐLĐ của thuyền viên là HĐLĐ thuyền
viên tàu biển bắt buộc hình thức phải bằng văn bản nên quá trình giao kết
HĐLĐ kết thúc bằng một Hợp đồng lao động.
1.2.2. Chủ thể giao kết hợp đồng lao động của thuyền viên tàu biển
Chủ thể của HĐLĐ của thuyền viên là thuyền viên và chủ tàu. Khái
niệm chủ tàu và thuyền viên được quy định tại khoản 1, Điều 2 MLC 2006:
- Chủ tàu là người sở hữu tàu hoặc tổ chức hay cá nhân khác, như nhà
quản lý, đại lý hoặc người thuê tàu trần, chịu trách nhiệm về hoạt động
của tàu trước chủ sở hữu và, chấp nhận đảm nhận các nhiệm vụ và nghĩa
vụ của chủ tàu phù hợp với Công ước, bất kể có hay không các cá nhân
hoặc tổ chức nào khác thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ hoặc trách nhiệm
thay mặt chủ tàu [19, tr. 25].
Như vậy, chủ thể ký kết HĐLĐ với thuyền viên khá đa dạng, bao gồm:
+ Chủ sở hữu con tàu
+ Người quản lý, đại lý, người khai thác tàu.
+ Các tổ chức, cá nhân được thực hiện nhiệm vụ thay mặt chủ tàu.
- Thuyền viên là bất kỳ người nào được tuyển dụng hoặc thuê hoặc làm
việc theo bất kỳ khả năng nào trên một tàu [19, tr. 25].
Theo như chủ thể ký kết HĐLĐ trên thì ngoài HĐLĐ được ký trực
tiếp giữa thuyền viên và Chủ tàu thì còn có HĐLĐ thông qua đơn vị trung
15


gian (là người quản lý, đại lý, khai thác tàu hoặc các tổ chức, cá nhân khác).
Thuyền viên sẽ ký HĐLĐ với các đơn vị này nhưng làm việc trên tàu của

Chủ tàu khác.
Có hai cách để thuyền viên làm việc trên tàu biển mà chủ tàu là người
nước ngoài: Một là ký kết hợp đồng uỷ quyền cho công ty cung cấp dịch vụ
thuyền viên trong nước, sau đó công ty này ký kết hợp đồng lao động với
chủ tàu nước ngoài về cung cấp lao động thuyền viên cho họ; hai là
thuyền viên trực tiếp giao kết hợp đồng lao động với chủ tàu nước ngoài
(thực tế hình thức ký kết trực tiếp này rất ít).
1.2.3. Hình thức hợp đồng lao động của thuyền viên tàu biển
Theo Khoản 1, Quy định 2.1 MLC 2006, Các điều kiện và điều khoản
của hợp đồng lao động thuyền viên phải được đưa vào hoặc tham chiếu đến
một Hợp đồng có hiệu lực pháp lý được lập thành văn bản rõ ràng và phải phù
hợp với các tiêu chuẩn đề ra. Cả chủ tàu và thuyền viên, mỗi bên phải giữ một
bản gốc đã ký của hợp đồng [19, tr. 25].
Hợp đồng lao động của thuyền viên được thực hiện bằng ngôn ngữ của
quốc gia (nếu tàu hoạt động tuyến nội địa và thuyền viên có quốc tịch của
quốc gia đó). Trong trường hợp thuyền viên có quốc tịch khác quốc gia tàu
mang cờ hoặc tàu hoạt động tuyến quốc tế thì ngoài ngôn ngữ quốc gia còn
yêu cầu có thêm bản Hợp đồng lao động có ngôn ngữ bằng tiếng Anh.
Như vậy, hợp đồng lao động của thuyền viên bắt buộc phải bằng văn
bản kể cả hợp đồng có thời hạn dưới 3 tháng. Đây là điểm khác biệt khi
không có hình thức Hợp đồng lao động bằng lời nói hay hành vi. Điều này là
do đặc điểm của hợp đồng lao động thuyền viên mang tính chất và nội dung
đặc biệt, phức tạp riêng nên việc yêu cầu ký HĐLĐ bằng văn bản là cơ sở
pháp lý chặt chẽ để bảo vệ quyền lợi của thuyền viên.
1.2.4. Loại, nội dung hợp đồng lao động của thuyền viên tàu biển
a/ Loại HĐLĐ: Hợp đồng lao động của thuyền viên tàu biển có các loại sau:
16


