Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Kiểm sát hoạt động khởi tố, điều tra các tội phạm về ma túy từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (799.82 KB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ NGỌC ANH

KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA CÁC TỘI PHẠM
VỀ MA TÚY TỪ THỰC TIỄN TỈNH THÁI NGUYÊN

Chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60. 38. 01. 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. Nguyễn Văn Điệp

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam kết luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
Tôi. Các tài liệu, tư liệu được sử dụng trong luận văn có nguồn dẫn rõ ràng, các kết
quả nghiên cứu là quá trình lao động trung thực của tôi.
Thái Nguyên, Ngày 25 tháng 8 năm 2017
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Trần Thị Ngọc Anh


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ, ĐIỀU
TRA VÀ HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA CÁC TỘI PHẠM
MA TÚY............................................................................................................ 5
1.1. Khái niệm, đặc điểm của giai đoạn khởi tố, điều tra các tội phạm về ma túy 5
1.2. Kiểm sát hoạt động khởi tố, điều tra vụ án hình sự ...................................... 9
1.3. Mối quan hệ giữa cơ quan điểu tra và viện kiểm sát trong khởi tố, điều tra vụ
án hình sự ......................................................................................................... 18
1.4. Tổ chức thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố, điều
tra các vụ án hình sự ......................................................................................... 24
Chương 2. PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG 27
GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY ............ 27
2.1. Kiểm sát giai đoạn khởi tố ......................................................................... 27
2.2. Kiểm sát hoạt động điều tra ....................................................................... 33
2.3. Kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn ............. 43
2.4. Kiểm sát đình chỉ điều tra vụ án hình sự của CQĐT .................................. 49
Chương 3THỰC TRẠNG, GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA CÁC TỘI PHẠM VỀ
MA TÚY TỈNH THÁI NGUYÊN ................................................................... 51
3.1. Thực trạng kiểm sát tội phạm ma túy trên địa bàn tỉnh thái nguyên ........... 51
3.2. Những kết quả, hạn chế và nguyên nhân của công tác kiểm sát hoạt động
khởi tố, điều tra các tội phạm ma túy của vksnd tỉnh thái nguyên ..................... 57
3.3.Giải pháp và kiến nghị nâng cao hiệu quả kiểm sát hoạt động khởi tố, điều
tra các vụ án ma túy trên địa bàn tỉnh thái nguyên ............................................ 70
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 78


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra

ĐTV

Điều tra viên

HĐXX

Hội đồng xét xử

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

KSV

Kiểm sát viên

KSĐT


Kiểm sát điều tra

TAND

Tòa án nhân dân

THQCT

Thực hành quyền công tố

HĐTP

Hoạt động tư pháp


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Số hiệu

Tên bảng

Trang

bảng
Bảng 3.1 Thống kê cơ cấu tội phạm ma túy xảy ra trên địa bàn tỉnh

55

Thái Nguyên (từ ngày 01/12/2011 đến ngày 31/11/2016)
Bảng 3.2 Kết quả khởi tố, truy tố và xét xử các tội phạm về ma túy


58

trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên(từ ngày 01/12/2011 đến
ngày 31/11/2016)
Bảng 3.3 Thống kê số vụ án về ma túy Viện kiểm sát hủy quyết

60

định khởi tố và Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều tra
khởi tố (từ ngày 01/12/2011 đến ngày 31/11/2016)
Bảng 3.4 Thống kê số vụ án, bị can phạm tội về ma túy phải đình
chỉ giải quyết(từ ngày 01/12/2011 đến ngày 31/11/2016)

61


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 với mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân
chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong những năm qua ngành Kiểm sát nhân dân đã góp phần
bước đầu tạo nên diện mạo mới cho nền tư pháp quốc gia. Hoạt động thực hành quyền công
tốvà Kiểm sát hoạt động tư pháp được đổi mới, nâng cao về chất lượng, đã hạn chế được tình
trạng bỏ lọt tội phạm và người phạm tội cũng như làm oan người vô tội, đảm bảo cho pháp
luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, góp phần không nhỏ trong công tác đấu
tranh, phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên vì nhiều lý do mà hoạt động kiểm sát các hoạt động
tư pháp ở các giai đoạn tố tụng, trong đó có hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp ở giai
đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự còn bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu sót, chưa thực sự
đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm; còn để xảy ra tình trạng trả hồ sơ điều tra

bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, việc bắt, tạm giữ sau đó phải xử lý hành chính,
còn có vụ án bị cấp phúc thẩm hủy do vi phạm trong quá trình điều tra; việc phát hiện những
vi phạm trong hoạt động điều tra của CQĐT chưa thường xuyên, kiên quyết, còn hiện tượng
nể nang, do vậy ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng của công tác điều tra.
Thực tế ở Việt Nam cho thấy tình hình vi phạm, tội phạm về ma túy vẫn diễn biến
phức tạp trên hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước, đặc biệt là ở các tỉnh miền núi phía
Bắc, phương thức hoạt động ngày càng tinh vi, có chiều hướng gia tăng về số vụ, về tính
chất nguy hiểm và hậu quả gây ra ngày càng nghiêm trọng. Trước tình hình đó Đảng và Nhà
nước đã quan tâm chỉ đạo kiên quyết đấu tranh nhằm từng bước ngăn chặn và đẩy lùi tệ nạn
này ra khỏi đời sống xã hội bằng việc ban hành Luật và nhiều văn bản Pháp luật tạo thành
một hệ thống Pháp luật về phòng chống Ma túy. Trong giai đoạn tiếp theo, toàn ngành Kiểm
sát nhân dân tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 49/NQ-TW; đẩy mạnh công tác xây
dựng và hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực hoạt động tư pháp; bảo đảm triển khai và thực hiện
có hiệu quả Luật tổ chức VKSND năm 2014 và BLTTHS năm2015 nâng cao chất lượng
THQCT và KSHĐTP; tăng cường hợp tác quốc tế trong công tác đấu tranh phòng, chống tội
1


