Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Điều kiện có hiệu lực về hình thức của giao dịch dân sự theo bộ luật dân sự 2015 (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (916.57 KB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM
VIỆNXÃ
HÀN
KHOA HỌC
HỘILÂM
VIỆT NAM
KHOA
HỌCKHOA
XÃ HỘI
VIỆT
NAM
HỌC
VIỆN
HỌC

HỘI
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ MINH HOÀNG

NGUYỄN THỊ VIỆT HÀ

ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC VỀ HÌNH THỨC
PHẠM NHIỀU TỘI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

CỦA GIAO DỊCH DÂN SỰ THEO BỘ LUẬT

TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CHƢƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

DÂN SỰ 2015
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự


Mã số: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. HỒ SỸ SƠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2017
HÀ NỘI, 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN
KHOA
HỌC XÃ HỘI
VIỆN
HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ MINH
HOÀNG
NGUYỄN
THỊ
VIỆT HÀ

ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC VỀ HÌNH THỨC
CỦA GIAO DỊCH DÂN SỰ THEO BỘ LUẬT

DÂN
SỰLUẬT
2015HÌNH SỰ VIỆT NAM
PHẠM NHIỀU TỘI THEO
PHÁP
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CHƢƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.07
Mã số: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. HỒ SỸ SƠN
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊĐÌNH NGHỊ

HÀ NỘI - 2017
HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tư
liệu và kết quả nêu trong luận văn là trung thực. Nếu có điều gì sai sót, tôi xin hoàn
toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày …tháng … năm 2017
Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Việt Hà


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1. MỘT SỐ VẦN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐIỀU KIỆN
CÓ HIỆU LỰC VỀ HÌNH THỨC CỦA GIAO DỊCH DÂN SỰ ............... 8
1.1. Khái niệm điều kiện có hiệu lực về hình thức của giao dịch dân sự ......... 8
1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến điều kiện có hiệu lực về
hình thức của giao dịch dân sự qua các thời kỳ .............................................. 20
1.3. Pháp luật của một số quốc gia trên thế giới quy định về điều kiện có hiệu
lực về hình thức của giao dịch dân sự ............................................................. 30
Chƣơng 2. NỘI DUNG ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC VỀ HÌNH THỨC
CỦA GIAO DỊCH DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN
SỰ 2015........................................................................................................... 35
2.1. Các hình thức giao dịch dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 . 35
2.2. Điều kiện có hiệu lực về hình thức của giao dịch dân sự theo quy định
của Bộ luật dân sự 2015 .................................................................................. 46
2.3. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều kiện hình
thức .................................................................................................................. 52
Chƣơng 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM
HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN ĐIỀU
KIỆN CÓ HIỆU LỰC VỀ HÌNH THỨC CỦA GIAO DỊCH DÂN SỰ
THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015 .................................. 62
3.1. Thực tiễn thực hiện pháp luật liên quan điều kiện có hiệu lực về hình thức
giao dịch dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự 2015................................ 62
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật liên quan đến điều kiện có hiệu lực
về hình thức của giao dịch dân sự ................................................................... 77
KẾT LUẬN .................................................................................................... 81



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

Bộ luật dân sự

GDDS

Giao dịch dân sự

TAND

Tòa án nhân dân

UBND

Uỷ ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Để tồn tại và phát triển thì mỗi cá nhân cũng như mỗi tổ chức phải
tham gia nhiều mối quan hệ khác nhau. Trong đó, mối quan hệ về trao đổi với
nhau các lợi ích vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng đóng một
vai trò quan trọng, một tất yếu đối với mọi đời sống xã hội và đây là những
tiền đề của phương thức giao dịch dân sự (GDDS). Việt Nam đang ngày càng
hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới, các quan hệ trao đổi về lợi ích giữa
các tổ chức, cá nhân ngày càng đa dạng và phức tạp, chính vì thế việc tìm
hiểu và nghiên cứu sâu hơn về mối quan hệ này được quan tâm nhiều hơn.

Nội dung của GDDS không thể nằm trong tư tưởng con người mà nó phải
được thể hiện ra bên ngoài bằng một hình thức nhất định. Trong một số
trường hợp để đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho người tham gia GDDS và
nhằm tăng cường tính pháp chế của Nhà nước trong việc quản lý GDDS thì
hình thức được coi là một trong những điều kiện có hiệu lực của GDDS.
GDDS là một quan hệ giữa các tổ chức, cá nhân và là một hành vi pháp
lý trong đời sống xã hội được biểu hiện dưới những hình thức nhất định, như
lời nói (bằng miệng), văn bản, bằng hành vi. Hình thức của GDDS được xác
định tùy thuộc vào từng thể loại giao dịch, nhằm bảo vệ tốt nhất quyền và lợi
ích cho các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự, đồng có hiệu lực của
hình thức GDDS là một trong những nội dung cơ bản, tạo ra sự ổn định, tính
hợp lý, tính hiệu quả của các GDDS. Các quy định đó của BLDS đã tạo ra
hành lang pháp lý thông thoáng và an toàn cho các chủ thể tham gia GDDS,
tạo nên sự ổn định của các quan hệ tài sản trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước, góp phần vào quá trình hội nhập khu vực và thế giới.
Nếu pháp luật không có những quy định cụ thể, rành mạch sẽ làm cho các chủ
thể hoang mang và không tự tin khi tham gia GDDS, thương mại, gây ra

