Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Chức năng xét xử trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1017.4 KB, 92 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG

CHỨC NĂNG XÉT XỬ TRONG GIAI ĐOẠN
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. HỒ SỸ SƠN

HÀ NỘI – 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất
kì công trình nào khác.
Hà Nôi, tháng

năm 2017

Tác giả luận văn


LỜI CẢM ƠN


Để hoàn thành tốt bài luận văn nghiên cứu với đề tài: “Chức năng xét xử
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hà
Nội”cùng với sự nỗ lực cố gắng của bản thân, em xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc
đến thầy giáo PGS. TS. Hồ Sỹ Sơn đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn
thành đề tài luận văn tốt nghiệp.
Đồng thời em cũng xin cảm ơn các thầy, cô giáo Học viện Khoa học xã
hội Việt Nam, Viện Hàn Lâm khoa học xã hội việt Nam, các thầy cô giáo phụ
trách giảng dạy chuyên ngành luật. Các anh chị đồng nghiệp, gia đình và các bạn
đã tận tình giúp đỡ, chỉ bảo, đóng góp ý kiến quý báu, tạo điều kiện thuận lợi cho
em hoàn thành đề tài luận văn này.
Hà Nôi, tháng

năm 2017

Tác giả luận văn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG XÉT XỬ TRONG
GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ...........................................6
1.1. Khái niệmchức năng xét xử trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự .....6
1.2. Khái niệm, các dấu hiệu đặc trưng và các nguyên tắc của chức năng xét xử
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ........................................................10
1.3.Cơ sở và các giai đoạn thực hiện chức năng xét xử trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự .................................................................................................21
1.4. Các yếu tố tác động đến thực hiện chức năng xét xử trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự .................................................................................................29
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CHỨC NĂNG XÉT XỬ TRONG
GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN THỰC

HIỆN TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......................................................................34
2.1. Thực tiễn quy định về chức năng xét xử trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự ....................................................................................................................34
2.2. Thực tiễn thực hiện chức năng xét xử trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự tại thành phố Hà Nội .................................................................................48
Chƣơng 3. CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN ĐÚNG
CHỨC NĂNG XÉT XỬ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN
HÌNH SỰ ..................................................................................................................60
3.1. Các yêu cầubảo đảm chức năng xét xử trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự ....................................................................................................................60
3.2. Các giải pháp bảo đảm thực hiện đúng chức năng xét xử trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự .......................................................................................65
KẾT LUẬN ..............................................................................................................78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................80
PHỤ LỤC .................................................................................................................84


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

TT

Viết tắt

Từ viết tắt

1

TAND

Tòa án nhân dân


2

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Trang

Bảng 2.1. Số vụ án đã được giải quyết giai đoạn 2011 – 2016 ...................... 48
Bảng 2.2. Kết quả khảo sát về mức độ thực hiện công việc nhận hồ sơ vụ án,
cáo trạng và thụ lý vụ án ................................................................................. 52
Bảng 2.3. Kết quả khảo sát đánh giá về thời hạn chuẩn bị xét xử .................. 52
Bảng 2.4.Kết quả khảo sát về mức độ thực hiện các quyết định của TAND
thành phố Hà Nội trong thời hạn chuẩn bị xét xử ........................................... 53
Bảng 2.5.Kết quả khảo sát về mức độ thực hiện các thủ tục bắt đầu phiên tòa
hình sự sơ thẩm ............................................................................................... 54
Bảng 2.6. Kết quả khảo sát mức độ thực hiện thủ tục xét hỏi tại phiên tòa ... 54
Bảng 2.7.Kết quả khảo sát mức độ thực hiện các nội dung công việc trong giai
đoạn tranh luận tại phiên tòa ........................................................................... 55
Biểu 2.1. Tỷ lệ giải quyết các vụ án hình sự qua các năm tại Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội ............................................................................................ 49


