Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Tư tưởng triết học của Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (354.04 KB, 37 trang )

Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh
Song Thành
Tạp chí Triết học
Phương pháp biện chứng Hồ Chí Minh là sự vận dụng thuần thục phương
pháp biện chứng duy vật macxít
Hồ Chí Minh không có tác phẩm riêng bàn về phương pháp. Nhưng trong thực
tế lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng Việt Nam, Người đã vận dụng sáng tạo và
nhuần nhuyễn các nguyên lý của phép biện chứng duy vật macxít kết hợp với
các yếu tố biện chứng của triết học phương Đông qua đó tạo nên một hệ thống phương pháp riêng của
mình, rất macxít mà cũng rất Hồ Chí Minh, không trộn lẫn được. Vì vậy, có thể nói, có phương pháp biện
chứng của Hồ Chí Minh, phương pháp đó vẫn là phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin
nhưng đã được vận dụng và chuyển hoá vào thực tiễn cách mạng Việt Nam để xử lý thành công những
vấn đề do thực tiễn cách mạng Việt Nam đặt ra, nó in đậm màu sắc Việt Nam - Hồ Chí Minh và bằng cái
riêng đã làm phong phú thêm cái chung.
Vậy nội dung và đặc điểm của phương pháp biện chứng Hồ Chí Minh là gì?
Biện chứng trong xử lý mối quan hệ giữa thực tiễn và lý luận, giữa cái riêng và cái chung.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, đó là quan điểm cốt lõi nhất của nhận thức luận macxít và cũng là
nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật. Theo quan điểm của C.Mác: "ở mỗi dân tộc, lý luận bao
giờ cũng chỉ được thực hiện theo mức độ mà nó là sự thực hiện những nhu cầu của dân tộc ấy". Nói cách
khác, lý luận chỉ được coi là đúng đắn khi nó đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của mỗi dân tộc.
Hồ Chí Minh cũng quan niệm: "Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc
tranh đấu, xem xét so sánh thật kỹ lượng, rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với
thực tế, đó là lý luận chân chính".
Theo quan niệm đó, Hồ Chí Minh luôn luôn lấy thực tiễn, lấy sự kiện của đời sống dân tộc và thời đại làm
định hướng cho tư duy và hành động, lấy mục tiêu độc lập và phát triển của dân tộc làm căn cứ để xem
xét lý luận, để lựa chọn con đường và bước đi cho cách mạng Việt Nam, nhờ đó mà tránh được giáo điều,
rập khuôn (do chỉ biết lặp lại cái chung), đồng thời cũng tránh để không rơi vào cơ hội, xét lại (do quá
nhấn mạnh cái riêng, cái đặc thù).
Đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy con đường giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản,
nhưng Hồ Chí Minh biết rút ra từ học thuyết cách mạng và khoa học rộng lớn này những vấn đề cần thiết
cho giai đoạn trước mắt của cách mạng Việt Nam, đề ra đường lối đúng đắn cho cách mạng Việt Nam: từ


giải phóng dân tộc đến giải phóng giai cấp và giải phóng con người, tức là từ độc lập dân tộc tiến lên
CHXH.
Tiếp theo, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhờ đứng vững trên quan điểm thực tiễn
và đường lối độc lập tự chủ, một mặt, chúng ta vẫn tranh thủ viện trợ kinh tế và quân sự của các nước
XHCN anh em, mặt khác, chúng ta lại đánh theo đường lối và cách đánh Việt Nam, phù hợp với chiến
trường Việt Nam, vì vậy ta đã giành được thắng lợi vẻ vang: giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước,
đưa cả nước đi lên CHXH.
Khi miền Bắc từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, tiền tư bản bước vào thời kỳ quá độ lên CHXH, Hồ
Chí Minh đặt vấn đề: "Chúng ta phải đùng những phương pháp gì, hình thức gì, đi theo tốc độ nào để tiến
lên CHXH" và Người nhắc nhở: "Tuy chúng ta đã có những kinh nghiệm dồi đào của các nước anh em,
nhưng chúng ta cũng không thể áp đụng những kinh nghiệm ấy một cách máy móc, bởi vì nước ta có
những đặc điểm riêng của ta".
Đó là biện chứng Hồ Chí Minh trong xử lý mối quan hệ giữa thực tiễn và lý luận, giữa cái riêng và cái
chung.
Biện chứng trong xử lý mối quan hệ giữa mâu thuẫn và thống nhất của các mặt đối lập.
Theo quan điểm macxít, quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là quy luật cơ bản nhất của
phép biện chứng duy vật, bởi mâu thuẫn là hiện tượng phổ biến của mọi sự vật, hiện tượng và đấu tranh
để đi tới chuyển hoá giữa các mặt đối lập của mâu thuẫn là nguồn gốc của vận động và phát triển.
Hồ Chí Minh cũng thừa nhận tính phổ biến của mâu thuẫn. Người viết: "Cái gì cũng có mâu thuẫn, vì cái
gì cũng có biến âm, dương, có sinh có tử, có quá khứ, có tương lai, có cũ có mới. Đó là những mâu thuẫn
sẵn có trong mọi sự vật".
Mâu thuẫn có nhiều loại với bản chất khác nhau: có mâu thuẫn bên trong và bên ngoài, cơ bản và không
cơ bản, chủ yếu và thứ yếu, đối kháng và không đối kháng. Vì vậy, phân tích mâu thuẫn là điều kiện để
nhận thức đúng sự vật. Hồ Chí Minh chính là một bậc thầy trong nhận thức, phát hiện và xử lý mâu thuẫn.
Trong đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp có nhận thức, phát hiện đúng mâu thuẫn mới xác định rõ kẻ
thù và bạn đồng minh, mới đề ra được chiến lược, sách lược, bước đi đúng đắn cho mỗi giai đoạn của
cách mạng.
Vận đụng phép biện chứng duy vật vào phân tích xã hội thuộc địa, nửa phong kiến Việt Nam đầu thế kỷ
XX, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra hai mâu thuẫn cơ bản: một là, mâu thuẫn vốn có của xã hội phong kiến
là mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ phong kiến và hai là, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam

với bọn thực dân xâm lược Pháp, từ đó Hồ Chí Minh xác định nhân dân Việt Nam có hai kẻ thù chính là
đế quốc và phong kiên tay sai, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam có hai nhiệm vụ cơ bản
là chống đế quốc giành lại độc lập cho dân tộc và chống phong kiên đem lại ruộng đất cho dân cày.
Tuy xác định xã hội thực dân nửa phong kiến Việt Nam có hai mâu thuẫn cơ bản, nhưng trong việc xử lý
mâu thuẫn, Hồ Chí Minh không coi hai mâu thuẫn đó ngang nhau, phải tiến hành song song, đồng thời.
Theo Hồ Chí Minh, trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn nổi lên gay gắt nhất, trở thành mâu
thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc và bọn tay sai, có giải quyết được
vấn đề dân tộc mới giải quyết được vấn đề dân chủ. Vì vậy, ngay trong Chính cương vắn tắt (1930), Hồ
Chí Minh cũng chỉ nêu chủ trương "thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công, chia cho dân
cày nghèo" mà chưa nêu khẩu hiệu "người cày có ruộng". Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941) dưới sự
chủ trì của Hồ Chí Minh, cũng chủ trương tạm gác khẩu hiệu ruộng đất, chỉ tịch thu ruộng đất của đế
quốc, Việt gian, đề thêm khẩu hiệu "giảm tô, giảm tức", chia lại ruộng công, Làm.như vậy, theo Hội
nghị phân tích, nếu không đánh đuổi được Pháp - Nhật, nếu dân tộc còn phải chịu mãi kiếp ngựa trâu thì
vấn đề ruộng đất cũng không sao giải quyết được. Cuộc Cách mạng tháng 8/1945 đã lôi cuốn hàng chục
triệu nông dân, dù chưa được chia lại ruộng đất của địa chủ vẫn hăng hái tiến bước cùng giai cấp công
nhân làm nên cuộc cách mạng long trời lở đất, giành lại nền độc lập cho dân tộc. Thắng lợi đó là sự thể
hiện phép biện chứng của Hồ Chí Minh trong xử lý mối quan hệ giữa mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ
yếu trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam.
Hồ Chí Minh cũng là bậc thầy về xử lý mâu thuẫn địch - ta, nêu tấm .gương về nghệ thuật vận dụng mâu
thuẫn, khai thác mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù. Theo quyết định của Đồng minh tại Hội nghị Pốtxđam
(tháng 7/1945), gần 20 vạn quân Tưởng đổ vào Bắc Đông Dương (từ vĩ tuyến 16 trở ra) và hàng vạn quân
Anh - Ấn Độ đổ vào Nam Đông Dương với danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật. Núp dưới bóng quân đội
Anh, thực dân Pháp cũng đem quân trở lại nước ta. Nếu kể cả quân đội Nhật tuy đã đầu hàng nhưng chưa
bị tước vũ khí, thì vào lúc đó, có gần nửa triệu quân nước ngoài đóng trên đất nước ta. Cùng một lúc phải
đối phó với nhiều kẻ thù, tình thế cách mạng Việt Nam như đang "nghìn cân treo sợi tóc". Để bảo vệ
thành quả cách mạng, Hồ Chí Minh chủ trương phải phân hoá kẻ thù, bằng cách khai thác mâu thuẫn
trong hàng ngũ của chúng.
Quân đội Tưởng vào miền Bắc có ba thế lực: cánh Lư Hán thuộc Đệ nhất chiến khu Vân Nam, cánh Tiêu
Văn thuộc Đệ tứ chiến khu Quảng Tây, cánh Chu Phúc Thành thuộc quân khu Trung ương Trùng Khánh.
Chúng giống nhau về mục tiêu "diệt cộng, cầm Hồ" để dựng lên chính phủ tay sai, phục vụ cho mưu đồ

lâu dài của chúng, nhưng mâu thuẫn với nhau về lợi ích cá nhân. Biết Lư Hán vốn có tư thù sâu sắc với
Tưởng Giới Thạch và cả với Pháp (vì đã bị Pháp tịch thu mấy chuyến hàng lớn trên tuyến đường sắt Hải
Phòng Côn Minh), Hồ Chí Minh đã chủ động tới thăm chúng nhằm tranh thủ Lư Hán, đồng thời, nhượng
bộ cho vợ chồng Tiêu Văn một số đặc quyền kinh tế để cô lập cánh Chu Phúc Thành Nhờ đó, chúng ta
buộc họ phải thay đổi thái độ đối với Chính phủ Hồ Chí Minh, đã sử dụng được lực lượng quân đội
Tưởng làm bình phong, ngăn chặn quân đội Pháp đang lăm le ra miền Bắc.
Trong hàng ngũ tướng lĩnh quân đội Pháp cũng chia thành hai phe: cánh diều hâu chủ chiến, đứng đầu là
Cao ủy Đông Dương Đácgiăngliơ (D'argenlieu), cánh tương đối hiểu biết, muốn hoà hoãn, tiêu biểu là đại
tướng Lơcléc (Leclerc), tổng chỉ huy quân đội viễn chinh. Hồ Chí Minh đã viết thư gửi Lơcléc: "Ngài là
một đại quân nhân và là một nhà ái quốc. Ngài đã chiến thắng và chiến thắng anh dũng kẻ xâm lăng nước
ngài Lừng danh với những chiến công, ngài lại đi đánh một dân tộc chỉ muốn độc lập, thống nhất quốc
gia và một nước chỉ muốn hợp tác như anh em với nước ngài sao?".
Lòng tụ trọng bị tổn thương, ít lâu sau Lơcléc từ chức Tổng chỉ huy, xin chuyển về Pháp, mở đầu cho sự
liên tục thay đổi Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương.
Đánh giá sách lược của Hồ Chí Minh
Trong giai đoạn này, đồng chí Lê Duẩn đã viết: "Những biện pháp cực kỳ sáng suốt đã ghi vào lịch sử
cách mạng nước ta như một mẫu mực tuyệt vời của sách lược Lêninnít về lợi dụng mâu thuẫn trong hàng
ngũ kẻ địch và về sự nhân nhượng có nguyên tắc".
Nhắc lại những năm tháng đó, đồng chí Phạm Văn Đồng cũng viết: "Nếu bấy giờ không có Hồ Chí Minh
thì khó lường hết cái gì có thể xảy ra".
Đối với mâu thuẫn địch - ta, chỉ có một cách xử lý duy nhất là "Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta,
thì ta phải kiên quyết đánh đuổi nó đi". Còn với mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, xuất phát từ quan điểm
"Hễ là người Việt Nam thì ai cũng có lòng yêu nước, ghét giặc", Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết mọi
lực lượng "miễn là không phản lại quyền lợi dân chúng, không là Việt gian, thân Pháp, thân Nhật, có lòng
trung thành với Tổ quốc”, "Không được phép bỏ một lực lượng nào sẵn sàng phục vụ quốc gia".
Phương pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh là lấy cái chung, cái tương đồng để khắc phục cái riêng, cái dị
biệt, lấy nhân ái, khoan đung để cảm hoá, lấy nhân nhượng, thoả hiệp lẫn nhau để giải quyết bất đồng,
"biến đại sự thành tiểu sự, biến tiểu sự thành vô sự". Người phê phán một số cán bộ chỉ biết "chia rẽ, bênh
vực lớp này chống lại lớp khác, không biết làm cho các tầng lớp nhân nhượng lẫn nhau, hoà thuận với
nhau quên rằng lúc này ta phải toàn dân đoàn kết, không chia già trẻ, giàu nghèo để giữ nền độc lập,

chống kẻ thù chung".
Như vậy, trong mâu thuẫn nội bộ nhân dân (mâu thuẫn không đối kháng), có mặt thuận và mặt nghịch,
bên cạnh mặt mâu thuẫn còn có mặt thông nhất, để tồn tại trong sự thống nhất, phải biết lấy thuận chế
nghịch, lấy cái chung, cái đồng thuận để khắc phục cái riêng, cái dị biệt. Đó là biện chứng trong cách xử
lý của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giũa mâu thuẫn và thống nhất các mặt đôi lập.
Biện chứng giữa cái "bất biên" và cái “vạn biến".
Đây là một tư tưởng biện chứng hết sức sâu sắc của triết học phương Đông, xuất phát từ quan niệm vạn
vật sinh hoá đều do điều lý (quy luật) chi phối, nếu nắm được điều lý của vũ trụ thì có thể điều khiển
được mọi biến hoá của trời đất (hiện tượng), nghĩa là có thể lấy cái bất biến chế ngự được cái vạn biến,
lấy tĩnh chế động, lấy nhu thắng cương
Phép biện chứng duy vật macxít cũng đã đề cập đến các cặp mâu thuẫn và thống nhất, vận động và đứng
im, nhưng mối quan hệ giữa bất biên và vạn biên trong phép biện chứng của Hồ Chí Minh có nguồn gốc
chủ yếu từ trong triết học phương Đông và Việt Nam. Xưa Lý Thánh Tông, khi đi lo việc biên cương ở
phương Nam, có dặn lại nhiếp chính Ỷ Lan một câu: "Vạn biến như lôi, nhất tâm thiền định", ý nói cứ lấy
nhất tâm bất biến (là một lòng lo giữ việc nước) thì có thể đối phó với vạn biên (dù có dữ dội như sấm
sét).
Vậy ta hiểu "dĩ bất biến ứng vạn biến" mà Hồ Chí Minh nói đến là gì? Theo cách nói của triết học, có thể
hiểu "bất biên" là quy luật, vì chỉ có quy luật (tự nhiên, xã hội, tư duy) là tồn tại lâu đài, là hầu như bất
biến, còn "vạn biến" là hiện tượng, là sự biểu hiện đa dạng của quy luật, cho nên có thể đưa vào quy luật
mà lý giải hiện tượng hay ngược lại, từ phân tích vô vàn hiện tượng có thể tìm ra quy luật tương ứng.
Phép biện chứng duy vật thường chú trọng nhiều hơn về trình bày sự phát triển biện chứng của sự vật, coi
mâu thuẫn, vận động là tuyệt đối, thông nhất, đứng im là tương đối. Trong thực tế vận dụng, đôi khi
chúng ta lại có phần coi nhẹ, thậm chí bỏ qua cái "bất biến" (tức là cái thống nhất, đứng im vốn là điều
kiện tồn tại của sự vật).
Trong vũ trụ và trong cuộc sống xã hội vốn tồn tại phạm trù "bất biến". Hoá học được xây đựng trên cơ
sở định luật bảo toàn trọng lượng. Công thức có thể biến hoá, nhưng trị số thì không đổi. Năng lượng học
dựa trên định luật bảo toàn năng lượng. Toán học có những hằng số, hằng đẳng thức không đổi. Về mặt
xã hội, các chế độ xã hội đều có nhiều thay đổi, nhưng trong xã hội nào người ta cũng vẫn cần đến ăn,
mặc, ở tức là vẫn phải có sản xuất và phân phối, nghĩa là sự khác nhau, như C.Mác nói, chỉ là về cách
thức sản xuất và cách thức phân phối, còn bản thân sản xuất và phân phối thì xã hội nào cũng vẫn phải có.

