Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Tiểu luận giữa kì KTPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.22 KB, 41 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước có ý nghĩa, tác dụng to lớn và
toàn diện về mặt kinh tế - xã hội, song bên cạnh đó là muôn vàn khó khăn và thử
thách. Để thực hiện CNH – HĐH thành công thì điều tất yếu là việc cần thiết và
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực về vốn, khoa học công nghệ… và đặc biệt là
nguồn nhân lực.
Nguồn lực con người nói chung và nguồn nhân lực, xét trên khía cạnh độ
tuổi lao động là nguồn lực cơ bản của sự phát triển kinh tế xã hội. Trên phạm vi
rộng hơn thì “Con người đứng ở trung tâm của sự phát triển, là tác nhân và là
mục đích của sự phát triển”. Nhận thức được vai trò của nguồn nhân lực, Đại hội
Đảng lần thứ VIII đã khẳng định: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm
yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”, “nâng cao dân trí, bồi
dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết
định sự thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa”.
Trong xu thế kinh tế tri thức và toàn cầu hóa, nguồn nhân lực có sức khỏe,
học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật cao được coi là một điều kiện để tăng
trưởng nhanh, rút ngắn khoảng cách tụt hậu.
Nhận thấy rõ được tầm quan trọng của nguồn nhân lực trong quá trình phát
triển kinh tế đất nước, em đã lựa chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng nguồn lao động phục vụ cho quá trình Công nghiệp hóa
– Hiện đại hóa tại địa phương”.
Em xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô giáo, TS. Nguyễn Thị Hải Ninh
đã nhiệt tình giảng dạy, hướng dẫn và giúp đỡ em trong quá trình học tập và
nghiên cứu để em đã hoàn thành bài viết này.
Em xin chân thành cảm ơn!

1


CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐÀO TẠO VÀ
SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG


NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Nguồn nhân lực

cơ bản về đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực (NNL) là tổng hợp những con người cụ thể có khả năng
tham gia vào quá trình lao động với các yếu tố về thể lực, trí lực, tâm lực; tiềm
năng lao động của một tổ chức, một địa phương, một quốc gia trong thể thống
nhất hữu cơ năng lực xã hội (thể lực, trí lực, nhân cách) và tính năng động xã
hội của con người, nhóm người, tổ chức, địa phương, vùng, quốc gia. Tính
thống nhất đó được thể hiện ở quá trình biến nguồn lực con người thành vốn
con người đáp ứng yêu cầu phát triển.
Nói cách khác, nguồn nhân lực bao gồm những người trong độ tuổi lao
động có khả năng tham gia vào nền sản xuất xã hội theo qui định của Luật
lao động.
Các yếu tố cấu thành nguồn nhân lực theo nhóm:
-Qui mô dân số, lao động và sức trẻ.
-Trình độ dân trí và chuyên môn kĩ thuật của NNL liên quan và phụ thuộc vào sự
phát triển nền giáo dục – đào tạo và dạy nghề của một quốc gia.
-Tính năng động xã hội và sức sáng tạo của con người, yếu tố liên quan đến
chính sách giải phóng sức lao động, tạo động lực phát triển, phát huy tài
năng.
-Truyền thống lịch sử và nền văn hóa hun đúc lên bản lĩnh, ý chí, tác phong của
con người trong lao động.
1.1.2. Lực lượng lao động
Là bộ phận dân số trong độ tuổi qui định, thực tế có tham gia lao động
(đang có việc làm) và những người chưa có việc làm nhưng đang tích cực tìm
kiếm việc làm. Như vậy có một bộ phận dân số được tính vào NNL nhưng
không nằm trong lực lương lao động. Đó là những người không có việc làm

nhưng không tìm kiếm việc làm, những người đang đi học và những người thuộc
tình trạng khác, ví dụ người nghỉ hưu trước tuổi.
1.1.3. Vốn con người
2


Là phạm trù chỉ các kỹ năng và năng lực của con người khi được sử dụng
vào lao động hay bằng cách nào đó đóng góp cho nền kinh tế. Nhiều nhà kinh tế
coi vốn con người đơn giản là lao động, một trong ba nhân tố của sản xuất và
xem nó như một loại hàng hóa có thể trao đổi được. Trong lý thuyết phát triển
con người, các phân tích phân biệt niềm tin xã hội, kiến thức chia sẻ và sự sáng
tạo của cá nhân như là ba khả năng của con người áp dụng vào hoạt động kinh
tế. Thuật ngữ vốn con người trong lý thuyết phát triển con người chỉ sự tổ hợp
của ba yếu tố đó. Do vậy vốn con người sẽ bằng không nếu không có lao động,
không có việc làm hay không có hàng hóa sản xuất ra.
1.1.4. Phát triển nguồn nhân lực
Phát triển NNL là làm tăng kinh nghiệm học được trong một khoảng thời
gian xác định để tăng cơ hội nâng cao năng lực thực hiện công việc.
UNESCO sử dụng khái niệm phát triển NNL theo nghĩa hẹp: là làm cho
toàn bộ sự lành nghề của dân cư luôn luôn phù hợp trong mối quan hệ với sự
phát triển của đất nước.
Tổ chức lao động thế giới (ILO) cho rằng phát triển NNL bao hàm phạm vi
rộng hơn, không chỉ trình độ lành nghề hoặc vấn đề đào tạo nói chung, mà còn
là sự phát triển năng lực và sử dụng năng lực đó vào việc làm có hiệu quả, cũng
như thỏa mãn nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân.
Liên hợp quốc sử dụng khái niệm phát triển NNL theo nghĩa rộng, bao gồm
giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng con người nhằm thúc đẩy phát triển
KTXH và nâng cao chất lượng cuộc sống.
1.1.5. Đào tạo nguồn nhân lực
Sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức trong thời đại ngày nay cho thấy đầu

tư cho NNL được coi trọng hơn các nguồn đầu tư khác. Đầu tư phát triển NNL
được hiểu ở cả ba mặt: chăm sóc sực khỏe, nâng cao chất lượng cuộc sống và
giáo dục đào tạo, trong đó giáo dục đào tạo có vai trò quan trọng nhất. Khái
niệm giáo dục luôn gắn với khái niệm đào tạo.
Đào tạo là quá trình tác động đến một con người nhằm làm cho người đó
lĩnh hội và nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo… một cách có hệ thống nhằm
chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộ sống và khả năng nhận một sự phân
3


công lao động nhất định góp phần vào việc phát triển kinh tế xã hội, duy trì và
phát triển nền văn minh loài người. Về cơ bản, đào tạo là hoạt động giảng dạy
của nhà trường, gắn việc truyền thụ tri thức với giáo dục đạo đức và nhân cách.
Kết quả và trình độ được đào tạo của một người ngoài việc phụ thuộc vào hoạt
động nêu trên còn do việc tự đào tạo của người đó thể hiện ra ở việc tự học và
tham gia vào các hoạt động xã hội, lao động sản xuất, tự rút kinh nghiệm của
người đó quyết định. Chỉ khi nào quá trình đào tạo biến thành quá trình tự đào
tạo một cách tích cực, tự giác thì việc đào tạo mới có hiệu quả cao.
Đào tạo là một mắt xích trong chu trình phát triển NNL. Nó phải đáp ứng
-

yêu cầu cung cấp NNL cho xã hội ở các lĩnh vực sau:
Nhân lực trong lĩnh vực khoa học công nghệ, ngành nghề kinh tế, kỹ thuật.
Nhân lực trong lĩnh vực lãnh đạo, quản lý nhà nước.
Nhân lực trong lĩnh vực quản lý doanh nghiệp.
Thực tế cho thấy dù nhân lực ở lĩnh vực nào cũng phải đảm bảo được yêu
cầu của công việc như trình độ chuyên môn, kỹ thuật (các tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo thực hành, thái độ, phong cách, năng lực sáng tạo) để có khả năng thực hiện
môt loạt các công việc trong phạm vi ngành nghề theo sự phân công lao động
của xã hội.