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, cải cách tư pháp vẫn là một yêu cầu không thể
thiếu thúc đẩy quá trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền, với mục tiêu

xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công
lý, phục vụ nhân dân, hoạt động của Tòa án được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực
cao. Để thực hiện mục tiêu yêu cầu cải cách tư pháp thì yêu cầu xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng hình sự nói riêng là một
nhiệm vụ không thể tách dời. Trong tố tụng hình sự, chức năng xét xử nói chung và
xét xử sở thẩm nói riêng được coi là giai đoạn đặc biệt quan trọng, bởi lẽ để xác
định một người có tội và phải chịu hình phạt, người đó phải được đưa ra xét xử
trước phiên tòa; Tòa án là cơ quan duy nhất của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam có quyền quyết định một người có tội hay không có tội. Chính vì vậy, Khoản
1, Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có
tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật” [28]. Chức năng xét xử của Tòa án là sự thể hiện chất
lượng, uy tín của hệ thống các cơ quan tư pháp trong việc điều tra, truy tố, xét xử và
thay mặt Nhà nước đưa ra những phán quyết cuối cùng trong việc giải quyết vụ án
hình sự.
Thực tiễn cho thấy trong tổng số các vụ án hình sự mà ngành Tòa án đã giải
quyết thì số lượng án sơ thẩm chiếm tỉ lệ lớn. Tại thành phố Hà Nội, hàng năm, các
cấp Tòa án phải thụ lý, giải quyết khoảng từ 900 đến 1000 vụ án hình sự, trong đó
các vụ án được xét xử sơ thẩm chiếm trên 80%. Với vai trò quan trọng như thế,
nhưng các nghiên cứu về chức năng xét xử trong giai đoạn sơ thẩm các vụ án hình
sự hiện nay chưa nhiều, chưa có chiều sâu và còn thiếu tính hệ thống. Các nghiên
cứu mới chỉ tập trung phân tích quá trình tố tụng hình sự mà chưa thực sự quan tâm
đến chức năng xét xử của Tòa án nhân dân các cấp. Chính điều này, đã ảnh hưởng
đến công tác hoàn thiện chức năng xét xử của Tòa án qua đó ảnh hưởng đến chất
lượng xét xử. Nếu việc xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự không tuân thủ các quy

1


định của thủ tục tố tụng hình sự, thì sẽ dẫn đến việc xét xử của Tòa án bị sai sót, gây

ra những hậu quả rất xấu, làm giảm niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của
Đảng và Nhà nước.
Mặt khác, hiện nay Việt Nam đang trong giai đoạn thúc đẩy tiến trình cải
cách tư pháp theo hướng hoàn thiện và đầy đủ hơn, xây dụng một nhà nước pháp
quyền XHCN, hội nhập quốc tế về mọi lĩnh vực. Yêu cầu đặt ra là phải hoàn thiện
hệ thống tư pháp từ trung ương đến địa phương và việc nghiên cứu đề tài: “Chức
năng xét xử trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố
Hà Nội” mang tính cấp thiết không những về mặt lý luận mà còn là đòi hỏi thực
tiễn, nhằm nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm tại thành phố
Hà Nội, góp phần phục vụ thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, chức năng xét xử trong giai đoạn sơ thẩm vụ án hình sự
đã được một số nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.
Tác giả Võ Khánh Vinh (2003), Cơ quan bảo vệ pháp luật, Nxb Công an
nhân dân. Tác giả đã xây dựng cuốn sách thành 21 chương với các nội dung khác
nhau trong đó chức năng xét xử được tác giả dành phần lớn chương 4 để phân tích,
nghiên cứu. Tuy nhiên, tác giả chưa nghiên cứu sâu về chức năng xét xử trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Tác giả Đinh Thị Mai (2014), Lý luận cơ bản về các chức năng của tố tụng
hình sự”, Đề tài nghiên cứu cấp bộ. Tác giả đã đề cập đến các cách tiếp cận khác
nhau về chức năng của tố tụng hình sự như: chức năng của tố tụng hình sự là yếu tố
hợp thành và mang tính bản lề của tố tụng hình sự; chức năng của tố tụng hình sự bị
chi phối, quyết định bởi mục đích, nguyên tắc của tố tụng hình sự.
Tác giả Đinh Văn Quế (2000),với công trình: “Thủ tục xét xử sơ thẩm trong
luật tố tụng hình sự Việt Nam” (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội) [26], trong công
trình nghiên cứu của mình, các tác giả nói trên chỉ mới đề cập đến những vấn đề lý