1


những hậu quả khó lường đối với nền kinh tế - xã hội và có thể tạo ra sự tùy
tiện không đáng có trong quá trình áp dụng pháp luật.
Trong giai đoạn hiện nay, khi số lượng và giá trị tài sản trong GDDS
ngày càng lớn, đa dạng và phong phú thì vấn đề không tuân thủ đúng quy
định về hình thức của GDDS cũng nảy sinh nhiều dạng tranh chấp phức tạp.
Thực tế là có quá nhiều GDDS vi phạm quy định về hình thức để lại những
thiệt hại cho bản thân những người giao kết, người thực hiện cũng như hậu
quả để lại cho xã hội là quá lớn. Hậu quả đó mang tính diện rộng, ảnh hưởng
đến nhiều người, nhiều mối quan hệ xã hội khác, nhiều đối tượng khác; gây
tâm lý hoang mang, nhiều gia đình điêu đứng, đẩy nhiều người đến bước

đường cùng. Nên việc nghiên cứu nguyên nhân dẫn đến những GDDS vô hiệu
về hình thức để tìm ra cách giải quyết, khắc phục sao cho hiệu quả nhất, tránh
rủi ro nhất có thể nhằm giảm thiểu thiệt hại cho các cá nhân, tổ chức cũng như
xã hội là hết sức cần thiết. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường hiện nay việc
tự do trao đổi, tự do thỏa thuận về hình thức GDDS đã gây ra những hệ lụy
khó ngờ đối với một số người thiếu am hiểu về pháp luật thì việc nghiên cứu
về đề tài này càng tăng tính cấp thiết của nó. Bộ luật dân sự nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015 (BLDS 2015) vừa mới ban hành có hiệu
lực vào ngày 01/01/2017, nhưng việc hiểu và áp dụng những quy định đó
trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến vi phạm liên quan đến không
tuân thủ quy định về hình thức của các GDDS cần được quan tâm nhiều hơn
nữa. Trong thực tiễn thì quy định của pháp luật về điều kiện có hiệu lực về
hình thức của GDDS cũng có những cách hiểu khác nhau, dẫn tới việc nhận
định và quyết định không giống nhau ở một số bản án giải quyết cùng một
loại tranh chấp.

2


Từ những phân tích và lý do nêu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Điều
kiện có hiệu lực về hình thức của giao dịch dân sự theo bộ luật dân sự
2015”để làm luận văn thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
iện nay, liên quan đến các vấn đề về điều kiện có hiệu lực về hình
thức GDDS vẫn đang được các nhà khoa học, các nhà làm luật quan tâm. Để
nghiên cứu đề tài luận văn, tác giảtìm hiểu các đề tài nghiên cứu, các luận án,
luận văn và bài báo khoa học dưới đây:
Phạm Thị Minh Trang (2014), Hình thức GDDS theo pháp luật Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Đề tài
đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về hình thức GDDS. Nghiên cứu

thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về hình thức GDDS; đánh
giá thực trạng quy đinh của pháp luật và cách thức giải quyết tranh chấp của
cơ quan có thẩm quyền về hình thức GDDS để từ đó xác định được những
điểm cần sửa đổi trong quy định của pháp luật. Trên cơ sở những bất cập đã
được xác định từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp trong việc sửa đổi, bổ
sung các quy định của pháp luật hiện hành về hình thức GDDS [43].
Nguyễn Ngọc Tú Loan (2009), Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân
sự, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn
đã nghiên cứu pháp luật thực định Việt Nam quy định riêng về hợp đồng dân
sự và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật. Phân tích và lý giải nhằm
làm rõ cơ sở pháp luật và thực tiễn của hợp đồng cũng như các quy định về
điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự. Nghiên cứu pháp luật thực định
Việt Nam quy định về hợp đồng dân sự và thực tiễn áp dụng các quy định của
pháp luật. Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp
luật về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự [26].

3


Ngoài ra, tác giả đã tìm đọc các tài liệu liên quan như: Tác giả Nguyễn
Văn Cường (2002) với bài viết về “GDDS vô hiệu do không tuân thủ các quy
định về hình thức”; Tác giả Trần Thị Thu Hà (2014), với bài viết “Về hợp
đồng mua bán nhà ở vô hiệu do vi phạm điều kiện về hình thức”; Tác giả
Tưởng Duy Lượng (2015) với bài viết “Bảo vệ người thứ ba ngay tình khi
GDDS vô hiệu” hay tác giả Nguyễn Thị Minh Phượng (2013) với bài viết
“ ợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu do vi phạm về hình thức theo quy định của
BLDSViệt Nam 2005 và hướng hoàn thiện”…
Những công trình khoa học trên là tài liệu vô cùng quí báu giúp tác giả
có thêm nhiều thông tin quan trọng phục vụ cho việc nghiên cứu luận văn,
nhưng các công trình kể trên không nghiên cứu riêng và toàn diện về điều

kiện có hiệu lực về hình thức của GDDS theo quy định tại BLDS 2015. Bởi
vậy, việc lựa chọn đề tài “Điều kiện có hiệu lực về hình thức của GDDS theo
bộ luật dân sự 2015” để làm luận văn thạc sỹcủa tác giả là không trùng lặp
với các công trình khoa học đã được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, quyết định của Bộ luật dân sự hiện hành
và thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến điều kiện có hiệu lực về hình
thức của GDDS ở Việt Nam, đề tài đề xuất giải pháp, kiến nghị góp phần
hoàn thiện pháp luật liên quan đến điều kiện có hiệu lực về hình thức GDDS.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung liên quan đến điều kiện có
hiệu lực về hình thức của GDDS như: làm rõ khái niệm và bản chất pháp lý
của vấn đề điều kiện có hiệu lực về hình thức GDDS; nghiên cứu một cách
xuyên suốt vấn đề điều kiện có hiệu lực về hình thức của GDDS trong hệ
thống pháp luật Việt Nam từ xưa đến nay; phân tích và nghiên cứu về điều

