Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Thích ứng tâm lý với hoạt động điều lệnh của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Kỹ thuật – Hậu cần Công an nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 101 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

MAI THỊ THÊU

THÍCH ỨNG TÂM LÝ VỚI HOẠT ĐỘNG ĐIỀU LỆNH
CỦA SINH VIÊN NĂM THỨ NHẤT TRƢỜNG ĐẠI HỌC
KỸ THUẬT – HẬU CẦN CÔNG AN NHÂN DÂN

Chuyên ngành

: Tâm lý học

Mã số

: 60 31 04 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN THỊ QUY

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Nội dung và các
trích dẫn nêu trong Luận văn có xuất xứ rõ ràng và trung thực. Luận văn kế thừa có
chọn lọc những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài. Các số liệu, kết quả điều
tra nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố.
Hà Nội, ngày tháng năm 2017


Tác giả luận văn

Mai Thị Thêu


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THÍCH ỨNG TÂM LÝ VỚI HOẠT
ĐỘNG ĐIỀU LỆNH CỦA SINH VIÊN NĂM THỨ NHẤT
TRƢỜNG ĐH KT - HC CÔNG AN NHÂN DÂN

11

1.1. Các khái niệm cơ bản

11

1.2. Thích ứng tâm lý với hoạt động điều lệnh của sinh viên năm thứ nhất

24

1.3. Biểu hiện thích ứng tâm lý với hoạt động điều lệnh của sinh viên năm thứ nhất

25

1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thích ứng tâm lý với hoạt động điều
lệnh của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Kỹ thuật – Hậu cần

Công an nhân dân

28

Tiểu kết chương 1

32

Chƣơng 2: TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

33

2.1. Tổ chức nghiên cứu

33

2.2. Phương pháp nghiên cứu

36

Tiểu kết chương 2

39

Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN THÍCH ỨNG TÂM
LÝ VỚI HOẠT ĐỘNG ĐIỀU LỆNH CỦA SINH VIÊN NĂM
THỨ NHẤT TRƢỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT – HẬU CẦN
CÔNG AN NHÂN DÂN

40


3.1. Thực trạng thích ứng tâm lý với hoạt động điều lệnh của sinh viên năm
thứ nhất trường Đại học Kỹ thuật Hậu cần Công an nhân dân

40

3.2. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng tâm lý với hoạt động điều
lệnh của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Kỹ thuật Hậu cần
Công an nhân dân

61

Tiểu kết chương 3

68

KỂT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

69

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

Viết tắt

Từ


CAND

Công an nhân dân

CB

Cán bộ

GV

Giảng viên

ĐH KT – HC CAND

Đại học Kỹ Thuật – Hậu Cần CAND

ĐLC

Độ lệch chuẩn

ĐTB

Điểm trung bình

MĐTƯ

Mức độ thích ứng

SL


Số lượng

SV

Sinh viên


DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng

Trang

Bảng 1.1. Các mức độ thích ứng qua các mặt biểu hiện
Bảng 1.2. Các mức độ thích ứng với hoạt động điều lệnh của sinh viên qua
các mặt biểu hiện
Bảng 2.1. Số lượng và tỉ lệ khách thể nghiên cứu
Bảng 2.2. Thang điểm đánh giá mức độ thích ứng
Bảng 3.1. Mức độ nhận thức của sinh viên năm thứ nhất với hoạt động
điều lệnh
Bảng 3.2. Suy nghĩ của sinh viên năm thứ nhất về hoạt động điều lệnh
Bảng 3.3. Thời gian sinh viên năm thứ nhất cần để làm quen với hoạt động
điều lệnh
Bảng 3.4. Đánh giá của SV và GV về việc hướng dẫn, phổ biến, tập huấn
các quy định, nội quy của nhà trường
Bảng 3.5. Mức độ thích ứng với hoạt động điều lệnh của SV năm thứ nhất
Bảng 3.6. Mức độ hài lòng của sinh viên khi thực hiện các quy định điều
lệnh
Bảng 3.7. Hành vi thực hiện hoạt động điều lệnh của sinh viên năm thứ nhất
Bảng 3.8. Mức độ thường xuyên thực hiện các quy định điều lệnh của sinh
viên năm thứ nhất

Bảng 3.9. Thời gian thích ứng của sinh viên năm thứ nhất với một số quy
định điều lệnh
Bảng 3.10. Đánh giá chung về 3 mặt thích ứng của sinh viên năm thứ nhất
với hoạt động điều lệnh
Bảng 3.11. Mức độ thích ứng với hoạt động điều lệnh của sinh viên năm
thứ nhất theo giới tính
Bảng 3.12. Mức độ thích ứng với hoạt động điều lệnh của sinh viên năm
thứ nhất theo đối tượng đầu vào
Bảng 3.13. Các yếu tố chủ quan ảnh hưởng việc thích ứng với hoạt động
điều lệnh của sinh viên năm thứ nhất
Bảng 3.14. Ảnh hưởng yếu tố khách quan tới việc thích ứng với hoạt động
điều lệnh của sinh viên năm thứ nhất

16
17
34
39
41
43
44
45
46
48
51
53
56
59
60
60
61

66


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Tên biểu đồ

Trang

Biểu đồ 3.1. Đánh giá của sinh viên về vai trò của hoạt động điều lệnh

40

đối với người chiến sỹ CAND
Biểu đồ 3.2. So sánh mức độ thích ứng với hoạt động điều lệnh giữa
sinh viên nam và sinh viên nữ

58


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cuộc sống luôn luôn vận động và phát triển, con người không những phải
đối mặt với thay đổi về môi trường tự nhiên, môi trường xã hôi, mà còn với yếu tố
mới xuất hiện trong cuộc sống như các mối quan hệ, sự thay đổi môi trường sống,…
đòi hỏi con người phải thích ứng với những thay đổi đó. Nhiều công trình nghiên
cứu đã chỉ ra khả năng thích ứng có vai trò quan trọng trong cuộc sống, nếu con
người thích ứng tốt sẽ giúp họ giảm bớt căng thẳng, mệt mỏi trong cuộc sống, nâng
cao năng suất, hiệu quả làm việc, góp phần tích cực vào quá trình phát triển nhân
cách. Ở từng môi trường, hoàn cảnh con người lại phải đối mặt với những khó khăn
khác nhau, mỗi cá nhân phải tìm được cách ứng phó, điều chỉnh tâm lý, hành vi của