Cũng có thể gọi đó là các hằng số xã hội. Hồ Chí Minh tiếp thu phép biện chứng macxít, đồng thời cũng
chịu ảnh hưởng của tư duy biện chứng phương Đông. Người thường bắt đầu từ cái bất biến để đi tới cái
khả biến của xã hội và con người. Thí dụ, Người nói: "Tuy phong tục mỗi dân mỗi khác, nhưng có một
điều thì dân nào cũng giống nhau ấy là dân nào cũng ưa sự lành, ghét sự dữ”. Khi nghe một vị ủy viên
Ban vận động đời sống mới nói cần định ra một cái hướng mới cho cuộc vận động, vì khẩu hiệu "cần,
kiệm, liêm, chính" xem ra vừa không đủ, vừa cổ thì Hồ Chí Minh ngắt lời: "Cổ, lạ quá, thế cơm các cụ
ăn ngày xưa, bây giờ mình ăn cũng cổ à?". Theo Người, ăn cơm, uống nước, hít thở khí trời không bao
giờ cũ, xưa nay và sau này đều phải làm. Cần, kiệm, liêm, chính cũng vậy.
Trước khi sang Pháp đàm phán, Người chỉ dặn lại cụ Huỳnh có một câu: "Mong cụ ở nhà: dĩ bất biến,
ứng vạn biến". Ta hiểu đó là Người nói đến mối quan hệ giữa mục tiêu và phương pháp, nguyên tắc và
sách lược. Mục tiêu của chúng ta là độc lập, thống nhất của Tổ quốc, tự do hạnh phúc của nhân dân, đó là
điều bất biến còn phương pháp - sách lược có thể tuỳ tình hình mà biến hoá đa dạng, thay đổi linh hoạt,
nhưng không được xa rời cái bất biến. Người nói: "Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hoà bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt".
Hồ Chí Minh đã vận dụng phương pháp biện chứng này một cách rất hiệu quả trong chỉ đạo cách mạng,
đưa tới những thắng lợi to lớn chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Đúng như một nhà báo Pháp đã nhận
xét: "Chính sự kết hợp mà không ai bắt chước nổi giữa tính mềm dẻo với tính cương nghị, giữa tính linh
hoạt về chính trị với tính cứng rắn về nguyên tắc, giữa việc vận dụng truyền thông yêu nước với sự phân
tích macxít đã tạo nên tính chất độc đáo của ông Hồ Chí Minh".
Cũng xuất phát từ phép biện chứng Đông - Tây kết hợp này, chúng ta thấy Hồ Chí Minh đã giải quyết rất
thành công, vừa khoa học, vừa nhuần nhị các mối quan hệ biện chứng giữa truyền thông và hiện đại, kế
thừa và đổi mới, dân tộc và giai cấp, nội lực và ngoại lực, lực - thế, thời… mà do phạm vi của bài viết,
chúng tôi không có điều kiện bàn hết ở đây.
Tóm lại, tư tưởng triết học Hồ Chí Minh được thể hiện một phần quan trọng trong phương pháp biện
chứng Hồ Chí Minh. Về bản chất, đó là phương pháp biện chứng duy vật macxít được vận dụng vào hoàn
cảnh Việt Nam, có sự kết hợp với tư duy biện chứng phương Đông, in đậm dấu ấn phương Đông và Việt
Nam, nổi bật lên trong đó là sự kết hợp tính cương nghị về nguyên tắc với tính mềm dẻo, linh hoạt về
sách lược, lấy cái đại đồng để khắc phục cái tiểu dị, đi từ dân tộc đến giai cấp, nhằm mục tiêu đại đoàn
kết dân tộc, phân hoá và cô lập kẻ thù chính, giành thắng lợi cho độc lập dân tộc để từng bước đi lên
CHXH. Phương pháp biện chứng Hồ Chí Minh cũng do đó mà có vai trò rất to lớn đối với công cuộc đổi

mới của chúng ta, đặc biệt trong bối cảnh quốc tế đang chuyển biến nhanh chóng và phức tạp hiện nay.
Tư tưởng về con người, bộ phận cơ bản của tư tưởng triết học Hồ Chí Minh
Thấm nhuần quan điểm cải tạo thế giới của triết học Mác, vấn đề được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm là
vấn đề con người và sự nghiệp giải phóng con người. Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải
là con người chung chung, trừu tượng, phi lịch sử, mà là con người hiện thực, cụ thể, sinh động, trước hết
là nhân dân lao động và quần chúng bị áp bức ở khắp mọi nơi, không phân biệt dân tộc và màu da.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người có thể tóm tắt lại trong ba nội dung cơ bản:
Con người là vôn quý nhất, là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng
Theo Hồ Chí Minh, lịch sử là do quần chúng nhân dân sáng tạo ra, chứ không phải do vài ba cá nhân anh
hùng nào, vì vậy chúng ta phải yêu dân, quý dân, trọng dân, vì "có dân là có tất cả". Người nói: "Trong
bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới, không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân
dân". Do đó, "trong xã hội không có gì tất đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân".
Từ đó, ta thấy nổi lên ở Hồ Chí Minh một tấm lòng yêu thương vô hạn đối với con người, một niềm tin
mãnh liệt vào sức mạnh và phẩm giá con người, một ý chí kiên quyết đấu tranh để giải phóng con người
khỏi áp bức, bất công, đói nghèo, lạc hậu. Cũng có thể coi đó là những nội dung cơ bản của chủ nghĩa
nhân văn Hồ Chí Minh.
Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người hoàn toàn xa lạ với các quan điểm xem con người như là công cụ,
như là phương tiện. Mọi chính sách tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hoá của Hồ Chí Minh đều hướng
tới con người. Người nói: "Phải đem hết sức dân, tài dân, của dân để làm lợi cho dân", "dựa vào lực lượng
của dân, tinh thần của dân để gây hạnh phúc cho dân", "chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật
chất và văn hoá của nhân dân và do nhân dân tự xây đựng lấy".
Qua đó, có thể thấy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người - mục tiêu và con người - động lực là thống
nhất, vì dân và do dân là thống nhất.
Để phát huy vai trò động lực của con người, Hồ Chí Minh đã đề cập đến một hệ thống nội dung và biện
pháp (vật chất và tinh thần) nhằm tác động vào cái động cơ thúc đẩy tính tích cực hoạt động của con
người đồng thời, cũng chỉ ra những nội dung và biện pháp làm triệt tiêu các trở lực nhằm thúc đẩy sự phát
triển theo hướng tiến bộ.
Trong hệ thống các động lực chính trị - tinh thần, Hồ Chí Minh chú trọng trước hết đến giáo dục chủ
nghĩa yêu nước, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đạo đức cách mạng đồng thời không coi nhẹ vai trò tác động

của các nhân tố tinh thần khác, như văn hoá, khoa học, pháp luật đặc biệt, Người chú trọng phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, coi "thực hành dân chủ là cái chìa khoá vạn năng có thể giải quyết mọi khó
khăn".
Là nhà duy vật macxít, Hồ Chí Minh hiểu hành động của con người luôn gắn liền với nhu cầu và lợi ích
của họ, vì vậy, đi đôi với các biện pháp chính trị - tinh thần, Hồ Chí Minh không coi nhẹ hay bỏ qua các
động lực vật chất, khéo léo kết hợp các loại động lực với nhau, tạo sức mạnh tổng hợp, thúc đẩy tính năng
động cách mạng của con người. Người tôn trọng và khuyến khích lợi ích cá nhân chính đáng của người
lao động, chủ trương kết hợp hài hoà ba lợi ích, sao cho "Nhà nước, hợp tác xã và xã viên cùng có lợi".
Nhưng muốn khai thông động lực thì phải khắc phục trở lực kìm hãm sự phát triển của con người, trong
đó "căn bệnh mẹ" cực kỳ nguy hiểm là chủ nghĩa cá nhân phải được phê phán mạnh mẽ, kiên quyết tẩy
trừ
Tư tưởng về chiến lược "trăm năm trồng người"
Từ quan điểm về con người đến quan điểm về chiến lược "trồng người" là một bước phát triển hợp logic
của tư tưởng triết học Rồ Chí Minh. Để thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội thì chiến lược con người
phải đi trước một bước. Từ rất sớm, Người đã nêu ra một luận điểm nổi tiếng: "Muốn xây dựng chủ nghĩa
xã hội thì trước hết cần có những con người XHCN". Do đó, "vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì
lợi ích trăm năm thì phải trồng người". "Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan
trọng và rất cần thiết" (Di chúc).
Quan điểm "trồng người" của Hồ Chí Minh rất toàn diện và phong phú, ở mỗi thời kỳ cách mạng, Người
nêu ra những yêu cầu khác nhau. Bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người nhấn mạnh đến các
yêu cầu sau đây:
Có đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, không tham ô, lãng phí, quan liêu, có ý
thức làm chủ và tinh thần tập thể.
Có ý chí học hỏi, không ngừng vươn lên làm chủ những thành tựu văn hoá, khoa học - kỹ thuật, những
hiểu biết mới của thời đại.
Có tinh thần tìm tòi, nghiên cứu, sáng tạo, nhạy bén với cái mới, biết vận dụng nó vào thực tế công tác để
nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chiến lược trồng người là một hệ thống chặt chẽ, phong phú, vừa
khoa học, vừa cách mạng, là một bộ phận hợp thành của tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, một đóng góp
quan trọng vào việc làm phong phú triết học về con người của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng cứu dân, cứu nước, tìm một con đường phát triển mới để canh tân đất
nước, Hồ Chí Minh đã tìm đến nhiều học thuyết Đông - Tây, trên hết là chủ nghĩa Mác - Lênin, đã học
hỏi, tiếp thu, dung hợp, tích hợp, hình thành cho mình một thế giới quan duy vật và phương pháp biện
chứng macxít, tạo nền tảng triết học để xây đựng lý luận, đường lối và phương pháp cho cách mạng Việt
Nam.
Triết học Hồ Chí Minh là triết học thực tiễn, biện chứng Hồ Chí Minh là biện chứng thực hành, nó được
thể hiện và xuyên thấm trong toàn bộ cuộc đời, sự nghiệp và trước tác của Hồ Chí Minh. Từ những hoạt
động thực tiễn phong phú ấy của Người, phân tích, hệ thống hoá, có thể rút ra tư tưởng và phương pháp
triết học của Hồ Chí Minh. Đó là một việc làm công phu và lâu dài. Mấy nội dung cơ bản trong tư tưởng
triết học Hồ Chí Minh được trình bày trên đây mới chỉ là những khái quát bước đầu, chắc chắn cần được
bổ sung và hoàn chỉnh cùng với những thành tựu mới trên con đường lâu đài nghiên cứu tư tưởng triết
học Hồ Chí Minh.
Theo Tạp chí Triết học
Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm tuyển chọn, đào tạo cán bộ viên
chức Nhà nước
Lê Ngân Mai
Tạp chí Hà Nội ngàn năm
Vấn đề cốt yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc phải gắn liền với
CNXH, công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta là một cuộc cách mạng mang
tính toàn diện bao gồm 3 lĩnh vực: Chính trị tư tưởng, Cơ cấu kinh tế, Văn hóa
xã hội. Nhưng muốn xây dựng thành công CNXH thì trước hết phải hoàn thiện
được yếu tố chủ đạo là tư tưởng và con người XHCN, trong đó người cán bộ rất
quan trọng bởi: "Con người XHCN là con người có đạo đức cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư, một lòng một dạ phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng".
Xác định được vị trí và vai trò của cán bộ là tiền vốn của đoàn thể - cái gốc của mọi công việc nên Chủ
tịch Hồ Chí Minh yêu cầu người cán bộ mẫu mực phải có đức có tài lấy Đức là chính, phải khắc phục
mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, xa rời quần chúng, hống hách kiểu quan cách mạng, quan liêu,
tham nhũng, vô trách nhiệm dẫn đến chia rẽ, cục bộ địa phương và kết quả tất yếu là hỏng việc. Tư tưởng
về cán bộ của Người bao gồm một hệ thống nhằm hoàn thiện và nâng cao những phẩm chất tốt đẹp của
cán bộ, đảng viên, thể hiện sinh động sự phát triển tất yếu của con người mới XHCN. Những tiêu chuẩn

cụ thể của cán bộ công chức Nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh là:
1) Phải trung thành với Tổ quốc với cách mạng, chế độ XHCN.
2) Có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ giỏi.
3) Phải có mối liên hệ mật thiết với mọi người xung quanh.
4) Dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, nhất là trong những tình huống khó khăn.
Thất bại không hoang mang, tự ti. Thắng lợi không kiêu ngạo, tự mãn. Khi nước ta vừa giành dược độc
lập, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh đã kêu gọi chọn nhân tài kiến quốc: "Kiến thiết cần có
nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối,
khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển càng thêm nhiều”. Ngay sau cuộc tổng tuyển cử. Chủ
tịch Hồ Chí Minh tiếp tục quan tâm đến việc lựa chọn người tài giỏi ra giúp dân, giúp nước và lưu ý đến
việc chọn lựa cán bộ công chức có đủ tiêu chuẩn vào làm việc trong các cơ quan, bộ máy hành chính
Nhà nước. Các kỳ thi tuyển công chức vào mọi ngạch, bậc của nền hành chính quốc gia đã được thực thi
theo quy định chung. Sắc lệnh số 188 năm 1948 và số 76 năm 1950 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban
hành đã nêu cụ thể các môn thi vào biên chế Nhà nước như sau:
Lĩnh vực chính trị: Thi các môn đại cương về hiến pháp và cách tổ chức chính quyền các nước, về địa vị
của nước Việt Nam ở Đông Nam Châu Á và thế giới.
Lĩnh vực pháp luật: Thi môn hiểu biết về chính thể cộng hòa dân chủ Việt Nam, về chế độ bầu cử, về tổ
chức Nghị viện theo hiến pháp năm 1946, về tổ chức hành pháp, tư pháp, kiểm soát ngân sách, chính
sách thuế.
Lĩnh vực địa lý: Thi các môn nói về địa lý tự nhiên và địa lý kinh tế, xã hội của Việt Nam như: địa thế
núi sông, cao nguyên, bình nguyên, bờ biển, thảo mộc, khí hậu, dân số, canh nông lâm sản, thi hiểu biết
địa lý các nước lân cận như Lào, Campuchia, Myanmar, Thái Lan, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ
Lĩnh vực lịch sử: Thi những kiến thức hiểu biết về triều đình nhà Nguyễn, về sự xâm lược của Pháp và
sự thành lập của chế độ cai trị của Pháp ở Việt Nam và Đông Dương, hiểu biết về những phong trào xã
hội, tư tưởng và học thuật ở Việt Nam đầu thế kỷ XX, sự thành lập nước Việt Nam DCCH, về cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
Thi ngoại ngữ: Cho phép tình nguyện dịch một bài tiếng Anh ở trình độ trung học chuyên ngành, dịch
một bài tiếng Hoa ở trình độ trung học chuyên khoa, viết một bức thư bằng tiếng Pháp.
Vào thời kỳ cả dân tộc ta đang tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp gay go và quyết liệt nên
chương trình thi tuyển này chưa ứng dụng được nhiều nhưng ý nghĩa của nó rất quan trọng đối với sự

