Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Triết học của hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.27 KB, 27 trang )

1

A. PHẦN MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói rõ: “Tất cả mọi người đều có quyền nghiên
cứu một chủ nghĩa. Riêng tôi, tôi đã nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác” (1) và Người
còn nói: “chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện
chứng”. Là học trò của C.Mác, Ph. Ăng ghen, V.I.Lênin nên thế giới quan, tư duy
triết học của Người là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Người đã bảo vệ và phát triển tư duy triết học trên nền tảng triết học Mác - Lênin.
Khác với các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -Lênin, Hồ Chí Minh không để lại
một tác phẩm triết học nào như: Hệ tư tưởng Đức, Luận cương Phoiơbắc, Biện
chứng của tự nhiên, Bút ký triết học... Bởi vì, Hồ Chí Minh sống và hoạt động
cách mạng trong thời đại đã có chủ nghĩa Mác - Lênin soi sáng, dẫn đường và
nhiệm vụ của Người là cứu nước, cứu dân, giải phóng dân tộc khỏi áp bức, bóc
lột, bất công đem lại hoà bình, tự do, hạnh phúc cho đồng bào. Chính nhiệm vụ
này đã cuốn hút Người với tất cả tinh thần và sức lực, làm cho Người sống gần
gũi với nhân dân, đem tinh tuý, sâu sắc của triết học diễn đạt thành những điều
giản dị, cụ thể, rõ ràng và thiết thực để nhân dân dễ hiểu, dễ làm. Rõ ràng, phải có
một trình độ triết học sâu sắc, uyên bác, Hồ Chí Minh mới có thể chuyển hoá
thành triết học của cuộc sống. Nhờ đó, người trang bị cho cán bộ, đảng viên thế
giới quan duy vật biện chứng, giúp họ nhìn nhận, xem xét, đánh giá đúng tình
hình, đề ra đường lối, chủ trương, chính sách sát thực tế, có hiệu quả, đồng thời
không rơi vào dao động, không mắc phải sai lầm ảo tưởng, chủ quan, duy ý chí
cũng như giáo điều, xét lại. Mặc dù khi viết, khi nói Người ít dùng các thuật ngữ
triết học, nhưng nghiên cứu di sản lý luận và cuộc đời hoạt động cách mạng của
Hồ Chí Minh, chúng ta thấy ở Người toát lên những tư tưởng triết học sâu sắc.
Nổi bật lên trong tư tưởng triết học của Hồ Chí minh đó là phương pháp luận biện
chứng, đó là kết quả của sự vận dụng sáng tạo, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tinh
hoa triết học biện chứng phương Đông và phương Tây để đưa ra phương pháp
luận biện chứng khoa học, cách mạng góp phần tích cực trong phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc, giai cấp của nước ta. Giá trị phương pháp luận biện


chứng trong tư tưởng triết học của Hồ Chí Minh đã được thực tiễn cách mạng
Việt Nam kiểm nghiệm, có vai trò vô cùng to lớn trong phong trào đấu tranh bảo
vệ chủ quyền quốc gia, dân tộc. Chính vì lý do trên tôi chọn đề tài: “Phương
pháp luận biện chứng trong tư tưởng triết học của Hồ Chí Minh với việc vận
dụng giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền biên giới, biển đảo ở nước ta hiện
nay” làm bài tiểu luận.

(1)

(1)

[Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB CTQG, HN, 2011, t.4, tr.315]


2

B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: PHƯƠNG PHÁP LUẬN BIỆN CHỨNG TRONG
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA HỒ CHÍ MINH
Hồ Chí Minh không có tác phẩm riêng bàn về phương pháp. Nhưng trong
thực tế lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng Việt Nam, Người đã vận dụng sáng tạo và
nhuần nhuyễn các nguyên lý của phép biện chứng duy vật Macxít kết hợp với các
yếu tố biện chứng của triết học phương Đông qua đó tạo nên một hệ thống
phương pháp riêng của mình, rất Macxít mà cũng rất Hồ Chí Minh, không trộn
lẫn được. Vì vậy, có thể nói, có phương pháp biện chứng của Hồ Chí Minh vẫn là
phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin nhưng đã được vận dụng và
chuyển hoá vào thực tiễn cách mạng Việt Nam để xử lý thành công những vấn đề
do thực tiễn cách mạng Việt Nam đặt ra, nó in đậm màu sắc Việt Nam - Hồ Chí
Minh và bằng cái riêng đã làm phong phú thêm cái chung.
1.1. Biện chứng trong xử lý mối quan hệ giữa thực tiễn và lý luận, giữa cái

riêng và cái chung.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, đó là quan điểm cốt lõi nhất của nhận
thức luận Macxít và cũng là nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật. Theo
quan điểm của C.Mác: “Ở mỗi dân tộc, lý luận bao giờ cũng chỉ được thực hiện
theo mức độ mà nó là sự thực hiện những nhu cầu của dân tộc ấy”. Nói cách
khác, lý luận chỉ được coi là đúng đắn khi nó đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của
mỗi dân tộc.
Hồ Chí Minh cũng quan niệm: “Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong
kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét so sánh thật kỹ lượng, rõ ràng,
làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân
chính”(2)
Theo quan niệm đó, Hồ Chí Minh luôn luôn lấy thực tiễn, lấy sự kiện của
đời sống dân tộc và thời đại làm định hướng cho tư duy và hành động, lấy mục
tiêu độc lập và phát triển của dân tộc làm căn cứ để xem xét lý luận, để lựa chọn
con đường và bước đi cho cách mạng Việt Nam, nhờ đó mà tránh được giáo điều,
rập khuôn (do chỉ biết lặp lại cái chung), đồng thời cũng tránh để không rơi vào
cơ hội, xét lại (do quá nhấn mạnh cái riêng, cái đặc thù).
Đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy con đường giải phóng dân tộc theo
con đường cách mạng vô sản, nhưng Hồ Chí Minh biết rút ra từ học thuyết cách
mạng và khoa học rộng lớn này những vấn đề cần thiết cho giai đoạn trước mắt
của cách mạng Việt Nam, đề ra đường lối đúng đắn cho cách mạng Việt Nam: từ
(2)(2) [Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB CTQG, HN, 2011, t.5, tr. 273].


3

giải phóng dân tộc đến giải phóng giai cấp và giải phóng con người, tức là từ độc
lập dân tộc tiến lên Chủ nghĩa xã hội.
Tiếp theo, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhờ đứng
vững trên quan điểm thực tiễn và đường lối độc lập tự chủ, một mặt, chúng ta vẫn

tranh thủ viện trợ kinh tế và quân sự của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, mặt
khác, chúng ta lại đánh theo đường lối và cách đánh Việt Nam, phù hợp với chiến
trường Việt Nam, vì vậy ta đã giành được thắng lợi vẻ vang: giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên Chủ nghĩa xã hội.
Khi miền Bắc từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, tiền tư bản bước vào
thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đặt vấn đề: “Chúng ta phải
đùng những phương pháp gì, hình thức gì, đi theo tốc độ nào để tiến lên Chủ
nghĩa xã hội”và Người nhắc nhở: “Tuy chúng ta đã có những kinh nghiệm dồi
đào của các nước anh em, nhưng chúng ta cũng không thể áp dụng những kinh
nghiệm ấy một cách máy móc, bởi vì nước ta có những đặc điểm riêng của ta”(3)
Đó là biện chứng Hồ Chí Minh trong xử lý mối quan hệ giữa thực tiễn và lý
luận, giữa cái riêng và cái chung.
1.2. Biện chứng trong xử lý mối quan hệ giữa mâu thuẫn và thống nhất của
các mặt đối lập.
Theo quan điểm Macxít, quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập là quy luật cơ bản nhất của phép biện chứng duy vật, bởi mâu thuẫn là hiện
tượng phổ biến của mọi sự vật, hiện tượng và đấu tranh để đi tới chuyển hoá giữa
các mặt đối lập của mâu thuẫn là nguồn gốc của vận động và phát triển.
Hồ Chí Minh cũng thừa nhận tính phổ biến của mâu thuẫn. Người viết:
“Biện chứng nói:Cái gì cũng có mâu thuẫn, vì cái gì cũng có biến âm, dương, có
sinh có tử, có quá khứ, có tương lai, có cũ, có mới. Đó là những mâu thuẫn sẵn có
trong mọi sự vật”.(4)
Mâu thuẫn có nhiều loại với bản chất khác nhau: có mâu thuẫn bên trong và
bên ngoài, cơ bản và không cơ bản, chủ yếu và thứ yếu, đối kháng và không đối
kháng. Vì vậy, phân tích mâu thuẫn là điều kiện để nhận thức đúng sự vật. Hồ Chí
Minh chính là một bậc thầy trong nhận thức, phát hiện và xử lý mâu thuẫn.
Trong đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp có nhận thức, phát hiện đúng
mâu thuẫn mới xác định rõ kẻ thù và bạn đồng minh, mới đề ra được chiến lược,
sách lược, bước đi đúng đắn cho mỗi giai đoạn của cách mạng.
(3)(3) [Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB CTQG, HN, 2011, t.11, tr.97].

(4)(4) [Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB CTQG, HN, 2011, t.6, tr.528].