mình cho phù hợp để đảm bảo sự tồn tại và phát triển. Do đó việc nghiên cứu sự
thích ứng của con người với môi trường để có các phương pháp thích ứng phù hợp
là rất cần thiết.
Đối với sinh viên các trường Công an, công việc sau này của các em là bảo
vệ nhân dân, bảo vệ đất nước, phải đối mặt với nhiều môi trường làm việc khó
khăn phức tạp, tiếp xúc với nhiều loại đối tượng đa dạng, nhiều tình huống nguy
hiểm… Người chiến sỹ Công an luôn tâm niệm “sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu, làm bất
cứ việc gì khi Tổ quốc, Đảng và nhân dân cần đến”, đòi hỏi người chiến sỹ công an
phải có khả năng thích ứng rất tốt. Nhận thức được yêu cầu này, các nhà trường
trong Công an nhân dân (CAND) đã chú trọng rèn luyện khả năng thích ứng cho
sinh viên ngay từ khi bước vào trường thông qua các hoạt động học tập, hoạt động
điều lệnh, hoạt động ngoại khóa…Đặc biệt là qua các hoạt động điều lệnh để rèn
luyện khả năng thích ứng với môi trường mới, với khó khăn, thách thức trong công
việc của người chiến sỹ Công an. Nhà trường xác định điều lệnh Công an nhân dân
là sức mạnh để xây dựng, rèn luyện người cán bộ Công an có bản lĩnh chính trị
vững vàng, tính kỷ luật chặt chẽ, tinh thần sẵn sằng chiến đấu cao, rèn luyện ý chí
vượt qua khó khăn thử thách để hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Việc thực hiện hoạt động điều lệnh là hoạt động bắt buộc đối với tất cả các
sinh viên trường Công an nói chung và trường Đại học Kỹ thuật – Hậu cần Công an
nhân dân (ĐH KT – HC CAND) nói riêng. Từ môi trường phổ thông tự do, thoải
mái sinh viên phải đi vào khuân khổ với các quy định bắt buộc, cứng nhắc, yêu cầu

1


tất cả sinh viên phải thay đổi để thích ứng. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khách quan và
chủ quan một bộ phận sinh viên khi bắt đầu bước chân vào môi trường học tập mới
tại các trường CAND chưa kịp thích ứng ngay với điều kiện sinh hoạt cũng như
hoạt động học tập, rèn luyện tại nhà trường, dẫn đến kết quả học tập chưa cao, bản
thân sinh viên có nhiều năng lực chưa được bộc lộ, khả năng giao tiếp chưa tốt.

Những khó khăn mà sinh viên gặp phải như thay đổi môi trường sống, môi trường
học tập, thay đổi thói quen, nề nếp sinh hoạt theo các quy định điều lệnh của ngành,
của nhà trường, vì vậy nhiều sinh viên không phân bổ được thời gian cho việc học
tập và việc rèn luyện. Đặc biệt là những sinh viên xuất thân từ học sinh phổ thông
mới vào trường, chưa từng được tiếp xúc với môi trường Công an nên các em gặp
nhiều khó khăn, bỡ ngỡ khi tiếp xúc với hoạt động điều lệnh.Việc học tập đi đôi với
rèn luyện, thực hành, đòi hỏi mỗi sinh viên phải nỗ lực hết mình để hoàn thành
nhiệm vụ.
Hiện nay có rất nhiều công trình nghiên cứu về thích ứng tâm lý của sinh
viên, tuy nhiên các công trình tập trung nghiên cứu thích ứng với hoạt động học tập
của sinh viên mà chưa có công trình nào nghiên cứu về thích ứng tâm lý với hoạt
động điều lệnh của sinh viên. Từ những lý do trên tác giả chọn đề tài “Thích ứng
tâm lý với hoạt động điều lệnh của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Kỹ thuật
– Hậu cần Công an nhân dân” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Một số nghiên cứu về thích ứng tâm lý với hoạt động nghề nghiệp
Tác giả B.Hesketh trong bài viết: “Thích ứng tâm lý nghề để đương đầu với
mọi thay đổi” [43] đã đề cập tới việc đào tạo những công nghệ mới cho người lao
động, tạo điều kiện cho họ nhanh chóng thích nghi với những công nghệ đó và hình
thành các kỹ năng cần thiết. Tác giả cho rằng, cần cho người lao động thích ứng với
tâm lý nghề để họ sẵn sàng đương đầu với những thay đổi, không chỉ cung cấp cho
người lao động tri thức nghề mà điều đặc biệt quan trọng là phải hình thành kỹ năng
nghề cho họ.
Các tác giả Peter Creed, Tracy Fallon, Michell Hood thuộc trường Đại học
Griffth của Australia đã có công trình nghiên cứu về: “Mối quan hệ giữa thích ứng
nghề nghiệp và mối quan tâm về nghề trong giới trẻ” [44]. Kết quả nghiên cứu chỉ
ra rằng: Thích ứng nghề nghiệp có mối quan hệ bên trong và có thể bị ảnh hưởng

2



bởi nhân tố đầu tiên (kế hoạch xây dựng nghề, khám phá nghề, xu hướng nghề, sự
ra quyết định nghề…). Những nhân tố nghề có mối quan hệ nội hàm và bị ảnh
hưởng bởi nhiều nhân tố khác.
Tác giả Nguyễn Văn Hộ với đề tài "Thích ứng sư phạm" đã đưa ra các khái
niệm về thích ứng, thích ứng sư phạm, phân tích các nội dung về hình thành khả
năng thích ứng về lối sống cho sinh viên sư phạm, hình thành khả năng thích ứng về
tay nghề trong quá trình đào tạo cho sinh viên sư phạm như: thích ứng với quy trình
lên lớp, thích ứng với hoạt động giảng dạy trên lớp, thích ứng với hoạt động thiết kế
nội dung công tác chủ nhiệm lớp và thích ứng với hoạt động ứng xử trong công tác
giáo dục. Bên cạnh đó, tác giả đề ra một số giải pháp giúp sinh viên đại học thích
ứng với nghề sư phạm [10].
Tác giả Dương Thị Nga, với đề tài “Phát triển năng lực thích ứng nghề
nghiệp cho sinh viên cao đẳng sư phạm” [21] đã chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến
sự phát triển năng lực thích ứng nghề cho sinh viên cao đẳng đó là: ảnh hưởng của
giáo viên; nội dung chương trình và phương pháp, hình thức tổ chức dạy học; rèn
luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên; việc tham gia vào các hoạt động ở trường
phổ thông; các phương tiện thông tin đại chúng; môi trường và điều kiện học tập; sự
giúp đỡ của bạn bè và người thân; truyền thống gia đình; các yếu tố sinh học thể
chất; ý thức của bản thân về giá trị nghề dạy học; động cơ, lý tưởng, hứng thú nghề
nghiệp; tri thức, kỹ năng, kỹ xảo đã có ở sinh viên; tính tích cực tự giác, sáng tạo
trong học tập và ý chí rèn luyện nghề.
Tác giả Trần Thu Hương nghiên cứu đề tài “Thích ứng với hoạt động dạy
học của gi ng viên trẻ tại các học viện trường đại học Công an nhân dân” đã chỉ
ra cấu trúc tâm lý thích ứng với hoạt động giảng dạy của giảng viên trẻ là: Nhận
thức của giảng viên trẻ về hoạt động dạy học, cảm xúc của giảng viên trẻ với việc
thực hiện hoạt động dạy học và hành động thực hiện hoạt động dạy học của giảng
viên trẻ. Tác giả đã đưa ra các tiêu chí cơ bản để đánh giá sự thích ứng với hoạt
động dạy học của giảng viên trẻ qua 3 nhóm tiêu chí về mặt nhận thức, nhóm tiêu
chí thể hiện qua cảm xúc và kết quả thực hiện hoạt động dạy học của giảng viên trẻ. [12]