phạm, nhất là tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia, tội phạm ma túy. Trong đó toàn Ngành
tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 26/3/2008 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục tăng
cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy trong tình hình mới”;
Kế hoạch số 88/KH-VKSTC ngày 13/9/2012 của VKSND Tối cao về “Chiến lược quốc gia
phòng, chống và kiểm soát ma túy ở Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030
trong ngành Kiểm sát nhân dân”. Chỉ thị số 06/CT-VKSTC ngày 06/12/2013 của VKSND
Tối cao về “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt
động điều tra đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm”.
Từ những lý do nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài "Kiểm sát hoạt động khởi tố, điều tra
các tội phạm về ma túy từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên" làm luận văn tốt nghiệp Cao học
chuyên ngành luật hình sự, tố tụng hình sự nhằm đáp ứng cả về phương diện lý luận và thực
tiễn và góp phần nâng cao chất lượng công tác kiểm sát các HĐTPở giai đoạn khởi tố, điều

tra các tội phạm ma túy tại VKSND tỉnh Thái Nguyên.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Kiểm sát hoạt động trong giai đoạn khởi tố điều tra vụ án hình sự là một đề tài rộng. Đề
tài này đã được một số tác giả nghiên cứu và các công trình khoa học đó đã công bố, như:
Tác giả Nguyễn Thành Trì, Luận văn cao học luật, năm 1996 “Kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong giai đoạn khởi tố điều tra án hình sự”; tác giả Vũ Thị Xuân Nhuệ, Luận văn cao
học luật, năm 1998, “Một số hoạt động kiểm sát điều tra án kinh tế tại thành phố Hồ Chí
Minh”. Công tác THQCT và kiểm sát điều tra án ma túy của TS Dương Thanh Biểu- Phó
viện trưởng VKSND Tối cao (năm 2001). Ngoài ra còn nhiều bài viết của các tác giả đăng
trên tạp chí ngành và nhiều chuyên đề nghiệp vụ như: “Tổng hợp kinh nghiệm trong công tác
THQCT, KSĐT, KSXX sơ thẩm các vụ án ma túy lớn” của Vụ 2, VKSND tối cao năm
2004;“VKSND các cấp cần tập trung làm tốt việc tăng cường trách nhiệm công tố trong
hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra”của TS Trần Công Phàn, đăng trên
Tạp chí Kiểm sát, số 8/2012.
Các công trình khoa học nói trên mặc dù có đề cập đến chức năng kiểm sát khởi tố,
điều tra của VKS, nhưng lại nghiên cứu đối với vụ án kinh tế hay mới dừng lại ở hoạt động
kiểm sát khởi tố, điều tra, mà chưa đi sâu làm rõ về mặt lý luận chức năng kiểm sát hoạt
2


động tư pháp trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự đặc biệt là các tội phạm về ma túy.Hơn
nữa, các công trình khoa học đó nghiên cứu trên cơ sở các quy định của các văn bản pháp
luật trước đây, hiện nay các văn bản pháp luật đó đã được sửa đổi, bổ sung với nhiều quy
định mới. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài sẽ có ý nghĩa thiết thực trong công tác phòng, chống
tội phạm ma túy và tiếp tục nâng cao chất lượng công tác kiểm sát hoạt động khởi tố, điều
tra đối với tội phạm ma túy của VKSND tỉnh Thái Nguyên
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Luận văn phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về chức năng kiểm sát các hoạt động
tư pháp ở giai đoạn khởi tố, điều tra các tội phạm ma túy.
Khảo sát thực tiễn công tác kiểm sát HĐTP trong giai đoạn khởi tố, điều tra của VKS

trong các tội phạm về ma túy, từ đó thấy được những ưu điểm, tích cực và mặt hạn chế để và
đề xuất các giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả của việc thực hiện chức năng này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn
của công táckiểm sát hoạt động khởi tố, điều tra các tội phạm về ma túy từ thực tiễn tỉnh
Thái Nguyên.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn giới hạn việc khảo sát thực tiễn trong 5 năm, từ ngày
01/12/2012 đến ngày 31/11/2016 trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
5. Phương pháp luậnvà phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật; các quan điểm, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và ngành Kiểm sát nhân dân về đấu tranh phòng,
chống tội phạm ma túy; đặc biệt là quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp được thể hiện
trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ chính trị.
Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu đề tài, luận văn sử dụng những
phương pháp nghiên cứu của Triết học Mác – Lênin và các khoa học chuyên ngành khác,
trong đó đặc biệt chú trọng đến phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh kết hợp
giữa lý luận và thực tiễn.
3


6. Ý nghĩa lý luận và ý thực tiễn của luận văn
Những đóng góp mới của luận văn: Làm rõ thêm khái niệm, đối tượng, phạm vi và nội
dung của chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp ở giai đoạn khỏi tố, điều tra các tội phạm
ma túy của VKSND; Phân tích đánh giá ưu điểm, hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân qua
đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của công tác kiểm sát các hoạt
động ở giai đoạn khởi tố điều tra các tội phạm ma túy trên địa bàn tỉnh Thái Nguyêntrong
thời gian tới.
Ý nghĩa của luận văn: Góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về chức năng kiểm sát hoạt

động ở giai đoạn khởi tố, điều tra các tội phạm ma túy của VKSND.Trong quá trình nghiên
cứu tác giả có sự so sánh giữa các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) 2003 với
các quy định của BLTTHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để thấy được những điểm mới
liên quan đến hoạt động kiểm sát khởi tố, điều tra vụ án hình sự. Luận văn có thể dùng làm
tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục từ viết tắt, nội
dung của luận văn gồm 03 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận về giai đoạn khởi tố - điều tra và hoạt động kiểm sát khởi tố,
điều tra các tội phạm về ma túy.
Chương 2: Pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố điều tra các
tội phạm về ma túy.
Chương 3: Thực trạng, giải pháp và kiến nghị nâng cao hiệu quả công tác kiểm sáthoạt
động khởi tố, điều tra các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.