4


kiện có hiệu lực về hình thức của GDDS; nghiên cứu khái quát về hình thức là
điều kiện có hiệu lực của GDDS khi pháp luật quy định.
- Nghiên cứu quy định của Bộ luật dân sự hiện hành và thực tiễn áp
dụng pháp luật về điều kiện có hiệu lực về hình thức GDDS; đánh giá thực
trạng và những điểm thiếu sót, mâu thuẫn trong quy định của pháp luật và
cách thức giải quyết tranh chấp của cơ quan có thẩm quyền về điều kiện có
hiệu lực về hình thức của GDDS để từ đó xác định được những điểm cần sửa
đổi, bổ khuyết trong BLDS vềhình thức GDDS.
- Trên cơ sở những bất cập đã được xác định từ đó đưa ra những kiến
nghị, giải pháp phù hợp trong việc sửa đổi, bổ sung các quy định của BLDS

vềvấn đề điều kiện có hiệu lực về hình thức của GDDS.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các quy định của pháp luật về hình thức GDDS và
điều kiện có hiệu lực về hình thức của GDDS theo BLDS 2015.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Về nội dung: điều kiện có hiệu lực về hình thức của GDDS là vấn đề rất
rộng, nên nội dung của luận văn tập trung nghiên cứu phân tích các quy định
về điều kiện có hiệu lực về hình thức GDDS trong BLDS 2015.
Về thời gian: Đề tài nghiên cứu một phần các quy định liên quan đến
điều kiện có hiệu lực về hình thức GDDS trong pháp luật của Việt Nam qua
các thời kỳ.
Về không gian: Đề nghiên cứu thực tiễn một số vụ án liên quan đến
điều kiện có hiệu lực về hình thức GDDS trên địa bàn thành phố Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận

5


Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan
điểm của Đảng và Nhà nước về pháp luật liên quan đến hình thức GDDS nói
chung, pháp luật liên quan đến điều kiện có hiệu lực về hình thức GDDS nói
riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu phân tích, tổng hợp, thống
kê, so sánh, diễn dịch và quy nạp. Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử
dụng ở cả 03 chương để làm sáng tỏ các vấn đề lý luận, cũng như đánh giá

thực trạng và đề xuất phương hướng, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật
liên quan đến điều kiện có hiệu lực về hình thức GDDS tại Việt Nam. Phương
pháp thống kê, so sánh được sử dụng chủ yếu ở chương 2, nhằm đánh giá
đúng và đầy đủ thực trạng thực hiện pháp luật liên quan đến điều kiện có hiệu
lực về hình thức GDDScả về những kết quả đạt được, những hạn chế, yếu
kém và nguyên nhân trong hoạt động này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn nghiên cứu lý luận một cách toàn diện về điều kiện có hiệu
lực về hình thức của GDDS. Đánh giá và phân tích về điều kiện có hiệu lực
về hình thức của GDDS trong pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ để thấy
được các quy định mới theo BLDS 2015, đồng thời so sánh với quy định về
điều kiện có hiệu lực về hình thức của GDDS của một số nước trên thế giới.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật, giải quyết tranh chấp liên quan
đến điều kiện có hiệu lực về hình thức của GDDS thông qua các bản án tại
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.

6


- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác
giảng dạy pháp luật liên quan đến điều kiện có hiệu lực về hình thức của
GDDS tại Việt Nam; làm tài liệu nghiên cứu cho tất cả những ai quan tâm,
muốn tìm hiểu về vấn đề pháp luật này…
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, kết luận và danh mục tài tiệu tham khảo, nội dung
của Luận văn gồm có 3 chương.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận liên quan đến điều kiện có hiệu lực về
hình thức của GDDS

Chương 2: Nội dung điều kiện có hiệu lực về hình thức của GDDS theo
quy định của BLDS 2015
Chương 3: Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật liên quan đến điều
kiện có hiệu lực về hình thức của GDDStheo quy định của BLDS 2015và một
số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề này.