Từ những vấn đề trên có thể hiểu, đào tạo NNL là quá trình tác động và rèn
luyện con người thông qua việc tổ chức truyền thụ tri thức và những kinh
nghiệm lịch sử xã hội của loài người để gây dựng họ thành người có hiểu biết
đạt đến một trình độ chuyên môn nghề nghiệp nhất định, có khả năng đảm nhân
một sự phân công lao động xã hội trong từng thời kỳ của quá trình phát triển
kinh tế - xã hội.
Đào tạo NNL tạo nên sự chuyển biến về chất của NNL, biến những tiềm
năng nhân lực của quốc gia thành những lực lượng lao động hiện thực phù hợp
với yêu cầu phát triển KT-XH. Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH-HĐH,

-

việc đào tạo NNL cần phải đảm bảo được yêu cầu, mục tiêu sau:
Đổi mới chất lượng đào tạo nhân lực theo hướng phù hợp với việc nâng cao sức

-

cạnh tranh của nền kinh tế.
Đào tạo phải gắn kết thường xuyên và chặt chẽ với sử dụng NNL và phù hợp với
yêu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động và thị trường lao động.
4


Đào tạo NNL theo yêu cầu, mục tiêu nêu trên cần được thực hiện với
nhiều loại hình và nhiều phương thức khác nhau sao cho mọi người có nhu
cầu được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao và đào tạo lại đều có thể đáp ứng được.
Việc đào tạo có thể được thực hiện tại các trường dạy nghề, trường Đại học,
cao đẳng, các trung tâm do nhà nước hoặc tư nhân quản lý, hoặc các trường
lớp thuộc doanh nghiệp, trong các thành phần kinh tế hay tại các lớp dạy nghề
do các tổ chức xã hội và các làng nghề truyền thống tổ chức. Việc đào tạo

nguồn nhân lực có thể được thực hiện theo các cấp trình độ tùy theo yêu cầu
đổi mới của nền sản xuất xã hội và nhu cầu của người học như đào tạo bán
lành nghề - lành nghề - trình độ cao, đào tạo trình độ sơ cấp – trung học
chuyên nghiệp – cao đẳng – đại học và sau ĐH.
1.1.6. Sử dụng nguồn nhân lực
Sử dụng NNL là quá trình tạo điều kiện cho người tham gia vào hoạt
động sản xuất để tạo ra của cải vật chất, tinh thần phục vụ cho các nhu cầu
sản xuất và tiêu dùng trong xã hội. Quá trình lao động sản xuất là quá trình
kết hợp sức lao động với các yếu tố khác của lực lượng sản xuất nên việc khai
thác và phát huy NNL không thể tách rời việc tổ chức nền sản xuất cùng
những cách thức của sự phát triển KT-XH. Bởi vậy sử dụng NNL được hiểu:
là việc khơi dậy và phát huy tất cả các khả năng của con người thành hiện
thực, biến sức lao động thành lao động trong quá trình phát triển KT-XH.
Trong quá trình CNH-HĐH ở nước ta, việc khai thác sử dụng NNL có thể
-

được xem xét trên các khía cạnh sau:
NNL được biểu hiện ra là nguồn lao động, nó bao gồm toàn bộ những người
lao động đang có khả năng phục vụ cho xã hội và các thế hệ nối tiếp, vì vậy
sử dụng NNL trước hết là sử dụng lực lượng lao động trong quá trình sản xuất
kinh doanh. Tạo việc làm và sử dụng có hiệu quả nhất NNL hiện có là yêu

-

cầu cơ bản và chủ yếu của sử dụng NNL.
Con người khi tham gia vào quá trình phát triển KTXH không chỉ sử dụng lao
động giản đơn mà còn phải sử dụng cả lao động trí óc cho xã hội ngày càng
phát triển. Ngày nay thế giới đã bước vào giai đoạn phát triển kinh tế tri thức,
5



thì vai trò của lao động trí tuệ con người thể hiện ngày càng rõ nét. Có thể
khẳng định lao động trí tuệ, lao động qua đào tạo là yếu tố giữ vai trò quan
trọng hàng đầu của NNL, do vậy cần coi trọng và phát huy tiềm năng của
-

NNL qua đào tạo.
Sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã và đang làm
thay đổi tính chất, nội dung của lao động, cơ cấu lao động và việc làm làm
cho tốc độ tăng trưởng kinh tế không còn đi đôi với tiến trình phát triển việc
làm. Điều đó đòi hỏi phải chuyển từ sử dụng lao động theo chiều hướng rộng
sang khai thác sử dụng theo chiều sâu.
Như vậy để khai thác và nâng cao hiệu quả NNL cần phải căn cứ vào
điều kiện hoàn cảnh cụ thể của NNL và sự phát triển KTXH trong từng thời
kỳ của quốc gia.
1.2. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng nguồn nhân lực
1.2.1. Chỉ số phát triển con người HDI
Chỉ số phát triển con người HDI (Human Development Index) dùng để
đánh giá trình độ phát triển nguồn nhân lực của mỗi quốc gia trên ba phương
diện là mức độ phát triển kinh tế, giáo dục và y tế. Các mặt này tương ứng được
xác định bởi các chỉ tiêu:
- GDP thực bình quân đầu người hàng năm tính theo sức mua ngang giá (PPP).
- Kiến thức (tỷ lệ người biết chữ và tỷ lệ người nhập học của các cấp giáo dục).
- Tuổi thọ bình quân.

thức:
Trong đó:

HDI


=

IA + IE + IW
3

(0 < HDI < 1)

Công

IA là chỉ số tuổi thọ

IE là chỉ số kiến thức
IW là chỉ số thu nhập
1.2.2. Chỉ tiêu đánh giá sức khỏe
Sức khỏe là một trạng thái hoàn toàn thoải mái về thể chất, tâm thần và xã
hội, chứ không chỉ là không có bệnh tật hay thương tật. Sức khỏe vừa là mục
đích, đồng thời nó cũng là điều kiện của sự phát triển nên yêu cầu bảo vệ và
nâng cao sức khỏe con người là một đòi hỏi hết sức chính đáng mà xã hội phải
đảm bảo. Tình trạng sức khỏe được phản ánh bằng một hệ thống chỉ tiêu sau:
6


Thứ nhất, các chỉ tiêu tổng hợp:
- Tuổi thọ bình quân
- Chiều cao trung bình của thanh niên
- Cân nặng
Các chỉ tiêu này đo lường thể lực chung và được xem như là một chỉ số của
tình trạng kinh tế xã hội, vệ sinh xã hội và tình trạng sức khỏe của nhân dân.
Thứ hai, các chỉ tiêu y tế cơ bản:
-


Tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi
Tỷ suất chết trẻ em dưới 5 tuổi
Tỷ lệ trẻ em đẻ dưới 2500 gram
Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng
Tỷ suất chết mẹ