4


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VÀ
HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA CÁC TỘI PHẠM MA TÚY
1.1. Khái niệm, đặc điểm của giai đoạn khởi tố, điều tra các tội phạm về ma túy
Quá trình giải quyết vụ án hình sự được chia thành các giai đoạn, mỗi giai đoạn tố tụng
hình sự có nhiệm vụ giải quyết những yêu cầu khác nhau và tương ứng với mỗi giai đoạn đó
là chức năng cụ thể của mỗi cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện nhiệm
vụ do pháp luật quy định.
BLTTHS nước ta chia quá trình giải quyết vụ án hình sự thành bốn giai đoạn bao gồm:
Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự; giai đoạn điều tra vụ án hình sự và truy tố; giai đoạn xét xử
vụ án hình sự và giai đoạn thi hành bản án hình sự. Đối với hoạt động xét xử phúc thẩm, tái
thẩm và giám đốc thẩm không phải là các giai đoạn tố tụng hình sự trong quá trình giải quyết

vụ án hình sự mà các hoạt động đó là thủ tục tố tụng đặc biệt để xét lại những vụ án hình sự
đã xét xử có kháng cáo và kháng nghị.
Luận văn này chỉ tập trung vào nghiên cứu chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp
trong giai đoạn khởi tố - điều tra các tội phạm về ma túy. Sau đây chúng tôi sẽ trình bày khái
niệm, đặc điểm của giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự và hoạt động kiểm sát khởi tố,
điều tra các tội phạm về ma túy.
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Khái niệm: Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng. Trong
giai đoạn này cơ quan có thẩm quyền bào gồm CQĐT, VKS, Tòa án và các cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra... được áp dụng một số biện pháp do
BLTTHS quy định để kiểm tra, xác minh làm rõ tính xác thực của các tin báo, tố giác về tội
phạm đã tiếp nhận. Việc kiểm tra, xác minh các tin báo, tố giác về tội phạm có thể được thực
hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau tùy thuộc vào tính chất của sự việc, các biện pháp đó
có thể là: Yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc công dân cung cấp tài liệu cần thiết
và thông tin liên quan đến tin báo, tố giác về tội phạm; yêu cầu cung cấp các kết luận thanh
tra, kiểm tra liên quan đến thông tin về tội phạm để làm rõ sự việc; khám nghiệm hiện trường

5


thu thập dấu vết phạm tội; áp dụng biện pháp tạm giữ; lấy lời khai của người bị tạm giữ; lấy
lời khai của người tố giác tội phạm v.v...
Khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự nên cũng có thời điểm bắt đầu
và thời điểm kết thúc. Thời điểm bắt đầu của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự được xác định
từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện hoặc tiếp nhận các thông tin tố giác, tin báo về
tội phạm và thời điểm kết thúc khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án
hình sự hoặc ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Khoảng thời gian của giai đoạn khởi
tố vụ án hình sự tùy thuộc vào tính phức tạp hay không phức tạp của các tin báo, tố giác về
tội phạm mà các cơ quan tiến hành tố tụng đã tiếp nhận, thụ lý. Theo quy định BLTTHS thì
thời gian tối thiểu của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là 20 ngày và tối đa không quá 2 tháng

kể từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng tiếp nhận được các tin báo, tố giác về tội phạm, đối
với những tin báo phức tạp có thể được VKSND gia hạn 1 lần không quá 2 tháng. (Điều 147
BLTTHS 2015).
Nhiệm vụ chính của giai đoạn này là xác định có hay không có dấu hiệu của tội phạm
để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Do vậy,
ở giai đoạn khởi tố vụ án hình sự các cơ quan tiến hành tố tụng chưa thể kết luận chính xác
ngay được về tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội. Để kết luận chính xác các nội
dung đó thì phải chuyển qua giai đoạn tiếp theo của quá trình tố tụng hình sự đó là giai đoạn
điều tra vụ án hình sự.
Như vậy, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự có thể hiểu: “Là giai đoạn đầu tiên của quá
trình tố tụng hình sự trong đó, các cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không có dấu
hiệu của tội phạm để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ
án hình sự nhằm làm cơ sở cho các hoạt động tố tụng tiếp theo của quá trình giải quyết vụ
án hình sự”.
Đặc điểm: Từ khái niệm trên, có thể đưa ra những đặc điểm chung, cơ bản của giai
đoạn khởi tố vụ án hình sự như sau:
Thứ nhất, giai đoạn khởi tố vụ án là giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên, có thời hạn
được xác định từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện hoặc tiếp nhận các tố giác, tin

6


báo về tội phạm và thời điểm kết thúc khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố
vụ án hình sự hoặc ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Thứ hai, nhiệm vụ quan trọng của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự xác định có hay
không có dấu hiệu của tội phạm để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định
không khởi tố vụ án hình sự.
Thứ ba, chủ thể có thẩm quyền tiến hành các hoạt động trong giai đoạn khởi tố, ngoài
các cơ quan tiến hành tố tụng (CQĐT, VKS, Tòa án) còn có những cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như cơ quan Kiểm Lâm, Hải quan,...Những cơ quan

này trên cơ sở kết quả kiểm tra, xác minh thông tin về tội phạm sẽ ra quyết định khởi tố vụ
án hình sự hoặc ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự và VKSND nhiệm vụ giải quyết
tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
Thứ tư, Nhằm tháo gỡ những bất cập trong thực tiễn, BLHS 2015 đã quy định việc tạm
đình chỉ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, đồng thời để đảm bảo
việc tạm đình chỉ đúng luật thì BLTTHS quy định trách nhiệm của VKS phải kiểm sát chặt
chẽ và hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ nếu không có đủ căn cứ.
Thứ năm, các biện pháp mà các cơ quan có thẩm quyền được sử dụng trong giai đoạn
khởi tố vụ án hình sự bao gồm: Biện pháp yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc
công dân cung cấp tài liệu cần thiết liên quan đến thông tin về tội phạm; khám nghiệm hiện
trường thu thập dấu vết phạm tội; áp dụng biện pháp tạm giữ; lấy lời khai của người bị tạm
giữ; lấy lời khai của người tố giác tội phạm v.v...
1.1.2 Khái niệm và đặc điểm giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Khái niệm: Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai của quá trình tố tụng
hình sự. Giai đoạn điều tra được xác định bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự
cho đến khi CQĐT chuyển toàn bộ hồ sơ tài liệu và kết luận điều tra sang VKS đề nghị truy
tố. Tuy nhiên, trong một số trường hợp khi có đủ các căn cứ do pháp luật quy định thì vụ án
bị đình chỉ điều tra và tất nhiên các hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều tra đối với vụ án
đó sẽ chấm dứt, nên trong trường hợp vụ án bị đình chỉ điều tra thì cũng được coi là thời
điểm chấm dứt giai đoạn điều tra vụ án.