2



luận chung về thủ tục xét xử sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự hoặc phân tích các
quy định của pháp luật tố tụng thực định về các thủ tục đó.
Tác giả Nguyễn Thị Thu Hiền (2011), Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
[16].Tác giảVũ Gia Lâm (2011), Hoàn thiện một số quy định về xét xử sơ thẩm
nhằm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc hai cấp xét xử [18].
Cho đến nay, vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu chức năng xét xử trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội. Vì vậy, việc
nghiên cứu đề tài “Chức năng xét xử trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
từ thực tiễn thành phố Hà Nội”là phù hợp với yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội
phạm của địa phương trong tình hình hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về chức năng xét xử trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, thực trạng thực hiện chức năng xét xử sơ
thẩm của Tòa án nhân dân các cấp thành phố Hà Nội, nguyên nhân của những thành
tựu và của những khó khăn thiếu sót trong thực hiện chức năng đó. Luận văn đề xuất
các giải pháp bảo đảm thực hiện đúng chức năng xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân
các cấp trong cả nước nói chung và ở địa phương nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Phân tích những vấn đề lý luận về chức năng xét xử của Tòa án.
- Phân tích phản ánh chức năng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự
xét xử sơ thẩm của Tòa án.
- Phân tích thực trạng thực hiện chức năng xét xử trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự của Tòa án các cấp của thành phố Hà Nội. Đề xuất hệ thống
các giải pháp bảo đảm thực hiện đúng chức năng xét xử trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự.

3



4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn lấy các quan điểm khoa học, các quy định pháp luật và thực tiễn
thực hiện chức năng xét xử trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của
Tòa án các cấp thành phố Hà Nội để nghiên cứu các vấn đề thuộc nội dung nghiên
cứu của đề tài.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài luận văn được nghiên cứu dưới góc độ chuyên ngành Luật hình sự và
Luật tố tụng hình sự.
- Địa bàn nghiên cứu: Thành phố Hà Nội
- Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2014 - 2016
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Phương pháp lý luận của luận văn là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của
Đảng về Nhà nước và pháp luật; những thành tựu của các khoa học: triết học, luật tố
tụng hình sự, luật hình sự, tội phạm học...
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài luận văn, còn sử dụng trong một tổng thể các phương
pháp nghiên cứu cụ thể như sau: hệ thống, lịch sử, lôgíc, tổng hợp, so sánh, dự báo,
kết hợp với phương pháp tham khảo ý kiến chuyên gia để chọn lọc tri thức khoa
học, kinh nghiệm thực tiễn trong áp dụng thủ tục xét xử sơ thẩm của Tòa án.
Bên cạnh đó, luận văn sử dụng phương pháp khảo sát bằng bảng hỏi để đánh
giá thực tiễn thực hiện chức năng xét xử trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự tại Thành phố Hà Nội.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn này góp phần nhận thức thống nhất, có hệ thống và toàn diện về

chức năng xét xử trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án.

4


6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn này đề cập việc phân tích thực trạng thực hiện chức năng xét xử
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của thành phố Hà Nội, góp phần
giải quyết các vướng mắc mà thực tiễn xử lý các vụ án hình sự tại địa phương gặp
phải.
Ngoài ra, luận văn có thể được sử dụng với tính chất là tài liệu tham khảo
trong công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập cho cán bộ các cơ quan bảo vệ
pháp luật, cũng như cho giảng viên và sinh viên trong các trường đào tạo đại học
chuyên ngành luật
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về chức năng xét xử trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự
Chương 2. Quy định của pháp luật về chức năng xét xử trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự và thực tiễn thực hiện tại thành phố Hà Nội
Chương 3. Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm thực hiện đúng chức năng xét
xử trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

5


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG XÉT XỬ TRONG GIAI
ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

1.1. Khái niệmchức năng xét xử trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm chức năng
Khi nói đến chức năng có nhiều quan điểm khác nhau. Theo từ điển tiếng
Việt: “Chức năng là phương diện hoạt động có tính chất cơ bản, xuất phát từ bản
chất của sự vật, hiện tượng, từ mục đích, ý nghĩa xã hội của việc giải quyết các
nhiệm vụ đó đặt ra”. Theo tiếng Latinh chức năng “functio” có nhiều nghĩa khác
nhau, có thể hiểu là nghĩa vụ, phạm vi hoạt động, chức năng, vai trò hay hiểu là loại
hoạt động của sinh vật và của các cơ quan, tế bào của nó... Tùy ngữ cảnh cụ thể để
áp dụng, nhưng nghĩa chủ đạo của chức năng là phương diện hoạt động để thực hiện
nhiệm vụ của mình.
Chức năng của cơ quan nhà nước là những phương diện hoạt động chủ yếu
có tính chất cơ bản và lâu dài của riêng cơ quan đó nhằm thực hiện những mục tiêu
nhất định trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn luật định để phục vụ việc thực hiện
chức năng chung của bộ máy nhà nước
1.1.2. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự: Theo nghĩa chung nhất, xét xử của
Tòa án là “hoạt động của các cơ quan và cá nhân được quyền căn cứ vào pháp luật
để xem xét những vấn đề pháp lý và đưa ra những quyết định có tính chất bắt buộc”
hay hoạt động xét xử là “hoạt động nhân danh Nhà nước nhằm xem xét, đánh giá
và ra phán quyết về tính hợp pháp, tính đúng đắn của hành vi pháp luật hay quyết
định pháp luật khi có tranh chấp và mâu thuẫn giữa các bên có lợi ích khác nhau”
[22]
Chính vì lẽ đó có quan điểm cho rằng: “Tòa án là nơi biểu hiện tập trung
nhất của quyền tư pháp – nơi mà kết quả hoạt động điều tra, truy tố, bào chữa được
kiểm tra, xem xét một cách công khai thông qua thủ tục tố tụng theo luật định để