7


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẦN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐIỀU KIỆN
CÓ HIỆU LỰC VỀ HÌNH THỨC CỦA GIAO DỊCH DÂN SỰ
1.1. Khái niệm điều kiện có hiệu lực về hình thức của giao dịch dân sự
1.1.1. Giao dịch dân sự
1.1.1.1. Khái niệm
Khái niệm “Giao dịch” theo từ điển Tiếng Việt được hiểu một cách đơn
giản nhất là sự đổi chác, mua bán [29, tr20]. Giao dịch hình thành từ hình
thức đơn giản nhất như con người trao đổi sản phẩm do mình làm ra, cho đến
ngày nay khi giao dịch được sử dụng với nhiều hình thức biểu đạt và là một
công cụ hữu hiệu để cá nhân, tổ chức thỏa mãn nhu cầu về vật chất, tinh thần
của mình. Theo đó thì một cá nhân, tổ chức muốn tồn tại và phát triển trong
xã hội phải tham gia vào các giao dịch nhất định để trao đổi và dịch chuyển
các lợi ích với nhau.
Với vị trí và ý nghĩa quan trọng như vậy, nên GDDS nhanh chóng được
đưa vào hệ thống pháp luật của các quốc gia để nhằm ổn định, giữ trật tự cho
nền kinh tế phát triển. Có thể thấy rằng, một xã hội phát triển luôn phải đặt ra
nhu cầu hoàn thiện và phát triển chế định giao dịch. Điều này được thể hiện rõ
nét trong hệ thống pháp luật của Việt Nam từ khi hình thành cho đến nay. Tuy
thuật ngữ “GDDS” chưa được thể hiện từ những ngày đầu của lịch sử lập
pháp Việt Nam nhưng trong các văn bản cổ luật đã tìm thấy các thuật ngữ có

ý nghĩa tương đương hoặc thể hiện bản chất của việc giao dịch như: khế ước
hoặc mua, bán, cho, cầm hoặc hành vi thể hiện ý chí của con người nhằm phát
sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự mà không phụ thuộc vào
ý chí bên kia như hành vi lập di chúc…
Đối với thế giới, sự phát triển của “GDDS” tại mỗi quốc gia có những
đặc thù riêng. Nét chung nhất có thể nhận thấy được là vị trí của chế định
8


GDDS ngày càng được nâng cao và chú trọng. Tuy nhiên, tùy theo tình hình
phát triển kinh tế xã hội ở một đất nước mà GDDS lại được quy định ở những
khía cạnh, góc độ khác nhau.
Chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống luật pháp của các quốc gia
nên GDDS cũng có nhiều cách hiểu, định nghĩa khác nhau. Ở Việt Nam khái
niệm GDDS được các nhà khoa học định nghĩa theo nhiều góc độ. Có nhà
khoa học cho rằng: “GDDS là hành vi được thực hiện nhằm thu được kết quả
nhất định và pháp luật tạo điều kiện cho kết quả trở thành hiện thực” [4, tr66],
đồng thời cũng có cách hiểu khác theo nghĩa chủ quan như: “Giao dịch là một
sự kiện pháp lý, bao gồm hành vi pháp lý đơn phương hoặc đa phương (giao
dịch) làm phát sinh hậu quả pháp lý” [4, tr67]. Tác giả đồng tình với cách lý
giải GDDS theo nghĩa chủ quan này. Bởi nó mang tính khái quát cao nhất bản
chất của GDDS.
Trong nghiên cứu của luận văn, đề tài sử dụng khái niệm GDDS
theoĐiều 116,BLDS 2015 như sau: “GDDS là giao dịch (thay giao dịch bằng
hợp đồng) hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” [7, tr33].
1.1.1.2. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
Điều kiện có hiệu lực của GDDS là điều kiện mà các bên khi ký kết các
giao dịch phải tuân thủ thì giao dịch mới có hiệu lực, nếu không tuân thủ thì
giao dịch sẽ vô hiệu. Bên cạnh nguyên tắc tôn trọng quyền tự do thoả thuận

của các bên trong giao dịch thì pháp luật cũng đặt ra một số những yêu cầu tối
thiểu buộc các chủ thể phải tuân thủ theo đó là các điều kiện có hiệu lực của
giao dịch. Mọi cam kết, thoả thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc đối với các
bên và được pháp luật bảo hộ.
Theo Điều 117, BLDS 2015 thì điều kiện có hiệu lực của GDDS như
sau [7, tr33]:

9


- GDDS có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
+ Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù
hợp với GDDS được xác lập;
+ Chủ thể tham gia GDDS hoàn toàn tự nguyện;
+ Mục đích và nội dung của GDDS không vi phạm điều cấm của luật,
không trái đạo đức xã hội.
- Hình thức của GDDS là điều kiện có hiệu lực của GDDS trong trường
hợp luật có quy định.
Vậy để hiểu rõ các quy định về điều kiện có hiệu lực của GDDS tác giả
xin phân tích một số khái niệm nêu ra trong Điều luật bao gồm: điều kiện về
chủ thể, ý chí của chủ thể tham gia giao dịch, nội dung, mục đích và hình thức
của GDDS được quy định trong từng trường hợp.
(1)Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù
hợp với GDDS được xác lập.
Chủ thể của GDDS là những người tham gia xác lập, thực hiện giao
dịch hoặc một hành vi pháp lý đơn phương, có quyền và nghĩa vụ phát sinh từ
GDDS và phải chịu trách nhiệm về thực hiện quyền, nghĩa vụ phát sinh từ
giao dịch đó.
Để tham gia xác lập, thực hiện một GDDS, pháp luật có quy định chủ
thể phải có năng lực chủ thể nhất định. Theo đó, yêu cầu về chủ thể tham gia

giao dịch phải có “năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự” cả
hai yếu tố này là một trong những điều kiện tiên quyết để GDDS có hiệu lực.
Trong đó năng lực pháp luật là quyền xử sự của chủ thể được ghi nhận và
được phép thực hiện. Năng lực hành vi là khả năng tự có của chủ thể trong
việc thực hiện, kiểm soát và làm chủ hành vi của mình. Cụ thể theo quy định
tại Điều 16 và Điều 19 của BLDS quy định rất rõ ràng về năng lực pháp luật
dân sự và năng lực hành vi dân sự của cá nhân.