7


Khoảng thời gian bắt đầu cho đến khi kết thúc của giai đoạn điều tra được Luật tố tụng
hình sự quy định khá cụ thể, theo đó thời hạn điều tra (kể cả các lần gia hạn điều tra) đối với
tội ít nghiêm trọng tối đa không quá 4 tháng, đối với tội nghiêm trọng không quá 8 tháng, đối
với tội rất nghiêm trọng không quá 12 tháng, đối với tội đặc biệt nghiêm trọng không quá 20
tháng kể từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Riêng đối
với tội xâm phạm an ninh quốc gia ngoài các thời hạn điều tra nêu trên thì Viện trưởng

VKSND tối cao có quyền gia hạn thêm khi thấy cần thiết, thời hạn gia hạn thêm không quy
định cụ thể mà tùy vào tính chất phức tạp của vụ án mà Viện trưởng VKSND tối cao ấn định
thời gian gia hạn.
Nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình
sự, bởi kết quả của hoạt động điều tra là để phục vụ cho việc xét xử của Tòa án, mọi quyết
định của Tòa án về sự việc phạm tội và người thực hiện tội phạm đều phải dựa trên cơ sở các
chứng cứ đã thu thập được ở giai đoạn điều tra. Cho nên nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là
cơ quan tiến hành tố tụng có quyền áp dụng mọi biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định
để chứng minh tội phạm và người thực hiện tội phạm, các tình tiết khác có liên quan đến vụ
án, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội để kiến nghị với các cấp các ngành thực
hiện biện pháp phòng ngừa tội phạm. Nhiệm vụ trên được thực hiện bởi các chủ thể là
CQĐT và các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra. Tất cả các hoạt
động tố tụng được thực hiện bởi chủ thể của giai đoạn điều tra đều phải tuân theo đúng các
quy định của Luật tố tụng hình sự góp phần giải quyết vụ án hình sự được nhanh chóng,
khách quan và đúng pháp luật.
BLTTHS 2015 đã có nhiều sửa đổi bổ sung về nhiệm vụ quyền hạn của VKS khi kiểm
sát hoạt động trong giai đoạn điều tra và bổ sung thêm 5 trường hợp VKS phải tham gia đó
là: đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói, khám xét, thực nghiệm điều tra (điều 189, 190,
191, 193, 201, 202, 204 BLTTHS 2015).
Như vậy, giai đoạn điều tra vụ án hình sự được hiểu là: Một giai đoạn của tố tụng hình
sự trong đó Cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao một số hoạt động điều tra được
sử dụng các biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để thu thập chứng cứ chứng minh tội
phạm, người phạm tội và những vấn đề khác có liên quan đến vụ án làm cơ sở cho việc xét
8


xử của Tòa án. Đồng thời thông qua hoạt động điều tra xác định nguyên nhân điều kiện
phạm tội đối với từng vụ án cụ thể và kiến nghị các biện pháp phòng ngừa với các cơ quan
và tổ chức hữu quan.
Đặc điểm: Từ khái niệm về giai đoạn điều tra vụ án hình sự nêu trên, có thể rút ra các

đặc điểm cơ bản và đặc trưng của giai đoạn này như sau:
Thứ nhất, giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai của quá trình tố tụng
hình sự có thời hạn xác định bắt đầu từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi
tố vụ án hình sự cho đến khi CQĐT chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án và kết luận điều tra sang
VKS đề nghị truy tố hoặc CQĐT ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án.
Thứ hai, nhiệm vụ của giai đoạn điều tra vụ án hình sự là các cơ quan có thẩm quyền
áp dụng mọi biện pháp do BLTTHS quy định để chứng minh tội phạm và người phạm tội.
Thứ ba, chủ thể thực hiện các hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều tra là CQĐT hoặc
các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra.
Thứ tư, biện pháp mà các chủ thể áp dụng trong giai đoạn điều tra là mọi biện pháp do
BLTTHS quy định, việc áp dụng các biện pháp đó tùy thuộc vào tính chất, mức độ của từng
vụ án và phải đảm bảo biện pháp được áp dụng thực hiện theo đúng quy định.
1.2. Kiểm sát hoạt động khởi tố, điều tra vụ án hình sự
1.2.1. Chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự
Từ khi ra đời, Nhà nước ta đứng trước những yêu cầu của quá trình xây dựng và củng
cố đất nước, trong đó việc tuân thủ pháp luật của của các cơ quan nhà nước và mọi công dân
là một trong những yêu cầu cấp bách cần thực hiện. Muốn đáp ứng được yêu cầu đó cần tổ
chức thành lập một cơ quan nhà nước có chức năng kiểm tra và giám sát các hoạt động áp
dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước và mọi công dân nhằm bảo đảm pháp luật được
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Lênin là người đầu tiên có quan điểm về tổ chức cơ quan kiểm tra, giám sát, quan
điểm đó được thể hiện trong tác phẩm bàn về "Song trùng, trực thuộc và pháp chế". Trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải thiết lập một nền pháp chế thống nhất, điều mà
Lênin gọi "pháp chế chỉ có một" với ba yêu cầu "phải có sự thống nhất về pháp chế trong
toàn nước cộng hòa"; "phải có luật duy nhất trong toàn nước cộng hòa" và "phải có sự áp
9


dụng thực hiện và tuân theo pháp luật một cách thống nhất". Lênin cho rằng, để bảo đảm sự
thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa cần phải