phát triển và hoàn thiện cán bộ, công chức trong bộ máy Nhà nước. Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay và
tại thời điểm đất nước ta đang thực hiện công cuộc cải cách hành chính triệt để, thì chương trình thi
tuyển này có thể đưa vào vận dụng tùy đối tượng và ngành cụ thế, đảm bảo đúng yêu cầu phù hợp với
con người và công việc. Thực tế giữa khuynh hướng thị trường hóa nhiều thành phần kinh tế, không ít
cán bộ công chức vẫn còn suy nghĩ lạc hậu rằng cứ bám vào Nhà nước hưởng lương công chức, đến khi
về hưu lại hưởng tiếp chế độ dưỡng lão đến cuối đời. Vì tư duy bao cấp ỉ lại như thế cho nên trong rất
nhiều cơ quan hành chính sự nghiệp, người làm thì ít người chơi thì nhiều hoặc có làm cũng không có
hiệu quả, lãng phí thời gian tiền của của Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nghiêm khắc phê
phán những mục đích, phương pháp học tập sai lệch, những kiểu lý luận sách vở quanh co, bao biện,
hoàn toàn xa rời thực tế, càng không nên học vì những ý định tầm thường như thế để lấy danh hiệu, để
trang sức, để đem lòe thiên hạ hoặc tạo cho mình một cái vốn liếng cá nhân sau này đợi cơ hội đưa ra
mặc cả với tổ chức với cơ quan đoàn thể. Những cán bộ công chức mang trong đầu quan niệm sai trái về
học tập nâng cao tri thức kiểu ấy hoàn toàn sa vào chủ nghĩa cá nhân là: "Việc gì cũng chỉ lo cho lợi ích
riêng của mình không quan tâm đến lợi ích chung của tập thể miễn là mình béo mặc thiên hạ gầy. Nó là
mẹ đẻ ra tất cả mọi tính hư nết xấu như lười biếng, suy bì, kiêu căng, kèn cựa, lãng phí tham ô ".
Vì vậy để phục vụ cho sự phát triển chung của toàn xã hội, các cơ quan hành chính sự nghiệp phải nhanh
chóng kiện toàn tổ chức, chuẩn hóa cán bộ, cốt tinh chứ không cốt nhiều. Một người cán bộ công chức
hiện đại cần đáp ứng những yêu cầu tối thiểu như sau:
Trung thành với sự nghiệp xây dựng và đổi mới của đất nước, quyết tâm phấn đấu cho một xã hội công
bằng - dân chủ - văn minh, đặc biệt cảnh giác với những chiêu bài chính trị phản động và diễn biến hòa
bình trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng.
Nắm vững những chủ trương chính sách mới nhất của Đảng và Nhà nước, những bộ luật văn bản chỉ thị
trong lĩnh vực văn hóa - thông tin - báo chí.
Cần phải có kiến thức nhất định về vị trí vai trò, uy tín và quá trình phát triển của nước ta trong khu vực
và trên trường quốc tế. Đặc biệt là phải thuộc hến trình lịch sử dân tộc, củng cố lòng tự hào dân tộc và có
thể tìm hiểu thêm một số quốc gia láng giềng có quan hệ mật thiết với nước ta về vị trí địa lý và truyền
thống hữu nghị.
Trong lĩnh vực chuyên môn hẹp phải thật sự giỏi và chắc chắn. Không ngừng học hỏi vươn lên, làm chủ
công việc và đạt hiệu quả cao. Phải có tinh thần tương trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các đồng nghiệp, luôn
luôn nhiệt tình mình vì mọi người, mọi người vì mình.

Trong thời đại cách mạng khoa học thông tin thay đổi từng ngày, từng giờ thì người cán bộ viên chức
muốn vững vàng, tự tin giải quyết được công việc cần phải học thêm ngoại ngữ và tin học để tăng hiệu
quả công tác giảm lãng phí thời gian và thay đổi công việc một cách văn minh hơn, phù hợp với xu
hướng hội nhập quốc tế của nước ta.
Dựa trên những tiêu chuẩn mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra cho cán bộ viên chức, nhằm đáp ứng tết nhu
cầu công tác cũng như góp phần vào quy trình cải cách hành chính mà Đảng và Nhà nước ta đang thực
hiện, mỗi cán bộ viên chức cần phải cố gắng phấn đấu vươn lên, luôn ghi nhớ lời dạy của Chủ tịch Hồ
Chí Minh kính yêu: "Bất kỳ ở hoàn cảnh nào, đảng viên và cán bộ cần phải luôn luôn ra sức phấn đấu, ra
sức làm việc, cố gắng học tập để nâng cao trình độ văn hóa, tri thức và chính trị của mình. Luôn luôn giữ
gìn kỷ luật. Luôn luôn xứng đáng là một người cán bộ, một người Đảng viên".
Theo Tạp chí Hà Nội ngàn năm
Đổi mới - linh hồn của tư tưởng Hồ Chí Minh
Nguyễn Huy
Tạp chí Triết học
Với chủ trương đổi mới, Đại hội lần thứ VI của Đảng ta đã có cống hiến to lớn,
mang ý nghĩa lịch sử đối với Đảng, với dân, với nước. Đại hội tuyên bố: "Đối
với nước ta, đổi mới đang là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn
đề có ý nghĩa sống còn".
Đây quả là những chữ vàng sẽ mãi mãi khắc sâu trong tâm khảm của mỗi người
dân Việt Nam. Thực tế cho thấy, mỗi khi Đảng ta trở về với tư tưởng Hồ Chí
Minh trong những hoàn cảnh cách mạng gặp khó khăn, đất nước lại như từ chỗ
tối bước sang chỗ sáng, từ ngõ cụt bước ra con đường lớn rộng thênh thang. Và
công lao bất hủ của Đại hội VI là đã sáng suốt trở về với tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh, đề xướng
chủ trương đổi mới để Đảng ta lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đưa đất nước thoát khỏi tình
trạng trì trệ, bế tắc và khủng hoảng kinh tế - xã hội đã xuất hiện từ cuối những năm 70, ngay sau khi tiến
hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa theo nếp cũ, bằng những biện pháp hành chính, mệnh lệnh, chủ
quan duy ý chí nhằm thực hiện việc quá độ trực tiếp lên CHXH trên phạm vi cả nước.
Nhìn vào quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta sẽ thấy rất rõ đó là một quá trình đổi mới
liên tục trong nhận thức tư tưởng, cũng như trong hoạt động thực tiễn của Người. Có thể nói, Hồ Chí
Minh là con người đổi mới, là một người đổi mới bẩm sinh, một thiên tài đổi mới. Ngay từ năm 1927,

trong Đường cách mệnh, Người đã viết: "Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái
tất". Danh từ "đổi mới" là danh từ của Hồ Chí Minh, là danh từ mà Người đã nêu ra từ năm 1949 trong
bài Dân vận bất hủ: "Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân". Bốn năm sau, trong bài nói
chuyện trong buổi khai mạc lớp chỉnh huấn cán bộ Đảng, dân, chính ở cơ quan trung ương, ngày
6/2/1953, Người đã đưa ra luận điểm bất diệt:
“Xã hội bây giờ ngày mót phát triển. Tư tưởng hành động cũng phát triển. Nên cứ giữ lấy cái kẹp giấy cũ
không thay đổi là không đi đến đâu cả” (chúng tôi nhấn mạnh - N.H).
Và, nhiệm vụ đổi mới căn bản và toàn diện, "chống lại những gì cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới
mẻ tốt tươi" là nhiệm vụ mà Hồ Chí Minh đã xác định trong Di chúc của Người. Có thể nói, đổi mới
chính là linh hồn của tư tưởng Hồ Chí Minh. Kết luận này được rút ra từ những sự kiện lịch sử.
Ngay từ lúc mới 13 tuổi, khi lần đầu được tiếp xúc với những từ Tự do - Bình đẳng - Bác ái trong tiếng
Pháp, Người nảy ra ý nghĩ mới lạ, ý nghĩ mà lịch sử về sau đã chứng minh tính chất phi thường của nó -
"muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy". Ý nghĩ
này thể hiện tính ham hiểu biết, muốn tìm hiểu sự vật đến nơi đến chốn của Hồ Chí Minh. Đến khi 15
tuổi, Người đã nuôi chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Người tham gia công tác bí mật,
làm liên lạc. Người khâm phục những nhà yêu nước tiền bối Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan
Chu Trinh và Phan Bội Châu, nhưng thấy rằng phải có cách làm khác với cách làm của các cụ. Trong khi
các trí thức và thanh niên có tinh thần yêu nước đua nhau theo phái Đông du sang Nhật thì Người lại
chọn con đường sang nước Pháp và các nước khác để xem họ làm như thế nào rồi trở về giúp đồng bào.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ
hai của Đảng (2-1951).
Trước khi đi theo Quốc tế cộng sản, Người chưa biết chiến lược, sách lược là gì, không rõ CHXH và chủ
nghĩa cộng sản khác nhau thế nào, cũng chưa đọc một tác phẩm nào của Lênin, vậy mà khi cần phải có
quyết định trong việc lựa chọn giữa Quốc tế II và Quốc tế III, Người đã nhạy bén chỉ dựa vào một tiêu
chí duy nhất là Quốc tế nào ủng hộ các dân tộc thuộc địa, để đưa ra quyết định đúng đắn.
Trong khi chủ nghĩa Mác - Lênin và Quốc tế cộng sản đặc biệt nhấn mạnh đấu tranh giai cấp chống địa
chủ, tư bản và coi việc chống chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa dân tộc là nhiệm vụ hàng
đầu, trong khi Quốc tế cộng sản có quan điểm cho rằng công cuộc giải phóng thuộc địa chỉ có thể thực
hiện sau khi giai cấp vô sản ở chính quốc giành thắng lợi trong cách mạng vô sản, thì Người đã không

như thường lệ, chỉ giản đơn phụ họa và chứng minh cho những quan điểm đó, mà đã khảng khái và dũng
cảm nêu lên những quan điểm mới, khác hẳn. Trong Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, Người
đã đưa ra chủ trương tiến hành khởi nghĩa vũ trang ở các nước Đông Dương. Ở đây, một là, Hồ Chí
Minh đã xác định rõ con đường đấu tranh vũ trang mang tính quần chúng để giải phóng dân tộc, chứ
không chờ đến sau khi "giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến" như Tuyên
ngôn thành lập của Quốc tế cộng sản năm 1919 và Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Quốc tế cộng sản
về sau (1928) đã xác định. Hai là, cuộc khởi nghĩa vũ trang có thể nổ ra trùng hợp với cuộc cách mạng
vô sản Pháp, chứ không phải đợi sau khi cuộc cách mạng vô sản Pháp thắng lợi rồi mới tiến hành. Đây là
tư duy đổi mới bước đầu của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc. Và, như chúng ta đều biết,
về sau, khi đã cân nhắc, xem xét kỹ lưỡng mọi mặt, Hồ Chí Minh đã đạt đến sự thăng hoa trong tư tưởng:
cách mạng giải phóng dân tộc có thể thành công trước cách mạng vô sản ở các nước tư bản chính quốc
và giúp cho phong trào công nhân ở các nước chính quốc.
Những quan điểm đổi mới táo bạo và to lớn được viết trong Báo cáo trên thể hiện tinh thần đổi mới, tầm
cao trí tuệ và khí phách anh hùng cách mạng của Hồ Chí Minh. Nó chỉ có thể là sản phẩm phi thường
của một trí tuệ phi thường, một tư duy đổi mới phi thường. ở đây, xin phép được lưu ý ràng, Hồ Chí
Minh đã viết báo cáo đó trong lần đầu tiên đến Mátxcơva vào năm 1924. Lúc đó, Người mới theo Lênin
và Quốc tế cộng sản được 4 năm trời, và nhiều lắm cũng chỉ mới qua một lớp học ngắn ngày và có lẽ là
ngẫu nhiên tại Trường Đại học phương Đông. Vậy mà, Người đã dũng cảm và trung thực, bất chấp mọi
sự nguy hiểm về mặt chính trị có thể xảy ra đối với bản thân, viết ra những cảm nhận và suy nghĩ độc
đáo hết sức khác thường của mình, xuất phát từ thực tiễn, lấy thực tiễn và lợi ích của đất nước làm thước
đo chân lý duy nhất. Điều đáng lưu ý nữa là, văn phong của bản báo cáo là văn phong biện luận. Sau khi
nêu lên những sự thật về tình trạng giai cấp ở Việt Nam, Người đã viết: "Điều đó, không thể chối cãi
được". (Sau này, trong Tuyên ngôn độc lập, nghĩa là 31 năm sau, Người lại dùng câu: "Đó là những lẽ
phải không ai chối cãi được" sau khi nêu lên những quyền con người được ghi trong Tuyên ngôn Độc lập
năm 1776 của nước Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791, để đi
đến tuyên bố về quyền dân tộc chính đáng không thể phủ nhận của nhân dân Việt Nam).
Và, chúng ta không lấy làm lạ, từ những nhận thức phi thường ban đầu đó, về sau Hồ Chí Minh đã đi đến
những quan điểm đổi mới hết sức phi thường, những kết luận hết sức phi thường trong việc đổi mới
chiến lược, sách lược cách mạng phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam là một nước thuộc địa nửa
phong kiến. Có thể thấy, trong điều kiện giai cấp và quan hệ giai cấp như ở Việt Nam khi đó, trong điều