Tóm lại, từ các công trình nghiên cứu thích ứng nghề nghiệp cho thấy, các
tác giả đã đề cập đến khái niệm thích ứng nghề nghiệp, những yếu tố chủ quan,
khách quan và những chỉ số đặc trưng cho thích ứng nghề nghiệp. Các tác giả đều

3


có xu hướng cho rằng, thích ứng nghề nghiệp là quá trình thích nghi với những đặc
điểm lao động và điều kiện của quá trình lao động. Thích ứng nghề nghiệp là quá
trình thích ứng thể hiện ở cả ba mặt của đời sống tâm lý con người đó là: nhận thức,
cảm xúc và hành động. Các nhân tố bên trong có vai trò quan trọng đến mức độ
thích ứng của cá nhân với hoạt động nghề nghiệp như: xu hướng nghề, kế hoạch
xây dựng nghề, sự ra quyết định nghề và chỉ số trí tuệ. Tuy nhiên, các tác giả chưa
phân tích rõ nội dung thích ứng với hoạt động nghề nghiệp cũng như quy trình thích
ứng cụ thể để giúp cho đối tượng thích ứng tốt ở những môi trường nghề nghiệp
khác nhau và chưa đưa ra một số trường hợp điển hình về đối tượng thích ứng với
nghề nghiệp để làm rõ hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu.
2.2. Một số nghiên cứu về thích ứng với hoạt động học tập
Công trình nghiên cứu của H.W. Bernard đã khẳng định vai trò của mối
quan hệ tích cực giữa thầy và trò để thích ứng với hoạt động học tập, không phải chỉ
trò tích cực trong hoạt động học mà cả thầy cũng phải tích cực trong hoạt động
giảng dạy. Qua nghiên cứu của mình, tác giả đã chỉ ra được các biện pháp cụ thể để
giúp học sinh nhanh chóng thích ứng với hoạt động học tập [42].
Tác giả Bren P.Allen đã nghiên cứu vấn đề thích ứng với hoạt động học tập
của sinh viên thông quan hệ thống tác động hình thành kỹ năng học tập cho sinh
viên. Ông cho rằng sinh viên muốn thích ứng với học tập phải cần các kỹ năng: kỹ
năng quản lý thời gian cá nhân, kỹ năng học tập, kỹ năng kiểm soát cảm xúc tiêu
cực để vượt qua các khó khăn trong học tập; kỹ năng chọn các hình thức học tập và
sự chủ động hình thành các thói quen mang tính chất nghề nghiệp [41].
Tác giả A.Arkoff trong tác phẩm: “Thích ứng và sức khỏe tinh thần” [40] đã

công bố công trình nghiên cứu của mình về thích ứng tâm lý, bao gồm cả sự thích ứng
học tập của học sinh và sinh viên. Theo tác giả, sự thích ứng nói chung của con người
bao gồm các chỉ số sau: Hạnh phúc, sự hài lòng, lòng tự trọng, sự phát triển cá nhân, sự
hội nhập cá nhân, khả năng tiếp xúc với môi trường, sự độc lập với môi trường.
Ở Việt Nam, có nhiều tác giả đã nghiên cứu về thích ứng với hoạt động học
tập của học sinh ở các độ tuổi, môi trường khác nhau. Tác giả Vũ Thị Nho cùng một
số nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu đề tài “Sự thích ứng với hoạt động học tập
của học sinh tiểu học” [22]. Các tác giả xem sự thích ứng với hoạt động học tập là
một dạng của thích ứng xã hội và bao gồm hai khía cạnh chính đó là sự thích ứng

4


với các mối quan hệ trong học tập mà chủ yếu là quan hệ giáo viên - học sinh và
thích ứng với các yêu cầu của hoạt động học tập.
Tác giả Phan Quốc Lâm với đề tài: “Sự thích ứng với hoạt động học tập
của học sinh lớp 1” [15], kết quả nghiên cứu cho thấy khoảng 10% học sinh thích
ứng ở mức tốt, 75% ở mức trung bình khá và có đến 15% học sinh cho đến cuối
năm lớp 1 vẫn chưa thể thích ứng với hoạt động học tập. Kết quả nghiên cứu cũng
chỉ ra những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến sự thích ứng của hoạt động học tập của
học sinh lớp 1, đó là hoàn cảnh gia đình, giới tính, trình độ phát triển trí tuệ của học
sinh, sự chuẩn bị về mặt tâm lý cho hoạt động học tập... Trên cơ sở đó, nhằm nâng
cao mức độ thích ứng của học sinh, tác giả đã thử nghiệm tác động đến học sinh
thông qua 6 biện pháp: nâng cao hiểu biết của giáo viên về thích ứng, hình thành
những hành vi phù hợp ngay từ đầu khi trẻ mới tới trường, tăng cường tính xác định
của tình huống học tập, có thái độ ứng xử phù hợp với đặc điểm tâm lý học sinh, cá
biệt hóa trong dạy học và phối hợp với gia đình học sinh.
Tác giả Lê Ngọc Lan nghiên cứu đề tài: “Sự thích ứng với hoạt động thực
hành môn học của sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội” [18], tác giả kết luận: Thích
ứng là một cấu trúc bao gồm hai thành tố: Nắm được các phương thức hành vi thích

hợp đáp ứng với các yêu cầu của cuộc sống và hoạt động; Hình thành những cấu tạo
tâm lý mới tạo nên tính chủ thể của hành vi và hoạt động. Hai thành tố này có mối
quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau giúp con người điều chỉnh được hệ thống thái độ,
hành vi hiện có, hình thành được hệ thống thái độ, hành vi phù hợp với môi trường
đã thay đổi. Tốc độ và kết quả của quá trình đó phụ thuộc rất nhiều vào sự nỗ lực, ý
thức và khả năng của mỗi sinh viên.
Có thể thấy rằng, các tác giả Phan Quốc Lâm, Lê Ngọc Lan xuất phát từ
quan điểm của tâm lý học hoạt động để nghiên cứu vấn đề thích ứng. Với họ, hoạt
động vừa là đối tượng, vừa là phương thức của sự thích ứng, nghĩa là thích ứng với
hoạt động và để làm được điều này thì cá nhân phải đi vào hoạt động, thông qua
hoạt động của chính mình. Thông qua quá trình này, cá nhân lĩnh hội được những
kinh nghiệm, hình thành nên những cấu tạo tâm lý mới, giúp cá nhân khắc phục
được những khó khăn và đảm bảo kết quả hành động. Hay nói cách khác, quá trình
thích ứng được đặc trưng bởi những biến đổi của cá nhân trên hai mặt: mặt tâm lý