Thứ ba, các chỉ tiêu về tình hình bệnh tật
Tỷ lệ mắc bệnh truyền nhiễm
Tỷ lệ mắc các bệnh có tiêm chủng
Tỷ lệ chết so với người mắc bệnh
1.2.3. Chỉ tiêu đánh giá trình độ văn hóa
Trình độ văn hóa là khả năng về tri thức và kỹ năng để có thể tiếp thu
-

những kiến thức cơ bản, thực hiện những việc đơn giản để duy trì cuộc sống.
Trình độ văn hóa được cung cấp qua hệ thống giáo dục chính quy, không chính
quy, qua quá trình học tập suốt đời của mỗi cá nhân và được đánh giá qua hệ
thống chỉ tiêu:
Thứ nhất, tỷ lệ dân số biết chữ là số % những người 10 tuổi trở lên có thể
đọc viết và hiểu được những câu đơn giản của tiếng Việt, tiếng dân tộc hoặc
tiếng nước ngoài so với tổng dân số trên 10 tuổi trở lên.
Chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá trình độ văn hóa ở mức tối thiểu của
mỗi quốc gia. Các thống kê giáo dục trong nước và thế giới hiện nay đều sử
dụng chỉ tiêu này.
Thứ hai, số năm đi học trung bình của dân số từ 15 tuổi trở lên, đo lường
số năm trung bình một người dành cho học tập. Đây là một trong những chỉ tiêu
được Liên hợp quốc sử dụng để đánh giá chất lượng nguồn nhân lực của các
quốc gia.
Phương pháp tính:

Trong đó:
A là số năm đi học trung bình

A = ∑ aixi

7


ai là các hệ số được chọn theo hệ thống giáo dục của mỗi vùng hoặc mỗi nước
xi là % trình độ văn hóa theo hệ thống giáo dục tương đương.
Thứ ba, tỷ lệ đi học chung các cấp tiểu học, trung học cơ sở (THCS), trung
học phổ thông (THPT) được dùng để đánh giá trình độ phát triển giáo dục của
các quốc gia. Các chỉ tiêu này cũng dùng để xây dựng mục tiêu phát triển giáo
dục trong công tác kế hoạch.
Tỷ lệ đi học chung cấp tiểu học biểu thị số % trẻ em học cấp tiểu học, dù
tuổi của em này có thuộc độ tuổi cấp tiểu học hay không, trong tổng số dân số
ở độ tuổi học tiểu học (6-10 tuổi). Tương tự như vậy đối với tỷ lệ đi học
THCS, trong đó độ tuổi học sinh đi học cấp này là 11-14 tuổi và cấp THPT là
15-17 tuổi.
1.2.4. Chỉ tiêu đánh giá trình độ chuyên môn kỹ thuật
Trình độ CMKT là kiến thức và kỹ năng cần thiết để đảm đương chức vụ
trong quản lý, kinh doanh và các hoạt động nghề nghiệp. Lao động CMKT bao
gồm những công nhân kỹ thuật (CNKT) từ bậc 3 trở lên (có hoặc không có
bằng) cho tới những người có trình độ trên đại học. Họ được đào tạo trong
trường lớp dưới các hình thức khác nhau. Các tiêu chí đánh giá trình độ chuyên
môn kỹ thuật:
Thứ nhất, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo so với tổng số lao động đang làm
việc. Chỉ tiêu này dùng để đánh giá khái quát về trình độ CMKT của quốc gia,
của các vùng lãnh thổ. Ví dụ, năm 1999 tỷ lệ lao động có CMKT của Việt Nam
là 13.87%.

LV

T

ĐT

=

∑ LLVĐT

x 100

LV

∑L

TLVĐT : tỷ lệ lao động đã qua đào tạo so với tổng lao động đang làm việc
LLVĐT : số lao động đang làm việc đã qua đào tạo
LLV : số lao động đang làm việc
Thứ hai, tỷ lệ lao động theo cấp bậc đào tạo được tính toán cho quốc gia,
vùng, ngành kinh tế dùng để xem cơ cấu này có cân đối với nhu cầu nhân lực
của nền kinh tế ở từng giai đoạn phát triển.

8


Là phần trăm số lao động có trình độ CMKT theo bậc đào tạo so với tổng
số lao động đang làm việc.
∑ LLVĐTij
TLVĐTij =


x 100

∑ LLVj

TLVĐTij : tỷ lệ LĐ đã qua đào tạo bậc i so với tổng LĐ đang làm việc ở vùng
j.
LLVĐTij : số lao động đang làm việc đã đào tạo bậc i ở vùng j.
i
: chỉ số các cấp được đào tạo
j
: chỉ số vùng
Ví dụ, năm 1999 tỷ lệ lao động có CMKT của Việt Nam là 13,9% trong đó
lao động trình độ sơ cấp là 1,5%: CN là 4,7%; THCN là 4,3%; ĐH, CĐ là 3,4%.
Tỷ lệ các loại trình độ lao động đã qua đào tạo thể hiện cơ cấu
ĐH,CĐ/THCN/DN của đội ngũ lao động, từ đó thấy được cơ cấu này có cân đối
với nhu cầu nhân lực của nền kinh tế không, trên cơ sở đó có kế hoạch điều

1.3.1.

chỉnh nhu cầu đào tạo tổng thể của cả nước, từng vùng lãnh thổ, ngành kinh tế.
1.3. Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực
Biến đổi kinh tế - xã hội
Đối với các nước trong thời kỳ chuyển đổi kinh tế như Việt Nam thì tác
động của những biến đổi kinh tế - xã hội đên chất lượng nguồn nhân lực còn

-

phức tạp hơn:
Việc đa dạng hóa các hình thức sở hữu, cơ chế thị trường thay cho quản lý tập

trung đã làm cho nhiều ngành nghề, xí nghiệp lạc hậu phải giảm qui mô và đóng
cửa, thất nghiệp gia tăng làm ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người lao

-

động, gây nhiều hậu quả xã hội nghiêm trọng.
Gắn liền với sự phát triển của cơ chế thị trường là bất bình đẳng về thu nhập
trong các tầng lớp dân cư, giữa các ngành cũng như vùng kinh tế. Điều này chi
phối rất lớn đến khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản như giáo dục, y tế.
Những vùng kinh tế phát triển, người dân có thu nhập cao có khả năng tiếp cận
dễ dàng hơn người có thu nhập thấp. Hơn thế nữa một số điều chỉnh chính sách
của Nhà nước trong thời kỳ này như xóa bỏ hoặc giảm bớt bao cấp từ ngân sách
trong nhiều lĩnh vực càng làm cho vấn đề trên thêm đậm nét.
9


-

Việc tổ chức lại nền kinh tế và cơ cấu xã hội đã góp phần làm biến đổi theo
chiều sâu môi trường kinh tế - xã hội. Các cá thể và nhóm xã hội khác nhau phải
chuyển biến để thích nghi với môi trường thay đổi hàng ngày. Chẳng hạn trong
vấn đề giáo dục, khi nhà nước không còn là người bao cấp hầu như toàn bộ kinh
phí và sắp xếp việc làm khi tốt nghiệp thì chiến lược giáo dục của các hộ gia
đình ngày càng hướng tới tương lai và đưa quan hệ chất lượng – giá cả vào lựa
chọn. Các hộ gia đình và các cá nhân có thể từ không quan tâm đặc biệt đến đầu
tư cho giáo dục. Chính điều này ảnh hưởng đến trình độ học vấn và sự chênh

-

lệch giữa các vùng kinh tế.