10


Thuật ngữ “chủ thể” ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm các chủ
thể của quan hệ pháp luật dân sự: cá nhân (là con người cụ thể), pháp nhân
(một tổ chức tồn tại theo một hình thức nhất định), hay cũng có thể là hộ gia
đình và tổ hợp tác (BLDS 2015 đã bỏ chủ thể này)nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam – một chủ thể đặc biệt.
Đối với chủ thể là cá nhân: GDDS do cá nhân xác lập chỉ có hiệu lực
pháp luật nếu phù hợp với mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Mặt
khác, thuật ngữ “cá nhân “ bao gồm cả công dân Việt Nam và người nước
ngoài. Trong phạm vi bài viết này tác giả xin phép chỉ bàn về năng lực chủ
thể của cá nhân là công dân Việt nam nhằm xác định rõ khi cá nhân tham gia
một GDDS thì trường hợp nào được coi là đủ năng lực chủ thể, trường hợp
nào được coi là chưa đủ năng lực chủ thể. Như trên đã đề cập, cá nhân khi
tham gia và giao dịch chỉ được coi là có đủ năng lực chủ thể khi họ có năng
lực pháp luật Dân sự và có năng lực hành vi Dân sự, Điều 16 BLDS 2015 đã
ghi nhận năng lực pháp luật Dân sự cá nhân như sau: “1. Năng lực pháp luật
Dân sự cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền Dân sự và có nghĩa vụ Dân
sự. 2. Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật Dân sự giống nhau. 3. Năng lực
pháp luật Dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi
người đó chết” [7].

+ Người từ đủ 18 tuổi trở lên có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Trừ
các trường hợp bị tòa án tuyên bố mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự. Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ được toàn quyền xác lập mọi
GDDS. Lúc này, họ hoàn toàn chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
Như vậy, có thể hiểu năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là phạm vi
các quyền mà bằng pháp luật nhà nước đã ghi nhận cho công dân mình. Theo
quy định tại Điều 18 BLDS thì năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không
bị hạn chế, trừ trường hợp do pháp luật quy định. Vì thế mọi cá nhân đều

11


được coi là đủ năng lực pháp luật dân sự khi tham gia GDDS, ngoại trừ những
trường hợp cá nhân đó đã bị pháp luật hạn chế một số quyền nào đó vốn là
mục đích của giao dịch mà cá nhân đó tham gia.
Năng lực hành vi dân sự của mỗi cá nhân đã được BLDS 2015 định
nghĩa tại Điều 19 như sau: “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng
của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân
sự”[7]. Dựa vào sự phù hợp giữa khả năng nhận thức, kiểm soát, làm chủ
hành vi với các hành vi mà cá nhân thực hiện thì năng lực hành vi dân sự của
cá nhân được xác định theo nhiều mức độ khác nhau như: người có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ, người có năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ, người
không có năng lực hành vi dân sự, người mất năng lực hành vi và người bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Đối với người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự theo quy định tại Điều
20 BLDS 2015 là người thành niên từ đủ 18 tuổi trở lên trừ trường hợp bị tòa
án tuyên bố bị mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi hoặc bị tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự. Người có năng
lực hành vi dân sự đầy đủ có toàn quyền tham gia vào mọi GDDS để xác định
cho mình hoặc cho người đại diện các quyền và nghĩa vụ dân sự cũng đồng

thời phải gánh chịu mọi trách nhiệm và nghĩa vụ phát sinh từ hành vi pháp lí
mà họ thực hiện. Tuy nhiên không phải cứ có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
thì có thể tham gia mọi GDDS mà pháp luật có quy định hạn chế quyền tự
định đoạt của những người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ khi tham gia
vào một số quan hệ giao dịch nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người được đại diện như: bán trao đổi, cho thuê, cho mượn, cho vay, cầm cố,
thế chấp, đặt cọc và các giao dịch khác đối với tài sản có giá trị lớn của người
được giám hộ mà không được sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ.
Những giao dịch không nằm trong phạm vi thẩm quyền đại diện của người đại

12


diện. Bên cạnh đó người có năng lực hành vi dân sự có thể ủy quyền cho
người đại diện cho mình tham gia quan hệ giao dịch trừ trường hợp pháp luật
quy định họ phải tự mình xác lập thực hiện giao dịch đó.
Theo khoản 3 Điều 21 BLDS 2015 [7], người từ đủ sáu tuổi đến chưa
đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện GDDS phải được người đại diện theo
pháp luật đồng ý, trừ GDDS phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp
với lứa tuổi. Tuy nhiên pháp luật cũng quy định trường hợp riêng cho những
người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi tự mình xác lập, thực hiện GDDS, trừ
GDDS liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và GDDS khác
theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.
Đối với cá nhân chưa đủ 6 tuổi và người mất năng lực hành vi dân sự
đều không được phép thực hiện các GDDS, mọi GDDS của những người này
đều phải thông qua người đại diện theo pháp luật xác lập và thưc hiện. Quy
định này được nêu rõ tại Khoản 2 Điều 21 và Khoản 2 Điều 22 của BLDS
2015 [7].
- Đối với chủ thể là pháp nhân:
Pháp nhân là chủ thể của GDDS theo Điều 74 BLDS 2015 quy định