- HĐLĐ không có thời hạn nhất định: là hợp đồng mà trong đó hai bên

không xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng. Thực
chất, đây là loại Hợp đồng không xác định thời hạn. Loại hợp đồng này
thường không phổ biến và nhiều thuyền viên cũng không muốn ký hợp đồng
với thời hạn dài này bởi lý do đặc điểm thứ năm của hợp đồng lao động
thuyền viên đã phân tích ở trên.
Nếu hợp đồng không có thời hạn nhất định thì phải có điều kiện cho phép một
trong hai bên được phép kết thúc hợp đồng, khoảng thời gian thông báo,
khoảng thời gian đó phải cân bằng cho cả chủ tàu và thuyền viên” (Khoản 4,
Tiêu chuẩn A 2.1 MLC 2006) [19, tr. 26].
- Hợp đồng có thời hạn nhất định: là hợp đồng mà trong đó hai bên xác
định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng.
Hợp đồng này phải quy định rõ ngày hết hạn.
Đây là loại hợp đồng được áp dụng phổ biến nhất đối với lao động
thuyền viên, đặc biệt với thời hạn 12 tháng. Bởi vì, theo quy định tại điểm b,
khoản 2, Tiêu chuẩn A2.5 thì “thời gian làm việc tối đa trên tàu, mà sau đó
thuyền viên được quyền hồi hương - khoảng thời gian đó phải dưới 12 tháng”
[19, tr. 35], tức là sau thời gian làm việc trên tàu tối đa 12 tháng, thuyền viên
được hồi hương lên bờ. Quy định về thời hạn làm việc này theo thông lệ quốc
tế nhằm đảm bảo về thể trạng sức khỏe, tâm sinh lý của thuyền viên do đặc thù
làm việc trên phạm vi hẹp trên tàu, luôn trong hành trình trên biển trong thời
gian dài không có quan hệ liên lạc với gia đình, vợ con. Bởi vậy, khi ký
HĐLĐ, các chủ tàu thường ký luôn HĐLĐ có thời hạn hợp đồng với thời gian
tối đa được phép làm việc trên tàu (HĐLĐ xác định thời hạn 12 tháng hoặc 10
tháng +- 2 tháng). Việc ký kết hợp đồng với thời hạn này tạo điều kiện linh
hoạt thuận lợi cho cả thuyền viên và chủ tàu sau khi kết thúc thời hạn hợp
đồng đã ký, thuyền viên có thể lựa chọn ký Hợp đồng mới với đơn vị khác
hoặc sau thời gian thuyền viên nghỉ phép lên bờ, Chủ tàu chưa bố trí lại công
17