thiết lập một nền pháp chế thống nhất, trật tự kỷ cương phép nước phải nghiêm minh. Vậy,
muốn có pháp chế thống nhất không thể không thành lập cơ quan VKS.
Vận dụng tư tưởng của Lênin vào thực tiễn xây dựng, tổ chức bộ máy Nhà nước ta.
Đảng và Nhà nước đã nhận định rằng, để đảm bảo cho pháp luật do Nhà nước ban hành
được thực hiện một cách nghiêm minh và thống nhất thì việc tổ chức một cơ quan có chức
năng kiểm tra và giám sát hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước và công
dân là một đòi hỏi mang tính khách quan nên đã quyết định thành lập cơ quan VKS. Quan
điểm trên đã được thể chế hóa trong các bản Hiến pháp từ Hiến pháp năm 1959 đến Hiến
pháp 1992 (sửa đổi).Hiến pháp năm 2013 trong đó có sự điều chỉnh chức năng của cơ quan
VKS với quy định “Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp”. Luật tổ chức VKSND năm 2014 đã cụ thể hóa quy định
trên với nội dung quy định rõ Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chủ yếu hai chức năng đó là
thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp được coi là vấn đề căn bản xuyên suốt toàn
bộ hoạt động của hệ thống cơ quan VKS, đồng thời thể hiện bản chất trong hoạt động của
VKSND. Thuật ngữ "kiểm sát các hoạt động tư pháp" được xuất hiện trong các văn kiện của
Đảng như Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX, Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ
chính trị và đặc biệt được quy định tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013,Điều 4 Luật tổ chức
VKSND năm 2014.
“Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của VKSND để kiểm sát tính hợp pháp của
các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực
hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ
việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy
định của pháp luật”.

10



Hiện nay xung quanh khái niệm kiểm sát các hoạt động tư pháp đang còn có nhiều
quan điểm khác nhau, tựu chung lại có hai nhóm quan điểm sau:
Nhóm quan điểm thứ nhất cho rằng, “kiểm sát các hoạt động tư pháp bao gồm việc
kiểm sát hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử (cả các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân
và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính) và phần "tư pháp" trong thi hành án”.
Nhóm quan điểm thứ hai cho rằng:
Hoạt động tư pháp là một dạng hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước và cũng phải
chịu sự giám sát từ bên ngoài cũng như từ bên trong hệ thống tư pháp, chịu sự giám sát Nhà
nước và giám sát xã hội. Kiểm sát hoạt động tư pháp được hiểu là chức năng của Viện kiểm
sát nhân dân có phạm vi từ kiểm sát việc chấp hành pháp luật trong hoạt động điều tra, xét
xử các vụ án hình sự, giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế,
lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp và các
hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật.
Mỗi quan điểm trên đây đều có những lập luận đúng của mình về khái niệm "kiểm sát
các hoạt động tư pháp". Tuy nhiên, theo quan điểm chúng tôi trước hết cần phải khẳng định
kiểm sát các hoạt động tư pháp là chức năng hiến định của VKS. Kiểm sát các hoạt động tư
pháp là một dạng giám sát Nhà nước về tư pháp, đây là hoạt động mang tính quyền lực nhà
nước. Tuy nhiên, khác với hoạt động giám sát Nhà nước nói chung về tư pháp, kiểm sát các
hoạt động tư pháp là sự giám sát trực tiếp các hoạt động cụ thể của các cơ quan tư pháp trong
quá trình tố tụng với mục đích là nhằm đảm bảo cho pháp luật được áp dụng nghiêm chỉnh
và thống nhất trong quá trình giải quyết các vụ án và bản chất pháp lý của chức năng kiểm
sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự là kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp
trong hành vi của các chủ thể bị kiểm sát. Từ đó, theo chúng tôi có thể đưa ra định nghĩa về
khái niệm kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự như sau:
Kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự là chức năng hiến định của VKS,
có nội dung là giám sát trực tiếp các hoạt động của các cơ quan tư pháp trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự, nhằm bảo đảm cho pháp luật tố tụng hình sự được thực hiện một cách
nghiêm chỉnh, thống nhất.

11



Như vậy, khi đã hiểu được như thế nào là kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng
hình sự, thì vấn đề đặt ra cho chúng ta cần tiếp tục làm rõ đó là: Kiểm sát hoạt động trong
khởi tố, điều tra vụ án hình sự là gì? Đặc điểm của chúng?
Chức năng kiểm sát khởi tố, điều tra vụ án hình sự của VKS thực chất là kiểm sát việc
tuân theo pháp luật các hoạt động tư pháp của CQĐT và các cơ quan khác được giao tiến
hành một số hoạt động điều tra trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Hoạt động kiểm sát
khởi tố, điều tra với tính chất là một chức năng của VKS thì hoạt động đó có bản chất pháp
lý là kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp các hoạt động tố tụng hình sự được thực hiện
bởi CQĐT và các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra trong giai
đoạn khởi tố và điều tra các vụ án hình sự nhằm bảo đảm việc khởi tố, điều tra đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm đồng thời cũng không làm oan người vô tội.
Từ bản chất pháp lý đó chúng ta cũng cần xem xét đối tượng của hoạt động kiểm sát
khởi tố, điều tra các vụ án hình sự là gì? và phạm vi của nó?. Theo chúng tôi, đối tượng của
kiểm sát khởi tố, điều tra các vụ án hình sự chính là các hành vi xử sự của các cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong quá trình khởi tố, điều
tra vụ án hình sự. Khi tiến hành hoạt động kiểm sát, VKS phải dựa trên các căn cứ pháp lý là
Hiến pháp, Luật tổ chức VKS, BLHS, BLTTHS và các văn bản pháp luật khác có liên quan
để theo dõi, xem xét bảo đảm sự tuân theo pháp luật, cũng như bảo đảm tính có căn cứ và
hợp pháp của các hành vi tố tụng hình sự mà chủ thể bị kiểm sát thực hiện.
Từ những nội dung nêu trên, có thể đưa ra định nghĩa về chức năng kiểm sát các hoạt
động trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự như sau:
Kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự là chức
năng hiến định của VKS, có nội dung là giám sát trực tiếp mọi hoạt động tố tụng của cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình khởi tố - điều tra vụ án hình
sự, nhằm bảo đảm cho pháp luật tố tụng hình sự được thực hiện một cách nghiêm chỉnh,
thống nhất.
Xuất phát từ khái niệm đã nêu ở trên và trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp
luật liên quan đến hoạt động kiểm sát tư pháp trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự,