một tổ chức được thừa nhận là pháp nhân tham gia vào các quan hệ pháp luật
dân sự với tư cách là một chủ thể độc lập thì phải có các điều kiện: “được
thành lập hợp pháp, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có tài sản độc lập với cá nhân,
tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; nhân danh mình tham gia
các quan hệ pháp luật một cách độc lập” [7]. Các pháp nhân là chủ thể đầy đủ
của quan hệ pháp luật dân sự, có năng lực chủ thể mang tính chuyên biệt,
được tham gia xác lập, thực hiện các giao dịch phù hợp với mục đích và phạm
vi hoạt động của pháp nhân. Mục đích và phạm vi hoạt động của pháp nhân
được thể hiện trong điều lệ, hoặc quyết định thành lập của pháp nhân (Điều
77 BLDS).

13


Pháp nhân khi tham gia giao kết GDDS phải thông qua hành vi của
người đại diện. Đại diện của pháp nhân có thể là đại diện theo pháp luật có
thể đại diện theo ủy quyền (Điều 137, Điều 138 BLDS). Đại diện theo pháp
luật của pháp nhân là người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ; người có
thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật; hoặc người do Tòa án chỉ
định trong quá trình tố tụng tại Tòa án. Một pháp nhân có thể có nhiều người
đại diện theo pháp luật và mỗi người đại diện có quyền đại diện cho pháp
nhân theo quy định tại Điều 140 và Điều 141 của BLDS.
(2) Chủ thể tham gia GDDS hoàn toàn tự nguyện
Chủ thể của GDDS có thể là cá nhân, tổ chức nhưng người trực tiếp
tham gia giao dịch bao giờ cũng là con người cụ thể. Dù với tư cách cá nhân
hay với tư cách đại diện cho pháp nhân thì người tham gia giao dịch cũng
phải hoàn toàn tự nguyện, chỉ có hoàn toàn tự nguyện trong việc thỏa thuận
xác định nội dung của giao dịch thì các chủ thể mới đạt được mục đích từ giao
dịch đó.
Trong thực tiễn giải quyết các tranh chấp từ GDDS việc xác định như

thế nào thì bị coi là giao dịch được giao kết không có sự tự nguyện của người
tham gia giao kết giao dịch là việc hết sức khó khăn. Vì vậy, về nguyên tắc
khi giao dịch đã được giao kết thì được coi là có sự tự nguyện giữa các bên.
Người nào cho rằng giao dịch đó không có sự tự nguyện trong giao kết thì
phải chứng minh rằng giao dịch đó được giao kết trong các trường hợp cụ thể
như là:
Thứ nhất, GDDS giả tạo: là GDDS được lập ra nhưng không phản ánh
đúng bản chất của quan hệ đích thực giữa các bên, thể hiện ở việc các bên xác
lập hợp đồng để che đậy một giao dịch khác hay một hành vi trái pháp luật
của một hoặc các bên. Nói cách khác, GDDS giả tạo là GDDS “mà trong đó,

14


việc thể hiện ý chí ra bên ngoài khác với ý chí nội tâm và kết quả thực hiện
của các bên tham gia”.
Thứ hai, Giao dịch giao kết do bị đe dọa là hành vi cố ý của một bên
hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh
thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình
hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình. Sự đe dọa thường được hiểu là
việc một bên cố ý gây ra sự sợ hãi cho bên kia bằng hành vi bạo lực vật chất
hoặc sự khủng bố tinh thần, làm bên kia tê liệt ý chí hoặc làm mất khả năng
kháng cự nên đã xác lập giao dịch trái với nguyện vọng đích thực của họ
hoặc giao dịch giao kết do bị lừa dối là hành vi cố ý của một bên hoặc của
người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối
tượng hoặc nội dung của GDDS nên đã xác lập giao dịch đó. Biểu hiện của sự
lừa dối là hành vi cố ý cung cấp thông tin sai sự thật khiến cho bên kia tin vào
các thông tin đó mà xác lập hợp đồng bất lợi cho họ hoặc trái với nguyện
vọng đích thực của họ.
Hay giao dịch giao kết do nhầm lẫn là sự không trùng hợp ý chí được

thể hiện với mong muốn thật sự của người thể hiện ý chí. Hay nói cụ thể hơn,
đó là việc một hoặc các bên hình dung sai về sự việc, chủ thể, đối tượng hoặc
các nội dung của giao dịch nên đã xác lập giao dịch trái với ý nguyện đích
thực của mình. Ví dụ: người mua bảo hiểm tưởng là khi mua bảo hiểm thì
được hưởng tiền bảo hiểm trong mọi trường hợp có rủi ro, nhưng thực tế là
điều khoản bảo hiểm đã có những loại trừ nên một số loại rủi ro sẽ không
được bảo hiểm. Pháp luật Việt Nam chỉ chấp nhận hợp đồng vô hiệu do nhầm
lẫn về nội dung của hợp đồng.
(3)Mục đích và nội dung của GDDS không vi phạm điều cấm của luật,
không trái đạo đức xã hội.