Ngoài ra, những chính sách về quản lý xã hội, quản lý kinh tế, chính sách phân
phối đặc biệt là chính sách trả công cho người lao động cũng có ảnh hưởng rất
lớn. Chúng có thể kìm hãm, triệt tiêu hoặc nhân lên nhiều lần những yếu tố tốt
của chất lượng nguồn nhân lực. Nếu trả công đúng theo chất lượng và hiệu quả
của lao động sẽ khuyến khích học tập và rèn luyện để nâng cao kỹ năng, kiến
thức. Ngược lại, chế độ phân phối bình quân sẽ hạn chế tính năng động và sáng
tạo của người lao động.
1.3.2. Tình trạng dinh dưỡng và chăm sóc sức khỏe
Dinh dưỡng thấp và sức khỏe yếu không chỉ gây ra ốm yếu thể trạng, khổ
ải về tinh thần mà còn làm giảm năng suất lao động. Một bà mẹ suy dinh dưỡng
trong thời kỳ mang thai, sự thiếu thốn lương thực thực phẩm trong giai đoạn sơ
sinh và vào lúc trẻ còn nhỏ là đều có thể dẫn tới các bệnh tật cũng như sự khiếm
khuyết trong quá trình phát triển về thể trạng và thần kinh của trẻ. Dó đó năng
suất lao động trong tương lai sẽ bị hạn chế. Hơn nữa sự suy dinh dưỡng và bệnh
tật ở người lớn làm suy giảm năng lượng, tính sáng tạo, sáng kiến, khả năng học
tập và làm việc của họ. Các nước đang phát triển thường mắc kẹt trong vòng
luẩn quẩn của nghèo đói, suy dinh dưỡng và năng suất lao động thấp.
Tình trạng suy dinh dưỡng thường là vấn đề của đói nghèo. Nguyên nhân
không chỉ do thu nhập thấp mà còn vì trình độ học vấn thấp, không có khả năng
tiếp cận và thu nhận thông tin cần thiết để thực hiện dinh dưỡng hợp lý.

10


Ngoài vấn đề dinh dưỡng, sự phát triển của hệ thống y tế và khả năng tiếp
cận của của người dân có ảnh hưởng quan trọng đến việc bảo vệ và chăm sóc
sức khỏe. Do thành tựu tăng trưởng và phát triển kinh tế, qui mô và năng lực của
mạng lưới y tế tăng lên cùng với tiến bộ khoa học công nghệ trong y học đã góp
phần nâng cao sức khỏe, thể hiện ở tuổi thọ bình quân ngày càng tăng cao. Tuy
nhiên như người ta thường nói, hệ thống y tế là xã hội thu nhỏ, điều đó có nghĩa

là khả năng tiếp cận của người dân với dịch vụ y tế, đặc biệt là dịch vụ ý tế chất
lượng cao là không đồng đều.
1.3.3. Mức độ phát triển của giáo dục và đào tạo
Thứ nhất, giáo dục góp phần vào tăng trưởng kinh tế thông qua tăng năng
suất lao động của mỗi cá nhân nhờ nâng cao trình độ và quan điểm của họ lẫn
tích lũy kiến thức. Vai trò của giáo dục có thể được đánh giá qua tác động của nó
đối với năng suất lao động được tính toán bằng so sánh sự khác biệt giữa sản
phẩm của một cá nhân làm ra trong cùng một đơn vị thời gian trước và sau khi
cá nhân được học một khóa đào tạo với chi phí cho khóa đào tạo đó. Kết quả này
được gọi là tỷ suất lợi nhuận xã hội khi đầu tư vào giáo dục.
Thứ hai, giáo dục đào tạo góp phần cải thiện sức khỏe và nâng cao tuổi
thọ của người dân. Giáo dục cung cấp trình độ văn hóa cơ bản là điều kiện để
tiếp thu tri thức, góp phần chống suy dinh dưỡng, cải thiện sức khỏe. Giáo dục
cơ bản phát triển năng lực học tập, giải thích thông tin và thích nghi tri thức vào
điều kiện, môi trường sống của mỗi người. Đó là nền tảng cho việc học tập suốt
đời đóng góp vào việc chống suy dinh dưỡng, cải thiện sức khỏe trẻ em và
người lớn, đồng thời giúp giảm tỷ lệ chết và nâng cao tuổi thọ.
Thứ ba, trong bối cảnh thay đổi cộng nghệ nhanh, giáo dục giữ vai trò
chủ yếu trong tiếp thu và phát triển công nghệ. Giáo dục cơ bản là nền tảng để
tạo ra một xã hội học vấn, nhưng chưa đủ để các quốc gia cạnh tranh trên thị
trường toàn cầu. Giáo dục đại học mới có khả năng đào tạo những người có khả
năng theo dõi các khuynh hướng công nghệ, đánh giá được sự thích ứng của
chúng đối với những triển vọng của đất nước và giúp xây dựng triển khai một
chiến lược phát triển công nghệ quốc gia thích hợp. Chiến lược thích hợp cho
11


phần lớn các quốc gia đang phát triển là thu nhận được công nghệ nước ngoài
với giá rẻ, và có thể sử dụng nó hiệu quả nhất bằng cách thích nghi nó với điều
kiện của địa phương. Những khám phá khoa học và những phát minh không chỉ

đòi hỏi nguồn tài chính dồi dào mà còn cần lực lượng lao động có chất lương
cao với năng lực tinh vi của con người và sự nhạy bén kinh doanh để thắng lợi
trong cạnh tranh.
1.4. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại và xu
thế toàn cầu hóa, mô hình công nghiệp hóa kết hợp giữa thay thế nhập khẩu đẩy
mạnh xuất khẩu theo hướng hội nhập quốc tế đang được nhiều nước áp dụng.
Quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam về cơ bản cũng đang vận động theo mô hình
này. Tuy nhiên, do sự tác động và chi phối bởi những đặc điểm mới của thời đại
và do những điều kiện kinh tế - xã hội hiện tại của đất nước, quá trình CNH,
HĐH ở nước ta hiện nay có những đặc điểm khác so với công nghiệp hóa trước
đây. Đó là công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa dựa trên nền tảng khoa học
công nghệ, được thực hiện trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế. Kết quả của quá trình CNH, HĐH phụ thuộc chủ yếu
vào chất lượng nguồn lực con người do đó nó đòi hỏi rất cao về những năng lực
và phẩm chất cần thiết nhất là trình độ văn hóa và chuyên môn kỹ thuật của
người lao động.
Quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam tự bản thân nó đặt ra những đòi hỏi
khách quan về số lượng, cơ cấu, chất lượng nguồn nhân lực với những năng lực,
phẩm chất cần thiết và sự thích ứng. Sự thay đổi này là định hướng cho sự phát
triển nguồn nhân lực, đặc biệt là định hướng giáo dục đào tạo đảm bảo các loại
-

hình lao động cần thiết.
Sự chuyển dịch số lượng và cơ cấu mới của nguồn nhân lực; giảm tỷ trọng lao
động nông nghiệp, tăng lao động công nghiệp và dịch vụ; cơ cấu lao động nhiều
trình độ; cơ cấu tổ chức lao động chuyển dịch theo hướng hình thành cơ chế vận
hành mới của ba loại tổ chức lập pháp, hành pháp, tư pháp cùng với một đội ngũ
nhân lực thành thạo nghề nghiệp, đảm bảo hiệu quả của hoạt động toàn xã hội.
12



-

Nguồn nhân lực phải có trạng thái sức khỏe tốt, kiến thức và khả năng tiếp thu
tri thức mới, cũng như khả năng hội nhập và thích ứng với môi trường quốc tế

-

cạnh tranh mạnh mẽ.
Nguồn nhân lực phải có phẩm chất đạo đức tốt trong đó bao gồm cả văn hóa lao
động công nghiệp, văn hóa sinh thái.
Tóm lại, với những vấn đề nêu trên, chính sách nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực phải tạo ra một đội ngũ lao động có sức khỏe, trình độ văn hóa, chuyên
môn kỹ thuật, năng lực phẩm chất đáp ứng được cơ cấu nhiều trình độ là yêu cầu
khách quan, điều kiện tiên quyết để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong xu thế toàn cầu hóa và kinh tế tri thức hiện nay.