6


đưa ra những phán quyết cuối cùng có tính quyền lực Nhà nước, nơi phản ánh đầy

đủ và sâu sắc nhất bản chất của nền công lý” [12].
Theo Từ điển Luật học thì “xét xử” là xem xét và xử các vụ án [5, tr1108]
“sơ thẩm” là xét xử vụ án lần thứ nhất [5, tr.861]. Về phương diện khoa học pháp lý
thì “xét xử sơ thẩm” là việc lần đầu tiên đưa vụ án ra xét xử ở tòa án có thẩm quyền.
Bản án, quyết định của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm. Nếu không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do pháp luật quy định thì
có hiệu lực thi hành [20].
Hiến pháp năm 2013 quy định Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp; có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo về quyền lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức, bảo vệ lợi ích chung của Nhà nước và xã hội. Trên cơ sở
Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức TAND năm 2014 quy định về thẩm quyền và
chức năng của Tòa án “Tòa án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia
đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của
pháp luật” [25, tr.17-22]
Hiện nay pháp luật TTHS Việt Nam xác định nguyên tắc hai cấp xét xử: Xét
xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm hình sự, trong đó xét xử sơ thẩm là trọng tâm và có
vai trò quan trọng trong hoạt động xét xử của Tòa án. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
hiện nay theo quy định thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện và TAND cấp tỉnh
[30].
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn độc lập của tố tụng hình sự, trong
đó Tòa án có thẩm quyền thực hiện chức năng xem xét của mình thông qua việc
xem xét, giải quyết vụ án, ra bản án, quyết định tố tụng theo quy định của pháp
luật.Quá trình giải quyết vụ án hình sự trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, tại phiên
tòa trên trên sở những chứng cứ đã được kiểm tra, đánh giá công khai, Tòa án ra
bản án xác định có tội hay không có tội. Ngoài việc ra bản án, Tòa án còn có quyền
ra các quyết định khác nhằm giải quyết vụ án.

7



Như vậy, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là xét xử lần đầu do Tòa án có thẩm
quyền tiến hành theo quy định của pháp luật
1.1.3. Chức năng xét xử trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định rõ nhiệm vụ của cải cách tư pháp là bảo
đảm để Toà án là trung tâm và chức năng xét xử là hoạt động trọng tâm. Trong số
các quan điểm và chủ trương của Đảng ta về cải cách tư pháp hình sự thì quan điểm
và chủ trương đề cao vai trò của Tòa án trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta là quan điểm mang tính đột phá. Theo
đó, về mặt nhận thức cũng như quá trình tổ chức thực tiễn và xây dựng, hoàn thiện
pháp luật, phải bảo đảm để Tòa án thực sự đóng vai trò là trung tâm của hệ thống tư
pháp và chức năng xét xử của Tòa án là hoạt động trọng tâm của tố tụng hình sự ở
nước ta.
Khái niệm chức năng xét xử trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự:
Xét xử là chức năng cơ bản của Tố tụng hình sự. Chức năng xét xử chỉ do
Tòa án thực hiện. Khi đó, Tòa án giải quyết vụ án theo giai đoạn (sơ thẩm, phúc
thẩm…) và thẩm quyền của mình để xem xét bị cáo có lỗi hay không có lỗi, xác
định bị cáo có phạm tội hay không để quyết định hình phạt và các biện pháp tư pháp
khác.
Chức năng xét xử trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự bắt đầu từ khi Tòa án
sơ thẩm nhận hồ sơ vụ án và cáo trạng do Viện kiểm sát chuyển sang và vào sổ thụ
lý của Tòa án. Chức năng này kết thúc khi bản án hoặc quyết định của Tòa án có
hiệu lực pháp luật.
Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn của tố tụng hình sự
và là chức năng trung tâm, chức năng xét xử gắn liền với tính chất quyền lực của
chủ thể thực hiện chức năng đó theo Hiến định. Do vậy, có thể nói: Chức năng xét
xử trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một dạng hoạt động thực hành
quyền lực Nhà nước do Tòa án nhân dân nhân danh Nhà nước thực hiện theo trình
tự tố tụng do luật điều chỉnh.