việc cho thuyền viên mà nếu ký Hợp đồng có thời hạn dài hơn sẽ khó khăn
cho thuyền viên phải chờ đợi cũng như giải quyết chế độ trong thời gian
thuyền viên nghỉ chờ đợi được điều động xuống tàu thay thế.
Trong trường hợp sau thời gian thuyền viên nghỉ được tiếp tục bố trí
tiếp tục làm việc trên một tàu khác, chủ tàu và thuyền viên ký một HĐLĐ có
thời hạn 12 tháng mới. Khi đó HĐLĐ của thuyền viên không có tính liên tục
và liên tiếp ký đi ký lại nhiều lần loại hợp đồng xác định thời hạn mà không
chuyển tiếp sang loại hợp đồng không xác định thời hạn.
- Hợp đồng chuyến: là loại Hợp đồng có thời hạn ngắn cho một chuyến tàu cụ
thể, kể từ ngày bắt đầu chuyến tàu ở cảng đi cho đến khi kết thúc chuyến tàu ở
cảng đến. Hợp đồng này phải nêu rõ cảng đích, thời gian hết hạn sau khi tàu
đến cảng và thuyền viên chấm dứt công việc. Loại Hợp đồng này còn được ký
kết giữa chủ tàu và thuyền viên chỉ thực hiện một nhiệm vụ là tiếp nhận, đưa
con tàu trên một hành trình từ địa điểm người bán tàu về địa điểm của người
mua tàu. Đây thực chất là loại hợp đồng theo vụ việc.
Theo Tiêu chuẩn A 2.1 MLC 2006: Mỗi quốc gia có thể áp dụng các
luật quy định khoảng thời gian thông báo tối thiểu của chủ tàu và thuyền viên
trong trường hợp muốn chấm dứt HĐLĐ trước thời hạn. Khoảng thời gian báo
trước này sẽ được quy định sau khi tham khảo ý kiến của đại diện hiệp hội chủ
tàu và hiệp hội thuyền viên nhưng không ít hơn 7 ngày
Khoảng thời gian ngắn hơn thời gian báo trước quy định vẫn có thể
được cho phép trong các trường hợp mà trong luật quốc gia hoặc các thỏa ước
tập thể quy định và xem xét kết thúc HĐLĐ không cần tới báo trước hoặc báo
trước ít thời gian. Khi quy định các trường hợp này, các nước thành viên cần
xem xét đảm bảo quyền lợi thuyền viên khi kết thúc hợp đồng mà không báo
trước hoặc báo trước ít thời gian để không phải chịu phạt [19, tr. 25].
b/ Nội dung của HĐLĐ:

18



Khoản 4, Tiêu chuẩn A2.1 MLC 2006 quy định về nội dung của HĐLĐ
thuyền viên như sau:
“Mỗi quốc gia phải thông qua các văn bản pháp luật và các quy định chỉ rõ
các vấn đề được bao gồm trong tất cả các hợp đồng lao động của thuyền viên
được điều chỉnh bởi luật quốc gia. Hợp đồng lao động của thuyền viên trong
mọi trường hợp phải bao gồm các nội dung sau đây [19, tr. 26].:
(a) tên đầy đủ, ngày sinh hoặc tuổi, và nơi sinh của thuyền viên;
b) tên và địa chỉ chủ tàu;
(c) địa điểm và ngày thỏa thuận tuyển dụng của thuyền viên có hiệu lực;
(d) năng lực mà theo đó thuyền viên được tuyển dụng;
(e) mức lương của thuyền viên, nếu phù hợp, cách tính lương;
(f) tiền thanh toán nghỉ phép hàng năm hoặc, nếu phù hợp, cách tính tiền
thanh toán này;
(g) kết thúc thỏa thuận và các điều kiện kèm theo, bao gồm:
(i) nếu thỏa thuận không có thời hạn xác định, các điều kiện cho phép một
trong hai bên kết thúc hợp đồng, cùng với thời hạn thông báo được yêu
cầu; thời hạn thông báo được yêu cầu của chủ tàu không được ngắn hơn
của thuyền viên;
(ii) nếu thỏa thuận có một thời hạn xác định, lấy hạn đó; và
(iii) nếu là thỏa thuận cho một chuyến đi biển, ghi rõ cảng đến và thời gian
hết hạn sau khi tàu đến cảng, trước khi thuyền viên kết thúc sự ràng buộc
của thỏa thuận;
(h) chủ tàu phải cung cấp cho thuyền viên trợ cấp bảo vệ sức khoẻ và an
sinh xã hội;
(i) quyền hồi hương của thuyền viên;
(j) tham chiếu đến thoả ước tập thể, nếu phù hợp; và
(k) mọi chi tiết khác mà luật quốc gia có thể yêu cầu.