13


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ
TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH HÒA BÌNH
2.1. Giới thiệu khái quát tỉnh Hòa Bình
- Vị trí địa lý: tỉnh Hoà Bình nằm ở cửa ngõ vùng Tây Bắc, có diện tích tự
nhiên 4.662,53 km2. Phía bắc giáp tỉnh Phú Thọ, phía Đông giáp Thủ đô Hà Nội,
phía Tây giáp tỉnh Sơn La; phía Nam và Tây - Nam giáp các tỉnh Ninh Bình, Hà
Nam, Thanh Hóa. Xét về vị trí địa lý, Hoà Bình là vùng đệm trung gian giữa
một bên là vùng đồng bằng Bắc Bộ và một bên là núi cao, rừng rậm của miền
Tây Bắc, được thông giao qua quốc lộ 6 (đường bộ) và sông Đà (đường thủy) ở

phía bắc. Hoà Bình giáp ranh thủ đô Hà Nội và có vị trí quan trọng trong chiến
lược phòng thủ của khu vực và cả nước.
- Kết cấu hạ tầng ở tỉnh Hòa Bình đã và đang được nâng cấp, cải tạo, đầu tư
tập trung trên hầu hết các lĩnh vực giao thông vận tải, bưu chính viễn thông,
công nghệ thông tin… tạo tiền đề cho công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
- Cơ cấu kinh tế thay đổi dần theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp,
tăng tỉ trọng ngành công nghiệp – xây dựng và thương mại – dịch vụ, kéo theo
sự chuyển dịch cơ cấu NNL.
- Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm của tỉnh (GRDP) bình quân hàng năm
đạt 9,1%. Cơ cấu tổng sản phẩm trên địa bàn chuyển dịch theo hướng: Tăng tỷ
trọng công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp; đến năm 2015, tỷ trọng
ngành nông nghiệp chiếm 19,5%, công nghiệp - xây dựng chiếm 54%, dịch vụ
chiếm 26,5%. GRDP bình quân đầu người năm 2015 đạt 36,6 triệu đồng; sản
lượng lương thực có hạt duy trì ở mức trên 36 vạn tấn/năm, bảo đảm được an
ninh lương thực. Thu ngân sách Nhà nước năm 2015 đạt 2.500 tỷ đồng, vượt chỉ
tiêu kế hoạch 11%, tăng bình quân hằng năm đạt 13,3% cao hơn 0,6% so với chỉ
tiêu kế hoạch.
- Năm 2015 tỷ lệ tăng dân số tự nhiên dưới 1% đạt mục tiêu kế hoạch.
Trung bình hằng năm tạo việc làm mới cho 15.434 lao động; tỷ lệ lao động qua
đào tạo năm 2015 là 55% đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra, trong đó đào tạo nghề
14


45%; tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 12,0%; tỷ lệ số hộ được dùng điện lưới
quốc gia đạt 99,41%; số hộ dân nông thôn được sử dụng nước sạch hợp vệ sinh
theo tiêu chí mới của Bộ Nông nghiệp Phát triển nông thôn ước đạt 86%.
- Hoạt động giáo dục và đào tạo trên địa bàn tỉnh đã hướng vào mục tiêu
“nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Quy mô đào tạo ở các
cấp, ngành học được mở rộng, hoàn thành phổ cập giáo dục THCS, tạo nền tảng
quan trọng cho việc nâng cao chất lượng NNL của tỉnh trong tương lai. Mạng

lưới trường, lớp được mở rộng đáp ứng quy mô tăng lên của các cấp học, trường
học được kiên cố hóa, hệ thống trường chuẩn quốc gia được xây dựng và gia
tăng, hướng tới hiện đại hóa mô hình dạy và học. Hầu hết các xã, phường, thị
trấn đều có nhà trẻ, mẫu giáo, trường tiểu học và THCS.
- Hoà Bình là vùng đất cổ - nơi lưu giữ nhiều di chỉ và các truyền thống
văn hoá của người Việt cách đây hàng vạn năm (Nền văn hóa Hòa Bình, thời kỳ
đồ đá giữa). Hòa Bình có 06 dân tộc anh em cùng chung sống, trong đó dân tộc
Mường chiếm hơn 60%, dân tộc kinh 30%, còn lại là các dân tộc Thái, Tày,
Dao, H’Mông. Hoà Bình nổ tiếng là cái nôi của dân tộc Mường với bộ sử thi
huyền thoại “Đẻ đất đẻ nước”, truyền thuyết về ông Đùng bà Đoàng, Tản viên
Sơn Thánh... Đây còn là miền đất âm vang tiếng cồng, tiếng chiêng, vùng của
những lễ hội giàu bản sắc dân tộc Tây Bắc, của kho tàng phong phú về văn nghệ
dân gian các dân tộc.
- Hoà Bình được đánh giá là một trong những vùng du lịch giàu tiềm năng
bao gồm nền văn hoá phi vật thể, các di tích, hang động có giá trị về lịch sử văn
hoá, những danh lam thắng cảnh nổi tiếng. Được thiên nhiên ưu đãi, Hoà Bình
có nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng, hiện có 168 di tích các loại trong đó có
34 di tích lịch sử văn hoá và danh lam thắng cảnh đã được Bộ văn hoá thông tin
công nhận di tích cấp quốc gia, UBND tỉnh xếp hạng 9 di tích cấp tỉnh. Hòa
Bình còn có suối nước khoáng nóng (Kim Bôi); Thung lũng Mai Châu; Lòng Hồ
thủy điện Hòa Bình được ví như một Hạ Long thứ hai... Đó là nguồn tài nguyên
thiên nhiên quý giá có giá trị trong phát triển du lịch.
15