kiện "công nhân có thể là 2% trong dân số, không được học hành" (theo báo cáo của Nguyễn Ái Quốc
gửi Quốc tế cộng sản ngày 21/9/1923), có nghĩa là trong điều kiện giai cấp công nhân công xưởng mới ở
thời kỳ manh nha hình thành và với thực trạng giai cấp và quan hệ giai cấp đó thì liệu có thể áp dụng học
thuyết đấu tranh giai cấp, cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản quá độ trực tiếp lên CHXH của chủ
nghĩa Mác - Lênin được không, Nguyễn Ái Quốc đã dũng cảm nêu lên những nhận xét và quan điểm:
"Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây", "chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của
đất nước", "xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó" và "chúng ta phải coi chừng”! Các dân
tộc Viễn Đông có trải qua hai giai đoạn đầu (chế độ nô lệ, chế độ nông nô - N.H) không?". Có thể nói,
những nhận thức nêu lên trong bản báo cáo trên chính là ngọn nguồn tư tưởng của đường lối giương cao
ngọn cờ dân tộc dân chủ ngay từ đầu và sự đổi mới chiến lược, sách lược bước đầu được xác định ở Hội
nghị Trung ương VIII (khoá I), để rồi sau đó, được hoàn chỉnh ở Đại hội II của Đảng. Và, 29 năm sau,
trong Thường thức chính trị, Hồ Chí Minh đã trực tiếp trả lời cho những vấn đề nêu trên với những nội
dung hoàn toàn mới mẻ như sau: "Thời đại của chúng ta là thời đại mới, thời đại cách mạng thắng lợi ".
"Thời đại mới khiến cách mạng Việt Nam phải là cách mạng dân chủ mới". Và, "tuỳ theo hoàn cảnh mà
các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau để đi đến CHXH.
Đối với Việt Nam là một nước đi lên CHXH từ xã hội phong kiến thuộc địa thì phải "kinh qua chế độ
dân chủ mới, rồi tiến lên CHXH". Đồng thời, Hồ Chí Minh đã nêu lên những đặc điểm về chính trị và
kinh tế của chế độ dân chủ mới: sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện "nhân dân dân chủ chuyên chính", phát
triển nền kinh tế 5 thành phần (quốc doanh, hợp tác xã, cá thể, tư bản tư nhân, tư bản Nhà nước, trong
đó, kinh tế quốc doanh giữ vai trò lãnh đạo).
Rõ ràng, Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ thực sự là một bản báo cáo hết sức phi thường. Nó
thể hiện tính độc lập tự chủ, đổi mới trong tư duy, trong nhận thức lý luận và tính trung thực, thái độ tôn
trọng chân lý, tôn trọng sự thật, tinh thần đồng cảm và khí phách cách mạng của Hồ Chí Minh. Nó báo
hiệu sự hình thành, sự ra đời tất yếu của một hệ thống tư tưởng mới của Hồ Chí Minh. Ở đây, có thể nêu
lên một số điểm mang tính khái quát trong hệ thống tư tưởng mới đó, để chúng ta cùng suy ngẫm:
Từ "dùng sức ta mà giải phóng cho ta" đến cách mạng giải phóng dân tộc có thể giành thắng lợi trước
cách mạng vô sản ở chính quốc.
Từ "trở về trước, đi vào quần chúng đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập" đến "không có gì quý hơn
độc lập tự do".
Từ "chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước" đến cách mạng dân tộc dân chủ, Nhà nước dân chủ,

"nước ta là nước dân chữ đến Đảng chỉ có thể là Đảng của một quốc gia.
Từ "thời đại mới là thời đại cách mạng thắng lợi" đến "cách mạng Việt Nam là cách mạng dân chủ mới".
Từ "Đảng của nhân dân, Đảng của dân tộc" đến Mặt trận đại đoàn kết toàn dân, đại đoàn kết dân tộc.
Từ "quyền dân tộc của nhân dân Việt nam" đến Mặt trận quốc tế ủng hộ cách mạng Việt Nam.
Từ "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư", "nhân, nghĩa, trí, dũng, tín" đến "trăm điều phải có thần linh
pháp quyền".
Từ chiến lược, sách lược đánh thắng hai đế quốc to đến chiến lược đối ngoại hòa bình, làm bạn với tất cả
các nước, không gây thù oán với một ai.
Từ "ngoại giao và kinh tế có ảnh hưởng lẫn nhau”, "nếu mình có một chương trình kinh tế có lợi cho
người ngoại quốc, họ có thể giúp mình" đến thực hiện chính sách mở cửa", mở rộng “lưu thông trong
ngoài" để phát triển nền kinh tế "theo hướng chủ nghĩa xã hội" của đất nước.
Từ đấu tranh vũ trang đến đường lối ứng xử hiện đại: cùng giữ gìn hoà bình, cùng tôn trọng độc lập chủ
quyền của nhau, cùng đối thoại bình đẳng, cùng hiểu biết nhau, cùng thành thực tin cậy nhau, cùng nhân
nhượng, cùng thỏa thuận và hợp tác cũng có lợi.
Từ đổi mới nhận thức về CHXH đến con đường định hướng XHCN thích hợp với điều kiện thực tế của
Việt Nam.
Từ "toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, trường kỳ kháng chiến” đến "dựa vào lực lượng vĩ đại
của toàn dân", tiến hành đổi mới "chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt
tươi", tiến tới xây dựng và thực hiện thành công CHXH ở nước ta.
Nhìn vào những quan điểm mới mang tính hệ thống trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta thấy, chúng
xứng đáng được mệnh đanh là một học thuyết mới - học thuyết Hồ Chí Minh. Chúng ta không kìm được
tự hỏi: Chúng sản sinh như thế nào? Trên cơ sở nào? Trong một bài viết về tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà
cách mạng lão thành, Giáo sư sử học Trần Văn Giàu đã có lý khi đề cập đến phương pháp luận, phương
pháp tư duy Hồ Chí Minh. Đây chính là cơ sở dẫn đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Ông viết:
"Suốt đời mình, Cụ Hồ có tính quen là quan sát thực tế Sát thực tế là tính Cụ Hồ", "óc phân tích tổng
hợp của Cụ Hồ rất sắc sảo". Và, "Cụ Hồ là người Việt Nam đầu tiên đề cao tầm quan trọng của lý luận.
Theo Cụ Hồ, lý luận đối với một chính đảng quan trọng như linh hồn đối với con người. Song người ta
thấy Cụ Hồ sau khi đã vạch ra tổng lộ tuyên thì chú trọng đặc biệt đến thực tiễn. Thực tiễn có thể chứng
minh hoặc bác bỏ, hoặc đòi sửa đổi chủ trương mang tính lý luận. Thấy sai trái hay thiếu sót thì can đảm
sửa, bổ sung, hay bỏ đi, đến đây thì thực tiễn là ưu tiên. Cụ Hồ là người dám nhìn thẳng vào sự thật. Cụ

xem thực tiễn là trọng yếu số một. Cụ không thích lý luận tư biện cũng như không thích thực tiễn mù
quáng".
Đúng vậy. Chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời như trên trong các tác phẩm của Hồ Chí Minh: nói theo
tiếng nói của thực tiễn trên cơ sở phép biện chứng duy vật và lấy lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân làm
thước đo chân lý duy nhất. Trong thư từ biệt gửi các bạn cùng hoạt động ở Pháp trước khi rời Paris năm
1923, Người viết:
“Chúng ta phải làm gì? Chúng ta không thể đặt vấn đề ấy một cách máy móc. Điều đó tuỳ hoàn cảnh của
mỗi dân tộc chúng ta. Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ,
đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập".
30 năm sau, Người viết rất rõ trong Thường thức chính trị: "Tất cả những người lao động trên thế giới
đều có một mục đích chung là thoát khỏi áp bức bóc lột, được sống sung sướng tự do, tức là thực hiện
chế độ cộng sản. Nhưng để đi đến mục đích ấy, mỗi nước phải tuỳ theo điều kiện của mình mà tiến
dần"
"Tính chất thuộc địa và phong kiến của xã lội cũ Việt Nam khiến cách mạng Việt Nam phải chia làm hai
bước. Bước thứ nhất là đánh đổ đế quốc, đánh đổ củ phong kiến, thực hiện "người cày có ruộng", xây
dựng chính trị và kinh tế dân chủ mới. Trong giai đoạn này, phải bảo vệ tư sản dân tộc, vì họ cũng chống
đế quốc, chống phong kiến và họ là một lực lượng để phát triển công nghệ, nông nghiệp và thương
nghiệp. Bước thứ hai là tiến lên CHXH, tức là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản".
Thật rõ ràng, không thể đặt vấn đề một cách máy móc, giáo điều, Việt Nam nhất định sẽ đi đến CHXH
nhưng từ điểm xuất phát là xã hội thuộc của và phong kiến, nên phải theo một con đường riêng thích
hợp, mọi chủ trương chính sách đều phải xuất phát từ hoàn cảnh thực tế, cụ thể của đất nước và mỗi khi
tình hình biến đối, có điều kiện mới nảy sinh thì phải kịp thời có sự thay đổi trong nhận thức tư tưởng và
trong hành động, kể cả trong chiến lược, sách lược cách mạng, vận dụng linh hoạt phép biện chứng duy
vật, lấy lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân làm thước đo chân lý duy nhất, coi lợi ích của Tổ quốc, của
nhân dân trên hết. Đó là những cơ sở khiến cho Hồ Chí Minh, với trí tuệ phi thường của mình, sáng tạo
nên một hệ thống những quan điểm mới về chiến lược, sách lược cách mạng phù hợp với điều kiện thực
tế của Việt Nam và tính chất của thời đại mới, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác. Chúng ta không thể không chú ý, khi nói đến ưu điểm của chủ nghĩa Mác, Hồ Chí Minh chỉ nêu
"phương pháp làm việc biện chứng" thôi. Đương nhiên, điều này trước hết có nghĩa là phép biện chứng
duy vật vẫn giữ nguyên giá trị cho đến ngày nay. Những gì trái với nó đều không có cơ sở để tồn tại. Và,

đối với chúng ta, việc vận dụng nó chỉ có thể đem lại hiệu quả khi thực sự xuất phát từ thực tế, không
thoát ty điều kiện vật chất thực tế và lấy lợi ích ủa Tổ quốc, của nhân dân làm thước đo chân lý duy nhất.
Xét đến cùng, theo học thuyết Hồ Chí Minh, lợi ích của tổ quốc, của nhân dân mới là “cái bất biến”, tất
cả mọi cái khác, kể cả những quan điểm, tư tưởng, nếu muốn duy trì địa vị là chân lý hoặc trở thành chân
lý mới, đều phải phù hợp với "cái bất biến" đó. Những gì trái với nó đều không phải là chân lý, càng
không phải là chân lý mới. Người nói: “Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái
với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức không phải chân lý".
Đương nhiên, việc phát hiện và nêu lên những quan điểm mới, những chân lý mới là một việc rất không
giản đơn và dễ dàng. Những thế lực ra đời trên cơ sở những quan điểm cũ và được lợi (về chính trị, vật
chất và tinh thần) trong việc duy trì những quan điểm cũ sẽ tìm trăm phương nghìn kế chống lại bất kỳ
một quan điểm mới nào mà họ cho là có thể làm tổn hại lợi ích hoặc tình cảm riêng tư của họ. Cho nên,
một người đám nêu lên những quan điểm mới, nhất là những quan điểm mới trong lĩnh vực khoa học xã
hội, thực sự là một người "trí, nhân, dũng". Và, Hồ Chí Minh chính là một con người "trí, nhân, dũng" vĩ
đại.
Theo Tạp chí Triết học
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
Trịnh Doãn Chính
Tạp chí Triết học
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về giáo dục luôn có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Trong sự
nghiệp đào tạo nguồn nhân lực cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh" ở nước ta, tư tưởng đó của Người càng có ý nghĩa thiết thực.
Tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh không bó hẹp trong việc giáo dục tri thức, học vấn cho con người, mà
có tính bao quát, sâu xa, nhưng vô cùng sinh động, thiết thực, nhằm đào tạo ra những con người toàn
diện, vừa "hồng" vừa "chuyên", có tri thức, lý tưởng, đạo đức sức khoẻ, thẩm mỹ
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vừa là thành qủa của sự chắt lọc tinh tế tinh hoa văn hoá dân tộc và
nhân loại, vừa mang đậm hơi thở của cuộc sống. Do vậy, ở Hồ Chí Minh, lý luận giáo dục và thực tiễn
giáo dục có sự thống nhất hữu cơ, không tách rời nhau. Đúng như Nghị quyết UNESCO đánh giá: "Sự
đóng góp quan trọng về nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực văn hoá, giáo dục và

nghệ thuật là kết tinh của truyền thống hàng ngàn năm của nhân dân Việt Nam và những tư tưởng của
Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình
và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau”.
Có thể nói, tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là sự kế thừa, tiếp thu có chọn lọc, sáng tạo và phê phán từ
các tiền đề: Một là, chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn hoá, giáo dục và tinh thần nhân ái Việt Nam,
Hai là, triết lý giáo dục phương Đông, đặc biệt là triết lý nhân sinh của Nho, Phật, Lão và Ba là, những tư
tưởng tiến bộ thời kỳ cận đại. Nhưng tiền đề quan trọng nhất, cái tạo nên sự phát triển về chất trong tư
tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác - Lênin. Trên cơ sở đó và cùng với quá trình hoạt động
thực tiễn cách mạng sinh động, phong phú của mình, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm hết sức sâu sắc
và mới mẻ về vai trò, mục đích, nội đung và phương pháp giáo dục.
Về vai trò và mục đích của giáo dục. Theo Hồ Chí Minh, giáo dục có vai trò hết sức to lớn trong việc cải
tạo con người cũ, xây dựng con người mới. Người nói: "Thiện, ác vốn chẳng phải là bản tính cố hữu,
phần lớn đều do giáo dục mà nên".
Không những thế, giáo dục còn góp phần đắc lực vào công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Người
kêu gọi:
"Quốc dân Việt Nam!
Muốn giữ vững nền độc lập,
Muốn làm cho dân mạnh nước giàu,
Mọi người Việt Nam phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và
trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ".
Từ thực trạng nền giáo dục dưới sự đô hộ của thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đã vạch trần và lên án chính
sách giáo dục của thực dân Pháp là làm cho "ngu dân dễ trị". Bằng ngòi bút với lời lẽ sắc bén, Người đã
chỉ rõ bộ mặt thực của cái gọi là "khai hoá văn minh" của thực dân Pháp: những người đến trường được
"đào tạo nên những kẻ làm tay sai, làm tôi tớ cho một bọn thực dân người Pháp", những người không
đến trường thì bị đầu độc bằng các thói hư, tật xấu như rượu chè, cờ bạc, thuốc phiện. Do vậy, theo
Người, để khẳng định chính mình, mỗi người phải thẳng thắn đấu tranh với cái lỗi thời, lạc hậu và các tệ
nạn xã hội. Người viết: "Phải ra sức tẩy sạch ảnh hưởng giáo dục nô dịch của thực dân còn sót lại như:
Thái độ thờ ơ đối với xã hội, xa rời đời sống lao động và đấu tranh của nhân dân, học để lấy bằng cấp,
dạy theo lối nhồi sọ. Và cần xây dựng tư tưởng dạy và học để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân". Thật
vậy, ngay từ những năm đầu bước vào đời, khi tham gia giảng dạy ở trường Dục Thanh, Phan Thiết, tại