5


(hình thành những cấu tạo tâm lý mới) và mặt hành vi (với việc hình thành những
hành vi mới phù hợp với sự biến đổi của môi trường mới).
Các tác giả Nguyễn Thạc, Đỗ Thị Thanh Mai, Đặng Thị Lan, Dương Thị
Thoan, Nguyễn Thị Út Sáu đã có các công trình nghiên cứu thích ứng với học tập
của sinh viên ở các môi trường nhà trường khác nhau. Các công trình này đều chỉ ra
rằng: sinh viên chưa có phương pháp học tập phù hợp, chính yếu tố này là nguyên
nhân cơ bản dẫn đến mức độ thích ứng của sinh viên chưa cao. Bên cạnh đó, các tác
giả cũng đã xây dựng những biện pháp tâm lý - sư phạm cụ thể nhằm nâng cao mức
độ thích ứng với học tập của sinh viên trong các nhà trường khác nhau [27], [20],
[17], [30], [25].
Tác giả Mã Ngọc Thể với đề tài nghiên cứu “Thích ứng với hoạt động học
tập của sinh viên các dân tộc thiểu số” nghiên cứu sự thích ứng trên cơ sở sự thay

đổi và biểu hiện trên 3 mặt nhận thức, thái độ, hành vi và đưa ra quan niệm thích
ứng của sinh viên dân tộc thiểu số với hoạt động học tập là sự thay đổi tích cực, chủ
động của sinh viên về nhận thức, thái độ và hành vi để vượt qua khó khăn trong môi
trường đại học, đáp ứng được các yêu cầu của hoạt động học tập. Thích ứng của
sinh viên các dân tộc thiểu số được xem xét trên cơ sở biểu hiện qua ba mặt nhận
thức, thái độ và hành vi. Thích ứng học tập của sinh viên phải có sự thống nhất giữa
ba mặt với nhau, có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại. Khi sinh viên có nhận
thức tốt thì có thái độ và hành vi thích ứng sẽ tốt hơn trong môi trường sống mới. Các
mức độ thích ứng được đánh giá theo các mức độ thấp, trung bình, khá và tốt [29].
Tóm lại, các công trình nghiên cứu về thích ứng với hoạt động học tập của học
sinh, sinh viên trên thế giới và Việt Nam đã nghiên cứu khá nhiều khía cạnh của thích
ứng trong việc học tập của học sinh, sinh viên. Các tác giả cũng đã xác định được tiêu chí
khách quan để đo các biểu hiện của sự thích ứng với hoạt động học tập và chỉ ra nhiều
yếu tố chủ quan, khách quan ảnh hưởng đến quá trình thích ứng của học sinh, sinh viên.
Ngoài ra, các công trình đã xây dựng những biện pháp tâm lý - sư phạm giúp học sinh,
sinh viên nhanh chóng thích ứng với môi trường nhà trường.
2.3. Một số công trình nghiên cứu thích ứng với môi trường và rèn luyện
của sinh viên các trường lực lượng vũ trang
Tác giả Đỗ Mạnh Tôn với đề tài “Nghiên cứu sự thích ứng đối với học tập
và rèn luyện của học viên các trường sỹ quan quân đội” [26], cho rằng: “thích ứng

6


với học tập và rèn luyện của học viên các trường sỹ quan quân đội là một phẩm chất
phức hợp và cơ động của nhân cách học viên, biểu hiện ở quá trình người học tự tổ
chức hoạt động học tập, rèn luyện của mình dưới sự định hướng của người thầy và
nhà trường nhằm phát triển các chức năng sinh lý, các phẩm chất tổng hợp của nhân
cách, đạt tới sự phù hợp tối đa với những điều kiện và học tập và rèn luyện ở trường
sỹ quan. Kết quả nghiên cứu cho thấy: học viên các trường sỹ quan quân đội có

mức độ thích ứng khá cao với hoạt động học tập và rèn luyện, song vẫn còn những
hạn chế nhất định và hạn chế tập trung nhất ở mặt kỹ năng, kỹ xảo.
Tác giả Nguyễn Minh Châu với đề tài “Kỹ năng thích ứng tâm lý với môi
trường học tập của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học An ninh nhân dân”
nghiên cứu kỹ năng thích ứng ở ba mặt đó là nhận thức về kỹ năng thích ứng, biểu
hiện của các kỹ năng thích ứng cụ thể và ý thức rèn luyện kỹ năng thích ứng. Tác
giả cũng chỉ ra thực trạng nhận thức kỹ năng thích ứng của sinh viên năm thứ nhất
với môi trường học tập chỉ ở mức độ trung bình, sự biểu hiện của kỹ năng bộ phận
của kỹ năng thích ứng với môi trường học tập ở mức độ cao, trong đó cao nhất là kỹ
năng hợp tác, chia sẻ. Sinh viên năm thứ nhất cũng đánh giá cao tầm quan trọng của
kỹ năng thích ứng với môi trường học tập nên cũng đã chú ý quan tâm rèn luyện kỹ
năng này. [2]
Nghiên cứu của các tác giả đã nêu trên chỉ ra các biểu hiện của thích ứng qua
các mặt nhận thức, thái độ và hành vi. Các tác giả vừa làm rõ các vấn đề về mặt lý luận
vừa tìm hiểu thực trạng vấn đề trên những mẫu nghiên cứu cụ thể, chỉ ra đặc trưng và
những yếu tố ảnh hưởng đến sự thích ứng. Tuy nhiên trong hoạt động của sinh viên các
trường lực lượng vũ trang ngoài hoạt động học thì các em còn phải thực hiện hoạt động
điều lệnh công an nhân dân, đây là hoạt động bắt buộc và cũng đem lại rất nhiều khó
khăn cho sinh viên, đặc biệt là sinh viên năm thứ nhất. Các nghiên cứu của các tác giả
đã giúp cho tôi có định hướng để nghiên cứu thích ứng tâm lý của sinh viên năm thứ
nhất với hoạt động điều lệnh tại trường ĐH KT - HC CAND.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận và thực trạng thích ứng tâm lý với hoạt động điều lệnh
CAND của sinh viên năm thứ nhất trường ĐH KT - HC, chỉ ra các yếu tố ảnh
hưởng tới mức độ thích ứng với hoạt động điều lệnh của sinh viên. Từ đó, đề xuất