cho phép rút ra một số đặc điểm chung của nó như sau:
12


Thứ nhất, kiểm sát các hoạt động khởi tố - điều tra vụ án hình sự là chức năng hiến
định của VKS, có phạm vi xác định thời điểm bắt đầu từ khi có dấu hiệu của tội phạm xảy ra
và thời điểm kết thúc khi cơ quan tiến hành tố tụng kết thúc điều tra vụ án, chuyển hồ sơ vụ
án cùng bản kết luận điều tra cho VKS đề nghị truy tố hoặc vụ án được đình chỉ điều tra.
Thứ hai, nội dung của chức năng này chính là việc giám sát trực tiếp mọi hoạt động tố
tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình khởi tố - điều tra
các vụ án hình sự.
Thứ ba, kiểm sát các hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự là nhằm
mục đích bảo đảm cho pháp luật tố tụng hình sự được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và
thống nhất.
1.2.2. Mối quan hệ giữa kiểm sát các hoạt động tư pháp với thực hành quyền công
tố trong tố tụng hình sự
Để quán triệt sâu sắc các quan điểm của Đảng đã được nêu rõ trong Nghị quyết đại hội
Đảng lần thứ IX, Nghị quyết 08 ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về "một số nhiệm vụ trọng
tâm của ngành tư pháp trong thời gian tới" và đặc biệt trên cơ sở nội dung Hiến pháp năm
2013 và nội dung của Luật tổ chức VKSND năm 2014, thì vấn đề phân biệt giữa hoạt động
thực hành quyền công tố với kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự cũng như
mối quan hệ giữa chúng với nhau cần phải được làm rõ nhằm tạo cơ sở cho việc áp dụng vào
hoạt động thực tiễn các quy định của BLTTHS 2015 và Luật tổ chức VKSND năm 2014.
Trước khi đi vào phân tích mối quan hệ giữa hoạt động thực hành quyền và hoạt động
kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS trong tố tụng hình sự, chúng ta cần thống nhất về
mặt nhận thức các vấn đề: Quyền công tố và Thực hành quyền công tố?
Quyền công tố: là một khái niệm pháp lý, gắn liền với bản chất Nhà nước và pháp luật.
Trước hết quyền công tố là một loại quyền lực nhà nước, nó ra đời và tồn tại cùng với sự ra
đời và tồn tại của Nhà nước, do đó quyền công tố luôn luôn gắn liền với bản chất Nhà nước.
Quyền công tố là việc Nhà nước sử dụng quyền lực nhà nướctruy cứu trách nhiệm hình sự

đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, quyền công tố có nội dung là sự buộc tội
đối với người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm và giao quyền
công tố cho cơ quan VKSND, với nội dung đó có thể khẳng định quyền công tố chỉ được thực
13


hiện trong lĩnh vực hình sự, đối tượng của quyền công tố chỉ là tội phạm và người phạm tội.
phạm vi quyền công tố bắt đầu từ khi tội phạm được thực hiện và kết thúc khi bản án có hiệu
lực pháp luật, quyền này phải phát sinh từ khi tội phạm xảy ra và nó trừng phạt người phạm tội
một cách công khai bằng con đường đưa vụ án ra Tòa án xét xử, do đó khi bản án kết tội đã có
hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo, kháng nghị thì quyền công tố cũng kết thúc.
Từ nội dung trên có thể hiểu quyền công tố là:“Quyền nhân danh Nhà nước thực hiện
việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trên cơ sở phát hiện tội phạm, bảo
đảm thu thập đầy đủ chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội từ đó quyết định việc
truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ việc buộc tội đó trước Tòa án”.
Thực hành quyền công tố: Điều 107 Hiến pháp năm 2013 đã quy định như sau: “Viện
kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp”.Điều 3 Luật Tổ
chức VKDND năm 2014 quy định: “Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm
sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người
phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi
tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.
Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm:
a) Mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô
tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội;
b) Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con
người, quyền công dân trái luật”.
Nội dung thực hành quyền công tố:Nội dung THQCT là việc VKS sử dụng tất cả
những quyền năng tố tụng nhằm bảo đảm phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh mọi hành vi
phạm tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Theo đó nội

dung THQCT bao gồm:
Thứ nhất, những hoạt động phát động THQCT như khởi tố vụ án, khởi tố bị can.
Thứ hai, hoạt động THQCT tiếp tục được thực hiện bởi VKS trong giai đoạn điều tra,
như yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố; Đề ra yêu cầu điều tra và yêu
cầu CQĐT tiến hành điều tra; khi cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra; yêu
14


cầu Thủ trưởng CQĐT thay đổi Điều tra viên; Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện
pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác; Phê chuẩn, không phê chuẩn
các quyết định của CQĐT; Hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của
CQĐT; Quyết định việc truy tố bị can hoặc đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Thứ ba, những hoạt động THQCT của VKS trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự như
đọc cáo trạng, quyết định của VKS liên quan đến việc giải quyết vụ án tại phiên tòa;
Như vậy quyền công tố và THQCT là hai khái niệm khác nhau. Quyền công tố là
quyền của Nhà nước, nhân danh quyền lực công thực hiện việc truy cứu TNHS đối với
người phạm tội. Nói đến quyền công tố là nói đến phạm trù lý luận. Ngược lại THQCT là
một phạm trù thực tiễn, là việc tổ chức thực hiện quyền công tố.
Từ những nội dung nêu trên chúng ta đi vào phân tích mối quan hệ giữa kiểm sát các
hoạt động tư pháp với thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự.
Theo Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức VKS năm 2014, VKS có hai chức năng là
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Đây là hai chức năng độc lập,
nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong thực tiễn hoạt động thực hiện chức năng
của ngành kiểm sát trong lĩnh vực tư pháp hình sự, VKS các cấp luôn quán triệt đường lối
công tác kiểm sát là đấu tranh chống tội phạm gắn liền với đấu tranh chống vi phạm pháp
luật trong hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, nhằm bảo đảm mọi hành vi
phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật; không
để lọt tội phạm đồng thời cũng không được làm oan người vô tội, do vậy giữa hai hoạt động
này luôn có mối quan hệ với nhau. Mối quan hệ đó được thể hiện ở các phương diện sau:
Theo điều 12 Luật tổ chức VKSND năm 2014, VKSND thực hành quyền công tố từ

giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, tức là quyền công tố được phát động đã làm
phát sinh hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giải quyết tố giác, tin báo tội
phạm, hoạt động này được VKS thực hiện thông qua hoạt động phê chuẩn, không phê chuẩn,
hủy bỏ quyết định trái pháp luật, yêu cầu kiểm tra, xác minh... xét thấy việc giải quyết tố
giác, tin báo tội phạm của CQĐT không có căn cứ, thì VKS yêu cầu cơ quan có thẩm quyền
thực hiện đúng các quy định tronggiải quyết tố giác, tin báo tội phạm, đồng thời ra quyết
định hủy bỏ quyết định tố tụng trái pháp luật. Do vậy, làm tốt chức năng kiểm sát việc giải
15