4

Vận dụng phép biện chứng duy vật vào phân tích xã hội thuộc địa, nửa
phong kiến Việt Nam đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra hai mâu thuẫn
cơ bản: một là, mâu thuẫn vốn có của xã hội phong kiến là mâu thuẫn giữa nông
dân và địa chủ phong kiến và hai là, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam
với bọn thực dân xâm lược Pháp, từ đó Hồ Chí Minh xác định nhân dân Việt Nam
có hai kẻ thù chính là đế quốc và phong kiên tay sai, cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở Việt Nam có hai nhiệm vụ cơ bản là chống đế quốc giành lại độc lập
cho dân tộc và chống phong kiên đem lại ruộng đất cho dân cày.
Tuy xác định xã hội thực dân nửa phong kiến Việt Nam có hai mâu thuẫn cơ
bản, nhưng trong việc xử lý mâu thuẫn, Hồ Chí Minh không coi hai mâu thuẫn đó
ngang nhau, phải tiến hành song song, đồng thời. Theo Hồ Chí Minh, trong xã
hội thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn nổi lên gay gắt nhất, trở thành mâu
thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc và bọn
tay sai, có giải quyết được vấn đề dân tộc mới giải quyết được vấn đề dân chủ. Vì
vậy, ngay trong Chính cương vắn tắt (1930), Hồ Chí Minh cũng chỉ nêu chủ
trương “thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày
nghèo”(5) mà chưa nêu khẩu hiệu “người cày có ruộng”. Hội nghị Trung ương 8
(tháng 5/1941) dưới sự chủ trì của Hồ Chí Minh, cũng chủ trương tạm gác khẩu
hiệu ruộng đất, chỉ tịch thu ruộng đất của đế quốc, Việt gian, đề thêm khẩu hiệu
“giảm tô, giảm tức”, chia lại ruộng công.
Làm như vậy, theo Hội nghị phân tích, nếu không đánh đuổi được Pháp Nhật, nếu dân tộc còn phải chịu mãi kiếp ngựa trâu thì vấn đề ruộng đất cũng
không sao giải quyết được. Cuộc Cách mạng tháng 8 năm 1945 đã lôi cuốn hàng
chục triệu nông dân, dù chưa được chia lại ruộng đất của địa chủ vẫn hăng hái
tiến bước cùng giai cấp công nhân làm nên cuộc cách mạng long trời lở đất, giành
lại nền độc lập cho dân tộc. Thắng lợi đó là sự thể hiện phép biện chứng của Hồ

Chí Minh trong xử lý mối quan hệ giữa mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu
trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam.
Hồ Chí Minh cũng là bậc thầy về xử lý mâu thuẫn địch - ta, nêu tấm gương
về nghệ thuật vận dụng mâu thuẫn, khai thác mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù.
Theo quyết định của Đồng minh tại Hội nghị Pốtxđam (tháng 7/1945), gần 20 vạn
quân Tưởng đổ vào Bắc Đông Dương (từ vĩ tuyến 16 trở ra) và hàng vạn quân
Anh - Ấn Độ đổ vào Nam Đông Dương với danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật.
Núp dưới bóng quân đội Anh, thực dân Pháp cũng đem quân trở lại nước ta. Nếu
kể cả quân đội Nhật tuy đã đầu hàng nhưng chưa bị tước vũ khí, thì vào lúc đó, có
gần nửa triệu quân nước ngoài đóng trên đất nước ta. Cùng một lúc phải đối phó
với nhiều kẻ thù, tình thế cách mạng Việt Nam như đang “nghìn cân treo sợi tóc”.
(5)(5) [Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB CTQG, HN, 2011, t3, tr.2]


5

Để bảo vệ thành quả cách mạng, Hồ Chí Minh chủ trương phải phân hoá kẻ thù,
bằng cách khai thác mâu thuẫn trong hàng ngũ của chúng.
Quân đội Tưởng vào miền Bắc có ba thế lực: cánh Lư Hán thuộc Đệ nhất
chiến khu Vân Nam, cánh Tiêu Văn thuộc Đệ tứ chiến khu Quảng Tây, cánh Chu
Phúc Thành thuộc quân khu Trung ương Trùng Khánh. Chúng giống nhau về mục
tiêu “diệt cộng, cầm Hồ” để dựng lên chính phủ tay sai, phục vụ cho mưu đồ lâu
dài của chúng, nhưng mâu thuẫn với nhau về lợi ích cá nhân. Biết Lư Hán vốn có
tư thù sâu sắc với Tưởng Giới Thạch và cả với Pháp (vì đã bị Pháp tịch thu mấy
chuyến hàng lớn trên tuyến đường sắt Hải Phòng - Côn Minh), Hồ Chí Minh đã
chủ động tới thăm chúng nhằm tranh thủ Lư Hán, đồng thời, nhượng bộ cho vợ
chồng Tiêu Văn một số đặc quyền kinh tế để cô lập cánh Chu Phúc Thành… Nhờ
đó, chúng ta buộc họ phải thay đổi thái độ đối với Chính phủ Hồ Chí Minh, đã sử
dụng được lực lượng quân đội Tưởng làm bình phong, ngăn chặn quân đội Pháp
đang lăm le ra miền Bắc.

Trong hàng ngũ tướng lĩnh quân đội Pháp cũng chia thành hai phe: cánh
diều hâu chủ chiến, đứng đầu là Cao ủy Đông Dương Đácgiăngliơ (D’argenlieu),
cánh tương đối hiểu biết, muốn hoà hoãn, tiêu biểu là đại tướng Lơcléc (Leclerc),
tổng chỉ huy quân đội viễn chinh. Hồ Chí Minh đã viết thư gửi Lơcléc: “Ngài là
một đại quân nhân và là một nhà ái quốc. Ngài đã chiến thắng và chiến thắng anh
dũng kẻ xâm lăng nước ngài… Lừng danh với những chiến công, ngài lại đi đánh
một dân tộc chỉ muốn độc lập, thống nhất quốc gia và một nước chỉ muốn hợp tác
như anh em với nước ngài sao?”.(6) Lòng tự trọng bị tổn thương, ít lâu sau Lơcléc
từ chức Tổng chỉ huy, xin chuyển về Pháp, mở đầu cho sự liên tục thay đổi Tổng
chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương.
Đánh giá sách lược của Hồ Chí Minh trong giai đoạn này, đồng chí Lê Duẩn
đã viết: “Những biện pháp cực kỳ sáng suốt đã ghi vào lịch sử cách mạng nước ta
như một mẫu mực tuyệt vời của sách lược Lêninnít về lợi dụng mâu thuẫn trong
hàng ngũ kẻ địch và về sự nhân nhượng có nguyên tắc”.
Nhắc lại những năm tháng đó, đồng chí Phạm Văn Đồng cũng viết: “Nếu
bấy giờ không có Hồ Chí Minh thì khó lường hết cái gì có thể xảy ra”.
Đối với mâu thuẫn địch - ta, chỉ có một cách xử lý duy nhất là “Hễ còn một
tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta phải kiên quyết đánh đuổi nó đi”. Còn với
mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, xuất phát từ quan điểm “Hễ là người Việt Nam
thì ai cũng có lòng yêu nước, ghét giặc”, Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết mọi
lực lượng “miễn là không phản lại quyền lợi dân chúng, không là Việt gian, thân
(6)(6) [Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB CTQG, HN, 2011, t.5, tr.5].


6

Pháp, thân Nhật, có lòng trung thành với Tổ quốc”, “Không được phép bỏ một
lực lượng nào sẵn sàng phục vụ quốc gia”.
Phương pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh là lấy cái chung, cái tương đồng để
khắc phục cái riêng, cái dị biệt, lấy nhân ái, khoan đung để cảm hoá, lấy nhân

nhượng, thoả hiệp lẫn nhau để giải quyết bất đồng, “biến đại sự thành tiểu sự,
biến tiểu sự thành vô sự”. Người phê phán một số cán bộ chỉ biết “chia rẽ, bênh
vực lớp này chống lại lớp khác, không biết làm cho các tầng lớp nhân nhượng lẫn
nhau, hoà thuận với nhau. Thậm chí có đôi nơi đất ruộng bỏ hoang, nông gia ta
thán.Quên rằng lúc này ta phải toàn dân đoàn kết, không chia già trẻ, giàu nghèo
để giữ nền độc lập, chống kẻ thù chung”.(7) Như vậy, trong mâu thuẫn nội bộ nhân
dân (mâu thuẫn không đối kháng), có mặt thuận và mặt nghịch, bên cạnh mặt
mâu thuẫn còn có mặt thống nhất, để tồn tại trong sự thống nhất, phải biết lấy
thuận chế nghịch, lấy cái chung, cái đồng thuận để khắc phục cái riêng, cái dị
biệt. Đó là biện chứng trong cách xử lý của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa
mâu thuẫn và thống nhất các mặt đối lập.
1.3. Biện chứng giữa cái “bất biến” và cái “vạn biến”.
Đây là một tư tưởng biện chứng hết sức sâu sắc của triết học phương Đông,
xuất phát từ quan niệm vạn vật sinh hoá đều do điều lý (quy luật) chi phối, nếu
nắm được điều lý của vũ trụ thì có thể điều khiển được mọi biến hoá của trời đất
(hiện tượng), nghĩa là có thể lấy cái bất biến chế ngự được cái vạn biến, lấy tĩnh
chế động, lấy nhu thắng cương…
Phép biện chứng duy vật Macxít cũng đã đề cập đến các cặp mâu thuẫn và
thống nhất, vận động và đứng im, nhưng mối quan hệ giữa bất biến và vạn biến
trong phép biện chứng của Hồ Chí Minh có nguồn gốc chủ yếu từ trong triết học
phương Đông và Việt Nam. Xưa Lý Thánh Tông, khi đi lo việc biên cương ở
phương Nam, có dặn lại nhiếp chính Ỷ Lan một câu: “Vạn biến như lôi, nhất tâm
thiền định”, ý nói cứ lấy nhất tâm bất biến (là một lòng lo giữ việc nước) thì có
thể đối phó với vạn biến (dù có dữ dội như sấm sét).
Vậy ta hiểu “dĩ bất biến ứng vạn biến” mà Hồ Chí Minh nói đến là gì? Theo
cách nói của triết học, có thể hiểu “bất biên” là quy luật, vì chỉ có quy luật (tự
nhiên, xã hội, tư duy) là tồn tại lâu đài, là hầu như bất biến, còn “vạn biến” là
hiện tượng, là sự biểu hiện đa dạng của quy luật, cho nên có thể đưa vào quy luật
mà lý giải hiện tượng hay ngược lại, từ phân tích vô vàn hiện tượng có thể tìm ra
quy luật tương ứng.

Phép biện chứng duy vật thường chú trọng nhiều hơn về trình bày sự phát
triển biện chứng của sự vật, coi mâu thuẫn, vận động là tuyệt đối, thông nhất,
(7)(7) ” [Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB CTQG, HN, 2011, t.4, tr.65].