đây, bên cạnh việc truyền bá những kiến thức về văn hoá, Hồ Chí Minh còn đặc biệt chú trọng đến việc
truyền thụ tinh thần, truyền thống yêu nước thương nòi của dân tộc.
Nhưng mục đích cao cả của Hồ Chí Minh - mục đích mà Người nguyện suốt đời phấn đấu - là mong cho
dân tộc, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Bởi, đối với Người, "Nếu nước độc lập mà dân
không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Suốt đời, Hồ Chí Minh mong
muốn xây dựng một xã hội mới về chất, cao hơn hẳn xã hội cũ - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản Chủ
nghĩa. Và để xây dụng chủ nghĩa xã hội, theo Người, "trước hết cần có những con người xã hội chủ
nghĩa”. Đào tạo con người xã hội chủ nghĩa không có con đường nào khác ngoài giáo dục tri thức khoa
học và lý tưởng, đạo đức xã hội chủ nghĩa. Đó là nền giáo dục nhằm phát triển con người toàn diện, vừa
“hồng” vừa "chuyên" trong thời đại mới. Và như vậy, "con người xã hội chủ nghĩa", con người toàn diện,
"nhất định phải có học thức. Cần phải học văn hoá, chính trị, kỹ thuật. Cần phải học lý luận Mác - Lênin
kết hợp với đấu tranh và công tác hàng ngày. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc luyện "tài", rèn
"đức" cho cán bộ. Bởi, theo Người, "có tài mà không có đức, ví như một anh làm kinh tế tài chính rất
giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã hội, mà còn có hại cho
xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài ví như ông bụt không làm hại gì nhưng cũng không lợi gì cho
loài người".
Đạo đức trong quan niệm của Hồ Chí Minh được coi như "cái gốc" của cây, "cái nguồn"của sông, do đó,
theo Người, "người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh
đạo được nhân dân". Như vậy, đạo đức mà Hồ Chí Minh quan niệm hoàn toàn khác với đạo đức của chế
độ thực dân phong kiến "đầu ngược xuống đất, chân chổng lên trời". Đạo đức mà Người hướng tới là đạo
đức cách mạng, đạo đức của giai cấp công nhân, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, thực
hành nhân, nghĩa, trí, dũng chống quan liêu, tham ô, lãng phí. Còn tài là giỏi về kiến thức chuyên môn
và giỏi về cách thức, phương pháp vận dụng kiến thức đó vào hoạt động thực tiễn, làm cho ích nước lợi
dân. Tài không có nghĩa là kiến thức hoàn chỉnh, tuyệt đối, khép kín, mà là một kiến thức mở, "dĩ bất
biến, ứng vạn biến", luôn được bổ sung và phát triển qua thực tiễn cách mạng sinh động. Do đó, theo
Người, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là "học tập cái tinh thần xử trí mọi việc học tập những chân lý
phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta".
Người có tài tham gia hoạt động thực tiễn phải biết dựa vào dân, bởi theo Hồ Chí Minh, "có dân là có tất
cả". Người viết:
"Dễ mười lần không dân cũng chịu,

Khó trăm lần dẫn liệu cũng xong".
Là Người luôn quan tâm, chăm lo đến đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân, Người rất
chú trọng việc giáo dục nâng cao trình độ văn hoá cho dân để dân "làm ăn có ngăn nắp", "bớt mê tín
nhảm", "bớt đau ốm", "nâng cao lòng yêu nước" và "để thành người công dân đứng đắn”. Người chỉ rõ:
"Trình độ văn hoá của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát
triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân cũng là một việc làm cần thiết để xây dựng nước
ta thành một nước hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, văn minh và giàu mạnh".
Mục đích trọng tâm và xuyên suốt tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là vì con người, cho con người, là xây
dựng con người mới. Nhưng do yêu cầu của mỗi thời kỳ cách mạng khác nhau, Hồ Chí Minh đã đề ra
nhiệm vụ giáo dục khác nhau cho phối hợp. Ở thời kỳ chuẩn bị thành lập Đảng, Người tập trung vào việc
triển khai các lớp huấn luyện tại Quảng Châu, Trung Quốc nhằm nâng cao trình độ nhận thức cho cán bộ
về con đường cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Đến giai đoạn toàn quốc kháng chiến và xây
dựng nền dân chủ, Người kêu gọi sửa đổi giáo dục cho phù hợp với việc đào tạo nhân tài kháng chiến
kiến quốc. Tất cả giáo dục tập trung phục vụ kháng chiến kiến quốc. Bước sang giai đoạn cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc, mục đích giáo dục lại gắn liền với tình hình mới. Đó là thời kỳ rất cần những
con người làm chủ xã hội, làm chủ sản xuất, biết quản lý cơ quan, xí nghiệp, trường học
Về phương pháp giáo dục. Tuy Hồ Chí Minh không để lại cho chúng ta một tác phẩm, một hệ thống lý
luận về phương pháp giáo dục, nhưng những việc làm thiết thực, những bài viết ngắn gọn, súc tích của
Người đã hàm chứa các phương pháp giáo dục mẫu mực. Người lấy nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn làm nguyên tắc cơ bản cho việc xây dựng các phương pháp về giáo dục. Nguyên tắc này
được Người sử dụng trong việc giáo dục cán bộ, đảng viên, thanh thiếu niên, công nhân, nông dân, bộ
đội, trí thức, học sinh, sinh viên… Nó được coi như "kim chỉ nam" để lồng dẫn nhận thức, hành động và
bồi dưỡng tinh thần yêu nước cho tất cả mọi người. Hơn nữa, nguyên tắc này có tính chất quyết định
trong việc chuyển hướng giáo dục và trở thành đặc trưng của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. Người nhấn
mạnh: "Học phải suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học với hành
phải kết hợp với nhau”.
Để nâng cao trình độ nhận thức của người lao động, Hồ Chí Minh cho rằng cần có quan điểm dân chủ,
thẳng thắn, không nhồi sọ và cần có sự đối thoại trong quá trình học tập, nhận thức. Người chỉ rõ: "Mọi
người được hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến, dù đúng hoặc không đúng cũng vậy. Song không được nói
gàn, nói vòng quanh". "Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư

tưởng hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý". Từ đó, Hồ Chí Minh kêu gọi cán bộ, nhà giáo phải biết tôn
trọng ý kiến người khác, không nên có thành kiến đối với các ý kiến trái với ý kiến của mình.
Trong khi viết và nói, Hồ Chí Minh luôn dùng các khái niệm giản dị, dễ hiểu, nhưng văn phong vẫn
trong sáng, ý tưởng phong phú. Phong cách đó làm cho mọi tầng lớp, mọi người ở trình độ khác nhau
đều hiểu. Đối với Hồ Chí Minh, viết và nói là làm cho người khác hiểu, cho nên viết và nói phải biết
cách. Viết và nói phải thiết thực, ngắn gọn, rõ ràng, dễ nhớ và phải xuất phát từ người đọc, người nghe.
Trong giáo dục, theo Hồ Chí Minh, cần có phương pháp phù hợp với điều kiện giáo dục và đối tượng
giáo dục. Giáo dục phải căn cứ vào "trình độ văn hoá, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh
nghiệm tranh đấu, lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng". Cần có phương pháp tổ chức
giáo dục sao cho bảo đảm được sự phù hợp giữa điều kiện, hoàn cảnh giáo dục với đối tượng giáo dục.
Người viết: “công nhân, nông dân bận làm ăn, nếu dạy không hợp với người học, với làm ăn, bắt phải
đến lớp có bàn có ghế là không ăn thua. Phải tuý theo hoàn cảnh làm ăn mà tổ chức học mới duy trì được
lâu dài, mới có kết quả tốt".
Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc kết hợp các hình thức giáo dục, không tuyệt đối hoá bất cứ một hình
thức giáo dục nào. Người viết: "Giáo dục dù trong nhà trường có tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia
đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn". Cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh luôn là
tấm gương sáng cho mọi người noi theo. Trong cuộc sống, trong việc làm Hồ Chí Minh luôn là người
đi đầu. Phương pháp làm gương là một biện pháp hữu hiệu nhất trong việc thống nhất giữa lời nói và
việc làm. Người dạy: "Mình phải làm gương, gắng làm gương trong anh em, và khi đi công tác, gắng làm
gương cho dân. Làm gương về cả ba mặt: tinh thần, vật chất và văn hoá".
Đối với Hồ Chí Minh, tất cả các phương pháp giáo dục như phương pháp đối thoại, phương pháp học đi
đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn, phương pháp làm gương, phương pháp kết hợp giữa gia đình, nhà
trường và xã hội đều nhằm mục đích "nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng", nâng cao
nhận thức, chất lượng và hiệu quả giáo dục. Các phương pháp này vừa mang tính truyền thống, lại vừa
hiện đại, vừa hệ thống, khoa học, lại vừa cụ thể, thiết thực, luôn gắn với đời sống và thời đại.
Nhận thức sâu sắc về vai trò của giáo dục, Hồ Chí Minh đã gắn bó cả cuộc đời mình với việc chăm lo,
mở mang và xây dựng một nền giáo dục mới, nền giáo dục xã hội chủ nghĩa - một nền giáo dục mà mọi
người đều có cơ hội phát huy khả năng sáng tạo, mọi người đều được học hành, không phân biệt giai
cấp, tuổi tác, trình độ, giới tính
Kế tục và quyết tâm thực hiện thắng lợi sự nghiệp to lớn và cao cả đó của Người, Văn kiện Hội nghị lần

thứ hai BCH Trung ương khoá VIII đã xác định nhiệm vụ và mục đích cơ bản của giáo dục Việt Nam là
"nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá
nhân loại phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính
tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng
thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật, có sức khoẻ, là những người kế
thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên" như lời căn dặn của Bác Hồ. Và mới đây, tại
Đại hội Đảng lần thứ IX, một lần nữa Đảng ta khẳng đinh: "Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong
những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy
nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững" "Tiếp
tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường
lớp và hệ thống quản lý giáo dục, thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá. Phát huy tinh thần độc
lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay
nghề, đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng những hình thức giáo dục chính quy và không
chính quy, thực hiện "giáo dục cho mọi người", "cả nước trở thành một xã hội học tập”, thực hiện
phương châm "học đi đôi với hành", giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn với xã hội.
Hơn 50 năm qua, tư tưởng Hồ Chí Minh về phương châm, chiến lược, mục đích, nội dung, phương pháp
giáo dục - đào tạo con người luôn soi sáng sự nghiệp trồng người ở Việt Nam. Tư tưởng đó không chỉ là
cơ sở lý luận cho việc xác định chiến lược đào tạo con người, chủ trương, đường lối chỉ đạo phát triển
nền giáo dục Việt Nam của Đảng ta qua các thời kỳ cách mạng, mà còn là những bài học, những kinh
nghiệm thực tiễn giáo dục hết sức sinh động, thiết thực và hiệu quả đối với người làm công tác giáo dục
nói riêng, ngành giáo dục nói chung hiện nay.
Theo Tạp chí Triết học
Về tư tưởng giáo dục Arixtốt
Nguyễn Bá Thái
Tạp chí Triết học
Người ta đã biết rõ về Arixtốt với tư cách nhà tư tưởng vĩ đại nhất của thời cổ
đại, khối óc bách khoa nhất trong số các nhà triết học Hy Lạp cổ đại, người
đặt nền móng cho logic học. Nhưng có lẽ còn ít người biết về ông với tư cách

nhà giáo dục, người mà cách đây hơn hai nghìn năm, trong các tác phẩm Về
giáo dục, Chính trị học và Đạo đức học đã đưa ra những quan điểm hết sức
sâu sắc về vai trò, mục đích của giáo dục, về hệ thống giáo dục và sư phạm
học
Về vai trò, mục đích của giáo dục
Theo quan niệm thông thường, mọi sự giáo dục, dù công khai hay không công khai, đều hướng tới một
lý tưởng nhân đạo Nhưng đối với Arixtốt, giáo dục như là cứu cánh của con người, của nhân loại, là điều
kiện rất quan trọng để cá nhân hoà đồng với xã hội. Arixtốt cho rằng tài sản tối cao mà mọi người đều
mong ước, đó là hạnh phúc. Nhưng con người hạnh phúc của Arixtốt không phải là con người hoang dại,
không phải là con người ở tình trạng tự nhiên, mà là con người được giáo dục, con người sung sướng,
sống tốt, có đạo đức ông tự đặt câu hỏi: Có phải hạnh phúc là một cái gì có thể học được hay thu nhận
được qua tập quán, qua các cuộc tập dượt, hoặc cuối cùng, có phải hạnh phúc đến với chúng ta do sự
chia sẻ của một ơn huệ thần thánh nào đó hay chỉ là do sự may rủi.
Arixtốt cho rằng, ở con người có hai phẩm hạnh cơ bản là phẩm hạnh trí tuệ vả phẩm hạnh luân lý. Phẩm
hạnh trí tuệ phụ thuộc phần lớn vào học vấn đã tiếp thu được, cả cho sự sản sinh, sự lớn lên và do vậy,
phẩm hạnh ấy cần đến kinh nghiệm và thời gian. Còn phẩm hạnh luân lý là sản phẩm của tập quán và do
vậy, không có một phẩm hạnh luân lý nào được sản sinh do tự nhiên (mang tính bẩm sinh). Ông viết:
"Người ta muốn trở thành người tất thì phải tiếp nhận một sự giáo dục và các tập quán của con người
tất".
Như vậy, trong quan niệm của Arixtốt, phẩm hạnh trí tuệ được hình thành thông qua giáo dục, còn phẩm
hạnh luân lý được hình thành thông qua tập quán và do vậy, ngay từ khi còn nhỏ, con người cần được
giáo đục cả về kiên thức và tập quán của loài người.
Arixtốt cho rằng ba yếu tố làm cho con người trở thành người tất và đạo đức là: tư chất, tập quán và lý trí
(raison). Con người, theo ông ngay từ khi sinh ra đã có tư chất của một con người, đã có một số khuynh
hướng phát triển về thể xác và tinh thần. Nhưng cũng có nhiều phẩm chất (năng khiếu) vốn có ở con
người lại chẳng có lợi ích gì cho con người, bởi các tập quán mà người ta tiếp nhận được từ giáo dục
trong gia đình và xã hội đã làm biến đổi chúng, thậm chí còn làm cho chúng mất hẳn. Hơn nữa, dưới tác
động của các tập quán, một số phẩm chất thuộc về bản chất cơ thể đã quay hướng về cái tất nhất hay cái
xấu nhất. Ngoài tư chất, tập quán, con người còn sống bằng lý trí và chỉ có con người mới có lý trí. Khi
tư chất (năng khiếu) của con người được lý trí thuyết phục theo một xu hướng khác, nghĩa là thông qua