15


BLDS năm 2015 thừa nhận nguyên tắc tự do cam kết, thỏa thuận (Điều
3). Nhưng để bảo vệ quyền và lợi ích nhân dân BLDS năm 2015 cũng quy
đinh một số trường hợp hạn chế quyền tự do của các bên trong việc thiết lập
hợp đồng. Theo đó, nội dung và mục đích của hợp đồng (GDDS) “không
được vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội”[7], hợp
đồng (GDDS) có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái
đạo đức xã hội thì vô hiệu (Điều 123).
Nội dung của hợp đồng là tổng hợp quyền và nghĩa vụ của các bên chủ
thể tham gia hợp đồng được thể hiện trong các điều khoản của hợp đồng. Mục
đích của GDDS (hay hợp đồng) là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn
đạt được khi xác lập giao dịch đó (Điều 123).
Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho
phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Và đạo đức xã hội là những
chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được
cộng đồng thừa nhận và tôn trọng (Điều 128). Vì vậy, một hợp đồng muốn
được coi là có hiệu lực pháp luật thì hợp đồng đó chỉ lưu thông trao đổi các

tài sản được phép giao dịch hoặc thực hiện các công việc không bị pháp luật
cấm và không phạm vào sự ứng xử chung được cộng đồng thừa nhận và tôn
trọng. Những giao dịch xác lập nhằm trốn tránh pháp luật hoặc trái đạo đức xã
hội là những giao dịch có mục đích và nội dung không hợp pháp, không làm
phát sinh hiệu lực của GDDS đó.
(4) Hình thức của GDDS là điều kiện có hiệu lực của GDDS trong
trường hợp luật có quy định.
GDDS có thể thực hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi
cụ thể. Người xác lập giao dịch có quyền lựa chọn hình thức cho giao dịch đó.
Trong trường hợp pháp luật có quy định GDDS phải được thể hiện bằng văn
bản, phải được công chứng, chứng thực, đăng ký hoặc phải xin phép thì phải

16


tuân theo quy định đó. Chẳng hạn như giao dịch mua bán nhà, chuyển quyền
sử dụng đất.
Như vậy, GDDS chỉ có hiệu lực khi đáp ứng đủ các điều kiện nêu trên
(tuân thủ về mặt hình thức nếu pháp luật có quy định). Nếu thiếu 1 trong các
điều kiện trên, GDDS có thể thuộc các trường hợp bị vô hiệu theo pháp luật
như: vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội; vô hiệu
do giả tạo; vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân
sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thực hiện;…
Tóm lại, điều kiện có hiệu lực của GDDS là tổng hợp những yêu cầu
pháp lý nhằm đảm bảo cho GDDS được lập đúng bản chất đích thực của nó.
Đây là những điều kiện cần và cũng là tiền đề pháp lý nhằm đảm bảo cho giao
dịch được xác lập hợp pháp và có hiệu lực ràng buộc đối với các bên. Theo
BLDS 2015 thì có bốn điều kiện để một GDDS có hiệu lực, khi giao dịch
không tuân thủ các điều kiện này thì giao dịch có thể bị vô hiệu không thực
hiện được. Tuy nhiên các điều luật về vấn đề này trong pháp luật Việt Nam

còn có nhiều bất cập, các nhà làm luật cần hoàn thiện hơn nữa về chế định
này để cho luật GDDS của chúng ta đầy đủ và rõ ràng hơn nữa để đúng là
hành lang pháp lí an toàn cho các bên khi tham gia GDDS.
1.1.2. Hình thức giao dịch dân sự
Theo nghĩa thông thường, hình thức là “toàn thể nói chung những gì
làm thành mặt bề ngoài của sự vật, cái chứa đựng biểu hiện nội dung”. Trước
hết, hình thức được hiểu là: “cái bên ngoài, cái chứa đựng nội dung” [29,
Tr809]. Hay nói cách khác hình thức nhằm biểu đạt nội dung, nếu nội dung
không được thể hiện bằng một hình thức nhất định thì nội dung mãi chỉ là ý
chí, mong muốn trong tiềm thức của con người. Với đặc điểm như vậy hình
thức có một ý nghĩa khá quan trọng trong thế giới khách quan.

17


Hình thức của GDDS có vai trò là sự công bố ý chí của chủ thể tham
gia giao dịch, là cách thức để truyền đạt thông tin với chủ thể không tham gia
về sự xác lập giao dịch. Đồng thời, hình thức GDDS ngoài việc là phương
tiện thể hiện nội dung của giao dịch dưới một dạng vật chất nhất định. Một
trong những đặc điểm của GDDS là sự thống nhất giữa ý chí (yếu tố bên
trong) và bày tỏ ý chí (sự thể hiện ý chí ra bên ngoài) của các chủ thể tham
gia GDDS. Sự thống nhất ý chí và bày tỏ ý chí của các chủ thể được thể hiện
dưới nhiều hình thức khác nhau: bằng lời nói, bằng hành vi, bằng văn bản.
Tóm lại, theo tác giả thì khái niệm hình thức GDDS được hiểu như sau:
“ ình thức GDDS là sự biểu hiện ra bên ngoài của nội dung GDDS”. Thông
qua các biểu hiện này có thể hiểu được nội dung của GDDS. Tại Điều 119
BLDS 2015 có quy định về hình thức GDDS như sau: “GDDS được thể hiện
bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. GDDS thông qua
phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp
luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản…Trường hợp