7

đứng im là tương đối. Trong thực tế vận dụng, đôi khi chúng ta lại có phần coi
nhẹ, thậm chí bỏ qua cái “bất biến” (tức là cái thống nhất, đứng im vốn là điều
kiện tồn tại của sự vật).
Trong vũ trụ và trong cuộc sống xã hội vốn tồn tại phạm trù “bất biến”. Hoá
học được xây đựng trên cơ sở định luật bảo toàn trọng lượng. Công thức có thể
biến hoá, nhưng trị số thì không đổi. Năng lượng học dựa trên định luật bảo toàn
năng lượng. Toán học có những hằng số, hằng đẳng thức không đổi. Về mặt xã
hội, các chế độ xã hội đều có nhiều thay đổi, nhưng trong xã hội nào người ta
cũng vẫn cần đến ăn, mặc, ở… tức là vẫn phải có sản xuất và phân phối, nghĩa là
sự khác nhau, như C.Mác nói, chỉ là về cách thức sản xuất và cách thức phân
phối, còn bản thân sản xuất và phân phối thì xã hội nào cũng vẫn phải có. Cũng
có thể gọi đó là các hằng số xã hội. Hồ Chí Minh tiếp thu phép biện chứng
Macxít, đồng thời cũng chịu ảnh hưởng của tư duy biện chứng phương Đông.
Người thường bắt đầu từ cái bất biến để đi tới cái khả biến của xã hội và con
người. Thí dụ, Người nói: “Tuy phong tục mỗi dân mỗi khác, nhưng có một điều
thì dân nào cũng giống nhau. Ấy là dân nào cũng ưa sự lành và ghét sự dữ”.(8) Khi
nghe một vị ủy viên Ban vận động đời sống mới nói cần định ra một cái hướng
mới cho cuộc vận động, vì khẩu hiệu “cần, kiệm, liêm, chính” xem ra vừa không
đủ, vừa cổ… thì Hồ Chí Minh ngắt lời: “Cổ, lạ quá, thế cơm các cụ ăn ngày xưa,
bây giờ mình ăn cũng cổ à?”. Theo Người, ăn cơm, uống nước, hít thở khí trời…
không bao giờ cũ, xưa nay và sau này đều phải làm. Cần, kiệm, liêm, chính cũng
vậy.
Trước khi sang Pháp đàm phán, Người chỉ dặn lại cụ Huỳnh Thúc Kháng có

một câu: “Mong cụ ở nhà: dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Ta hiểu đó là Người nói đến
mối quan hệ giữa mục tiêu và phương pháp, nguyên tắc và sách lược. Mục tiêu
của chúng ta là độc lập, thống nhất của Tổ quốc, tự do hạnh phúc của nhân dân,
đó là điều bất biến còn phương pháp - sách lược có thể tuỳ tình hình mà biến hoá
đa dạng, thay đổi linh hoạt, nhưng không được xa rời cái bất biến. Người nói:
“Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ.
Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt. Các
công tác phải phối hợp và liên hệ với nhau, bộ phận phối hợp với toàn cục.”(9)
Cái bất biến cơ bản nhất mà Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định trong toàn bộ
sự nghiệp cách mạng của Người, của dân tộc Việt Nam, là hòa bình, độc lập dân
tộc, thống nhất Tổ quốc, dân chủ, và hạnh phúc của nhân dân. Như vậy, cái bất
biến chính là mục tiêu, là chiến lược cách mạng xuyên suốt, cái vạn biến không
chỉ là “muôn sự thay đổi”, mà còn là sự vận dụng linh hoạt các sách lược, con
(8)(8) [Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB CTQG, HN, 2011, t.4, tr.397]
(9)(9) [Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB CTQG, HN, 2011, t.8, tr.555]


8

đường, cách thức, lộ trình phù hợp với từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể, để thực hiện
hiệu quả nhất mục tiêu, chiến lược đã được xác định.
Cái bất biến cũng được xác định trong từng lĩnh vực hoạt động cụ thể. Ví dụ
như: Trong đấu tranh ngoại giao, phải quán triệt quan điểm độc lập tự chủ, tự lực,
tự cường - có nghĩa là dân tộc Việt Nam phải tự mình vạch ra đường lối, chính
sách đối ngoại độc lập, tự chủ trên cơ sở lợi ích quốc gia và phù hợp với chuẩn
mực quốc tế, thích ứng với xu thế thời đại; trong lĩnh vực nhận thức luận, cái bất
biến là lương tâm, bản lĩnh, trí tuệ, sự bình tĩnh, sáng suốt, thái độ khách quan,
khoa học (không được để cảm tính thay cho lý trí); nhìn cho rộng, suy cho kỹ,
luôn làm chủ tình thế “thấy trước, chuẩn bị trước”; “Muốn thành công: thì phải
biết trước mọi việc”; phải tích cực chuẩn bị các điều kiện, nhưng phải biết chọn

thời cơ để giành thắng lợi từng bước, giành thắng lợi từng bộ phận.
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, muốn thực hiện được cái bất
biến, phải ứng vạn biến - linh hoạt kết hợp hài hòa giữa chiến lược và sách lược,
giữa cương và nhu, giữa chủ động và sáng tạo, muốn “ứng vạn biến” phải nhận
thức đúng về thế và lực của chủ thể, của quốc gia, và của đối tượng, cái thuận và
nghịch của tình hình thế giới trong từng giai đoạn và thời điểm cụ thể; đồng thời,
sự vạn biến không được xa rời cái bất biến mà phải phục vụ cái bất biến, sự vạn
biến phải biết điểm dừng, tránh làm tổn hại cái bất biến, nhất là không được phạm
đến cái bất biến - là chủ quyền quốc gia.
Trong cuộc đời cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt lợi ích
quốc gia, dân tộc lên trước hết, trên hết. Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám
năm 1945 thành công, Người đã gửi đến các nước trên thế giới thông điệp khẳng
định: (1) Việt Nam là một nước độc lập - vì, chỉ những quốc gia độc lập, tự do
thật sự, mới có quyền quyết định đường lối đối nội và đối ngoại của đất nước
mình; (2) Khẳng định Việt Nam thực hành đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
hòa bình và hợp tác với các nước trên cơ sở “tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và chủ
quyền của nhau, không xâm phạm, không can thiệp vào các công việc nội bộ,
bình đẳng và hai bên cùng có lợi, chung sống hòa bình” (10) ;(3) Thay mặt quốc gia
Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Nhân dân chúng tôi thành thật mong
muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng
để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: Toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc
lập cho đất nước”.(11)
Những năm 1945 - 1946, trong hoàn cảnh hiểm nghèo, phải đối phó với
nhiều kẻ thù, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đứng đầu là Chủ tịch Hồ
(10)(10) [Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB CTQG, HN, 2011, t.10, tr.114];
(11)(11) [Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB CTQG, HN, 2011, t.4, tr.522].


9


Chí Minh, trên cơ sở xác định “dân tộc trên hết”, “Tổ quốc trên hết”, đã tỉnh táo
đề ra những đối sách khôn khéo, phân hóa cao độ kẻ thù: Lúc thì chủ trương
“Hoa - Việt thân thiện”, chọn thời cơ thương lượng để hòa với quân Tưởng, hạn
chế hành động chống phá cách mạng Việt Nam của chúng và để rảnh tay đối phó
với thực dân Pháp; lúc thì chọn thời cơ thương lượng hòa hoãn với Pháp để đuổi
nhanh quân Tưởng về nước, thực hiện chủ trương “hòa để tiến”. Cũng trong năm
1946, trước sự hiếu chiến, khiêu khích của thực dân Pháp, để đẩy lùi nguy cơ
xung đột lớn, tranh thủ thêm thời gian xây dựng lực lượng, với phương châm
“còn nước còn tát”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký những hiệp ước nhân nhượng
với Pháp, trong đó có Tạm ước 14-9, đây là “nhân nhượng cuối cùng của Đảng và
Chính phủ ta, nhân nhượng nữa là phạm đến chủ quyền đất nước, là hại đến
quyền lợi cao trọng của dân tộc”. Lịch sử cho thấy, đối sách biện chứng giữa “dĩ
bất biến” và “ứng vạn biến”, là một trong những nhân tố, yếu tố cơ bản đưa nước
ta ra khỏi tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” trong buổi đầu vừa mới giành được
chính quyền từ tay đế quốc, phong kiến.
Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc (1946 1975), Việt Nam phải chiến đấu với những đối phương mạnh hơn gấp nhiều lần
về tiềm lực kinh tế, quân sự. Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Các
Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”, và
thấm nhuần quan điểm độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, toàn vẹn lãnh thổ;
trong hoàn cảnh vô vàn khó khăn, thử thách, nhưng chúng ta đã xây dựng được
thực lực mạnh mẽ, và tạo lập được một mặt trận nhân dân thế giới rộng rãi đoàn
kết, ủng hộ Việt Nam, đưa các cuộc kháng chiến chống xâm lược đến thắng lợi
hoàn toàn.
Vào thời kỳ đổi mới, trong quan hệ quốc tế, mục tiêu đối ngoại vì lợi ích
quốc gia, được thể hiện qua các Văn kiện Đại hội và nghị quyết của Đảng, qua
chủ trương đối ngoại “hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế
toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao
nhất”. Mục tiêu phục vụ lợi ích đất nước cũng được khẳng định cụ thể, trực tiếp
trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011), và trong Báo cáo chính trị của Đại hội Đại biểu

toàn quốc lần thứ XI (tháng 01-2011). Ở cả hai văn kiện, Đảng đều xác định mục
tiêu đối ngoại là “vì lợi ích quốc gia, dân tộc...”. Việc nêu lợi ích quốc gia, dân
tộc là mục tiêu trực tiếp của đối ngoại, điều đó có nghĩa: Bảo đảm lợi ích quốc
gia, dân tộc là nguyên tắc mà tất cả các hoạt động đối ngoại, từ đối ngoại Đảng,
ngoại giao Nhà nước, đến ngoại giao nhân dân, đều phải tuân thủ.
Như vậy, quan điểm “dĩ bất biến ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
được hiểu một cách tổng quát là, lấy cái không thay đổi (bất biến) để đối phó với