- Hoạt động y tế, chăm sóc sức khỏe, dân số, gia đình và trẻ em được thực
hiện tốt. Cán bộ y tế có bước phát triển về cả số lượng cũng như chất lượng,
100% trạm y tế có bác sĩ, đạt chuẩn quốc gia về y tế xã. Ngành y tế đã thực hiện
đa dạng hóa hình thức khám, chữa bệnh theo Pháp lệnh hành nghề y, dược tư
nhân. Góp phần đa dạng hóa các loại hình chăm sóc sức khỏe các tầng lớp dân

cư, tạo cơ hội đảm bảo sự công bằng trong công tác khám và chữa bệnh, nhằm
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Như vậy, kinh tế - xã hội tỉnh Hòa Bình phát triển sẽ tác động tích cực đến
đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực của tỉnh, thông qua các chính sách, chương
trình cụ thể của địa phương về phát triển NNL.
2.2. Thực trạng về đào tạo và sử dụng NNL
NNL tỉnh Hòa Bình khá dồi dào, tính đến ngày 31/12/2015 toàn tỉnh có
khoảng 824,3 nghìn người (khu vực thành thị có 119,8 nghìn người chiếm
14,53%); trong đó nguồn nhân lực có khoảng 555 nghìn người, chiếm 67,33%.
Lực lượng lao động ở Hòa Bình có cơ cấu trẻ. Năm 2015, nhóm lực lượng
lao động trẻ từ 15-34 tuổi có 233,1 nghìn người, chiếm 42% tổng số NNL; nhóm
lực lượng lao động trung niên từ 35-54 tuổi có 270,7 nghìn người, chiếm
48,77% tổng số NNL; và nhóm lực lượng lao động cao tuổi từ 55-59 tuổi có
27,9 nghìn người, chiếm 5,03% tổng số NNL. Nhóm lực lượng trung nhiên
chiếm tỷ lệ cao nhất 48,77%. Đây là thế mạnh của nguồn lao động Hòa Bình.
Bảng 2.1. Cơ cấu lao động theo độ tuổi (năm 2015)
Nhóm tuổi
15-24
25-34
35-44
45-54
55-59
>=60
Tổng

Số lượng (nghìn người)
100,8
132,3
152,8
117,9

27,9
23,3
555

Tỷ lệ (%)
18,16
23,84
27,53
21,24
5,03
4,2
100

Hằng năm dân số Hòa Bình tăng khoảng gần 1 vạn người (tỷ lệ tăng dân số
tự nhiên năm 2015 là 0,86%), mật độ dân số tương đối thấp 179 người/km 2.
16


Ngoài ra số lượng người ngoài độ tuổi lao động nhưng thực tế vẫn có việc làm
cũng tăng lên tạo thành nguồn cung về lao động khá dồi dào.
Ngoài 2 yếu tố tăng tự nhiên của dân số và sự tham gia của những người
ngoài độ tuổi lao động, nguồn lao động Hòa Bình còn được bổ sung bằng một số
nguồn có tính chất cơ học như: số học sinh, sinh viên tốt nghiệp ra trường, số
người dôi dư do sắp xếp lại lao động trong các doanh nghiệp nhà nước, nguồn
lao động di cư đến do có sự xuất hiện của các khu công nghiệp…
Dân số Hòa Bình chủ yếu là ở nông thôn, khoảng 704,6 nghìn người, chiếm
85,5% so với tổng dân số của tỉnh. Năm 2015, lao động trong nông nghiệp
chiếm tỷ lệ 69%, trong khi đó lao động trong ngành công nghiệp là 13,5% và
thương mại – dịch vụ là 17,5%. Điều này chứng tỏ mức phát triển công nghiệp
và đô thị hóa còn thấp. Đây thực sự là điều kiện khó khăn về chuyển đổi cơ cấu

lao động của tỉnh trong thời kì CNH, HĐH.
Chất lượng nguồn lao động: nhìn chung đã được nâng lên nhiều nhưng về
chất lượng chưa đáp ứng được cầu về cả 2 mặt trí lực và thể lực. Đó là tình trạng
thiếu hụt kĩ năng nguồn lao động. Lao động có tay nghề cao, CMKT thiếu do
đầu tư cho giáo dục còn chưa cao tại các địa phương vùng sâu vùng xa, vùng
đặc biệt khó khăn, cơ cấu đào tạo chưa hợp lý, chưa xuất phát từ nhu cầu thị
trường lao động của tỉnh.
Hòa Bình là tỉnh đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ, phổ cập tiểu học đúng
độ tuổi và phổ thông cơ sở. Toàn tỉnh có 312 trường phổ thông (trong đó có 30
trường THPT, đặc biệt là trường THPT chuyên Hoàng Văn Thụ và trường THPT
Dân tộc nội trú tỉnh là 2 cái nôi đào tạo học sinh giỏi của tỉnh). Chất lượng giáo
dục được cải thiện, số học sinh giỏi của tỉnh hằng năm tăng đều qua các khối.
Chất lượng hai mặt giáo dục tại các cấp học tiếp tục được củng cố vững chắc. Tỷ
lệ học sinh hoàn thành chương trình tiểu học đạt 99,84%; tỷ lệ học sinh tốt
nghiệp THCS đạt 99,68%. Kết quả học sinh xếp loại học lực giỏi cấp THCS đạt
10,1% tăng 0,36%, học lực yếu chiếm 2,53% so với cùng kỳ năm trước giảm
0,05%; học sinh xếp học lực giỏi cấp THPT đạt 6,92%, tăng 2,69 %. Trong kỳ
17


thi Trung học phổ thông quốc gia năm 2015, tỉnh Hòa Bình đạt tỷ lệ 93,48%,
cao hơn tỷ lệ chung của toàn quốc 2,22%, và có nhiều học sinh đạt kết quả cao
trong kỳ thi THPT Quốc gia. Ngoài ra, chất lượng giáo dục mũi nhọn có chuyển
biến tích cực, trong kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia năm học 2014 - 2015, tỉnh
có 41 học sinh đạt giải, trong đó có 01 giải Nhất môn Sinh học, 07 giải Nhì, 16
giải ba và 17 giải khuyến khích. Tham dự cuộc thi khoa học kỹ thuật cấp quốc
gia, đạt 01 giải Nhất và 01 giải Ba.
Ngành GD&ĐT kết hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh Hòa Bình tiến hành tổ
chức lại các TTGDTX, tiến hành sáp nhập thí điểm 3 Trung tâm GDTX với
Trung tâm dạy nghề của các huyện Kỳ Sơn, Tân Lạc, Lạc Sơn. Sáp nhập Trung

tâm Giáo dục thường xuyên thành phố với Trung tâm Giáo dục thường xuyên
tỉnh. Tại các Trung tâm đã mở 84 lớp học chương trình giáo dục thường xuyên
cấp THCS, THPT cho 1.990 học viên, liên kết đào tạo Đại học, Cao đẳng, Trung
cấp chuyên nghiệp cho trên 2.500 học viên.
Ngoài ra, ở bậc học giáo dục chuyên nghiệp, ngành đã mở rộng quy mô, đa
dạng hóa các ngành nghề đào tạo, hình thức đào tạo gắn với đảm bảo chất lượng
đào tạo, tạo điều kiền đầu ra cho học sinh tốt nghiệp. Tuyển sinh học nghề đã
tăng cả về số trường, lớp và số học sinh được đào tạo. Cả tỉnh có 3 trường cao
đẳng nghề; 1 trường trung cấp nghề với khả năng đào tạo nghề hệ trung cấp và
cao đẳng cho 5.000 học sinh/năm. Có 17 trung tâm dạy nghề (trong đó có 10
trung tâm dạy nghề cấp huyện) và 20 cơ sở có tham gia hoạt động dạy nghề.
Giai đoạn 2011 đến nay đã có 69.293 lao động được học nghề (cao đẳng 2.001
người; trung cấp 5.777, sơ cấp và dạy nghề thường xuyên 61.515 người). Tỷ lệ
lao động qua đào tạo nghề tăng từ 29% (2010) lên 45% (2015) . Tiếp tục chỉ đạo
các trường Cao đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp củng cố và mở rộng quy mô đào
tạo theo hướng đa cấp, đa ngành, đẩy mạnh công tác đào tạo theo nhu cầu xã
hội.
Việc sử dụng lao động qua đào tạo trong các ngành, lĩnh vực thời gian qua
cho thấy:
18