7



một số kiến nghị nhằm nâng cao khả năng thích ứng với hoạt động điều lệnh của
sinh viên.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác định cơ sở lý luận về thích ứng tâm lý với hoạt động điều lệnh của
sinh viên năm thứ nhất.
- Chỉ ra thực trạng mức độ thích ứng tâm lý của sinh viên năm thứ nhất với
những quy định và hoạt động điều lệnh CAND. Tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng tới
sự thích ứng với hoạt động điều lệnh của sinh viên năm thứ nhất trường ĐH KT-HC
CAND.
- Đề xuất một số kiến nghị giúp sinh viên năm thứ nhất thích ứng tốt hơn
với hoạt động điều lệnh trong nhà trường.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu biểu hiện, mức độ thích ứng, các yếu tố ảnh hưởng đến việc
thích ứng tâm lý với hoạt động điều lệnh của sinh viên năm thứ nhất trường ĐH
KT- HC CAND.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4.2.1. Giới hạn nội dung nghiên cứu
Đối với sinh viên các trường lực lượng vũ trang phải chấp hành rất nhiều
các quy định điều lệnh: điều lệnh nội vụ, điều lệnh đội ngũ, các nội quy của nhà
trường. Trong phạm vi đề tài nghiên cứu tôi chỉ nghiên cứu một số các quy định
điều lệnh về ý thức học tập, các quy định về điều lệnh nội vụ, đạo đức, lối sống, ý
thức chấp hành điều lệnh CAND, các quy định về tham gia các hoạt động, phong
trào tập thể, ý thức tự quản của sinh viên.
4.2.2. Giới hạn khách thể nghiên cứu
- Số lượng 226 sinh viên năm thứ nhất, khóa D6 đang học tại trường ĐH
KT- HC CAND
- 46 cán bộ, giảng viên đang công tác tại trường ĐH KT- HC CAND
4.2.3. Giới hạn địa bàn nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại trường ĐH KT-HC CAND


8


5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Việc nghiên cứu được tiến hành theo các nguyên tắc tiếp cận sau đây:
- Nguyên tắc tiếp cận hoạt động: xem sự thích ứng như một phẩm chất tâm
lý được hình thành, phát triển và biểu hiện trong hoạt động. Nghiên cứu thích ứng
tâm lý với hoạt động điều lệnh phải thông qua thực tiễn thực hiện các quy định điều
lệnh của sinh viên
- Nguyên tắc tiếp cận hệ thống: xem xét đối tượng nghiên cứu (thích ứng với
hoạt động điều lệnh) với tư cách là một hệ thống cấu trúc, bao gồm các thành tố
(nhận thức, thái độ, hành vi) có liên quan với nhau, quy định lẫn nhau, đồng thời
nghiên cứu sự thích ứng với hoạt động điều lệnh của sinh viên trong mối quan hệ
tương hỗ với các yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu trong khoa học xã hội. Cụ thể:
+ Nghiên cứu tài liệu: nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến đề tài, nhằm
thu thập hệ thống các cơ sở lý luận của luận văn, nghiên cứu các phương pháp, số
liệu để định hướng, làm cơ sở cho việc nghiên cứu.
+ Điều tra bằng bảng hỏi: đây là phương pháp chính của luận văn nhằm
đánh giá thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
+ Tọa đàm, phỏng vấn: là phương pháp bổ trợ, phỏng vấn trực tiếp một số
sinh viên, giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục nhằm chính xác hoá những thông tin
thu được từ phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi hoặc bổ sung những thông tin mới
cần thiết cho việc nghiên cứu.
+ Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học: xử lý số liệu bằng
phép toán trên chương trình phần mềm SPSS: tính tần suất trả lời các phương án,
tính tỷ lệ %, điểm trung bình nhằm đánh giá thực trạng vấn đề nghiên cứu.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn đã khái quát được những vấn đề lý luận cơ bản về sự thích ứng,
thích ứng tâm lý với hoạt động điều lệnh của sinh viên năm thứ nhất, khái niệm
thích ứng tâm lý của sinh viên năm thứ nhất với hoạt động điều lệnh; xác định biểu
hiện thích ứng qua ba mặt: nhận thức, thái độ và hành vi, các yếu tố ảnh hưởng đến

9


sự thích ứng tâm lý của sinh viên năm thứ nhất trường ĐH KT – HC CAND với
hoạt động điều lệnh.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn đã xác định được mức độ thích ứng với hoạt động điều lệnh của
sinh viên năm thứ nhất trường ĐH KT - HC CAND, các yếu tố chủ quan, khách
quan ảnh hưởng tới việc thích ứng với hoạt động điều lệnh của sinh viên năm thứ
nhất.
Kết quả nghiên cứu thực tiễn là tài liệu tham khảo cho Nhà trường, các thầy
cô giáo, cán bộ quản lý học viên để có các biện pháp tác động giúp sinh viên khắc
phục khó khăn, thích ứng nhanh với hoạt động điều lệnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thích ứng tâm lý với hoạt động điều lệnh của
sinh viên năm thứ nhất trường ĐH KT - HC CAND
Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu thực tiễn thích ứng tâm lý với hoạt động điều
lệnh của sinh viên năm thứ nhất trường ĐH KT- HC CAND

10



Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THÍCH ỨNG TÂM LÝ VỚI HOẠT ĐỘNG
ĐIỀU LỆNH CỦA SINH VIÊN NĂM THỨ NHẤT
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG AN NHÂN DÂN
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Thích ứng tâm lý
1.1.1.1. Khái niệm thích ứng
Thuật ngữ “Thích ứng” hay “thích nghi” theo tiếng Pháp là adapter, tiếng
Anh là adapt, adaptation được dùng với nghĩa gốc là “làm cho phù hợp”. Thích ứng
là một phạm trù được nghiên cứu rất nhiều trong tâm lý học hiện nay, có nhiều
nghiên cứu khác nhau về vấn đề này, tùy theo cách tiếp cận khác nhau mà các nhà
tâm lý học có định nghĩa sự thích ứng khác nhau.
- Theo quan điểm của các nhà tâm lý học Hành vi:
Trường phái này, đại diện tiêu biểu là J.B. Watson (1878-1958), ông cho
rằng thích ứng là việc con người đã học được những hành vi cho phép giải quyết tốt
những công việc, đòi hỏi của cuộc sống. Những người không thể áp dụng những
hành vi đã học vào giải quyết có hiệu quả các yêu cầu do cuộc sống tạo ra là những
người có khả năng thích ứng kém. Cơ chế của thích ứng với môi trường là thông
qua việc học tập, đó là quá trình con người học được những hành vi mới cho phép
giải quyết các yêu cầu, đòi hỏi mới của cuộc sống. Họ cho rằng con người là một cơ
thể sống với hệ thống hành vi, phản ứng, đáp lại kích thích của bên ngoài nhằm
thích ứng với môi trường. [6]
- Theo quan điểm của các nhà tâm lý học nhân văn
Tâm lý học Nhân văn, với đại diện nổi bật là C. Roger và Maslow, đã lấy
con người làm trung tâm để xây dựng quan điểm về “thích ứng”, lấy nhân cách làm
đối tượng nghiên cứu và xem xét nhân cách như một hệ thống trọn vẹn. Nếu như
nhân cách được đặt trong môi trường lành mạnh, họ sẽ thể hiện tối đa tiềm năng của
bản thân, phát huy hết được khả năng tiền ẩn bên trong của mỗi cá nhân, trở thành

con người mà họ có thể trở thành. Khi đó mỗi cá nhân sẽ tất yếu hòa hợp được với
người khác và thích ứng được với môi trường. Maslow coi thích ứng là sự thể hiện