10

muôn sự thay đổi; đối phó với muôn sự thay đổi (ứng vạn biến) để thực hiện, bảo
vệ, củng cố, phát triển cái bất biến. Đây là quan điểm mang tính nguyên tắc
phương pháp luận biện chứng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong hoạt động đối
ngoại.
1.4. Phương pháp luận biện chứng trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh là
sự tổng kết tinh hoa triết học biện chứng của phương Đông và phương Tây.
Hồ Chí Minh đã vận dụng phương pháp biện chứng một cách rất hiệu quả
trong chỉ đạo cách mạng, đưa tới những thắng lợi to lớn chưa từng có trong lịch
sử dân tộc. Đúng như một nhà báo Pháp đã nhận xét: “Chính sự kết hợp mà
không ai bắt chước nổi giữa tính mềm dẻo với tính cương nghị, giữa tính linh
hoạt về chính trị với tính cứng rắn về nguyên tắc, giữa việc vận dụng truyền
thống yêu nước với sự phân tích Macxít đã tạo nên tính chất độc đáo của ông Hồ
Chí Minh”.
Cũng xuất phát từ phép biện chứng Đông - Tây kết hợp này, chúng ta thấy
Hồ Chí Minh đã giải quyết rất thành công, vừa khoa học, vừa nhuần nhuyễn các
mối quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại, kế thừa và đổi mới, dân
tộc và giai cấp, nội lực và ngoại lực, lực - thế, thời…
Có thể khái quát tư tưởng triết học Hồ Chí Minh là sự kết hợp sáng tạo đạt
đến sự nhuần nhuyễn giữa tư duy triết học Mác -Lênin mà cốt lõi là tư duy biện

chứng duy vật trong sự hoà quyện với tư duy duy triết học và văn hoá phương
Đông, phương Tây, tư duy, trí tuệ, văn hoá dân tộc Việt Nam và phong cách Hồ
Chí Minh. Nhờ đó, Người đã tìm ra bản chất, quy luật và hình thành nên hệ thống
luận điểm về chủ nghĩa thực dân, về cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội...có những quyết định đúng đắn, sáng tạo, đảm bảo cho cách
mạng Việt Nam giành thắng lợi. Từ quan niệm trên, có thể thấy tư tưởng triết học
Hồ Chí Minh có một số đặc trưng biện chứng cơ bản như sau:
- Trước hết, tư duy triết học Hồ Chí Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa
tính khoa học và tính cách mạng, giữa lập trường, quan điểm và phương pháp
nhận thức, hành động. Sự kết hợp này vừa là đặc trưng tư duy triết học Hồ Chí
Minh vừa là nguyên tắc của Hồ Chí Minh nhận thứ và hành động. Thể hiện sự
nhất quán trong tư tưởng triết học của Người.
- Tư duy triết học Hồ Chí Minh là tư duy độc lập, sáng tạo, thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn, suy nghĩ và hành động, giữa lời nói và việc làm thể hiện sự
hoàn chỉnh chu kỳ vận động: từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư
duy trừu tượng đến thực tiễn hoạt động cách mạng Việt Nam.


11

- Tư duy triết học Hồ Chí Minh được thể hiện bằng ngôn ngữ trong sáng,
giản dị, phổ thông, dễ hiểu, dễ xâm nhập vào quần chúng. Có thể coi đây là đặc
trưng đặc sắc, độc đáo của tư duy triết học Hồ Chí Minh.
Việc nắm vững thực chất phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác- Lê
nin và truyền thống triết học phương Đông, nắm vững ngôn ngữ của quần chúng
nhân dân và quan hệ mật thiết với họ đã giúp Người diễn đạt tư tưởng triết học
duy vật biện chứng vốn là tư duy khoa học, có hàm lượng trí tuệ cao, có sự trừu
tượng hoá và khái quát cao, sâu sắc trở nên phổ thông, dễ hiểu mà vẫn giữ được
bản chất khoa học, cách mạng của nó.
Nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, xuyên suốt tư tưởng triết học Hồ Chí

Minh là xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng quy luật khách quan: nắm
vững quan điểm thực tiễn và thực hiện đúng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn; giải quyết mọi việc phải toàn diện, nhấn mạnh trọng điểm và lấy
hiệu quả làm mục đích; xem xét sự việc trong sự phát triển, thực hiện "dĩ bất
biến, ứng vạn biến”; giải quyết mọi việc đều vì con người, do con người, tất cả vì
hạnh phúc của nhân dân.
Phương pháp luận Hồ Chí Minh là phương pháp luận duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử. Về thực chất, đó là phép biện chứng Hồ Chí Minh, là phương
châm xem xét và hành động khoa học được Hồ Chí Minh đúc kết từ sự tiếp thu,
kế thừa, vận dụng sáng tạo và bổ sung, phát triển phép biện chứng duy vật
Macxít, kết hợp với kế thừa truyền thống tư duy dân tộc, tư duy triết học phương
Đông và thực tiễn giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam.
Khái quát lại, tư tưởng triết học Hồ Chí Minh là hệ thống những quan điểm,
quan niệm duy vật biện chứng về con đường cách mạng Việt Nam, thực hiện cách
mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, tiến dần lên chủ
nghĩa xã hội, không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nhằm xây
dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Mác - Lênin, bao quát nhiều lĩnh
vực rộng lớn và phong phú mà nền tảng của nó là tư tưởng triết học. Tư tưởng
triết học Hồ Chí Minh không chỉ là sự tiếp thu, vận dụng sáng tạo triết học Mác
-Lênin mà còn có sự phát triển Triết học Mác -Lênin, nhất là một số vấn đề về
chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhờ đó Hồ Chí Minh đã góp phần làm phong phú, giàu
có thêm kho tàng lý luận Mác -Lênin nói chung, triết học Mác -lênin nói riêng.
Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa
học cách mạng, là linh hồn, ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt
hơn nửa thế kỷ qua. Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà


12


hạt nhân là thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng luôn là nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và nhân dân ta.
Tóm lại, tư tưởng triết học của Hồ Chí Minh được thể hiện một phần quan
trọng trong phương pháp biện chứng Hồ Chí Minh. Về bản chất, đó là phương
pháp biện chứng duy vật Macxít được vận dụng vào hoàn cảnh Việt Nam, có sự
kết hợp với tư duy biện chứng phương Đông và phương Tây, in đậm dấu ấn
phương Đông và Việt Nam, nổi bật lên trong đó là sự kết hợp tính cương nghị về
nguyên tắc với tính mềm dẻo, linh hoạt về sách lược, lấy cái đại đồng để khắc
phục cái tiểu dị, đi từ dân tộc đến giai cấp, nhằm mục tiêu đại đoàn kết dân tộc,
phân hoá và cô lập kẻ thù chính, giành thắng lợi cho độc lập dân tộc để từng bước
đi lên Chủ nghĩa xã hội. Phương pháp luận biện chứng Hồ Chí Minh cũng do đó
mà có vai trò rất to lớn đối với công cuộc đổi mới của chúng ta, đặc biệt trong bối
cảnh quốc tế đang chuyển biến nhanh chóng và phức tạp hiện nay trong đó có vấn
đề tranh chấp chủ quyền biên giới, biển đảo ở Việt Nam hiện nay.
CHƯƠNG II: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP LUẬN BIỆN CHỨNG
TRONG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC HỒ CHÍ MINH ĐỂ
GIẢI QUYẾTVẤN ĐỀ TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN
BIÊN GIỚI, BIỂN ĐẢO HIỆN NAY.
2.1. Thực trạng vấn đề tranh chấp chủ quyền biên giới, biển đảo hiện nay.
2.1.1. Thực trạng vấn đề tranh chấp chủ quyền biên giới giữa Việt Nam và
Campuchia.
2.1.1.1. Lịch sử hình thành biên giới Việt Nam – Campuchia.
Biên giới Việt Nam-Campuchia bắt đầu được hình thành từ thế kỷ XVIIXVIII, dưới thời các chúa Nguyễn ở Đàng Trong của nước Đại Việt: ban đầu bao
quanh xứ Sài Gòn-Đồng Nai vào thế kỷ XVII, đến thế XVIII thêm đường bao
quanh xứ Hà Tiên ven bờ vịnh Thái Lan tới tận Vũng Thơm, Cần Vọt. Sang cuối
thế kỷ XVIII quá trình Nam tiến của người Việt kết thúc, và tới đầu thế kỷ XIX
thời nhà Nguyễn, đường biên giới này đã được nối liền và định hình rõ gồm chủ
yếu biên giới giữa trấn Gia Định (1802-1808) hay Gia Định Thành (1808-1832),
sau là Nam Kỳ Lục tỉnh(1832-1867) của nước Đại Nam (Việt Nam) với Vương
quốc Cao Miên. Tuy nhiên, biên giới này không ổn định, (đặc biệt là giai đoạn

1835-1840, phần lớn Cao Miên bị sáp nhập vào Đại Nam thành Trấn Tây
Thành (với cơ chế hành chính gần giống như Gia Định Thành). Từ giữa thế kỷ
XIX (1841-1867), đến khi thực dân Pháp chiếm đóng Nam kỳ (1862-1867) và áp
đặt chế độ bảo hộ ở Cao Miên (1863), đường biên giới này khá ổn định, và được
công nhận quốc tế bởi hòa ước 3 bên Đại Nam-Cao Miên-Xiêm La (1845).


13

Trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ Nam Kỳ, Cao Miên và sau là toàn cõi
Đông Dương, biên giới Việt Nam-Campuchia chỉ mang tính chất là đường ranh
giới hành chính giữa các xứ Việt Nam thuộc Pháp với xứ Campuchia thuộc Pháp
đều nằm trong Liên bang Đông Dương (1887-1954), bao gồm hai phần: Đoạn
biên giới giữa Nam Kỳ thuộc Pháp và Campuchia được hoạch định bởi thỏa ước
Pháp-Campuchia năm 1873, đã được phân giới cắm mốc nhưng đến nay còn rất ít
dấu tích trên thực địa. Đoạn biên giới giữa hai xứ bảo hộ của Pháp là Trung Kỳ
và Campuchia không có văn bản phân định đường biên giới, chỉ có nghị định xác
định ranh giới với các tỉnh Trung Kỳ, chưa được phân giới cắm mốc. Hai phần
biên giới trên đã được chính quyền Pháp thể hiện trên 26 mảnh bản đồ Bonne tỷ
lệ 1/100.000 do Sở Địa dư Liên bang Đông Dương xuất bản. Đường biên giới
pháp lý giữa hai nước Việt Nam và Campuchia hiện nay, trên cơ sở kế tục đường
biên giới do Pháp để lại sau khi chiến tranh Đông Dương kết thúc, cũng chính
đường ranh giới (bản đồ Bonne) khá ổn định giữa các xứ Nam Kỳ, Trung Kỳ và
Campuchia nằm trong Liên bang Đông Dương thuộc Pháp thời kỳ đầu và giữa thế
kỷ XX (1914-1945 và 1945-1954).
2.1.1.2. Tình hình xung đột biên giới giữa Việt Nam và Campuchia trong
những năm qua.
Sau Chiến tranh Việt Nam, Việt Nam và Campuchia xuất hiện nhiều mâu
thuẫn. Tranh chấp và xung đột biên giới xảy ra liên tục trong các năm 1977 và
1978, nhưng cuộc xung đột thực ra đã bắt đầu ngay sau khi Sài Gòn thất thủ.