8


Phân biệt chức năng xét xử với các chức năng khác của Tòa án
Theo những quy định hiện nay của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 thì các chức
năng tố tụng chưa được xác định rõ. Ở đây, đề tài muốn nhấn mạnh về chức năng tố
tụng và có thêm một lưu ý rằng cần phân biệt chức năng tố tụng với chức năng về
mặt tổ chức của các cơ quan, thiết chế tương ứng. Chẳng hạn, Tòa án có chức năng
xét xử vì đó là cơ quan xét xử duy nhất ở Việt Nam. Chính vì theo cách hiểu về
chức năng được đặt ra từ tổ chức và tính chất hoạt động của các chủ thể tố tụng hình
sự mà lâu nay có quan niệm về sự tồn tại trong tố tụng hình sựu các chức năng:
Chức năng khởi tố, chức năng xét xử, chức năng bào chữa… Trong khi đó, trong
bất kỳ một hệ thống tố tụng hình sự nào cũng đều tồn tại các nhu cầu được đặt ra
bởi tính chất của tố tụng là: Truy tố tội phạm và người phạm tội; bào chữa của bị
can, bị cáo và Luật sư của họ; hoạt động xét xử của Tòa án. Từ đó, ba chức năng:
Buộc tội, bào chữa và xét xử luôn luôn tồn tại trong bất kỳ một loại tố tụng hình sự
nào. Do đó, nói chức năng xét xử trong các giai đoạn tố tụng là nói đến những định
hướng hoạt động trong quá trình tố tụng hình sự mà không lẫn lộn với chức năng
vốn có của các thiết chế tổ chức.
Xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm có ý nghĩa quan trọng đối với việc bảo
đảm tính đúng đắn, khách quan trong hoạt động xét xử của Tòa án. Điều này cũng
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo và những người có liên quan. Việc
quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm tạo cơ sở pháp lý cho việc xác định thẩm quyền
xét xử của Tòa án trong các giai đoạn tiếp theo. Trong luật tố tụng hình sự, thẩm quyền
xét xử của Tòa án theo nghĩa rộng bao gồm quyền xem xét và quyền giải quyết vụ án,
ra bản án hoặc các quyết định khác như quyết định đình chỉ vụ án, quyết định tạm đình
chỉ vụ án….Theo đó thẩm quyền của Tòa án bao gồm hai yếu tố có liên quan chặt chẽ
với nhau là thẩm quyền về hình thức và thẩm quyền về nội dung.
- Thẩm quyền về hình thức là quyền xem xét và phạm vi xem xét (giới hạn xét

xử) của Tòa án.
- Thẩm quyền về nội dung là quyền hạn giải quyết, quyết định của Tòa án
đối với những vấn đề được xem xét.

9


Như vậy, có thể hiểu thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án là thẩm quyền
về hình thức (xem xét vụ án). Theo lý luận khoa học tố tụng hình sự thì: “thẩm
quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là quyền mà pháp luật quy định cho phép Tòa
án được xét xử sơ thẩm vụ án hình sự căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm
của hành vi phạm tội; đối tượng phạm tội; nơi thực hiện tội phạm hoặc nơi khác
theo quy định của pháp luật.”
Việc phân loại thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự không thống nhất ở
các hệ thống pháp luật khác nhau. Do nhiều nguyên nhân trong đó: Sự khác biệt
trong cách phân định thẩm quyền xét xử giữa các quốc gia bao gồm cách thức tổ
chức của các cơ quan tư pháp, trình độ năng lực của các thẩm phán, điều kiện xét
xử, văn hóa pháp lý, tư tưởng chính trị. Hay kết quả của sự kết hợp hài hòa các lợi
ích, chuẩn mực chung sao cho phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng
hình sự; đường lối, chính sách của Đảng; tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân
dân…là một trong những nguyên nhân cơ bản nhất.
Việc quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự luôn phải dựa trên
rất nhiều căn cứ khác nhau nhưng các căn cứ sau đây khá phổ biến và có ý nghĩa
quan trọng:
- Thứ nhất: là dựa trên tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội,
tính chất nghiêm trọng, phức tạp của vụ án hình sự. Đây là căn cứ để phân định
thẩm quyền xét xử theo sự việc.
- Thứ hai: là dựa trên yếu tố không gian thực hiện tội phạm hoặc hành vi tố
tụng. Theo căn cứ này để phân định thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ.
- Thứ ba: là dựa trên các đặc điểm nhân thân của người phạm tội. Xuất phát