-

Ngành giáo dục và y tế: có số học sinh tốt nghiệp làm việc đúng nghề
đào tạo khá cao. Tuy nhiên một số sinh viên sau khi tốt nghiệp do không
tìm được việc làm đã chuyển sang làm nghề khác hoặc tiếp tục đi học
đại học. Còn số người được đào tạo nghề của các ngành khác do chủ
yếu theo học nghề ngắn hạn nên cơ bản đã tìm được việc làm và tự tạo


-

việc làm.
Một số lao động qua đào tạo được thu hút vào các doanh nghiệp tư
nhân, các doanh nghiệp liên doanh và các khu công nghiệp trên địa bàn
tỉnh, đáp ứng được yêu cầu của cơ quan tuyển dụng nên được làm việc

-

đúng chuyên môn đào tạo.
Bên cạnh đó vẫn còn không ít số lao động đã được đào tạo nhưng không
tìm được việc làm, để có việc làm họ lại phải bỏ tiền và công sức để tiếp
tục theo học nghề khác mà cơ quan tuyển dụng đang cần, thậm chí có
những người chấp nhận những công việc không đúng với khả năng,
ngành nghề đào tạo như bảo vệ, tạp vụ, giúp việc gia đình…, một số lao
động được đào tạo phải di chuyển đến các tỉnh, thành phố khác để tìm
được việc làm đúng nghề. Như vậy, Hòa Bình đào tạo lao động nhưng
lại không thu hút sử dụng được hết sản phẩm của mình.

19


CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VÀ HIỆU QUẢ
SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC TẠI TỈNH HÒA BÌNH
3.1. Quan điểm, mục tiêu phát triển nhân lực tại tỉnh Hòa Bình
3.1.1. Quan điểm
- Phát triển nhân lực giai đoạn 2011 - 2020 phù hợp, đồng bộ với chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; của từng ngành,
địa phương và phát huy hiệu quả các cơ sở dạy nghề hiện có trên địa bàn tỉnh.
- Coi việc nâng cao chất lượng nhân lực là nhân tố quan trọng để hình

thành và phát triển nền kinh tế tri thức và tổ chức thực hiện trên ba mặt: Đào tạo,
sử dụng và phát triển nhân lực.
- Phát triển mạng lưới cơ sở dạy nghề rộng khắp toàn tỉnh; đa dạng các
hình thức dạy nghề, tạo điều kiện cho người lao động, thanh niên, nông dân,
người dân tộc thiểu số học nghề, tạo việc làm, lập nghiệp.
- Mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng dạy nghề; điều chỉnh cơ cấu
ngành nghề, cơ cấu trình độ đào tạo phù hợp với nhu cầu thị trường lao động và
những tiến bộ về kỹ thuật, công nghệ.
- Đẩy mạnh xã hội hoá dạy nghề; khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân đầu tư
cho dạy nghề; phát triển các cơ sở dạy nghề tư thục và cơ sở dạy nghề có vốn
đầu tư của nước ngoài; mở rộng hội nhập quốc tế về dạy nghề.
3.1.2. Mục tiêu phát triển nhân lực đến năm 2020
a) Mục tiêu tổng quát:
- Nâng cao chất luợng nguồn nhân lực của tỉnh một cách toàn diện: Có thể
lực tốt, tầm vóc cường tráng; có trí tuệ và ý chí lập thân, lập nghiệp; có năng lực
20


và đạo đức; có khả năng tư duy, sáng tạo, tự học, tự bồi dưỡng; có tri thức và kỹ
năng nghề nghiệp cao, có khả năng thích ứng, hòa nhập, chủ động trong môi
trường sống và làm việc.
- Đánh giá nhu cầu số lượng, cơ cấu và trình độ nhân lực; đảm bảo yêu cầu
nhân lực thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh những
ngành, lĩnh vực của tỉnh có lợi thế so sánh. Có giải pháp phát triển nhân lực phù
hợp, hình thành đội ngũ nhân lực chất lượng cao; phấn đấu đến năm 2015 giải
quyết cơ bản việc thiếu hụt nhân lực có tay nghề, góp phần đưa kinh tế của tỉnh
đạt mức trung bình so với cả nước.
b) Mục tiêu cụ thể:
Tạo sự chuyển biến căn bản và toàn diện về chất luợng nhân lực, đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, vùng thủ đô và yêu cầu của hội nhập

quốc tế;
- Tăng tỷ lệ nhân lực qua đào tạo trong nền kinh tế dưới các hình thức, trình
độ khác nhau từ mức 37% năm 2010 lên mức 65% năm 2020, trong đó tỷ lệ
nhân lực qua đào tạo ngành nông, lâm ngư nghiệp tăng tương ứng từ 33% lên
50%; ngành công nghiệp, xây dựng từ 38% lên 60%; ngành dịch vụ tăng từ 51%
lên 80%.
- Xây dựng đội ngũ nhân lực khoa học và công nghệ, đặc biệt là đội ngũ
chuyên gia đầu ngành có khả năng tư vấn hoạch định, tổ chức triển khai thực
hiện các chiến lược, quy hoạch, chương trình, đề án phát triển ở các ngành, lĩnh
vực kinh tế xã hội trọng yếu của tỉnh. Đến 2020 có ít nhất 80% Chủ tịch hội
đồng quản trị, Giám đốc các doanh nghiệp được tham gia các lớp đào tạo, tập
huấn về Luật doanh nghiệp, các luật thuế, luật đầu tư, luật đấu thầu, luật xây
dựng, Bộ luật lao động, các quy định pháp luật có liên quan và các chính sách
mới do tỉnh tổ chức.
21


- Đến năm 2020 có trên 40% giảng viên cao đẳng trong các cơ sở đào tạo
trên địa bàn tỉnh có trình độ từ thạc sỹ trở lên. Tiếp tục mở rộng quy mô đào tạo;
phấn đấu đạt 100 sinh viên đại học, cao đẳng trên 10.000 dân; đến năm 2020
phấn đấu đạt 150 sinh viên đại học, cao đẳng trên 10.000 dân. Tiếp tục đầu tư
nâng cấp hệ thống cơ sở giáo dục các cơ sở dạy nghề phục vụ nhu cầu phát triển
nhân lực trên địa bàn tỉnh; trong đó, ưu tiên tập trung xây dựng trường Cao đẳng
sư phạm Hòa Bình thành Trường Đại học đa ngành.
- Đổi mới, hoàn thiện chương trình, giáo trình giảng dạy, đào tạo theo
hướng tiên tiến, hiện đại, gắn lý thuyết với thực nghiệm, gắn nhà trường với
nghiên cứu, ứng dụng, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo đảm bảo học sinh,
sinh viên sau khi tốt nghiệp có khả năng thích ứng với thị trường lao động và
đáp ứng tốt nhu cầu xã hội. Tạo được bước chuyển đột phá về chất lượng trong
đào tạo nhân lực ở các trường chuyên nghiệp và cơ sở dạy nghề đạt trình độ và

chất lượng tiên tiến trong nước; trên 90% sinh viên, học viên sau khi tốt nghiệp
có đủ khả năng chuyên môn và ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu công việc.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức các cấp đạt tiêu chuẩn
theo chức danh ngạch bậc Nhà nước quy định; đến năm 2020 có 5% cán bộ
Lãnh đạo có trình độ Thạc sỹ trở lên;
- Cán bộ Lãnh đạo cấp xã có trình độ trung cấp trở lên: vùng I, vùng II đạt
90%; vùng III đạt 70%; đến năm 2020 tỷ lệ cán bộ lãnh đạo các xã có trình độ
đại học, cao đẳng: vùng I, vùng II đạt 20% trở lên; 80% cán bộ lãnh đạo các xã
vùng III có trình độ trung cấp chuyên môn, nghiệp vụ. Trong số cán bộ lãnh đạo,
quản lý đảm bảo cơ cấu có từ 20 đến 30% cán bộ giữ chức danh lãnh đạo là nữ.
3.2. Phương hướng phát triển nhân lực
3.2.1. Nâng cao trình độ học vấn của nhân lực