Ngày 4 tháng 5 năm 1975, một toán quân Khmer Đỏ đột kích đảo Phú Quốc; sáu
ngày sau, quân Khmer Đỏ đánh chiếm và hành quyết hơn 500 dân thường ở
đảo Thổ Chu. Trước hành vi gây hấn của Khmer Đỏ, nhân dân ta phản công giành
lại các đảo này. Trận đánh ở Phú Quốc làm nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam mới thành lập lo ngại, vì cùng thời gian đó, quan hệ Việt Nam và Trung
Quốc đang xấu đi. Mối lo ngại này càng tăng thêm vì sự hiện diện của cố vấn
Trung Quốc ở Campuchia và Trung Quốc tăng cường viện trợ quân sự cho lực
lượng vũ trang Khmer Đỏ.
Tiếp theo cuộc đột kích vào các đảo Thổ Chu và Phú Quốc, bên cạnh nhiều
cuộc đột kích nhỏ, Khmer Đỏ tiến hành hai cuộc xâm nhập quy mô lớn vào Việt
Nam. Cuộc tấn công lớn đầu tiên diễn ra vào tháng 4 năm 1977, quân chính quy
Khmer Đỏ tiến sâu 10 km vào lãnh thổ Việt Nam, chiếm một số vùng ở tỉnh An
Giang và tàn sát một số lớn dân thường. Cuộc tấn công thứ hai diễn ra vào ngày
25 tháng 9 cùng năm. Lần này, 4 sư đoàn quân Khmer Đỏ đánh chiếm nhiều điểm
ở các huyện Tân Biên, Bến Cầu, Châu Thành (tỉnh Tây Ninh), đốt phá 471 ngôi
nhà, làm gần 800 người dân bị giết, bị thương hoặc mất tích. Để bảo vệ chủ
quyền lãnh thổ, ngày 31 tháng 12năm 1977, sáu sư đoàn Quân đội Nhân dân Việt
Nam đánh vào sâu trong đất Campuchia đến tận Neak Luong rồi mới rút lui từ


14

ngày 5 tháng 1 năm 1978, mang theo một số nhân vật quan trọng bên phía
Campuchia, trong đó có cả Thủ tướngtương lai Hun Sen. Cuộc tấn công này được
xem là lời "cảnh cáo" Khmer Đỏ. Phía Việt Nam đề nghị một giải pháp ngoại
giao nhằm thiết lập một vùng phi quân sự dọc biên giới, nhưng Pol Pot từ chối, và
giao tranh tiếp diễn.
Ngày 1 tháng 2 năm 1978, Trung ương Đảng Cộng sản của Pol Pot họp bàn
chủ trương chống Việt Nam và quyết định thành lập 15 sư đoàn. Trong nghị quyết
của họ có ghi: "Chỉ cần mỗi ngày diệt vài chục, mỗi tháng diệt vài ngàn, mỗi năm

diệt vài ba vạn thì có thể đánh 10, 15, đến 20 năm. Thực hiện 1 diệt 30, hy sinh 2
triệu người Campuchia để tiêu diệt 50 triệu người Việt Nam". Pol Pot đã điều 13
trong số 17 sư đoàn chủ lực và một số trung đoàn địa phương liên tục tấn công
vào lãnh thổ Việt Nam, có nơi vào sâu tới 15 - 20 km. Trong các đợt tấn công đó,
Khmer Đỏ đã thực hiện thảm sát đối với người Việt Nam, một ví dụ là vụ thảm
sát Ba Chúc vào tháng 4 năm 1978 với 3157 dân thường bị giết hại.
Từ tháng 12 năm 1977 đến 14 tháng 6 năm 1978, theo số liệu không chính
thức từ một nhà nghiên cứu hải ngoại, phía Việt Nam bị thương vong 30.642 bộ
đội, trong đó số chết là 6902 người. Hơn 30 vạn người phải tản cư về phía sau, bỏ
hoang 6 vạn ha đất sản xuất. Còn theo cuốn "Cuộc chiến tranh bắt buộc" của một
Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam, có thể ước lượng Việt Nam bị thương vong
8.500 bộ đội, trong đó số chết là gần 3.000 người.
Ngày 13 tháng 12 năm 1978, được Trung Quốc trang bị và hậu thuẫn,
Khmer Đỏ đã huy động 10 trong 19 sư đoàn (khoảng 50.000 đến 60.000 quân)
tiến công xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới. Ba sư đoàn đánh vào Bến
Sỏi với mục tiêu chiếm thị xã Tây Ninh, 2 sư đoàn đánh vào Hồng Ngự (Đồng
Tháp), 2 sư đoàn đánh khu vực Bảy Núi (An Giang), 1 sư đoàn đánh Trà Phô, Trà
Tiến (Kiên Giang). Tại những vùng chiếm đóng, Khmer Đỏ đã thực hiện sách
lược diệt chủng đối với người Việt, như đã làm với người Khmer.
Quân đội Việt Nam đã chống trả quyết liệt và đã kìm chân bước tiến, đồng
thời tiêu hao sinh lực của quân Khmer Đỏ. Các hướng tiến quân của Khmer Đỏ bị
chặn lại và không thể phát triển được. Ngoại trừ Hà Tiên bị chiếm giữ trong thời
gian ngắn, không một thị xã nào của Việt Nam bị chiếm. Theo thống kê từ Việt
Nam, từ tháng 6-1977 đến tháng 12-1978, họ đã tiêu diệt 38.563 quân Khmer Đỏ,
bắt sống 5.800 lính khác. Theo Tạp chí Time, quân Việt Nam tiến hành các cuộc
không kích và giao tranh trên bộ, đánh vào các đơn vị quân Khmer Đỏ dọc biên
giới nhằm làm suy yếu quân Khmer Đỏ trước khi quân Việt Nam bắt đầu chiến
dịch đã tiêu diệt khoảng 17 ngàn quân Khmer Đỏ. Sau khi giúp nhân dân
Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng, bộ đội ta giúp nhân dân Campuchia củng
cố chính quyền đến năm 1988 bộ đội ta rút quân về nước.



15

Sau một phần tư thế kỷ Việt Nam và Campuchia duy trì mối quan hệ hữu
nghị tốt đẹp, đến nay tình hình lại trở nên căng thẳng ở biên giới.
Tình hình biên giới giữa Việt Nam và Campuchia đang bị các đảng phái đối
lập ở Campuchia lợi dụng để kích động chủ nghĩa dân tộc cực đoan nổi lên chống
phá, đả kích bằng những thủ đoạn rất nham hiểm: Thông tin sai về bản đồ Bonne
thể hiện đường biên giới do Pháp sản xuất trước năm 1954 mà giữa Việt Nam và
Campuchia đã thỏa thuận dùng làm căn cứ pháp lý để tiến hành giải quyết vấn đề
hoạch định biên giới và tiến hành phân giới cắm mốc; khơi dậy quan điểm mơ hồ
về cái gọi là “chủ quyền lịch sử”; đòi sửa đổi Điều 2 Hiến pháp Campuchia…
Các đảng phái chính trị đối lập đã mở chiến dịch tuyên truyền rùm beng
trong nước và quốc tế xoay quanh những vấn đề nêu trên để mê hoặc, gây hoang
mang trong dân chúng và dư luận quốc tế rằng Việt Nam đã đàm phán bất bình
đẳng, gây sức ép, lấn đất Campuchia… Trong khi đó, những thông tin về quá
trình giải quyết vấn đề biên giới thời gian qua giữa hai nước không được công bố
rông rãi, đầy đủ và chính xác khiến tình hình chính trị Campuchia và tiến trình
phân giới cắm mốc biên giới giữa hai nước trở nên hết sức phức tạp, có nguy bị
đình đốn vô thời hạn.
Năm 2012 quan hệ giữa hai nước bắt đầu xuất hiện những rạn nứt, với việc
Cambodia do ảnh hưởng của Trung Quốc gây chia rẽ tại hội nghị ASEAN khiến
cho không đạt tới thỏa thuận về bộ Quy Tắc Ứng Xử Chung ở Biển Đông.
Gần đây căng thẳng biên giới khởi sự vào cuối tháng Sáu trong khu vực cột
mốc 203, giáp ranh giữa hai tỉnh Long An và Sway Rieng. Ngày 28 tháng 6, tại
đây xảy ra một vụ xô xát giữa một nhóm nhà hoạt động Campuchia do dân biểu
Real Camerin cầm đầu với dân chúng địa phương làm gần 20 người Việt Nam bị
thương. Ngày 19 tháng 07, khoảng 2000 người Khmer dẫn đầu là các dân biểu
thuộc đảng Cứu Quốc đối lập chính quyền, tới vùng này để biểu thị điều được mô

tả là “Việt Nam vi phạm lãnh thổ Campuchia.”
2.1.2. Thực trạng vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo giữa Việt Nam và
Trung Quốc.
2.1.2.1. Khái quát đặc điểm, vị trí, vai trò của Biển Đông.
Biển Đông là một biển nửa kín, có diện tích khoảng 3,5 triệu km 2, trải rộng
từ 3o vĩ Bắc đến 26o vĩ Bắc và từ 100o kinh Đông đến 121o kinh Đông, là một
trong những biển lớn nhất trên thế giới với 90% chu vi được bao bọc bởi đất liền.
Có 9 nước tiếp giáp với Biển Đông là Việt Nam, Trung Quốc, Philíppin,
Inđônêxia, Bru-nây, Malaixia, Singapo, Thái Lan, Campuchia và một vùng lãnh