quyết tố giác, tin báo tội phạm sự sẽ là cơ sở cho việc ra quyết định của VKS được chính xác
và đúng pháp luật nhằm bảo đảm về mặt pháp lý và nhằm chống bỏ lọt tội phạm, chống làm
oan người vô tội. Ngược lại nếu thực hiện kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm
không tốt sẽ mất đi tính hiệu quả trong việc thực hành quyền công tố, thậm chí quyết định
pháp lý của VKS là vi phạm pháp luật.
Khi VKS quyết định phê chuẩn hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, các quyết định
tố tụng khác của CQĐT, tức là VKS trực tiếp sử dụng quyền công tố. Nhưng hoạt động thực
hành quyền công tố của VKS cũng phải tuân theo quy định của pháp luật, muốn vậy trước
khi quyết định các vấn đề trên, VKS phải tiến hành kiểm sát các hoạt động tư pháp trong
việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn hoặc trong việc khởi tố bị can của
CQĐT, tức là VKS tiến hành thực hiện kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Để thực hiện tốt quyền công tố, có nghĩa là đảm bảo việc phê chuẩn hoặc không phê
chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn; phê chuẩn hoặc không phê
chuẩn các quyết định tố tụng khác của CQĐT được chính xác, đúng pháp luật thì đòi hỏi
phải kiểm tra chặt chẽ tính có căn cứ và tính hợp pháp của các biện pháp cưỡng chế tố tụng
hình sự mà CQĐT quyết định áp dụng, mà hoạt động kiểm tra này chính là thực hiện chức
năng kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Với việc thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp sẽ làm tiền đề cho hoạt
động thực hành quyền công tố được thực hiện một cách chính xác, nếu có sai sót, vi phạm
trong việc thực hiện kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra sẽ kéo theo sự vi

phạm pháp luật của hoạt động thực hành quyền công tố. Tuy nhiên, trong giai đoạn điều tra
khi chức năng thực hành quyền công tố của VKS được thực hiện cũng sẽ làm tiền đề phát
sinh hoạt động kiểm sát.
Như vậy, giữa kiểm sát các hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố trong lĩnh
vực tư pháp hình sự luôn có mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó hữu cơ và biện chứng với nhau,
nhiệm vụ của hoạt động này làm tiền đề cho nhiệm vụ của hoạt động kia và ngược lại; kết
quả của hoạt động này là cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động kia và ngược lại. Mối quan
hệ biện chứng giữa hai hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp

16


chỉ song song tồn tại trong phạm vi bắt đầu từ khi tội phạm được phát hiện, khởi tố điều tra
cho đến khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị.
1.2.3. Chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong khởi tố, điều tra vụ án hình
sự ở nước ta.
Tiền thân của cơ quan VKS là cơ quan Công tố viện được thành lập theo Sắc lệnh số
33/SL ngày 13/9/1945, vào giai đoạn đó Công tố viện là một bộ phận trong hệ thống cơ quan
Tòa án, sau Nhà nước ta đã ban hành các Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946; Sắc lệnh số 51
ngày 17/4/1946; Sắc lệnh số 51 ngày 20/7/1946 và Sắc lệnh số 19 ngày 16/2/1947... quy định
thành lập hệ thống Tòa án nhân dân (tòa án thường), trong đó Công tố viện là một tổ chức
bên cạnh Tòa án và trực thuộc Bộ tư pháp quản lý.
Đến năm 1958 thực hiện Nghị quyết của Quốc hội thông qua ngày 29/4/1958, thực
hiện việc cải cách tổ chức bộ máy cơ quan nhà nước nên Quốc hội đã quyết định thành lập
cơ quan Viện công tố trung ương và hệ thống viện công tố.
Năm 1980, Nhà nước ta đã ban hành Hiến pháp trong đó quy định chức năng của VKS
như sau: Viện kiểm sát nhân dân tối cao nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kiểm sát
việc tuân theo pháp luật của các bộ, các cơ quan khác thuộc Hội đồng bộ trưởng, các cơ quan
chính quyền địa phương, tổ chức xã hội và các đơn vị vũ trang nhân dân, các nhân viên nhà
nước và công dân, thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm

chỉnh và thống nhất.
Ngày 28/6/1988, tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa VIII đã thông qua BLTTHS đầu tiên
của nước ta đánh dấu bước phát triển mới trong hoạt động lập pháp của Quốc hội. BLTTHS
đã quy định chặt chẽ trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự;
chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng và người tham gia tố tụng, bên cạnh đó có quy định về hoạt động kiểm sát khởi tố, điều
tra của VKS với mục đích là nhằm xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để
lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Điều 23 BLTTHS quy định: “Viện kiểm sát có
nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng hình sự, thực hiện quyền công tố bảo đảm
cho pháp luậtđược chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Trong các giai đoạn của tố tụng
hình sự, VKS có trách nhiệm áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ
17


việc vi phạm pháp luật của bất kỳ cá nhân hoặc tổ chức nào”. Với quy định đó VKS thực
hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với toàn bộ hoạt động tố tụng của CQĐT trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Năm 2001, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa X đã tiến hành sửa đổi Hiến pháp năm
1992, lần sửa đổi này đã điều chỉnh chức năng của VKS với quy định: “VKSND thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp
luật”, như vậy Hiến pháp năm 1992 đã quy định rõ kiểm sát hoạt động tư pháp là một trong
hai chức năng chính của VKS, điều đó thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước tiếp tục
khẳng định chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung và trong khởi tố, điều tra vụ án
hình sự nói riêng là chức năng quan trọng và chỉ giao cho cơ quan VKS thực hiện.
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức VKSND 2014 và
BLTTHS năm 2015 thể hiện những tư tưởng mới về cải cách tư pháp hình sự, trong đó quy
định: “... Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự có trách
nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, áp dụng
những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ
quan hoặc cá nhân này”. VKS thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật

trong tố tụng hình sự nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời; việc
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để
lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Ngoài ra còn có những quy
định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát việc khởi tố.
Như vậy, trong suốt quá trình hình thành và phát triển hệ thống cơ quan VKS thì chức
năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự ngày càng được
khẳng định vị trí, vai trò quan trọng trong công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm,
nhằm mục đích là sự tuân thủ nghiêm minh và thống nhất các quy định pháp luật tố tụng
hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng
trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự.
1.3. Mối quan hệ giữa cơ quan điểu tra và viện kiểm sát trong khởi tố, điều tra vụ
án hình sự
1.3.1. Khái niệm
18