11


được cái vốn có của bản thân trong những điều kiện nhất định mà tiền đề tạo ra sự
thích ứng đó chính là việc thỏa mãn những nhu cầu của con người. Ông đưa ra hệ
thống nhu cầu 5 bậc, được xếp từ thấp đến cao, đó là: nhu cầu sinh lý, nhu cầu an
toàn, nhu cầu xã hội, nhu cầu được tôn trọng, nhu cầu tự thể hiện bản thân. Khi một
nhu cầu ở bậc thấp hơn được thỏa mãn thì nhu cầu ở bậc cao hơn sẽ trở thành động
cơ thúc đẩy con người. Theo các nhà tâm lý học nhân văn, thích ứng là quá trình
con người nỗ lực, cố gắng thỏa mãn nhu cầu của mình, để vươn tới nhu cầu cao hơn
đó là nhu cầu xã hội, gia nhập vào các nhóm trong xã hội, hiện thực hóa được hết
tiềm năng của mình, quá trình này ngoài sự nỗ lực của bản thân còn phụ thuộc vào
yếu tố môi trường xã hội. Thích ứng của con người liên quan đến việc con người phát
huy hết khả năng tiềm ẩn của bản thân, vươn tới những mục tiêu cao đẹp của cuộc
sống, do đó mức độ thành công của con người cũng là một tiêu chí để đánh giá mức
độ thích ứng của họ. [1]
Theo quan điểm của trường phái Tâm lý học hoạt động
Đại biểu của trường phái này là L.X Vưgotxki, A.N Leonchiev, X.L
Rubinstenin. Theo quan điểm của trường phái này, tâm lý con người là sản phẩm của
hoạt động và giao tiếp, tâm lý con người là quá trình con người lĩnh hội những kinh
nghiệm xã hội lịch sử, biến kinh nghiệm đó thành tâm lý của bản thân. Vì vậy yếu tố
quan trọng nhất để phát triển tâm lý và tạo nên sự thích ứng của con người với xã
hội đó là tính tích cực của chủ thể khi tham gia vào các hoạt động, giao tiếp [7].
Hoạt động là yếu tố quan trọng nhất giúp cá nhân thích ứng tốt với môi trường luôn
luôn thay đổi và kết quả của hoạt động là tiêu chí để đánh giá sự thích ứng của cá
nhân đó.
Có rất nhiều quan điểm, cách giải thích sự thích ứng khác nhau của các nhà

khoa học. Tuy nhiên, ở phạm vi nghiên cứu của luận văn chúng tôi quan tâm tìm
hiểu khái niệm thích ứng, đặc điểm và tiêu chí để đo biểu hiện của nó. Qua nghiên
cứu, có thể chỉ ra một số công trình đã định nghĩa về thích ứng như:
Trong Từ điển Tâm lý học của tác giả Vũ Dũng xuất bản năm 2008, “Thích
ứng là ph n ứng của cơ thể với những thay đổi của môi trường”. Về nguyên tắc có

12


hai phương thức thích ứng khác nhau của cơ thể đối với những thay đổi các điều
kiện của môi trường:
+ Thích ứng bằng cách thay đổi cấu tạo và hoạt động của các cơ quan; đây
là phương thức phổ biến với động vật và thực vật.
+ Thích ứng bằng cách thay đổi hành vi mà không thay đổi tổ chức; phương
thức này chỉ đặc trưng cho động vật và gắn liền với sự phát triển tâm lý. Theo quan
niệm này, khái niệm thích ứng cũng có điểm đồng nghĩa với thích nghi [3, tr.805- 806].
Theo từ điển Tâm lý học Quân sự: “Thích ứng là sự thay đổi, điều chỉnh nhất
định của con người về năng lực hoạt động, hành vi ứng xử cho phù hợp với điều kiện
môi trường sống mới để qua đó có thể ổn định cuộc sống và phát triển” [38].
Tác giả Trần Thị Minh Đức khi nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu sự thích ứng
của sinh viên năm thứ nhất – Đại học Quốc gia Hà Nội với môi trường đại học” đã
đưa ra khái niệm “Thích ứng là quá trình hòa nhập tích cực với hoàn c nh có vấn
đề qua đó cá nhân đạt được sự trưởng thành về mặt tâm lý – xã hội” [5, tr.30]. Tác
giả đã chỉ ra thích ứng thể hiện qua các mặt:
- Hòa nhập tích cực là sự chủ động thay đổi bản thân và sự cải tạo hoàn
cảnh trong sự hài hài hòa nhất định. Cá nhân phát hiện vấn đề, phân tích vấn đề, liên
hệ kinh nghiệm bản thân và tìm cách thay đổi bản thân, cải tạo hoàn cảnh thay đổi
phù hợp với bản thân.
- Hoàn cảnh có vấn đề: Tình huống, sự kiện xuất hiện không nằm trong kinh
nghiệm của cá nhân có ảnh hưởng đến cuộc sống của cá nhân, buộc cá nhân phải

huy động tiềm năng của bản thân để giải quyết chúng.
- Sự trưởng thành về mặt tâm lý – xã hội: Là sự thoải mái bên trong của mỗi cá
nhân, sự phát triển hài hòa và làm chủ trong các mối quan hệ xã hội
Theo tác giả Chu Văn Đức thì: thích ứng tâm lý xã hội là quá trình tương
tác tích cực giữa con người với môi trường xã hội, trong đó con người làm quen,
tiếp nhận các yếu tố của môi trường xã hội, điều chỉnh cảm xúc, lĩnh hội kinh
nghiệm và phương thức hành vi mới, quá trình con người nỗ lực khắc phục khó
khăn giải quyết thành công những vấn đề nảy sinh trong mối quan hệ giữa con
người với môi trường xã hội [4, tr. 42]