giáo dục, thì nó sẽ tất hơn cái năng khiếu bấm sinh vốn có ở con người. Do đó, sự kết hợp hài hoà cả ba
yếu tố (tư chất, tập quán và lý trí) trong con người là rất cần thiết.
Với quan niệm đó, Arixtốt cho rằng, để đạt đến hạnh phúc, đến sự hoàn thiện, con người phải có một số
năng khiếu (khuynh hướng) nhất định ngay từ khi còn nhỏ. Nhưng cái đó chưa đủ. Phải thông qua giáo
dục thì hạnh phúc tiềm tàng mới trở thành hiện thực. Tương tự như vậy, ông cho rằng, chỉ có thông qua
giáo dục, con người mới có được các phẩm chất và sự khôn ngoan và do vậy nó cần phải học nghệ thuật
sống.
Trong triết lý giáo dục Arixtốt, giáo dục hướng đến sự thư nhàn chiếm vị trí trung tâm và đó là khâu chủ
yếu của việc giáo dục nghệ thuật làm người. Theo Arixtốt, con người chỉ có được hạnh phúc thực sự khi
có được sự thư nhàn. Sự thư nhàn mà Arixtốt nói đến ở đây không đồng nghĩa với sự rong chơi, đó là tài
năng của con người trong việc sử dụng một cách tự do thời gian của mình. Và sự tự do là mục tiêu cuối
cùng của giáo dục, bởi con người không thể có hạnh phúc khi không có tự do, sự tự do được thực thi
trong chiêm nghiệm, hoặc trong hoạt động triết học, tức là trong sự hoạt động của ý thức khi đã gạt bỏ
mọi sự ràng buộc về vật chất. Điều này phù hợp với quan niệm của ông về triết học: triết học là nhu cầu
của những nhu cầu đã được thỏa mãn. Vì thế, theo ông, giáo dục thường không mang tính chất đào tạo
nghề nghiệp, bởi việc thực thi một nghề có thể là một thứ nô lệ hạn chế. Với Arixtốt, chức năng cao hơn
của giáo dục là đem lại cho con người sự tự do sáng tạo và một năng lực toàn diện chứ không phải chỉ là
cung cấp cho họ một nghề nghiệp rất hạn chế và do vậy, làm cho họ trở nên què quặt.
Theo Arixtốt, sự thư nhàn mà giáo dục cần hướng tới còn là con người được tự do chăm lo đến các việc
cần thiết. Chính qua sự tự do đó mà con người có được sự khôn ngoan, sự hiến dâng cho triết học, sự
chiêm nghiệm và đây mới là hạnh phúc thực sự của con người. Thông qua thư nhàn - biểu hiện của sự tự
do, giáo dục phải đạt được mục đích cuối cùng của con người là cuộc sống trí tuệ và năng lực ý thức.
Đối với Arixtốt, giáo dục không những dẫn con người đến đạo đức, nguồn gốc chủ yếu của hạnh phúc,
mà còn tạo ra các điều kiện cần thiết cho việc xây dựng và ổn định đạo đức, nghĩa là đảm bảo hạnh phúc
cho cộng đồng. Theo Arixtốt, chính do giáo dục mà cộng đồng và xã hội được hình thành. Sự hình thành
xã hội gắn liền với sự hình thành cộng đồng, mà sự hình thành cộng đồng là do giáo dục đem lại. Arixtốt
nhấn mạnh, để thiết lập một xã hội có đạo đức và bảo đảm tối đa hạnh phúc cho công dân, thì không thể
phó mặc cho sự may rủi, mà phải dựa vào khoa học và ý chí. Và ông còn cho rằng, giáo dục không
những tạo ra xã hội, cộng đồng cấu thành xã hội, mà còn đảm bảo sự ổn định xã hội. Theo ông, bất cứ
một sự thay đổi nào cũng có thể dẫn đến sự tham nhũng và do vậy, cái mà ông mong tìm được là một xã

hội lý tưởng, hiện thực trong trạng thái ổn định.
Cuối cùng, Arixtốt cho rằng, nếu giáo đục cá nhân phải hướng đến sự thư nhàn, thì ở cấp nhà nước, giáo
dục phải là giáo dục cho hoà bình. Cũng như thư nhàn, mục tiêu cuối cùng của đời sống cá nhân, hoà
bình là mục tiêu cuối cùng của chiến tranh xã hội. Cuộc sống, về tổng thể, gồm hai bộ phận: công việc và
thư nhàn, chiến tranh và hoà bình. Do vậy, chiến tranh phải hướng đến hoà bình, công việc phải hướng
đến thư nhàn; cái cần thiết và hữu ích phải hướng đến những điều cao thượng, đến những cái mà các
chính khách phải chú ý tới trong việc lập pháp, cũng như trong việc giáo dục công dân.
Về hệ thống giáo dục
Hệ thống giáo dục mà Arixtốt hướng tới là một nền giáo dục thường trực, thường xuyên và liên tục, bao
trùm và kéo dài suốt đời người. Quá trình đó được chia thành nhiều giai đoạn; mỗi giai đoạn gồm bảy
năm. Giai đoạn đầu là giai đoạn giáo dục trẻ em trước khi vào học ở trường. Ở giai đoạn này, trách
nhiệm giáo dục thuộc về cha mẹ, nhất là người cha. Bởi, người cha là tác giả của sự tồn tại của đứa trẻ
(ơn huệ lớn nhất) cũng như của sự nuôi dưỡng và giáo dục nó. Nhiệm vụ giáo dục này được thực hiện
trước khi đứa trẻ sinh ra, cho nên cần áp đụng các biện pháp để trẻ em khi sinh ra có được các phẩm chất
vật chất thiết yếu. Cụ thể, tuổi cha và tuổi mẹ phải ở một độ tuổi nhất định nào đó và nên có thai vào mùa
đông. Trong thời kỳ thai nghén, người mẹ phải chăm sóc kỹ lưỡng thân thể mình bằng cách đi dạo chơi
và ăn uống đầy đủ, đồng' thời phải có sự yên tĩnh hoàn toàn về tư tưởng. Trẻ sơ sinh phải có được một
khẩu phần ăn giàu về chất. Ngay từ tuổi ấu thơ, trẻ em phải được rèn luyện về thân thể vả phải được làm
quen với giá rét.
Đến 5 tuổi, trẻ em cần được đào luyện với các trò chơi. Nhưng các trò chơi phải thích hợp với chúng,
không được gây cho chúng sự mệt mỏi và quá buông thả. Ở chúng, mọi sự thô lỗ trong ăn nói, hoặc việc
xem các bức tranh không đúng đắn phải được loại trừ để tránh gây cho chúng những cảm giác không
xứng đáng, bởi nếu không, đến tuổi thanh niên sau này, chúng sẽ xa lạ với tất cả những thứ mà luân lý
trách phạt.
Khi 5 tuổi đầu qua đi, trong 2 năm tiếp theo, trẻ em cần được tham gia với tư cách thính giả của các buổi
giảng dạy mà bản thân chúng phải nghiền ngẫm sau này. Đến 7 tuổi, trẻ em cần được đến trường. Thời
kỳ này kéo dài đến tuổi 21 và được chia làm ba cấp. Tuy nhiên, quá trình giáo dục chưa phải đã hoàn
thành ở tuổi 21. Nhưng, không còn nghi ngờ gì nữa, trong thời kỳ này, con người đã được tiếp thu một
sự giáo dục và sự chăm sóc rất sáng suốt, bởi ngay cả khi đã đến tuổi người lớn, họ vẫn phải thực hành
những điều mà họ đã học được ở thời ký này và chuyển chúng thành những tập quán, thói quen của

mình. Theo Anxtốt, thân thể đạt đến độ chín ở giữa tuổi 80 và 35, còn tâm linh thì vào khoảng tuổi 49.
Đối với Arixtốt, giáo dục là công việc của nhà nước. Các trường học phải là trường công lập. Cũng như
Platôn, Anxtốt đã đi trước thời đại trong việc xây dựng hệ 'thống giáo dục công lập mà ngày nay, chúng
ta vẫn đang thực hiện. Việc thiết lập một sự giảng dạy công cộng là một sự dân chủ hoá của giáo dục.
Giáo dục nhất thiết phải là thông nhất và đồng nhất cho mọi người, kể từ khi lọt lòng cho đến 21 tuổi.
Về sư phạm học
Trước hết, Arixtốt cho rằng, cần phải tránh sự cực đoan, thái quá trong giảng dạy. Ngay cả trong lĩnh vực
thể dục, cũng không nên mong muốn đào tạo nên những nhà vô địch với bất ký giá nào. Và trong giảng
dạy âm nhạc, nên hướng đến sự hình thành thú vui âm nhạc ở mọi người hơn là đào luyện các ký tài.
Hơn nữa, chỉ nên đòi hỏi ở người học những cái mà anh ta có thể làm được. Và không nên áp đặt những
bài học chính trị đối với lớp thanh niên khi mà họ chưa có một kinh nghiệm nào về cuộc sống.
Cuối cùng, giảng dạy phải có giới hạn thích hợp đối với người học, phải tính đến tuổi tác, tính cách, năng
lực tiếp thu, thể lực của người họe, bởi sự lập luận nhanh và đúng đắn không phải là năng lực có tính
đồng đều ở mọi người học. Theo Arixtốt, để phù hợp với tư chất của con người, cả về thân thể, tinh thần
và lý trí, sự giáo đục phải được tiến hành qua từng giai đoạn, trong đó việc chăm sóc thân thể phải đi
trước việc chăm sóc tinh thần và tiếp đến, phải thực hiện việc chăm lo sở thích. Nhưng, chăm lo sở thích
là để phục vụ cho trí tuệ và chăm sóc thân thể là để phục vụ cho tinh thần. Do lý trí và trí tuệ chỉ phát
triển ở trẻ em từ một độ tuổi nào đó, nên giáo dục cần được khởi đầu bởi thể dục, tiếp đến là âm nhạc và
kết thúc bằng triết học.
Arixtốt phân biệt hai loại sư phạm bổ sung cho nhau: giáo dục bằng lý trí và giáo đục bằng tập quán.
Đối với giáo đục bằng tập quán, Arixtốt không ủng hộ cách dạy với sự lặp lại một cách máy móc (đối lập
với cái mà ngày nay chúng ta gọi là "sư phạm tích cực") Trong Đạo đức học, ông nhấn mạnh: Cái thứ mà
chúng ta được học để làm ra, thì trong khi làm, chúng ta đã học cái thứ ấy. Thí dụ, chính chúng ta xây
dựng mà chúng ta trở thành nhà xây dựng, chính chúng ta chơi đàn cithara mà chúng ta trở thành nghệ
nhân chơi cithara. Điều đó cũng có giá trị đối với giáo dục đạo đức, luân lý: Chính qua thực thi các hành
động đúng mà chúng ta trở thành người đúng đắn, thực thi các hành động có điều độ mà chúng ta trở
thành người điều độ, thực thi các hành động can đảm mà chúng ta trở thành người can đảm, thực thi khoa
học mà chúng ta trở thành nhà khoa học, trở thành người nắm vững khoa học. Bằng tập quán và sự giáo
dục tích cực đó, các năng khiếu tự nhiên của con người sẽ không ngừng được phát triển.
Theo Arixtốt, phương pháp giáo dục như vậy không khiến cho người học phải hứng chịu một cách thụ

động. Trái lại, chỉ có phương pháp đó mới đánh giá chính xác kết quả học tập. Cũng ở đây, lý thuyết về
giáo dục đã đi theo trọng tâm của hệ thống triết học Arixtốt: được hành động là một thú vui của con
người.
Với Arixtốt, việc giáo dục bằng tập quán liên quan đến sự bắt chước, kinh nghiệm và trí nhớ. Ông cho
rằng, con người thích bắt chước. Đó là tập tính cố hữu của con người: có ở con người ngay từ khi còn là
trẻ thơ. Và theo ông, tất cả mọi nghệ thuật đều xuất phát từ sự bắt chước thiên nhiên. Do vậy, sự bắt
chước là yếu tố chính trong giảng dạy và giáo dục. Trong giáo dục đạo đức, phải có gương tốt bởi không
có gương tất thì không thể có được sự bắt chước những điều tất, và điều đó là đúng với mọi lĩnh vực.
Nhưng có một số phẩm hạnh và kiến thức mà con người chỉ có thể thu nạp được bằng kinh nghiệm. Ví
dụ, sự thận trọng và sự thận trọng chỉ có thể trở thành thông thuộc với con người khi được thông qua
kinh nghiệm, điều mà một thanh niên không bao giờ có được. Chính vì vậy mà người ta có thể tự hỏi vì
sao một đứa trẻ đã có thể trở thành nhà toán học, mà lại không có khả năng trở thành nhà triết học, hoặc
ngay cả nhà vật lý học.
Nói về vai trò của trí nhớ và sự lập lại nhiều lần của các hành động trong giáo dục, Arixtốt cho rằng, giáo
dục bằng lý trí là phần phụ, bổ sung cho giáo dục bằng tập quán. Mục đích của nó là làm cho người học
hiểu rõ về các nguyên nhân của mỗi sự vật. Giáo dục bằng lý trí thường hướng đến cái phổ thông, cái
vượt qua kinh nghiệm. Với những người chỉ có kinh nghiệm, họ biết rất rõ cái gì của sự vật, nhưng lại
mù tịt cái tại sao của nó, còn những người có tri thức khoa học thì lại hiểu cả cái tại sao lẫn cái vốn có
của sự vật.
Arixtốt xác định hai phương pháp đặc trưng của giáo dục bằng lý trí là giảng dạy theo lối quy nạp và
giảng dạy theo lối diễn dịch. Theo ông, trên thục tế, chúng ta chỉ học theo lối quy nạp hoặc diễn dịch mà
thôi. Muốn chứng minh được tính chân thực, trước hết phải xuất phát từ các nguyên tắc phổ biến và quy
nạp (từ các trường hợp riêng biệt).
Theo Arixtốt, các khoa học lý thuyết (toán học, thần học) được giảng dạy phần lớn theo cách diễn dịch,
có nghĩa là không xuất phát từ các thí dụ, mà từ các nguyên tắc phổ biến. Đây là trình độ cao nhất của
giáo dục bằng lý trí và do đó, được thực thi bằng phép tam đoạn luận.
Như vậy, ở Arixtốt, giáo dục bằng lý trí trùng hợp với sự vận động của khoa học hay triết học lý luận,
còn giáo dục bằng tập quán trùng hợp với hành động đạo đức hay triết học thực hành
Tóm lại, theo Arixtốt, do bản chất của mình, con người vốn đã có những năng khiếu đặc biệt, nhưng chỉ
có thể bằng giáo dục thì con người mới học được cách làm người, mới trở thành con người thực thụ, con

người hoàn thiện. Tất cả các hoạt động nghệ thuật, các hoạt động giáo dục đều hướng đến mục tiêu khắc
phục những nhược điểm của con người. Chính thông qua giáo dục mà nền văn hoá của nhân loại được
tạo dựng. Khi con. người đã trở nên hoàn thiện thì không cần đến giáo dục.
Lý thuyết giáo dục của Arixtốt không mất đi tỉnh thời sự của nó. Điều mà ông nói về vai trò của giáo dục
trong xã hội, về một hệ thống giáo dục thường xuyên và một nền giáo dục cho hoà bình, về sư phạm học
đã khiến cho những người có trách nhiệm đối với nền giáo dục hiện thời phải suy ngẫm. Đặc biệt, điều
đó rất có ý nghĩa đối với việc xây dựng và phát triển nền giáo dục Việt Nam, một nền giáo dục đang
thiếu sự định hướng của tư duy triết học.
Theo Tạp chí Triết học
Về vai trò sáng lập lịch sử triết học của Arixtốt
Nguyễn Bá Dương
Tạp chí Triết học
Lịch sử triết học bắt đầu từ đâu? Ai là người sáng lập ra lịch sử triết học? Vấn
đề này đã và đang thu hút tự quan tâm nghiên cứu và tranh luận của nhiều nhà
triết học, đã có nhiều quan điểm, nhận định khác nhau về vấn đề này. V.Gátpi -
nhà nghiên cứu lịch sử triết học cổ đại nổi tiếng, trong "Arixtốt - nhà lịch sử
triết học" (xuất bản năm 1969 ở Kiép - Liên Xô) đã khẳng định Arixtốt ( 384-
322 TCN) là nhà triết học lớn nhất, có bộ óc bách khoa của triết học Hy Lạp cổ
đại, là người đầu tiên không chỉ đặt nền móng vững chắc cho lâu đài triết học,
logic học và khoa học hiện đại, mà còn là người đầu tiên đặt nền móng cho lịch
sử triết học. Nói cách khác, theo ông, bắt đầu từ Arixtốt, lịch sử triết học mới ra
đời và phát triển.
V.Gátpi cho rằng, hơn các nhà triết học cùng thời, Arixtốt có bộ óc bách khoa,
ông không những kế thừa được những tinh hoa tư tưởng triết học thời ấy, mà
còn tổng kết, tìm ra những giá trị tiến bộ của tư tưởng văn hóa, triết học và nâng chúng lên tầm cao mới.
Khác với các nhà triết học trước đó, Arixtốt không chỉ tổng kết, hệ thông hóa, phân loại các tài liệu lịch
sử triết học, mà còn giải thích, làm rõ thêm nhiều luận điểm triết học của các bậc tiền bối. Gátpi đã phê
phán quan điểm của nhà triết học Trônơnhítxa khi ông này cho rằng, dường như Arinxtốt đã "góp nhặt"
các quan điểm trong những học thuyết triết học để "nhào nặn" thành quan điểm triết học của riêng mình,
đã "vay mượn" ý tưởng của người khác để làm giàu tư tưởng triết học của mình. Bác bỏ quan niệm