16

thổ là Đài Loan. Theo ước tính sơ bộ, Biển Đông có ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc
sống của khoảng 300 triệu dân các nước này. Biển Đông không chỉ là địa bàn
chiến lược quan trọng đối với các nước trong khu vực mà còn của cả Châu Á Thái Bình Dương và Châu Mỹ.
Biển Đông còn là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên thiên nhiên biển quan
trọng cho đời sống và sự phát triển kinh tế của các nước xung quanh, đặc biệt là
nguồn tài nguyên sinh vật, khoáng sản, du lịch, đồng thời đây cũng là khu vực
đang chịu sức ép nhiều về bảo vệ môi trường sinh thái biển.
Biển Đông được coi là một trong năm bồn trũng chứa dầu khí lớn nhất thế
giới. Theo đánh giá của Bộ Năng lượng Mỹ, lượng dự trữ dầu đã được kiểm
chứng ở Biển Đông là 07 tỉ thùng với khả năng sản xuất 2,5 triệu thùng/ngày.
Theo đánh giá của Trung Quốc, trữ lượng dầu khí ở Biển Đông khoảng 213 tỷ
thùng, trong đó trữ lượng dầu tại quần đảo Trường Sa có thể lên tới 105 tỷ thùng.
Với trữ lượng này, sản lượng khai thác có thể đạt khoảng 18,5 triệu tấn/năm duy
trì liên tục trong vòng 15 - 20 năm tới.
Ngoài ra, theo các chuyên gia, khu vực Biển Đông còn chứa đựng lượng lớn
tài nguyên khí đốt đóng băng (băng cháy). Trữ lượng loại tài nguyên này trên thế
giới ngang bằng với trữ lượng dầu khí và đang được coi là nguồn năng lượng

thay thế dầu khí trong tương lai.
Biển Đông là tuyến vận tải biển lớn thứ 2 thế giới, ước tính mỗi năm, giá trị
hàng hóa vận tải đường thủy trong khu vực này lên đến hơn 5.000 tỷ USD. Nhiều
nước và tổ chức khu vực, quốc tế có lợi ích từ biển Đông như: 70% tàu chở dầu
của Nhật Bản đi qua Biển Đông, hai phần ba khí tự nhiên của Hàn Quốc được
vận chuyển qua Biển Đông. Hoa Kỳ - một siêu cường hàng hải, đã nhiều lần
tuyên bố họ có lợi ích quốc gia ở Biển Đông. Lợi ích của Hoa Kỳ gắn với hòa
bình, ổn định, tự do hàng hải và không quốc gia nào được độc chiếm, chi phối
Biển Đông.Lợi ích kinh tế của EU ở khu vực này là: 18,1% xuất khẩu của EU là
tới Đông Á, trong khi toàn châu Á là 21,4%. EU nhập khẩu 30,1% hàng hóa từ
Đông Á trong tổng số 34,3% từ châu Á. Trong tổ chức ASEAN, 4 nước thành
viên của tổ chức này, là Phi-líp-pin, Việt Nam, Ma-lai-xi-a và Bru-nây có các
tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông liên quan trực tiếp đến yêu sách Đường 9
đoạn của Trung Quốc. Đối với tổ chức ASEAN, Biển Đông là chủ đề gắn với xây
dựng môi trường hòa bình và ổn định cho phát triển và phồn vinh của khu vực một lợi ích hàng đầu của các nước trong Hiệp hội Đông Nam Á.


17

Các đảo và quần đảo trong Biển Đông có ý nghĩa phòng thủ chiến lược quan
trọng đối với nhiều nước. Nằm ở trung tâm Biển Đông, hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa là một trong những khu vực có nhiều tuyến đường biển nhất trên thế
giới.
Trên các tuyến đường biển đóng vai trò chiến lược của Châu Á có hai điểm
trọng yếu: Thứ nhất là eo biển Malacca (nằm giữa đảo Sumatra của lndonesia và
Malaysia). Vị trí này vô cùng quan trọng vì tất cả hàng hoá của các nước Đông
Nam Á và Bắc Á phải đi qua. Ba eo biển thuộc chủ quyền của lndonesia là
Sunda, Blombok và Makascha đóng vai trò dự phòng trong tình huống eo biển
Malacca ngừng hoạt động vì lý do gì đó. Tuy nhiên, nếu phải vận chuyển qua các
eo biển này thì hàng hoá giữa Ấn Độ Dương sang ASEAN và Bắc Á sẽ chịu cước

phí cao hơn vì quãng đường dài hơn. Điểm trọng yếu thứ hai là vùng Biển Đông,
nơi có nhiều tuyến đường hàng hải đi qua, đặc biệt là khu vực xung quanh hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Các tuyến đường biển chiến lược nói trên là yết hầu cho giao lưu hàng hoá
của nhiều nước Châu Á. Nếu khủng hoảng nổ ra ở vùng biển này, các loại tàu
biển phải chạy theo đường mới hoặc vòng qua Nam Australia thì cước phí vận tải
thậm chí sẽ tăng gấp năm lần và không còn đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế
giới.
Ngoài ra, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có vị trí chiến lược dùng cho
mục đích quân sự như đặt trạm ra đa, các trạm thông tin, xây dựng các trạm dừng
chân và tiếp nhiên liệu cho tàu bè... Các nhà chiến lược phương Tây cho rằng
quốc gia nào kiểm soát được quần đảo Trường Sa sẽ khống chế được cả Biển
Đông.
Nhìn tổng thể, các nước, các tổ chức khu vực, quốc tế, đều có chung lợi ích
trong việc duy trì hòa bình, an ninh và tự do hàng hải trên Biển Đông, đều tỏ thái
độ chống lại các mưu toan dùng vũ lực độc chiếm, chi phối Biển Đông, đều mong
muốn Biển Đông là vùng biển hòa bình, hợp tác, và thịnh vượng.
2.1.2.2. Tình hình tranh chấp chủ quyền biển đảo giữa Việt Nam và Trung
Quốc.
Quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, do cha
ông khai phá và áp đặt chủ quyền lãnh thổ từ thế kỷ XV. Việt Nam có đầy đủ
chứng cứ, tài liệu lịch sử khẳng định chủ quyền lãnh thổ không thể chối cãi của
Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.


18

Các tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông giữa các quốc gia trong khu vực
diễn ra từ sau thế chiến II. Tháng 4 năm 1956, Việt Nam Cộng hòa kế thừa chính
quyền Bảo Đại quản lý quần đảo Hoàng Sa. Riêng hai đảo lớn nhất là Phú

Lâm và Linh Côn đã bị Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa bí mật chiếm trước khi
quân đội Việt Nam Cộng hòa ra đóng quân. Việt Nam Cộng hòa đã đảm nhiệm
việc quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa theo đúng trách
nhiệm mà Hiệp định Giơnevơ năm 1954 quy định.
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chiếm quần đảo Hoàng Sa từ Việt Nam
Cộng hòa từ ngày 19 tháng 1 năm 1974 khi quân đội của họ tấn công quân đồn
trú Việt Nam Cộng hòa và chiếm các đảo phía tây trong trận Hải chiến Hoàng
Sa năm 1974. Năm 1988, Trung Quốc đã chiếm một số đá ngầm. Năm 1995,
Trung Quốc chiếm đá ngầm Vành Khăn đang do Philippines kiểm soát.
Vào tháng 11 năm 2007, Quốc vụ viện nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
thành lập một đô thị cấp huyện (huyện cấp thị) thuộc tỉnh Hải Nam lấy tên là Tam
Sa có phạm vi quản lý 3 quần đảo trên Biển Đông, trong đó có hai quần đảo tranh
chấp với Việt Nam: quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa (mà Trung Quốc
gọi là quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa).
Từ năm 2009, Trung Quốc tuyên bố yêu sách Đường 9 đoạn “Đường lưỡi
bò”, chiếm đến hơn 80% diện tích Biển Đông (bao gồm cả hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa của Việt Nam); tiếp theo động thái này, năm 2010, Trung Quốc
khẳng định, Biển Đông là một trong những lợi ích cốt lõi của Trung Quốc.
Năm 2011, căng thẳng dâng lên khi các tranh chấp giữa Trung Quốc với Việt
Nam và Philippines nổ ra. Ngày 26 tháng 5 năm 2011, 3 tàu hải giám của Trung
Quốc xâm nhập lãnh hải của Việt Nam, phá hoại thiết bị và cản trở tàu khảo sát
địa chấn Bình Minh 02 của Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam đang hoạt động
tại vùng biển miền Trung chỉ cách mũi Đại Lãnh của tỉnh Phú Yên 120 hải
lý. Tiếp đó là sự kiện một tàu thăm dò dầu khí khác của Việt Nam thuê vừa bị
tàu Trung Quốc phá hoại thiết bị vào ngày 9 tháng 6. Bộ Ngoại giao Việt Nam nói
Trung Quốc vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền của Việt Nam, yêu cầu nước
này "chấm dứt ngay, không tái diễn" những hành động đó, đồng thời đòi bồi
thường thiệt hại. Việt Nam cũng cho rằng hành động của Trung Quốc vi
phạm Công ước luật biển năm 1982 của Liên Hiệp Quốc, trái với tinh thần và lời
văn của tuyền bố năm 2002 giữa ASEAN và Trung Quốc về ứng xử của các bên

trên Biển Đông, cũng như "nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai
nước". Phản hồi cáo buộc của Việt Nam, phía Trung Quốc nói vụ việc ngày 26
tháng 5 là "hoạt động bình thường trong vùng biển chủ quyền của nước


19

này". Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Khương
Du tuyên bố: "Trung Quốc phản đối việc Việt Nam thăm dò và khai thác dầu
khí tại khu vựcBiển Đông thuộc chủ quyền của Trung Quốc", vì nó "đi ngược lại
lợi ích và chủ quyền của Trung Quốc tại Biển Đông, vi phạm nhận thức chung mà
hai bên đã đạt được về vấn đề này". Ngày 9 tháng 6 năm 2011, 2 tuần sau vụ tàu
Bình Minh 02, một tàu thăm dò dầu khí khác của Việt Nam thuê lại tiếp tục bị
tàu Trung Quốc phá hoại thiết bị.Từ năm 2012 - 2013 Trung Quốc luôn tạo ra các
cuộc xung đột trên biển, tuyên bố vô lý về chủ quyền lãnh thổ, đưa ra lệnh cấm
đánh bắt hải san một cách vô lý trên vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam,
ngày càng có nhiều hành động vô lý như xua đuổi, đánh đập, tịch thu ngư cụ của
ngư dân Việt Nam...
Tháng 5 năm 2014, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đưa giàn khoan HD981 vào khu vực Biển Đông vào ngày 1 tháng 5 năm 2014, dẫn tới việc nhà nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ra tuyên bố phản đối, đồng thời tàu thuyền
của hai quốc gia đã có một số va chạm.
Gần đây Trung Quốc luôn có các hoạt động cải tạo xây dựng các đảo trái
phép, thậm chí còn xây dựng các căn cứ quân sự trái phép trên đảo thuộc chủ
quyền của Việt Nam, liên tục xua đuổi, cấm ngư dân Việt Nam đánh bắt cá trên
vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam.
2.2. Vận dụng phương pháp luận biện chứng trong tư tưởng triết học Hồ Chí
Minh để giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền biên giới, biển đảo hiện
nay.
2.2.1. Phương hướng giải quyết vấn đề biên giới giữa Việt Nam và
Campuchia.