CQĐT và VKS theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự là các cơ quan tiến hành tố
tụng, có trách nhiệm thay mặt Nhà nước chứng minh tội phạm và người phạm tội khi phát
hiện có tội phạm xảy ra trong thực tế đời sống xã hội.
Quá trình giải quyết vụ án hình sự là một quá trình tố tụng bao gồm nhiều giai đoạn kế
tiếp nhau từ khởi tố - điều tra đến truy tố, xét xử và thi hành án. Mỗi giai đoạn tố tụng là các
bước giải quyết tương ứng và gắn liền với chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn nhất định của
mỗi cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. CQĐT và VKS mặc dù là hai cơ quan độc lập trong
phạm vi chức năng và nhiệm vụ của mình. Nhưng với yêu cầu đặt ra là một mặt phải cương
quyết xử lý nghiêm minh tội phạm và người phạm tội, một mặt là phải đảm bảo tính khách
quan, toàn diện và đúng pháp luật trong việc thực hiện các hoạt động tố tụng thì trong quá
trình khởi tố - điều tra các vụ án hình sự đã làm phát sinh mối quan hệ tố tụng hình sự giữa
CQĐT và VKS.
Từ đó có thể hiểu: Mối quan hệ giữa CQĐT và VKS trong khởi tố - điều tra vụ án hình
sự là mối quan hệ tố tụng hình sự được phát sinh trong quá trình phát hiện tội phạm, khởi tố điều tra vụ án hình sự.

Cơ sở pháp lý của mối quan hệ giữa CQĐT và VKS trong khởi tố - điều tra vụ án hình
sự là các quy định của BLTTHS và các văn bản về pháp luật tố tụng hình sự có liên quan.
1.3.2. Nội dung mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong khởi tố,
điều tra vụ án hình sự
Trên cơ sở các quy định của BLTTHS và các văn bản có liên quan thì mối quan hệ
giữa CQĐT và VKS trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự được thể hiện dưới hai hình thức:
Phối hợp và chế ước. Do giới hạn của đề tài này chúng tôi không phân tích nội dung mối
quan hệ phối hợp, mà chỉ phân tích nội dung chế ước trong mối quan hệ giữa cơ quan VKS
với CQĐT để làm rõ chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra của VKS.
BLTTHS đã quy định: Viện kiểm sát có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng hình sự, thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất. Trong các giai đoạn tố tụng hình sự, Viện kiểm sát có trách
nhiệm áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật
của bất kỳ cá nhân nào hoặc tổ chức nào. Như vậy, thực hiện chức năng kiểm sát khởi
19


tố,điều tra vụ án hình sự qua đó nếu phát hiện được những vi phạm của CQĐT thì VKS có
quyền áp dụng mọi biện pháp mà BLTTHS quy định để loại trừ vi phạm, chính quy định đó
của pháp luật đã thể hiện tính chế ước của VKS đối với CQĐT trong hoạt động tố tụng.
Theo từ điển tiếng Việt thì: "Chế" là phép định ra, làm ra, đặt ra; còn "ước" là bó buộc.
Việc dùng khái niệm "chế ước" vì theo như pháp luật tố tụng hình sự nước ta, VKS có các
quyền năng pháp lý như: Giám sát, yêu cầu, hủy bỏ. Mà bản chất pháp lý của các quyền
năng này là sự chế ước đối với hoạt động tố tụng của CQĐT - với tính chất là đối tượng của
hoạt động kiểm sát.
Trong suốt quá trình tố tụng từ khi tội phạm được phát hiện hay có dấu hiệu tội phạm
đến khi khởi tố và tiến hành các hoạt động điều tra thu thập chứng cứ để chứng minh tội
phạm và người phạm tội thì VKS đều tham gia với tư cách là cơ quan giám sát thông qua hai
hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp (nghiên cứu hồ sơ). Việc thực hiện các quyền năng của
VKS trong quá trình giải quyết vụ án hình sự như yêu cầu điều tra, phê chuẩn các quyết định

tố tụng hay hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của CQĐT... được gọi là thực hiện chức
năng thực hành quyền công tố của VKS với mục đích nhằm bảo đảm cho hoạt động điều tra
được khách quan, toàn diện và đúng pháp luật, đồng thời ngăn ngừa mọi hoạt động xâm
phạm đến quyền nhân thân của công dân.
Thực tiễn trong công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm đặt ra yêu cầu đối
với CQĐT là không những phải xử lý nghiêm minh tội phạm và người phạm tội, mà còn đòi
hỏi phải tuân thủ các quy định của pháp luật trong hoạt động tố tụng của mình. Tuy nhiên, để
có sự đảm bảo yêu cầu nói trên thì việc chế ước của VKS đối với hoạt động tố tụng của
CQĐT hoàn toàn là tất yếu. Song VKS thực hiện quyền chế ước cũng trong phạm vi luật
định chứ không phải VKS tự đặt ra và yêu cầu CQĐT thực hiện. Sự chế ước được biểu hiện
ở các mức độ khác nhau tùy thuộc vào tính chất của từng chế định, trong BLTTHS quyền
chế ước của VKS được quy định rất rộng và chặt chẽ từ việc phê chuẩn quyết định khởi tố bị
can cho đến việc phê chuẩn, hủy bỏ việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, điều này thể hiện
rõ nét bản chất của Nhà nước ta là tôn trọng và bảo vệ quyền công dân đã được Hiến pháp
ghi nhận. Nếu VKS thực hiện tốt các quyền năng chế ước thì sẽ góp phần vào kết quả giải
quyết các vụ án hình sự đạt hiệu quả cao, nâng cao chất lượng công tác điều tra, tránh các sai
20


×