không đúng của Trônơnhítxa và dựa vào các quan điểm, học thuyết của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại,
Gátpi đã làm rõ ý nghĩa triết học và vai trò của Arixtốt và tư cách là người đầu tiên nghiên cứu lịch sử
triết học và sáng lập ra môn học này.
Trong tác phẩm của mình, Gátpi không chỉ làm nổi bật học thuyết về vận động của Arixtốt, mà còn từ
quan điểm vận động này biểu đạt ý tưởng về sự vận động tư tưởng trong lịch sử phát triển của nó. Gátpi
đã chứng minh một cách thuyết phục vai trò và ý nghĩa triết học của học thuyết triết học Arixtốt và coi
học thuyết này là khởi nguồn của sự phát triển tư tưởng lịch sứ triết học. Từ những đánh giá đó, Gátpi đã
khẳng định Arixtốt là người mở đầu, là ông tổ của lịch sử triết học. Arixtốt xứng đáng được gọi như vậy,
mặc dù còn có những hạn chế lịch sử nhất định, nhưng nếu không có ông, không có người đại điện cho
những người mở đầu thì chúng ta không thể có lịch sử khoa học triết học ngày nay.
Vào nhưng năm 20 - 30 của thế kỷ XX, vấn đề khởi nguồn của lịch sử triết học và cuộc tranh luận
Arixtốt có phải là người sáng lập ra lịch sử triết học đã trở thành một trong những đề tài sôi nổi trong
giới triết học Liên Xô. Đanhenlia - nhà triết học Grudia nổi tiếng, trong tác phẩm "Arixtốt viết về các bậc
tiền bối" (Nxb Tờbilixi, 1978), đã khẳng định: các tác phẩm của Arixtốt có một ý nghĩa quan trọng vì nó
là minh chứng về nguồn gốc của lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại. Điều này là đúng, nhưng coi Arixtốt là
người sáng lập ra lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại thì chúng ta chưa có đủ cơ sở để khẳng định điều đó.
Tuy nhiên, Đanhenlia đã nghiên cứu rất công phu các tài liệu, tìm được phương pháp tiếp cận phù hợp để
nghiên cứu và hiểu được ý đồ tổng kết lịch sử triết học của Arixtốt. Trong kết quả nghiên cứu của mình,
ông đã đưa ra những kết luận xác đáng: (1) Arixtốt là người đã có công hệ thống hóa triết học trong thế
giới cổ đại với một sự chính xác đến mức kinh ngạc, là người đã vạch ra cả cấu trúc logic của các quan
điểm, các học thuyết triết học trước đó, đem lại sự tường minh cho các vấn đề phức tạp. (2) Arixtốt
không chỉ là người đã có công tổng kết tư tưởng triết học, làm sống lại những tư tưởng của các bậc tiền
bối, mà còn là người tổ chức, định hướng cho công tác nghiên cứu và phát triển triết học của những
người kế tục ông. (3) Trong đi sản triết học của Arixtốt, không côn nghi ngờ gì nữa, đã có những tuyển
tập các công trình, luận văn nghiên cứu về lịch sứ triết học. Chúng ta có thể tìm thấy nó trong các tác
Arixtốt ( 384-322 TCN)
phẩm của Arixtốt và trong các tài liệu triết tiệc kể từ sau Arixtốt cho đến nay.
Qua nghiên cứu các tài liệu lịch sử triết học, chúng ta có thể thấy một điểm chung, khá thống nhất là về
cơ bản, các nhà nghiên cứu triết học Arixtốt đều cho rằng, Arixtốt là người sáng lập lịch sử triết học Hy
Lạp cổ đại, các tác phẩm của ông là nguồn gốc để nghiên cứu lịch sử triết học thời ấy. Arixtôt đả định

nghĩa triết học là khoa học, đánh giá cao ý nghĩa và giải thích khá sâu sắc nguồn gốc nhận thức và nguồn
gốc xã hội của triết học. Sự giải thích của ông về vấn đề này cho đến tận ngày nay, qua bao nhiêu thăng
trầm của hàng chục thế kỷ, có nhiều luận điểm vẫn còn hợp lý, có giá trị thời sự. Hêgen và sau này là
Mác, Ăngghen, Lênin đều đánh giá cao vai trò và ý nghĩa triết học của Arixtốt. Logic phát triển triết học
của Cantơ, Hêgen, của Mác, Ăngghen và Lênin đều xuất phát từ các bậc tiền bối như Arixtốt. Về sự
giống nhau của chủ nghĩa duy tâm nguyên thuỷ và chủ nghĩa duy tâm hiện đại, Lênin viết: "Cantơ,
Hêgen, ý niệm về Thượng đế, chẳng phải là cũng cùng một loại đấy sao, cũng đều xuất phát từ Arixtôt"
tác giả nhấn mạnh).
Tư những điều phân tích trên đây, Đanhenlia đã gián tiếp khẳng định lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại bắt
đầu từ Arixtốt. Nhưng Arixtốt có phải là người đầu tiên sáng lập ra lịch sử triết học không? Đanhenhia
không trả lời dứt khoát vấn đề này. Nhưng theo cách giải thích của ông thì đây là vấn đề hết sức nghiêm
túc, đòi hỏi sự nghiên cứu công phu, thận trọng khi đánh giá đưa ra nhận xét, kết luận. Ông đặt ra việc
cần thiết phải xây dựng những yêu cầu và tổ chức hội thảo khoa học để các nhà triết học bàn luận và đi
đến thống nhất về việc nêu ra các tiêu chí đánh giá người sáng lập lịch sử triết học. Với quan điểm ấy,
theo ông, thậm chí ngay cả Hêgen cung chưa có đầy đủ các tiêu chí để được gọi là người sáng lập ra lịch
sử triết học.
Vào những năm 70 của thế kỷ XX, ở Mátxcơva (Liên Xô), xuất hiện một công trình nghiên cứu có tiếng
vang lớn của Lôxép: Lịch sử mỹ học cổ đại - Arixtôt và các tác phẩm kinh điển. Trong tác phẩm này,
Lôxép khẳng định: Arixtốt là người sáng lập lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại. Những luận điểm xuất phát
để ông khẳng định Arixtốt là nhà lịch sử triết học đầu tiên là dựa vào các khái niệm của lịch sử triết học.
Từ việc phân tích, làm rõ các khái niệm triết học, ông phân chia ra các nguyên tắc cơ bản và các yếu tố
cấu thành lịch sử triết học, tìm ra đối tượng và phương pháp nghiên cứu của nó. Theo Lôxép:
(1) Lịch sử triết học nghiên cứu sự phát triển có tính logic lịch sử của tư tưởng triết học.
(2) Sự thống nhất và tính lặp lại những vấn đề triết học là do vấn đề cơ bản của triết học quy định và do
sự quy định cửa trình tự logic - lịch sử tư tưởng triết học.
(3) Sự phát triển tư tưởng triết học là lịch sử tìm tòi, phát hiện chân lý trong cuộc đấu tranh giữa các
quan điểm đối lập. Đây là một quá trình phát triển biện chứng, được thực hiện theo nguyên tắc: lọc bỏ
cái cũ, lỗi thời, giữ lại cái tiến bộ để kế thừa, phát triển. Những tiêu chí để gọi lịch sử triết học là một
khoa học được hình thành trong quá trình phát triển lâu đài của bản thân nó và diễn ra với các điều kiện
lịch sử rất khác nhau. Có thể nói rằng, sự bắt đầu lịch sử triết học có mối quan hệ chặt chẽ với việc phát

hiện ra các yếu tố cấu thành của chính nó, với việc tổng kết, khái quát các học thuyết triết học trước đó,
ngay cả ở hình thức đầu tiên, chưa phát triển, chưa hoàn thiện.
Những thành tựu đạt được một cách nghiêm túc, có ý nghĩa về mặt khoa học trong nghiên cứu lịch sử
triết học gắn liền với tên tuổi của Hêgen. Chính Hêgen là người đầu tiên đem lại cho lịch sử triết học
không chỉ một tên gọi với đúng nghĩa của nó, mà còn xác lập cho nó một vị thế nhất định trong khỏa học
triết học. Kể từ ngày ấy sự tồn tại các tư tưởng trong lịch sử triết học, nhất là giai đoạn trước khoa học,
trở thành một bộ phận không thể tách rời trong dòng chảy lịch sử triết học mà đỉnh cao là lịch sử triết học
với tư cách một khoa học được Mác, Ăngghen sáng lập ra, sau này được Lênin phát triển. Như vậy, lịch
sử triết học bắt đầu ở nơi mà trình độ tư duy trừu tượng, khái quát đã phát triển khá cao, việc tổng kết và
hệ thống hóa các tri thức của loài người được thực hiện bằng phương pháp kết hợp chặt chẽ giữa cái lịch
sử và cái logic trên cơ sở nhất nguyên luận. Nhờ đó mà quan điểm, học thuyết mới ra đời, nó vừa là sản
phẩm của quá trình tư duy của chủ thể, có sự kế thừa và phát triển các thành tựu của học thuyết triết học
trước đó, vừa là sản phẩm của sự tổng kết, khái quát những kinh nghiệm của đời sống thực tiễn.
Rõ ràng, lịch sử triết học không phải là khoa học lịch sử, mà chính xác hơn là khoa học triết học, với một
ý nghĩa xác định, nó là triết học về lịch sử khách quan. Cho nên, vấn đề phát sinh của môn khoa học này
chỉ có thề xem xét và đặt nó trong giới hạn phát triển của triết học. Có như vậy, mới phân biệt rõ khía
cạnh triết học lịch sử của lịch sử triết học, túc là lịch sử triết học với đúng nghĩa của từ này, còn sự mô tả
đời sống và liệt kê các sự kiện thì khoa học lịch sử đảm nhận và phản ánh bằng những con đường riêng
của nó.
Cho đến nay sự tìm kiếm điểm khởi đầu của quá trình phát sinh lịch sử triết học vẫn còn tiếp tục. Nhiều
nhà triết học macxít đã coi Arixtốt là người mở đầu lịch sử tư duy triết học, là người đã giải phóng triệt
để tư duy tiền khoa học, là người đầu tiên đã tổng kết, khái quát lịch sử tri thức nhân loại và đưa triết học
phát triền lên tầm cao mới nhờ việc phê phán học thuyết về “con số" của Pitago, học thuyết về “ý niệm"
của Platôn. Có lẽ là như vậy, và lịch sử triết học đã ra đời từ đó. Nét đặc biệt của thời đại Arixtốt chính là
giai đoạn tổng kết và tích luỹ tri thức mà người cổ đại đã đạt được là giai đoạn mà sự vận động và tiến bộ
xã hội diễn ra rất nhanh, trên nền tảng ấy triết học phát triển và đã đem lại một cách nhìn mới về thế giới
trong một chỉnh thể thống nhất. Những hệ thống triết học như thế có thể tìm thấy ở triết học tự nhiên của
Êmpêđốccđơ và hệ thống triết học của Pácmênít. Hơn thế nữa, chúng ta có thể tìm thấy sự sống động và
tính đa dạng trong di sản triết học của Platôn, nơi mà mỗi sự kiện được ông miêu tả, nhận xét, đánh giá
đều toát lên những khía cạnh của lịch sử triết học.

Theo Tạp chí Triết học
Về vai trò sáng lập lịch sử triết học của Arixtốt
Nguyễn Bá Dương
Tạp chí Triết học
Có thể nói, người đầu tiên nêu ra khuynh hướng cơ bản trong triết học và cuộc
đấu tranh giữa hai khuynh hướng chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm chính
là Platôn, mặc dù ông không quan tâm nghiên cứu, khảo sát các học thuyết triết
học của các bậc tiền bối và cũng không có ý thức sử đụng các học thuyết ấy
làm cơ sở để luận chứng trong các đối thoại và tranh luận của mình. Nhưng sự
thực thì khi giảng bài, đàm luận, tranh luận Platôn không thể không sử dụng
những tài liệu lịch sử triết học. Tuy nhiên, sự vận động, phát triển tư duy triết
học luôn tuân theo nhưng quy luật logic của nó và như thế, phải đến Arixtốt thì
lịch sử triết học mới ra đời và có một vị thế nhất định. Arixtốt trở thành người
đầu tiên tổng kết và hệ thống hóa tư tưởng triết học trong lịch sử triết học Hy
Lạp cổ đại theo nghĩa rộng của từ này, còn theo nghĩa hẹp, Anxtốt là người đầu
tiên phân loại tri thức khoa học, mặc dù đó mới chỉ là ban đầu, còn rất sơ khai.
Vượt lên những người đương thời, Arixtốt đã sử dụng phương pháp logic để
điên đạt quan điểm của mình. Xét ở quan hệ này, có thể nói, Arixtốt là bậc tiền bối của Hêgen. Bởi vì,
những điểm cơ bản trong quan điểm lịch sử triết học của Hêgen không phải là cái gì khác, mà chính là sự
hoàn thiện những ý tưởng của Arixtốt đã phác thảo 23 thế kỷ trước đó. Lênin nhận xét: "Logic của
Arixtốt là nhu cầu, là sự cố gắng tìm tòi, là sự đến gần với logic của Hêgen".
Nhằm hệ thống hóa và phân loại tri thức khoa nọc, Arixtốt đã thu thập một khối lượng lớn các tài liệu
lịch sử triết học, kể cả tài liệu của chủ nghĩa duy vật và của chủ nghĩa duy tâm, đồng thời sử dụng
phương pháp logic - lịch sử để tổng hợp và phân loại các tài liệu ấy. Công lao cửa Arixtốt không chỉ là
tổng kết lịch sử triết học thời ấy, mà quan trọng hơn là tìm ra một phương pháp mới phương pháp thống
nhất logic lịch sử trong nghiên cứu lịch sử triết học. Arixtốt không chỉ nghiên cứu những quy luật logic
của tư duy con người, mà còn xác lập phong cách khoa học để xem xét các vấn đề triết học, phê phán
những sai lầm trong học thuyết “con số" của Pitago, học thuyết “ý niệm" của Platôn, chống lại sự đồng
nhất cái tồn tại và cái không tồn tại của Pắcmênít. Tên tuổi của Arixtốt gắn liền với việc nghiên cứu các
Arixtốt ( 384-322 TCN)