13


Tác giả Lê Thị Minh Loan cho rằng: Thích ứng là quá trình cá nhân lĩnh
hội một cách tích cực, chủ động các điều kiện mới hay hoàn c nh mới qua đó đạt
được các mục đích yêu cầu đề ra và sự trưởng thành về mặt tâm lý, nhân cách. [19].
Thích ứng được tác giả tiếp cận theo hướng tích cực, chủ động của con người, là sự
hòa nhập, lĩnh hội một cách chủ động, tích cực khi con người tham gia vào môi
trường sống mới, hoàn cảnh mới để từ đó bản thân có sự lĩnh hội, tiếp thu, tạo nên
đặc điểm tâm lý mới.
Như vậy, các tác giả nêu trên đều thống nhất cho rằng nội hàm của thích
ứng gồm:
- Thích ứng là quá trình tương tác giữa con người với môi trường xã hội,
quá trình con người thâm nhập vào môi trường xã hội thông qua hoạt động và
giao tiếp
- Quá trình cá nhân tích cực, chủ động trong các điều kiện hoàn cảnh mới để
tạo ra sự thay đổi ở bản thân và có sự phát triển về tâm lý nhân cách.
- Là khả năng hòa nhập của con người với những biến động trong một
hoàn cảnh mới, là quá trình con người làm quen, tham gia vào một môi trường
mới. Sự thích ứng luôn diễn ra trong suốt cuộc đời con người vì môi trường

sống, môi trường xã hội và con người luôn luôn thay đổi và phát triển. Mức độ
thích ứng của cá nhân được biểu hiện ở kết quả của quá trình thực hiện hoạt động
ở môi trường mới và mức độ hài lòng của cá nhân khi thực hiện hoạt động trong
môi trường đó.
Từ nghiên cứu các quan niệm khác nhau về thích ứng tác giả luận văn cho
rằng: “Thích ứng là quá trình con người tích cực thay đổi điều chỉnh nhận thức,
thái độ, hành vi của mình để đáp ứng được với yêu cầu của môi trường mới đem lại
hiệu qu trong quá trình hoạt động”
1.1.1.2. Đặc điểm của thích ứng
Sự thích ứng của con người có đặc điểm sau đây:
- Thứ nhất, thích ứng là quá trình tích cực của chủ thể trong quá trình tác
động qua lại giữa chủ thể với môi trường mới, với những hoạt động có những yêu
cầu mới.

14


- Thứ hai, thích ứng chỉ xảy ra khi chủ thể thay đổi môi trường sống mới
hoặc tiến hành các hoạt động với những yêu cầu mới. Khi điều kiện kích thích thay
đổi, những đặc điểm về cơ thể, đặc điểm tâm lý trong cấu trúc tâm lý không còn
thích hợp để phản ứng thích hợp với môi trường sống mới buộc chủ thể phải thay
đổi cấu trúc tâm lý bên trong, trên cơ sở đó điều chỉnh, hình thành hành vi mới cho
phù hợp với điều kiện kích thích mới.
- Thứ ba, kết quả của sự thích ứng là làm thay đổi cấu trúc bên trong hoặc
dẫn đến sự thay đổi cấu trúc bên trong của chủ thể. Đối với sự thích ứng của con
người thì đó là sự thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi của chủ thể thích ứng.
- Thứ tư, biểu hiện khách quan nhất, rõ nét nhất của thích ứng là có được
hành vi phù hợp với hoạt động, có thái độ hài lòng đối với việc thực hiện hành động đó.
1.1.1.3. Tiêu chí đo biểu hiện của sự thích ứng
Theo tác giả Mã Ngọc Thể tiêu chí để đánh giá mức độ thích ứng dựa vào

tính tích cực và tính tự giác của cá nhân [29, tr.32- 33].
Tính tích cực biểu hiện qua sự chủ động và tích cực của chủ thể khi tham
gia các hoạt động, trong quá trình con người tự nhận thức về vai trò của mình đối
với thế giới. Ngoài ra, còn biểu hiện trong khả năng hoạt động của họ khi tham gia
vào các tương tác khác nhau. Những tương tác này phản ánh sự tự ý thức, khả năng
điều chỉnh nội dung, hình thức, thời gian và phương pháp hoạt động của chủ thể sao
cho thích ứng với môi trường.
Tính tự giác thể hiện ở việc các chủ thể có sự sẵn sàng hay không sẵn sàng
trong các hoạt động. Chủ thể biết đặt mình vào tình huống của đời sống thực tế,
được trải nghiệm, quan sát, giải quyết vấn đề đặt ra theo hướng suy nghĩ của mình
thông qua làm việc cá nhân, làm việc nhóm, từ đó thu được những kiến thức mới,
phát huy tiềm năng sáng tạo, linh hoạt, năng động và biết cách hợp tác với người khác.
Tác giả cũng chỉ ra các mức độ thích ứng qua các mặt biểu hiện nhận thức, thái độ,
hành vi, cụ thể với bốn mức độ thể hiện tính tích cực, tự giác tương ứng với mức độ
thích ứng.

15


Bảng 1.1. Các mức độ thích ứng qua các mặt biểu hiện
Các
mặt
biểu
hiện
Nhận
thức

Thái
độ


Hành
vi

Các mức độ thể hiện tính tích cực, tự giác tương ứng mức độ
thích ứng
MĐTƢ
Thấp
Chưa đúng,
Sai lệch,
Chưa đầy đủ,
Không có hoặc ít
thay đổi
Chưa tự tin,
Chưa đúng đắn,
Thụ động, ít có
thay đổi,
Không cố gắng
khắc phục khó
khăn

MĐTƢ
Trung bình
Phân biệt được
ở mức độ cơ
bản,
Tương đối rõ
ràng nhưng còn
thiếu sót
Tự tin hơn,
Đã có sự thay

đổi nhưng chưa
nhất quán
Trông chờ,
Cố gắng khắc
phục khó khăn

MĐTƢ
MĐTƢ
Khá
Tốt
Khá tích cực,
Hoàn toàn tích
Đã rõ ràng và cực
đầy đủ hơn
Rõ ràng, đúng
đắn, sâu sắc,
đúng bản chất

Khá tự tin,
Chưa hoàn toàn
làm chủ được
tình huống,
Có nhiều thay
đổi
Nỗ lực cố gắng
khắc phục khó
khăn
Bị động
Đáp ứng yêu Khá chủ động,
Trông chờ,

cầu
Linh hoạt
Chậm chạp
Theo nghĩa vụ
Tương đối thành
Cứng nhắc, rập Tốc độ trung thạo
khuân
bình
Có kỹ xảo
Ít kỹ xảo

Hoàn toàn tự
tin,
Làm chủ được
tình
huống,
Không
nhất
thiết phải cố
gắng khắc phục
khó khăn
Hoàn toàn chủ
động
Khéo léo
Thuần thục
Hoàn thiện
Sáng tạo

Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, chúng tôi đồng ý với quan điểm
trên, từ đó đưa ra tiêu chí đánh giá mức độ thích ứng với hoạt động điều lệnh của

sinh viên qua các mặt biểu hiện.