luật quy định GDDS phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng
thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó” [7].
1.1.3. Điều kiện có hiệu lực về hình thức của giao dịch dân sự
Tuỳ theo tính chất của đối tượng giao dịch và hình thức GDDS mà
pháp luật dân sự có những yêu cầu khác nhau về điều kiện có hiệu lực về hình
thức của giao dịch. Đối với các giao dịch đáp ứng cho nhu cầu vật chất và tinh
thần hàng ngày của cuộc sống và thông thường giá trị tài sản không lớn thì chỉ
cần các bên thể hiện bằng lời nói, có sự tự nguyện, thống nhất ý chí của các
bên là giao dịch đó có hiệu lực. Tuy nhiên, có loại giao dịch không đòi hỏi
phải có sự thống nhất ý chí của hai bên mà chỉ cần 1 bên bày tỏ ý chí bằng lời
nói hoặc bằng hành vi cụ thể ví dụ như viết di chúc. Song có những loại giao
dịch pháp luật bắt buộc các bênphải thể hiện bằng văn bản và còn có trường

18


hợp phải có công chứng, chứng thực của cơ quan có thẩm quyền. Theo quy
định tại khoản 2 Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì chỉ trong những
trường hợp có quy định của pháp luật về loại giao dịch nào đó phải tuân theo
những hình thức nhất định và hình thức đó là điều kiện có hiệu lực của giao
dịch thì hình thức của giao dịch mới trở thành một điều kiện bắt buộc để giao
dịch đó có hiệu lực.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về “Điều kiện có hiệu lực về hình thức
của giao dịch dân sự”
Điều kiện có hiệu lực về hình thức của GDDS là khi pháp luật đã quy
định hình thức của giao dịch là một điều kiện bắt buộc thì khi các bên vi
phạm điều kiện về hình thức thì giao dịch sẽ vô hiệu.
Theo cách hiểu trên thì khi pháp luật đã quy định một loại giao dịch
nào đó phải tuân theo một hình thức nhất định mà vi phạm điều kiện về hình
thức đều vô hiệu. Cách hiểu này sẽ không bao trùm được hết các quy định

liên quan đến các trường hợp vi phạm hình thức GDDS nhưng không vô hiệu
(Quy định tại Điều 129, của BLDS 2015).
Trên cơ sở khái niệm về hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật, hình
thức GDDS và điều kiện có hiệu lực của GDDS, đề tài đưa ra khái niệm về
điều kiện có hiệu lực về hình thức của các GDDS như sau: Điều kiện có hiệu
lực về hình thức của GDDS là điều kiện về hình thức của GDDS mà các bên
thực hiện khi lựa chọn và ký các GDDS mà các bên phải tuân thủ thì GDDS
mới có hiệu lực, nếu không tuân thủ thì giao dịch sẽ vô hiệu theo quy định của
pháp luật.
Như vậy, có một số loại giao dịch đơn thuần, chủ thể tham gia giao
dịch có thể lựa chọn bất kỳ hình thức giao dịch nào. Nhưng đối với những
GDDS đặc biệt thì pháp luật đã quy định giao dịch đó phải tuân thủ theo một
hình thức nhất định.

19


Theo nhận định của tác giả thì quy định về hình thức GDDS tại BLDS
2015 là khá phù hợp so với thực tiễn giao kết thời điểm hiện nay. Các nhà làm
luật đã chú trọng đến hình thức mới của GDDS trong thời kỳ hiện đại như:
hình thức thông điệp dữ liệu (telex, fax…), mở rộng hành lang pháp lý cho
các chủ thể tham gia giao dịch tự do lựa chọn hình thức giao dịch phù hợp với
mình, bảo đảm tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể xác lập quan hệ
giao dịch cũng như quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba; góp phần bảo
đảm sự ổn định của quan hệ thị trường.
1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến điều kiện có hiệu lực
về hình thức của giao dịch dân sựqua các thời kỳ
1.2.1. Điều kiện có hiệu lực về hình thức của giao dịch dân sự trong các
đạo luật thời phong kiến
1.2.1.1. Quốc triều hình luật

Theo sử gia Phan Huy Chú thì Quốc triều hình luật là mẫu mực để trị
nước, cái khuôn pháp để buộc dân. Đây là bộ “ ình luật” chính thức và quan
trọng nhất của Triều đại nhà Lê (1428-1788). Theo các nhà khoa học pháp lý,
tuy Quốc triều hình luật là bộ “Hình luật” nhưng lại có nhiều quy định về di
chúc - những hoạt động đặc trưng của GDDS.
Trong Quốc triều hình luật không sử dụng khái niệm “khế ước” như
một số bộ luật thời kỳ phong kiến khác mà thường dùng khái niệm cụ thể như
mua, bán, cho… hoặc đặc biệt hơn là “văn khế” . Ví dụ theo Điều 76 “Bán
mắm muối cho người nước ngoài thì bị lưu đi châu xa” [50]…
Phân loại khế ước trong các quy định gồm có hai loại: miệng (tức là
khẩu ước) và khế ước bằng văn bản (tức là văn khế). Theo quốc triều thư khế
thể thức, một số loại khế ước liên quan đến ruộng đất, trâu bò (sức kéo), nhà
cửa, tàu bè bắt buộc phải lập văn bản. Còn những đối tượng khác không quy

20


×