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “dĩ bất biến ứng vạn biến” đã được
thực tiễn sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất Tổ quốc kiểm
nghiệm, khẳng định giá trị lịch sử quý báu, lâu bền đối với cách mạng Việt Nam.
Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chúng ta cần tiếp
tục tìm hiểu, nghiên cứu sâu sắc, làm sáng tỏ những vấn đề thuộc nguyên tắc
phương pháp luận, để tìm ra những đối sách, giải pháp, vận dụng vào thực tiễn
đấu tranh bảo vệ chủ quyền biên giới, biển, đảo nước ta.
Việt Nam và Campuchia là hai nước láng giềng có mối quan hệ thân thiết,
gắng bó với nhau trong suốt thời kỳ chiến tranh giành độc lập dân tộc. Vận dụng
phương pháp luận biện chứng theo tư tưởng Hồ Chí Minh để giải quyết vấn đề
biên giới giữa Việt Nam và Campuchia chúng ta cần phải tuân theo nguyên tắc


20

tôn trọng chủ quyền lãnh thổ quốc gia dân tộc, dựa vào tài liệu lịch sử phân chia
có từ trước được thừa nhận, đàm phán phân chia trên tinh thần khách quan, hợp
tác tích cực, hòa bình với đường lối ngoại giao mềm dẻo, linh hoạt.
Đặc biệt, trong tình hình hiện nay có nhiều tổ chức phản động trong và ngoài
nước có sự hỗ trợ từ các nước lớn lợi dụng vấn đề biên giới tăng cường chống
phá mối quan hệ tuyền thống tốt đẹp của 2 dân tộc, vì thế Việt Nam cần tăng
cường hợp tác hơn nữa cùng với Chính phủ Vương quốc Campuchia trên tinh
thần thiện chí hợp tác hữu nghị, láng giềng truyền thống và đặc biệt là phải tuân
thủ một cách nghiêm túc các Hiệp ước, Hiệp định đã ký kết theo đúng nguyên tắc
và thủ tục pháp lý quốc tế và của mỗi nước, với tư cách là những chủ thể bình
đẳng, độc lập trong quan hệ quốc tế.
Hiện nay cũng đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử, pháp lý…
có liên quan đến vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Campuchia. Tất nhiên, là theo
những cách tiếp cận khác nhau xuất phát từ những lĩnh vực chuyên môn khoa
học khác nhau của các học giả, nhà nghiên cứu…

Vấn đề cần lưu ý là, để giải quyết những tranh chấp về biên giới, lãnh thổ,
thông thường chủ yếu dựa vào các công trình nghiên cứu khoa học pháp lý để
chứng minh. Các nguyên tắc pháp lý được áp dụng phổ biến trong thực tiễn giải
quyết tranh chấp biên giới quốc tế hiện tại là cơ sở pháp lý mà các quốc gia dựa
vào đó để đàm phán giải quyết tranh chấp lãnh thổ, tiến hành hoạch định, phân
giới cắm mốc chứ không dựa vào cái gọi là “chủ quyền lịch sử” xuất phát từ tham
vọng của những phần tử theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan, muốn lợi dụng “lịch
sử” để phục vụ cho những động cơ chính trị đen tối và phản động của họ.
Đối với những phần tử cơ hội lợi dụng vấn đề chủ quyền biên giới chia rẽ
tình đoàn kết, hữu nghị giữa hai quốc gia, dân tộc. Chúng ta cần có những biện
pháp quyết liệt, đấu tranh không khoan nhượng, triệt để lợi dụng sự mâu thuẫn
trong nội bộ các Đảng, và giữa các Đảng trong chính phủ Campuchia đấu tranh,
giải quyết vấn đề biên giới một cách nhanh chóng, hiệu quả và hợp lý.
2.2.2. Phương hướng giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo giữa
Việt Nam và Trung Quốc.
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng có truyền thống văn hóa,
lịch sử gắng bó từ lâu đời. Giữa hai nước suốt chiều dài lịch sử từng có mối quan
hệ tốt đẹp nhưng có khi xảy xung đột gay gắt. Đối với ta, Trung Quốc là một
nước lớn, có ảnh hưởng to lớn đối với nền kinh tế nước ta hiện nay. Việc xảy ra
xung đột giữa hai nước sẽ có tác động rất lớn đối với nước ta hiện nay, đặc biệt
nước ta vừa thoái khỏi nước nghèo, lạc hậu đang trong quá tình xây dựng nền


21

kinh tế đất nước. Để giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo của Việt
Nam đối với một nước lớn như Trung Quốc thì việc vận dụng phương pháp luận
biện chứng trong tư trưởng triết học Hồ Chí Minh để đấu tranh bảo vệ chủ quyền
trước một cường quốc luôn có ý đồ “bành trướng, nuốt trọn” biển Đông là điều
cần thiết đối với một quốc gia còn nghèo như nước ta hiện nay.

Trung Quốc hiện nay tuy là một quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế cao,
tuy nhiên mặt trái của việc phát triển kinh tế của Trung Quốc để lại những hậu
quả nghiêm trọng như trình trạng ô nhiễm môi trường, chênh lệch khoảng cách
giàu nghèo. Tuy là một quốc gia có nền chính trị ổn định nhưng nội bộ đảng có
những xung đột, bất đồng. Hay sảy ra xung đột dân tộc ở các khu tự trị,và với
chính sách ngoại giao theo kiểu bành trướng, áp đặt, cá lớn nuốt cá bé đã gây ra
nhiều mâu thuẫn đối với các nước láng giềng cũng như các quốc gia khác. Lợi
dụng mâu thuẫn này chúng ta cần có những phương phápthiết thực đấu tranh đòi
chủ quyền biển đảo, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các nước, các tổ chức đấu
tranh vì quyền lợi chung.
Thế giới ngày nay đang diễn ra sự liên kết, hợp tác rộng lớn vì hòa bình và
phát triển, thế giới ngày nay có sức mạnh to lớn, đủ sức để ngăn chặn hiệu quả
mọi hành vi bành trướng, đe dọa hòa bình nói chung, hòa bình và tự do hàng hải
trên Biển Đông nói riêng. Vấn đề đặt ra là, chúng ta phải làm như thế nào, để thế
giới chú ý đến những gì đang diễn ra tại Biển Đông, để thế giới biết được tính
chính đáng và quyết tâm thật sự của Việt Nam trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền
biển, đảo, từ đó tranh thủ được sức mạnh cộng đồng quốc tế. Có thể nói, trong
các giải pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế, thì ngoại giao vẫn là giải
pháp tốt nhất để kiểm soát, và giải quyết những tranh chấp trên Biển Đông hiện
nay.
Nước ta là một bộ phận của thế giới, theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, những hoạt động của nước ta “có muôn ngàn sợi dây liên hệ với cuộc đấu
tranh chung của thế giới tiến bộ”, do đó phải thực hành chính sách đối ngoại rộng
mở, “chính sách hòa bình và quan hệ tốt”, chính sách hợp tác, bình đẳng, cùng có
lợi. Trong quan hệ với các nước, các tổ chức quốc tế, cần tìm ra những điểm
đồng, khai thác mọi khả năng có thể, nhằm tập hợp lực lượng đoàn kết ủng hộ
Việt Nam theo nhiều cấp độ. Để có được sự ủng hộ quốc tế, vấn đề quan trọng
hàng đầu là phải làm cho thế giới hiểu rõ về Việt Nam, về cuộc đấu tranh chính
nghĩa của Việt Nam và sự phù hợp về lợi ích khu vực, thế giới trong mục tiêu đấu
tranh của Việt Nam.

Mặt khác, chủ quyền biển, đảo Việt Nam được bảo đảm bằng cơ sở pháp lý
và lịch sử, phù hợp Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS),
nên cuộc đấu tranh của Việt Nam chống sự xâm phạm biển, đảo trong lãnh hải
của đất nước, là việc làm chính nghĩa, được cộng đồng quốc tế ghi nhận, cuộc


22

đấu tranh của Việt Nam cũng bao gồm trong đó mục đích bảo đảm hòa bình, an
ninh và tự do hàng hải trên Biển Đông.
Trên đây là những “điểm đồng”, là điều kiện để có được sự ủng hộ quốc tế
đối với Việt Nam. “Điểm đồng” này cần phát huy thông qua hệ thống truyền
thông quốc tế.
Để tranh thủ sự ủng hộ quốc tế trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo, cần phải:
1. Thực hiện các kênh ngoại giao với nhiều hình thức, nhằm làm cho nhân
dân thế giới hiểu rõ cơ sở pháp lý, cơ sở lịch sử của chủ quyền biển, đảo Việt
Nam; đặc biệt là phải phát huy được hệ thống truyền thông quốc tế trong việc
cung cấp kịp thời, khách quan để các nước, trong đó có người dân Trung Quốc,
hiểu biết thực chất về tranh chấp trên Biển Đông; hiểu biết về lập trường tôn
trọng luật pháp quốc tế và sự kiên trì của Việt Nam về giải quyết hòa bình, không
sử dụng vũ lực trong các tranh chấp chủ quyền biển, đảo.
2. Về pháp lý, vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông cần được quốc tế
hóa, trong điều kiện cụ thể, có thể khởi kiện những hành động vi phạm luật pháp
quốc tế ra trước cơ quan tài phán quốc tế phù hợp để bảo vệ chủ quyền biển, đảo
của Tổ quốc.
3. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế song phương và đa phương, nhằm khai thác
nguồn lợi kinh tế Biển Đông, chia sẻ lợi ích, tạo lợi ích đan xen về kinh tế Biển
Đông với các nước, chia sẻ trách nhiệm bảo vệ hòa bình, tự do hàng hải trên Biển
Đông.
4. Đối với tổ chức ASEAN, cần thể hiện sâu sắc hơn tư cách thành viên chủ