16


Bảng 1.2. Các mức độ thích ứng với hoạt động điều lệnh của sinh viên
qua các mặt biểu hiện
Các
mặt

Các mức độ thể hiện tính tích cực, tự giác tương ứng mức độ
thích ứng

biểu
hiện

MĐTƢ
Thấp

Nhận Sai lệch,
thức Chưa đầy

MĐTƢ
Trung bình

MĐTƢ
Khá

Phân biệt được Khá tích cực,


Hoàn toàn tích

đủ, ở mức độ cơ Đã rõ ràng và cực

Không có hoặc ít bản
đầy đủ hơn
thay đổi
Tương đối rõ
ràng nhưng còn
thiếu sót
Thái
độ

MĐTƢ
Tốt

Chưa tự tin,
Tự tin hơn,
Thụ động, ít có Đã có sự thay
thay đổi,
đổi nhưng chưa
nhất quán

Rõ ràng, đúng
đắn, sâu sắc,
đúng bản chất

Khá tự tin,
Hoàn toàn tự
Chưa hoàn toàn tin,

làm chủ được Làm chủ được
tình huống.
tình huống.

Trông chờ.
Hành Bị động
Trông chờ.
vi

Đáp

ứng

yêu Khá chủ động, Hoàn toàn chủ

cầu
Ít kỹ xảo.

Linh hoạt.

động.
Thuần thục,
Sáng tạo.

Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, chúng tôi nhận thấy trong các mặt
biểu hiện thích ứng luôn có sự thống nhất với nhau giữa nhận thức, thái độ và hành
vi. Do đó khi nghiên cứu về thích ứng không thể chỉ nghiên cứu một mặt mà phải
nghiên cứu cả ba nội dung trên.
1.1.2. Thích ứng tâm lý
Sự thích ứng tâm lý diễn ra ở cả người và động vật. Đó là quá trình cơ thể

sinh vật xác lập được sự cân bằng với môi trường thường xuyên biến động thông
qua cơ chế phản xạ có điều kiện của hệ thần kinh não bộ. Sự thích ứng này có được
khi hệ thần kinh phát triển, cho phép có khả năng đáp ứng với những kích thích gián

17


tiếp, đón trước, hoặc tái tạo gần kề. Như vậy, thích ứng tâm lý đã làm cho cơ thể
sinh vật có thể tồn tại và phát triển tốt hơn trong môi trường đầy biến động.
Theo tác giả Tremblay Monique thì thích ứng tâm lý – xã hội là tìm kiếm sự
cân bằng giữa các xung năng, những ham muốn của bản thân với những đòi hỏi,
mong đợi từ phía môi trường bên ngoài
Thích ứng tâm lý: đây là hình thức thích nghi cao hơn thích nghi sinh học,
có thể có ở cả ở người và động vật. Đó là quá trình cơ thể xác lập sự cân bằng với
môi trường thường xuyên thay đổi, biến động, bằng cơ chế phản xạ có điều kiện của
hệ thần kinh. Sự thích ứng này có khi hệ thần kinh phát triển cho phép cơ thể sinh
vật có khả năng đáp ứng với những kích thích gián tiếp hoặc đón trước, hoặc tái tạo
gần kề. Nhờ đó mà cơ thể động vật có thể đảm bảo tồn tại và phát triển tốt hơn trước
môi trường đầy biến động [45].
Theo Nguyễn Thị Minh Hằng (2001): thích ứng tâm lý là một hình thức
thích ứng bên trong mà kết quả của nó là một trạng thái cân bằng tâm lý của mỗi
một cá nhân. Biểu hiện của trạng thái cân bằng này là cá nhân cảm thấy thoải mái,
dễ chịu, thảnh thơi và tràn đầy năng lượng cho hoạt động. [8]
Như vậy, quá trình thích ứng trong hoạt động được đặc trưng bởi những
biến đổi ở cá nhân trên hai mặt. Thứ nhất là sự biến đổi về mặt tâm lý với việc phát
sinh, hình thành và phát triển của các cấu tạo tâm lý mới. Thứ hai là những biến đổi về
mặt hành vi với việc hình thành các phương thức hành vi mới. Cả hai mặt này đều giúp
chủ thể thích ứng tốt với môi trường sống.
Từ đó, tác giả cho rằng: thích ứng tâm lý là quá trình con người tích cực,
chủ động thay đổi nhận thức thái độ và hành vi nhằm đáp lại một cách phù hợp

những đòi hỏi của điều kiện môi trường sống luôn luôn thay đổi để tồn tại và phát triển.
1.1.3. Hoạt động điều lệnh
1.1.3.1. Khái niệm hoạt động điều lệnh
Theo từ điển bách khoa Công an nhân dân: điều lệnh nội vụ của lực lượng
Công an nhân dân Việt Nam là văn bản có tính pháp quy do Bộ Công an ban hành
trong lực lượng Công an nhân dân bắt buộc mọi sĩ quan, hạ sĩ quan chiến sỹ công an
phải thực hiện khi công tác, chiến đấu, học tập và sinh hoạt, nhằm xây dựng lực

18


lượng công an cách mạng, chính quy tinh nhuệ và từng bước hiện đại. Điều lệnh nội
vụ đang được thực hiện trong lực lượng công an hiện nay được ban hành là thông tư
số 17/2012/TT- BCA ngày 10 tháng 4 năm 2012, gồm 8 chương, 50 điều [38].
Hoạt động điều lệnh là những hoạt động thực hiện những quy định về chế
độ sinh hoạt, công tác, chiến đấu, học tập của người cán bộ chiến sỹ Công an nhân
dân được quy định trong các văn bản của ngành công an.
1.1.3.2. Các quy định điều lệnh
Các quy định điều lệnh được quy định rõ trong thông tư số 17/2012/TTBCA và thông tư số 18/2012/TT-BCA, đó là các quy định về điều lệnh nội vụ, điều
lệnh đội ngũ cho toàn thể cán bộ chiến sỹ trong lực lượng vũ trang, sinh viên trường
đại học Công an nhân dân nói chung và sinh viên trường ĐH KT- HC CAND cũng
phải tuân thủ theo các quy định điều lệnh đó. Nội dung quy định điều lệnh rất đa
dạng, trong phạm vi nghiên cứu đề tài luận văn thạc sỹ tôi xin nghiên cứu một số
quy định điều lệnh tiêu biểu đối với sinh viên trường ĐH KT – HC. Sinh viên không
được vi phạm các quy định sau:
- Về ý thức học tập:
+ Bỏ xếp hàng điểm danh lên lớp mà không có lý do chính đáng.
+ Đến muộn giờ học, giờ thực tập, thực hành không lý do chính đáng.
+ Nghỉ học không lý do chính đáng.
+ Ngủ gật trong giờ lên lớp, không ghi chép bài, mất trật tự, nói chuyện

riêng trong lớp.
+ Ngủ hoặc làm việc riêng trong giờ tự học, tự nghiên cứu.
+ Vi phạm nội quy, quy chế thi cử.
- Về đạo đức lối sống và ý thức chấp hành điều lệnh CAND, nội quy, quy
chế trong trường:
+ Mặc trang phục, đi giầy tất…sai quy định hoặc mặc trang phục thường
trong giờ học tập, hội họp.
+ Học viên nam để tóc, râu, mai tốt; học viên nhuộm tóc, để móng tay dài,
sơn móng tay, móng chân.
+ Không gấp chăn màn hoặc gấp sai quy định.

19


×