22


a) Hoàn chỉnh mạng lưới các cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông, đảm
bảo điều kiện thuận lợi nhất cho học sinh từ vùng thuận lợi đến vùng khó khăn
được đi học; nâng cao tỷ lệ huy động trẻ em trong độ tuổi đến trường. Duy trì
thành quả và nâng cao chất lượng phổ cập tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập trung
học cơ sở, triển khai phổ cập bậc trung học trên địa bàn, phấn đấu hoàn thành
phổ cập bậc trung học trước năm 2020. Xây dựng trường Trung học phổ thông
Chuyên Hoàng Văn Thụ trở thành trường Trung học phổ thông Chuyên chất
lượng cao trọng điểm quốc gia.
b) Tập trung đầu tư hoàn chỉnh cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học cho
các trường dân tộc nội trú huyện, tỉnh để đáp ứng nhu cầu học tập cho con em
đồng bào các dân tộc. Phấn đấu hoàn thành chương trình kiên cố hóa lớp học và
xây dựng nhà công vụ cho giáo viên, đạt tiêu chuẩn 1 phòng học/1 lớp học; năm
2020 có đủ các phòng bộ môn, phòng chức năng khác.
- Đẩy mạnh việc dạy và học tin học trong các nhà trường với mục tiêu:

100% học sinh trung cấp chuyên nghiệp và học nghề được đào tạo kiến thức, kỹ
năng ứng dụng công nghệ thông tin; 80% học sinh trung học phổ thông, trung
học cơ sở và 50% học sinh tiểu học được học tin học trong nhà trường.
- Xây dựng đội ngũ nhà giáo đủ về số lượng, vững về chuyên môn và có cơ
cấu hợp lý.
c) Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục; vận động, khuyến khích và tạo điều kiện
để toàn xã hội tham gia vào sự nghiệp phát triển giáo dục bằng nhiều hình thức
phù hợp; từng bước nâng cao mặt bằng dân trí giữa các vùng trong tỉnh; chú
trọng công tác giáo dục đào tạo cho các vùng sâu, vùng xa, tăng cơ hội cho
người nghèo được hưởng thụ trong lĩnh vực giáo dục.
3.2.2. Nâng cao trình độ chuyên môn - kỹ thuật của nhân lực

23


a) Sắp xếp lại và đầu tư nâng cấp các trung tâm giáo dục thường xuyên,
trung tâm dạy nghề các huyện, thành phố, các trường trung cấp nghề, cao đẳng
nghề; mở rộng mạng lưới trung tâm học tập cộng đồng ở các xã. Rà soát, điều
chỉnh quy hoạch mạng lưới các cơ sở đào tạo nhân lực trên địa bàn toàn tỉnh từ
trình độ sơ cấp nghề đến đại học, phân bố hợp lý các cơ sở đào tạo nhân lực giữa
các vùng, miền. Tập trung nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo, đáp ứng nhu
cầu đào tạo nhân lực trên địa bàn tỉnh.
b) Đẩy mạnh xã hội hoá công tác đào tạo. Khuyến khích các doanh nghiệp
đóng trên địa bàn đầu tư xây dựng cơ sở dạy nghề. Tranh thủ các chương trình
đào tạo của Nhà nước để đào tạo nghề cho lực lượng lao động, tăng nhanh tỷ lệ
lao động qua đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong tỉnh. Thực hiện
đa dạng hoá các loại hình đào tạo dạy nghề, mở rộng quy mô và hình thức đào
tạo ở các trường chuyên nghiệp trong tỉnh với các ngành nghề phù hợp với nhu
cầu phát triển của địa phương... Tăng cường các hình thức đào tạo chính quy,
đào tạo hệ vừa làm vừa học ở tỉnh, huyện cho mọi đối tượng. Huy động năng lực

dạy nghề trên địa bàn (doanh nghiệp, làng nghề,...), hình thành mạng lưới dạy
nghề với nhiều cấp độ đào tạo để tăng nhanh quy mô dạy nghề.
c) Đẩy mạnh công tác đào tạo và đào tạo lại cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo
các cấp, các nhà quản lý doanh nghiệp, các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ cơ sở...
Có kế hoạch cụ thể để đào tạo nhân lực chất lượng cao, nhất là cho lực lượng lao
động trẻ, tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả liên kết đào tạo đại học, sau
đại học với các cơ sở đào tạo trong nước và nước ngoài.
Tập trung lựa chọn đối tượng, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng để bổ sung, xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức, quản lý nhà nước giỏi về trình đội chuyên môn,
đạo đức, lương tâm nghề nghiệp tốt đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, nâng
cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước. Tập trung xây dựng và phát triển đội

24


ngũ cán bộ công chức cơ sở (huyện, xã) ở các vùng nông thôn, miền núi để có
đủ năng lực lãnh đạo phát triển nhanh kinh tế-xã hội tại địa phương.
d) Xây dựng và phát triển đội ngũ nhân lực khoa học - công nghệ, giáo dục
- đào tạo và y tế chuyên sâu, trình độ cao để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu,
chuyển giao công nghệ phù hợp với điều kiện, nhu cầu của từng vùng, từng lĩnh
vực trong tỉnh và đáp ứng nhu cầu dịch vụ ngày càng cao của nhân dân về khoa
học - công nghệ, giáo dục, đào tạo và y tế. Bồi dưỡng, xây dựng và phát triển
đội ngũ doanh nhân giỏi, có đủ trình độ và năng lực xây dựng và đẩy nhanh tốc
độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh nền kinh tế của tỉnh.
đ) Thực hiện tốt công tác dạy nghề cho lao động nông thôn theo Quyết
định 1956/QĐ-TT ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ, nhất là ở các
vùng đặc biệt khó khăn. Phát triển các trường dạy nghề, các trung tâm hướng
nghiệp - dạy nghề đến các huyện; củng cố và mở rộng hệ thống khuyến nông,
khuyến lâm, khuyến ngư đến các xã để tư vấn việc làm cho người lao động.
Quan tâm đến đối tượng đào tạo nghề là lao động nông thôn, thanh niên dân tộc

thiểu số, lao động vùng chuyên canh, vùng nông thôn bị thu hồi đất do quá trình
đô thị hoá và phát triển các khu công nghiệp .... nhằm giải quyết lao động dôi dư
trong quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Tập trung dạy nghề chất lượng
cao, đột phá vào các ngành kinh tế mũi nhọn, các lĩnh vực trọng tâm của tỉnh
như: vận tải, sản xuất điện, du lịch...
Mở rộng đào tạo và nâng cao kỹ năng nghề nghiệp của người lao động,
hoàn thiện cơ cấu nguồn nhân lực.
3.2.3. Tạo việc làm, đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tiến
bộ và nâng cao hiệu quả sử dụng nhân lực

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×