động, tích cực và trách nhiệm cao, góp phần ngăn chặn âm mưu “bẻ đũa từng
chiếc”, củng cố đoàn kết cộng đồng ASEAN, tăng cường quan hệ với các thành
viên, giữ vững và phát huy vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực,
củng cố mối quan tâm chung của ASEAN là hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn
hàng hải ở Biển Đông, thực hiện đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố về ứng xử của các
bên ở Biển Đông (DOC), thúc đẩy sớm xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển
Đông (COC).
5. Tăng cường, phát huy mối quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện đã
được xác lập với các nước có tranh chấp ở Biển Đông; với các nước lớn, có lợi
ích kinh tế, an ninh, tự do hàng hải trên Biển Đông, có lợi ích trong việc chống lại
tham vọng độc chiếm, chi phối Biển Đông.
6. Trong quan hệ với bên ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở “Phải
nhìn cho rộng, suy cho kỹ”, trên cơ sở đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, phải ưu


23

tiên củng cố, phát triển các mối quan hệ có lợi cho việc bảo vệ độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “dĩ bất biến ứng vạn biến”, cần
được vận dụng sáng tạo, đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền
biển, đảo của nước ta hiện nay.
Thứ nhất, quán triệt quan điểm mang tính nguyên tắc: Chủ quyền biển, đảo
là chủ quyền quốc gia trên biển - là lợi ích quốc gia thiêng liêng, bất khả xâm
phạm, là cái bất biến; để đấu tranh bảo vệ lợi ích thiêng liêng đó, phải linh hoạt phải ứng vạn biến.
Các hành động của Trung Quốc đe dọa hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn
hàng hải ở Biển Đông, và trực tiếp “xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền
chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam tại Biển Đông và hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa”. Hành động và dã tâm của phía Trung Quốc, khiến nhân dân cả
nước ta phẫn uất, sục sôi tinh thần quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thiêng

liêng của Tổ quốc, dư luận quốc tế cũng đồng loạt bày tỏ thái độ quan ngại về
tình hình Biển Đông. Vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam, hơn lúc
nào hết đặt ra một cách cấp bách. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo trên Biển Đông trở
thành điểm nóng thử thách lương tâm, bản lĩnh, trí tuệ của con người Việt Nam.
Vận dụng quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “dĩ bất biến, ứng vạn
biến”, trước hết, phải thấm nhuần nguyên tắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ; nguyên tắc này phải được quán triệt trong hành động của mọi
công dân Việt Nam. Phải xác định vững chắc lập trường kiên quyết bảo vệ chủ
quyền lãnh thổ của đất nước, kiên quyết đấu tranh bằng mọi hình thức, bằng mọi
giải pháp hòa bình buộc Trung Quốc ngừng các hoạt động lấn chiếm trái phép
khỏi vùng biển của Việt Nam.
Trong “ứng vạn biến”, cần cảnh giác trước những hành động, lời nói mưu
toan hạ thấp giá trị chủ quyền biển, đảo hoặc làm suy giảm lòng tự tôn dân tộc,
tinh thần yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc, hoặc làm phân tán ý chí quyết tâm,
tư thế sẵn sàng đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của quân và dân cả nước.
Thứ hai, trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo, phải quán triệt quan
điểm của Đảng, Nhà nướcvề kiên trì các giải pháp hòa bình trên cơ sở tuân thủ
luật pháp quốc tế, trên cơ sở phát huy nội lực, phảilinh hoạt, khôn khéo sử dụng
các phương sách từ ngoại giao, pháp lý, đến ứng xử trên thực địa, để bảo vệ chủ
quyền lãnh thổ.
Để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam tại Biển Đông, từ ngày 01-5-2014 đến
nay, “Việt Nam đã nhiều lần chủ động gửi công hàm, giao thiệp trên 30 lần ở
nhiều cấp khác nhau để phản đối việc Trung Quốc đưa giàn khoan và tàu hộ tống


24

vào vùng biển của Việt Nam - hành động xâm phạm các quyền chủ quyền và
quyền tài phán của Việt Nam, yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan và tàu hộ tống
ra khỏi vùng biển của Việt Nam, phản đối việc cải tạo, xây dựng các đảo nhân

tạo, các tuyên bố về chủ quyền, lệnh cấm vô lí”. Đồng thời, Việt Nam đã 4 lần
gửi thư đề nghị Tổng Thư ký Liên hợp quốc lưu hành các tài liệu của Việt Nam
liên quan đến việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam và khẳng định chủ quyền
của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Mặc dù phía Trung Quốc đã rút giàn khoan Hải Dương 981 nhưng vẫn tiếp
tục có những hành động gây hấn đối với ngư dân và lực lượng chấp pháp trên
biển của Việt Nam. Tình hình đó buộc chúng ta phải thực hiện tất cả các biện
pháp cần thiết để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ đất nước.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Muốn làm cách mạng thắng lợi
thì phải phân biệt rõ ai là bạn ai là thù, phải thực hiện thêm bầu bạn, bớt kẻ thù”
[Hồ Chí Minh, Toàn tập,NXB CTQG, HN, 2011, t.13, tr.453]. Vận dụng quan
điểm của Người, cần phải bình tĩnh, sáng suốt trong phân tích, đánh giá bản chất
vấn đề Biển Đông trên các khía cạnh địa - chính trị và chủ quyền quốc gia, đánh
giá bản chất mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, để có những đối sách hợp lý
bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và xây dựng một mối quan hệ đúng đắn
giữa hai quốc gia - quan hệ hợp tác, bình đẳng, cùng có lợi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định sức mạnh nội lực là nhân tố quyết
định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Ngay từ năm 1941, Đảng đã nhận thức
đúng đắn: “Ta có mạnh thì họ mới chịu “đếm xỉa đến”. Ta yếu thì ta chỉ là một
khí cụ trong tay của kẻ khác, dầu là kẻ ấy có thể là bạn đồng minh của ta vậy”.
Nội lực là sức mạnh bên trong - nguồn sức mạnh không bị lệ thuộc, gồm sức
mạnh của nền kinh tế độc lập tự chủ, nền chính trị độc lập tự chủ, sức mạnh quân
sự và văn hóa, xã hội của đất nước. Sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, sức
mạnh của sự đồng thuận - đó là sức mạnh tổng hợp quốc gia, là thực lực quốc
gia.
Trong tình hình hiện nay, muốn tạo sự đồng thuận quốc gia, quy tụ và phát
huy sức mạnh toàn dân bảo vệ chủ quyền biển, đảo, cần phải:
1. Đảng và Nhà nước Việt Nam cần đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền,
thông tin trung thực, kịp thời để mọi người dân hiểu biết đầy đủ về chủ quyền

lãnh thổ trên biển, về những mưu đồ, và hành động xâm phạm chủ quyền biển,
đảo nước ta trên các phương tiện thông tin đại chúng đảm bảo cho đồng bào ở
trong nước cũng như kiều bào ở nước ngoài hiểu được chủ quyền biển đảo của
Việt Nam. Thông tin kịp thời, chính xác, cụ thể về âm mưu và hành động của


25

Trung Quốc trong chiến lược hiện thực hóa “đường lưỡi bò” ở Biển Đông. Thông
qua các kênh thông tin bằng tiếng nước ngoài và bằng con đường ngoại giao,
chúng ta cần chuyển đến chính phủ và nhân dân các nước, các tổ chức quốc tế và
khu vực, kể cả Liên hiệp quốc những thông tin sớm nhất và chính xác nhất để bạn
bè quốc tế và nhân dân các nước hiểu đúng tình hình Biển Đông mà chia sẻ và
ủng hộ Việt Nam.
2. Nâng cao ý thức trách nhiệm bảo vệ biển, đảo của mỗi người dân.Quốc
hội cần nhanh chóng hoàn chỉnh và ban hành Luật về biển làm cơ sở cho tuyên
truyền và đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của nước ta. Tiếp tục đầu tư,
nghiên cứu toàn diện về Biển Đông, đầu tư phát triển và nâng cao năng lực cho
đội ngũ cán bộ khoa học đảm bảo đủ sức nghiên cứu tham mưu về chính sách,
phổ biến kiến thức về biển và Luật biển, tham gia đấu tranh bảo vệ chủ quyền
biển đảo Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế.
3. Củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước.Thực
hiện chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 cần tiếp tục được hoạch định mang
tính tổng thể, hệ thống. Là nước nhỏ, tiềm lực kinh tế và quân sự còn yếu hơn
trong quan hệ bất đối xứng thì vũ khí chính mà chúng ta cần sủ dụng là ngoại
giao. Kinh nghiệm trong thời kì chống Pháp và chống Mỹ đã mách bảo chúng ta:
phải biết kết hợp giữa ngoại giao nhà nước với ngoại giao nhân dân, ngoại giao
nhà nước có chiến lược, chiến thuật rất tốt, nhưng đối ngoại nhân dân cũng là vũ
khí sắc bén để chúng ta tranh thủ sự ủng hộ của thế giới và khu vực đối với cuộc
đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông.

4. Cần tăng cường sức mạnh quân sự theo hướng tự vệ, đủ sức “ răn đe”, can
thiệp khi đụng độ và hỗ trợ cho mặt trận chính trị, ngoại giao, đủ mạnh để làm
nòng cốt cho cuộc đấu tranh bao vệ chủ quyền và lợi ích củ đất nước. Đồng thời,
cần ưu tiên đầu tư tăng cường nhân lực, hiện đại hóa các phương tiện, binh khí kỹ
thuật, nâng cao năng lực cho lực lượng thực hiện chấp pháp (cảnh sát biển, quân
ngư, kiểm ngư …) của Việt Nam . Lực lượng này phải có đủ khả năng phát hiện,
ngăn chặn từ xa những tàu, thuyền xâm phạm chủ quyền, có hành vi vi phạm
pháp luật Việt Nam và công ước quốc tế, can thiệp kịp thời bắt giữ những tàu,
thuyền, cố tình gây hấn - lập hồ sơ khởi tố. Duy trì thường xuyên hoạt động của
các lực lượng chấp pháp để tiếp tục khẳng định chủ quyền trên biển, nhất là ở
những vùng lãnh hải của Việt Nam đang bị xâm phạm.
5. Phát triển kinh tế biển nhằm khai thác hiệu quả tiềm năng biển, và bảo
đảm an ninh, chủ quyền biển, đảo.Duy trì bình thường các hoạt động của ngư dân
trên vùng biển thuộc lãnh hải Việt Nam, nhưng phải có phương án thật tốt bảo vệ
tính mạng và tài sản của ngư dân.Động viên các nguồn lực xã hội tham gia lập
quỹ “An ninh Biển Đông” nhằm hỗ trợ ngư dân có đủ điều kiện ra khơi bám biển


×