hiện tượng và những sự kiện diễn ra ở những điểm khác nhau trong mối quan hệ với không gian và vận
động như một quá trình tạo lập và huỷ diệt, sáng tạo và phá huỷ. Quan niệm của ông là đúng, bởi sự sinh
thành, phát triển và diệt vong của vạn vật đều tuân theo quy luật khách quan, không ai có thể làm trái quy
luật hoặc đi ngược lại lịch sử.
Chúng ta không thể đặt ra các điều kiện và đòi hỏi các bậc tiền bối phải giải quyết các vấn đề triết học
của lịch sử thế này hay thế khác. Xét hoàn cảnh và trình độ nhận thức ở thời ấy thì những gì mà họ làm
được thật đáng làm ta kinh ngạc và rất đáng trân trọng. Vấn đề là ở chỗ, họ là những người đi đầu trong
việc tạo dựng và thiết lập nên những quan điểm lịch sử triết học đầu tiên, khai phá con đường mà sau
này, các nhà triết học của nhiều thời đại đã đi trên con đường ấy.
Tính độc đáo và sâu sắc trong việc xác lập vị thế lịch sử triết học của Arixtốt được thể hiện ở các nguyên
tắc: (1) Nguyên tắc quan hệ hữu cơ giữa bản thể luận và phương pháp nghiên cứu trên cơ sở của sự thống
nhất giữa cái logic và cái lịch sử.(2) Nguyên tắc nhất nguyên trong xem xét, phê phán các học thuyết triết
học. (3) Nguyên tắc kế thừa và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các quan điểm, học thuyết triết học trong ]ịch sử
triết học. Có thể tìm hiểu kỹ các nguyên tắc này trong phần I của "Siêu hình học" của Arixtốt, nhất là khi
ông bình xét quan điểm triết học về cái tồn tại và cái không tồn tại của Pắcmênít và Kxênôphan. Tìm ra
và sử dụng phương pháp logic - lịch sử để nghiên cứu lịch sử triết học, Arixtốt đã chỉ ra mối liên hệ giữa
học thuyết triết học của Êmpêđốccơlơ và học thuyết của Anắcxagorơ. Theo Arixtốt, cả hai học thuyết
này đều bắt nguồn từ học thuyết của Anắcnmanđơrơ và giữa chúng cũng có sự khác nhau trong việc giải
quyết vấn đề khởi nguyên của thế giới.
Có thể nói, trên cơ sở phân tích các học thuyết khác nhau trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại, Arixtốt
đã hình thành nên phương pháp logic - lịch sử, từ đó đưa ra nguyên tắc nhất nguyên luận trong nghiên
cứu lịch sử triết học. Nghiên cứu "Siêu hình học" của ông, chúng ta thấy ông coi lịch sử của tư tưởng
triết học chính là lịch sử con người đi tìm chân lý. Theo ông, tìm chân lý trong một mối quan hệ là rất
khó, nhưng trong nhiều mối quan hệ thì dễ hơn. Việc tìm chân lý trong lịch sử xã hội không thể dựa vào
một vài sự kiện, mà cần phải có sự khảo sát công phu từ nhiều góc độ khác nhau với nhiều sự kiện khác
nhau.
Arixtốt cho rằng, nếu không có sự kế thừa các học thuyết trước đó thì các khái niệm mới đưa ra, các học
thuyết mới hình thành chỉ là những tập hợp ngôn từ trống rỗng, không có sức sống. Theo ông, những gì
người đương thời có được đều không thể tách rời và xa lạ với tiền nhiệm. Trên cơ sở kế thừa tư duy lý
luận và kinh nghiệm lịch sứ, chúng ta tồn tại và phát triển. Các thế hệ kế tiếp sau chỉ có thể bước qua và

leo lên nhưng nấc thang mới cao hơn, tiến lên phía trước là nhờ nghiên cứu lịch sử triết học và tiếp thu,
kế thừa những mặt tích cực ở những người đi trước.
Với sự nhạy cảm của trực giác, Anxtốt đã nêu ra sự cần thiết phải làm rõ sự khác biệt giữa các học thuyết
triết học, tính quy định của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của nhà triết học đối với sự
phát sinh, phát triển của mỗi học thuyết triết học. Có như vậy mới tìm ra được các khía cạnh khác nhau
của sự phát triển lịch sử triết học, tìm ra mặt tiến bộ, tích cực để kế thừa, đồng thời lọc bỏ những hạn
chế, không phù hợp, không có giá trị, không có ý nghĩa.
Tuy nhiên, sau khi Arixtốt qua đời, những người kế tục ông đã không làm được cái mà ông mong muốn.
Phương pháp logic - lịch sử được các học trò của ông vận dụng, nhưng không đạt được trình độ mà bậc
thầy của mình đã có. Trong thời kỳ Trung cổ, triết học phát triển rất chậm chạp. "Chủ nghĩa thầy tu đã
giết chết cái gì là sống động ở Arixtốt và làm thành bất tử cái gì đã chết rồi". Những gì mà Arixtốt đã
làm và chuẩn bị cho sự phát triển lịch sử triết học chỉ được thực hiện từ khi có triết học Phục hưng đến
nay.
Những điều mà chúng tôi nêu trên chỉ là nhằm làm rõ cái điềm khởi đầu lịch sử triết học và coi Arixtốt là
người đại diện cho điểm khởi đầu ấy với tư cách là người sáng lập ra môn học này, mặc dù đó chỉ là sự
mở đầu với nội dung chưa thật rõ ràng và hình thức còn rất sơ khai. Toàn bộ sự vận động, phát triển của
lịch sử triết học và những thành tựu mà nó đạt được sau này không thể tách rời điểm khởi đầu ấy. Có thể
còn có nhiều cách tiếp cận và luận giải vấn đề này. Song, tên tuổi, sự nghiệp và những cống hiến của
Arixtốt đối với sự hình thành và phát triển của lịch sử triết học đã được khẳng định.
Theo Tạp chí Triết học
Tư tưởng Hồ Chí Minh sải bước cùng thời đại
GS. Tương Lai
Báo Lao Động
“Tư tưởng Hồ Chí Minh” không khép kín, tự đủ, không nhất thành bất biến mà
luôn luôn phát triển với dân tộc và thế giới.
Nói về thế kỷ XX vừa lùi vào quá khứ, có người đã khái quát bằng một hình
ảnh thật độc đáo có ý nghĩa khơi gợi rất lớn: Nếu lịch sử hơn 4 triệu năm của
loài người thu lại trong 1 năm thì thế kỷ XX chỉ là 13 phứt, từ 23
h
47’ đến 24

h
của ngày 31/12 . Trong 13 phút ấy, đặc biệt trong 5 phút cuối cùng, loài người
đã hiểu biết nhiều hơn toàn bộ hệ thống kiến thức tích luỹ trước đó, tức là từ
khi trên trái đất bắt đầu có con người! Bình minh của thiên niên kỷ mới với
những năm đầu của thế kỷ XXI đã cho ta những cảm nhận thật sống động,
những biến động dữ dội khó mà tiên liệu được! Một sự dồn nén như vậy tất sẽ
đưa đến những đột biển lớn lao trong lịch sử tư tường của loài người, "lượng”
sẽ biển thành “chất”. Đúng là, "chúng ta đang làm biến đổi môi trường của ta
đến tận gốc rễ đến mức rồi ta phải tự biến đổi chính mình để tồn tại được trong
môi trường đó" (Nobert Wiener)
Chính những diễn biển của cuộc sống ở buổi bình minh của thiên niên kỷ đang khẳng định một sự thật:
Chuẩn mực chính là sự thay đổi!
Với Hồ Chí Minh, chúng ta có tấm gương tuyệt vời vế sự nhất quán từ trước đến sau, từ lúc khởi đầu
cuộc tìm đường cứu nước, với bao sức ép từ mọi phía cho đến khi Đảng ra đời qua bao thăng trầm, thử
thách khốc liệt để có cách mạng Tháng Tăm 1945, ra đời nước cộng hoà non trẻ giữa vòng vây trùng
điệp của kẻ thù, tiến hành hai cuộc kháng chiến với ý chí "Không có gì quý hơn độc lập tự do". Đó là sự
dân quyền về mục tiêu độc lập cho dân tạc, tự do cho nhân.
Với mục tiêu đó, Hồ Chí Minh đã đấu tranh cho sự hợp nhất và ra đời của Đảng năm 1930, thậm chí có
lúc vì mực tiêu đó mà dám có quyết định táo bạo cho dù đau đớn là tuyên bố Đảng tự giải tán. Thực chất
là Đảng rút vào hoạt động bí mật chính vào lúc giành được chính quyền vào năm 1945. Rồi cũng vì mục
tiêu đó mà sáng suốt và kiên quyết đổi tên Đảng Cộng sản Đông Dương thành Đảng Lao động Việt Nam
vào năm 1951.
Tên tuổi và sự nghiệp của Hồ Chí Minh đã thực sự là ngọn cờ trong khối óc và trái tim cửa người Việt
Nam của dân tộc Việt Nam. Đương nhiên, cũng có một số rất ít người Việt nào đỏ không thừa nhận điếu
này. Nhưng không sao. Lịch sử và thời gian sẽ xoá đi những nếp hằn được gây nên bởi nhiều nguyên
nhân. Giương cao ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh để vẫy gọi và quy tụ mọi tấm lòng Việt Nam vốn nặng
lòng vì quê hương, đất nước. Những người đã trải qua sự thử thách trong gần nửa thế kỷ chiến đấu và
chiến thắng. Những người với những hoàn cảnh và điếu kiện khác nhau đã gửi gắm tình yêu nước
thương nòi của mình trong nhiều hành động và nghĩa cử không ai giống ai. Làm cho mọi giọt máu của
mỗi người Việt Nam cùng chảy về trái tim của dân tộc để rồi toả đi khắp bốn phương nuôi dưỡng hành

động vì nghĩa lớn đất nước. Làm được điều đó cũng là cách tao nên được sự đồng thuận xã hội sâu sắc
và rộng lớn, có sức vẫy gọi và hội được khối đại đoàn kết toàn dân tộc hường về mục tiêu dân giàu nước
mạnh, xã hội dân chủ công bằng văn minh.
"Tư tưởng Hồ Chí Minh" không khép kín, tự đủ, không nhất thành bất biến mà luôn luôn phát triển với
dân tộc và thế giới. Phải biết làm cho tư tường Hồ Chí Minh sống trong cuộc sống của mọi người Việt
Nam, tiếp tục cho nghị lực và tâm hồn của mỗi con người đang xây dựng cuộc sống của mình, gia đình
mình và góp phần vào sự nghiệp chung của đất nước. Có thể làm được điều đó vì tư tưởng Hồ Chí Minh
gần gũi với mọi tấm lòng Việt Nam, gần gũi như khí trời, như cơm ăn nước uống trong mạch sống Việt
Nam từ túp lều tranh cho đến ngôi biệt thự.
Tư tưởng Hồ Chí Minh gần gũi với người nông dân còn bao gian khó, đổ mồ hôi, sôi nước mắtt trên
cánh đồng chưa có mấy trợ lực của khoa học và công nghệ, cũng như với bà con nghèo đô thị nơi xóm
thợ nghèo khổ của những công nhân làm việc tại các khu chế xuất, các xí nghiệp liên doanh… với bao
nỗi lo toan trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn. Hồ Chí Minh đến được với họ vì bình sinh Người chỉ có một
"ham muốn, ham muốn tột bậc là làm cho cuộc sống của họ được no ấm, con em của họ được học hành.
Những người lao động lam lũ ấy hiểu Hồ Chí Minh vì tư tưởng của người lãnh tự nhân dân, đã quy tụ
được những khát vọng, những mong mỏi hàng ngày vốn bình dị và nghiệt ngã như chính cuộc sống của
họ vậy thôi.
Và, với những nhà doanh nghiệp đang có vai trò lớn trong xây dựng nến kinh tế thị trường lành manh,
dấn bước trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế, Hồ Chí Minh không xa lạ với họ. Từ những ngây đầu
của chính quyến cách mạng Hồ Chí Minh đã nhận rõ vi trí của các nhà công thương trong khối đại đoàn
kết dân tộc để làm cho đất nước phú cường. "Tuyên ngôn Độc lập" khai sinh ra nước Việt Nam mới
được có trong căn phòng của một nhà tư sản lớn giàu lòng yêu nước.
Hơn ai hết, những người trí thức Việt Nam hiểu rõ Hồ Chí Minh, nhận ra tầm vóc lãnh tụ của dân tộc ở
trí tuệ một nhà văn hoá lớn cùng trái tim ấp ủ những khát vọng nhân văn của một con người khao khát tự
do: “Trên đời ngàn vạn điều cay đắng/ Cay đắng chi bằng mất tự do”. Hồ Chí Minh đã biết cách trả về
lại cho người trí thức Việt Nam ngọn nguồn yêu nước truyền thống vốn nằm sâu trong tâm thức của họ,
khơi dậy năng lực cống hiến của tiềm lực trí tuệ trong họ. Với Hồ Chí Minh, người trí thức Việt Nam
hiểu được chỗ đứng của họ trong lòng dân tộc.
Thời gian đủ để kiểm nghiệm độ chính xác và sự tường minh của một tư tưởng, trải qua những biến động
dồn dập cả trong nước và trên thế giới vẫn chứng minh được sức bền, độ “chín” của tư tưởng Hồ Chí

Minh. Đó là sự kết tinh trí tuệ và khí phách của một dân tộc, là sự tiếp nhận và hội tụ những tinh hoa của
tư tưởng mà loài người đã giữ lại qua quá trình tiếp biến, thanh lọc và kiểm nghiệm. Vì thế nó đủ tầm
cao của sự khái quát của lý luận và đường hướng phát triển, vừa gần gũi, đi thẳng vào lòng người Việt
Nam vì nó diễn đạt được chân lý của cuộc sống.
Chân lý thì luôn luôn đơn giản, song hiểu được chân lý, đến được với chân lý thì thường lại cực kỳ gian
chuân.
Cuộc sống đang sải những bước đi táo bạo và quyết đoán trong thời đại của những biến động dồn dập.
Tầm mắt không ít người dã được mở rộng hơn nhờ vào "sự xé toang một tấm màng bưng bít, sự hiện ra
và sáng lên của sự thật, sự tan vỡ một số huyền thoại, sự phá sản nhiều giáo điều, sự bộc lộ những sai
lầm trầm kha, sự nhận thức mới, không phải về tưởng mà về lý luận cách mạng, thực tiễn hoạt động và
thực tế đời sống, sự khơi dậy những niềm hy vọng mới, sự bắt đầu một quá trình thanh lọc và tái tạo đầy
hứa hẹn” (trích từ bài viết thế kỷ XX của Việt Phương – thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng
Chính phủ).
Để bắt đầu một quá trình thanh lọc và tái tạo đầy hứa hẹn ấy, mở rộng tầm mắt là điều kiện tiên quyết.
Đó cũng là đòi hỏi trước tiên đề có thể chủ động đón nhận sự thách thức mới trong qúa trình hội nhập
quốc tế. Tính chất gay gắt và chưa có tiền lệ của những thách thức ấy đang đòi hỏi một bản lĩnh mới của
những người đang gánh trên vai mình trách nhiệm nặng nề của lịch sử. Bản lĩnh ấy, xét đến cùng lại
cũng được quyết định quyết định bởi tầm nhìn mới, bởi “đôi mắt mới nhìn vào thế giới”.
Không phải là không có lý khi người ta cho rằng: thế giới đã thay đổi và kiểu tư duy tuyến tính không
con thích hợp với một thế giới phi tuyến. Không có một bản đồ vạch sẵn cho con đường phía trước.
Những kinh nghiệm có sẵn, những phương pháp truyền thống không còn đủ cho hành trình của dân tộc
đi về phía trước. Vì thế, sáng tạo và linh hoạt trong tư duy cũng như trong hành động phải là phẩm chất
hàng đầu của con người Việt Nam đang sống trong thế kỷ XXI. Để có được phẩm chất đó, đỏi hỏi phải
có “sự nhận thức mới, không phải về lý tưởng mà về lý luận cách mạng, thực tiễn hoạt động và thực tế
đời sống”. Để làm được điều đó, phải biết khai thác cái lợi thế vô song của chúng ta, đó là uy tín của tên
tuổi và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh – anh hùng giải phóng dân tộc và danh nhân văn hoá mà thế
giới từng biết và đã tỏ lòng ngưỡng mộ.

×