19



Mục 21, chương IV Sắc luật thuyền viên của Philippin cũng yêu cầu quy
định rõ các nội dung từ mục a) đến mục k) nêu trên trong Hợp đồng lao động
của thuyền viên. [25, tr. 7].
Trong các nội dung của hợp đồng lao động của thuyền viên tàu biển cần
lưu ý các vấn đề sau:
Thứ nhất, về nội dung “năng lực mà theo đó thuyền viên được tuyển
dụng”. Đây là một quy định về yêu cầu tiêu chuyển tuyển dụng người lao
động khi tham gia quan hệ lao động. Người lao động đáp ứng được các yêu
cầu về chuyên môn mà công việc đòi hỏi thì hai bên sẽ thỏa thuận và ký kết
hợp đồng lao động. Tuy nhiên, đối với đối tượng lao động thuyền viên, các
yêu cầu này được quy định một cách bắt buộc, khắt khe về các tiêu chuẩn Sức
khỏe, Chuyên môn bằng các giấy chứng nhận theo tiêu chuẩn quốc tế.
Quy định 1.3 MLC 2006 có yêu cầu: Đảm bảo thuyền viên được đào tạo
hoặc có chuyên môn thực hiện nhiệm vụ trên tàu [19, tr. 19].:
- Thuyền viên không được làm việc trên tàu trừ khi được đào tạo hoặc
chứng nhận có khả năng hoặc có chứng nhận chuyên môn khác thực hiện
nhiệm vụ của họ.
- Thuyền viên không được phép làm việc trên tàu trừ khi đã được đào tạo
đầy đủ về an toàn cá nhân trên tàu.
- Đào tạo và cấp giấy chứng nhận phù hợp với các văn kiện bắt buộc
được Tổ chức Hàng hải quốc tế thông qua phải được xem là thỏa mãn các yêu
cầu nêu trên.
Mỗi một thuyền viên chỉ có thể thực hiện một chức danh công việc trên
tàu khi có đủ các tiêu chuẩn, điều kiện làm việc đồng thời theo thỏa thuận vị
trí tuyển dụng mà không thể thay thế. Do vậy, yêu cầu đặt ra ở đây không chỉ
là các điều kiện mà còn là các tiêu chuẩn về sức khỏe, đào tạo an toàn cá nhân
tức là “năng lực” mà từ đó thuyền viên được tuyển dụng.


20


Thứ hai, về quyền hồi hương của thuyền viên. Ý nghĩa và mục đích của
Quy định 2.5 MLC 2006 là “Đảm bảo thuyền viên được trở về nhà” [19, tr. 35].
Đây vừa là quyền luật định mang tính bắt buộc nhưng cũng là quyền
mang tính nhân văn cho lao động đặc thù. Do thuyền viên có điều kiện làm
việc riêng biệt trên một tàu, trên vùng biển trong suốt một thời gian dài, thiếu
thông tin xã hội, không có quan hệ gia đình nên thuyền viên cần được nghỉ
ngơi, ổn định sức khỏe tâm sinh lý. Vì vậy, Công ước MLC 2006 ngoại trừ
các trường hợp hồi hương thì còn có riêng một quy định về thời gian làm việc
tối đa trên tàu để thuyền viên được quyền hồi hương và phải được thực hiện
quyền hồi hương một cách chính đáng.
1.2.5. Thực hiện, thay đổi, tạm hoãn hợp đồng lao động của thuyền viên
tàu biển
Quá trình thực hiện HĐLĐ là sự hiện thực hóa quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên trong quan hệ pháp luật lao động, hay thực hiện hành vi
HĐLĐ là hành vi pháp lý của hai bên nhằm thực hiện các quyền và nghĩa vụ
đã cam kết trong HĐLĐ.
Sau khi giao kết HĐLĐ, các bên phải bằng hành vi của mình thực hiện
nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng. Hợp đồng sau khi có hiệu lực trở thành “luật”
với các bên. Về nguyên tắc mỗi bên phải thực hiện đúng, đầy đủ và thiện chí,
tạo điều kiện để bên kia thực hiện HĐLĐ. Vì dù ở phương diện nào đó, lợi ích
các bên có thể đối lập nhưng xét toàn bộ quá trình lao động, quyền lợi các bên
chỉ có được khi quan hệ lao động diễn ra ổn định, hài hòa trên cơ sở hiểu biết,
tôn trọng lẫn nhau.
Do thỏa thuận của các bên xác lập tại một thời điểm cụ thể với điều kiện
khả năng nhất định trong khi quá trình lao động diễn ra trong thời gian dài, có
thể xảy ra nhiều sự kiện khách quan, chủ quan khiến các bên không muốn hay
không thể thực hiện đúng thỏa thuận. Vì vậy, việc ghi nhận quyền và khả năng

thay đổi hợp đồng là cần thiết, mang tính tất yếu khách quan.
21


×