từ căn cứ này để phân định thẩm quyền xét xử theo đối tượng.
1.2. Khái niệm, các dấu hiệu đặc trƣng và các nguyên tắc của chức năng xét xử
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.2.1. Khái niệm thực hiện chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Thực hiện chức năng xét xử là Tòa án căn cứ vào thẩm quyền của mình thực

10


hiện các bước quả quá trình xét xử vụ án. Mặt khác căn cứ vào đặc điểm của từng vụ
án mà Tòa án thực hiện chức năng xét xử các vụ án hình sự hay các vụ án dân sự.
Thực hiện chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là việc Tòa án các cấp
thực hiện giải quyết vụ án hình sự theo thẩm quyền lần đầu để xem xét bị cáo có lỗi
hay không có lỗi, xác định bị cáo có phạm tội hay không để quyết định hình phạt và
các biện pháp tư pháp khác.
Vậy về cơ bản, thực hiện chức năng xét xét sơ thẩm vụ án hình sự gồm 3
bước cơ bản:
- Căn cứ vào các cơ sở pháp lý, hành vi phạm tội hình sự và thẩm quyền và
chức năng của mình, Tòa án sẽ thực hiện mở phiên tòa xét xử các vụ án hình sự.
- Căn cứ vào thực trạng pháp luật, hành vi thực tế phạm lỗi và chức năng của
Tòa án, Tòa án xem xét bị cáo có lỗi hay không có lỗi và xác định bị cáo phạm tội
hay không.
- Căn cứ vào thực trạng cơ sở pháp lý, hành vi thực tế phạm lỗi và chức năng
của Tòa án, Tòa án quyết định hình phạt và các biện pháp tư pháp đối với bị cáo nếu
có tội và tuyên bố vô tội nếu bị cáo không có tội.
1.2.2. Các dấu hiệu đặc trưng của chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Thứ nhất, chức năng xét xử sơ thẩm của Tòa án chỉ được tiến hành khi Cơ
quan điều tra đã điều tra vụ án; Viện kiểm sát đã truy tố bị can ra trước Toà án bằng
bản cáo trạng. Chính vì vậy chức năng xét xử sơ thẩm của Tòa án được xác định
như là một công đoạn trong giai đoạn kết thúc của quá trình giải quyết một vụ án

hình sự.
Thứ hai, do căn cứ để xét xử ở mỗi cấp cũng có sự khác nhau nên tính chất
xét xử ở mỗi cấp cũng có sự khác nhau. Nếu như tính chất của xét xử giám đốc
thẩm, tái thẩm là việc xét lại bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp
luật nhưng bị kháng nghị; tính chất của xét xử phúc thẩm là việc xét lại những bản
án hoặc quyết định của cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng cáo,
kháng nghị; thì tính chất của xét xử sơ thẩm là việc Toà án lần đầu tiên điều tra,
xem xét một cách khách quan, toàn diện và công khai tại phiên toà đối với tất cả các

11


tài liệu, chứng cứ thu thập được trong giai đoạn điều tra, cùng với các tài liệu,
chứng cứ được đưa ra tại phiên toà, nhằm xác định chính xác sự thật về vụ án, trên
cơ sở đó Toà án đưa ra những quyết định giải quyết vụ án (bằng một bản án hoặc
một quyết định). Nếu như bản kết luận điều tra và bản cáo trạng chỉ là kết luận sơ
bộ của Cơ quan điều tra và của Viện kiểm sát để trên cơ sở đó đề nghị Toà án xét
xử bị cáo thì bản án của Toà án mới là kết luận chính thức và công khai bị cáo có tội
hay không có tội, nếu có tội thì bị cáo phạm tội gì, theo quy định tại điều khoản nào
của Bộ luật hình sự; Toà án có áp dụng hình phạt đối với bị cáo hay không, nếu áp
dụng hình phạt thì là loại hình phạt gì; đồng thời Toà án quyết định các biện pháp tư
pháp đối với bị cáo cũng như trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội
của bị cáo gây ra hoặc kiến nghị với cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội sửa chữa
những thiếu sót trong việc quản lý nhà nước, quản lý kinh tế và quản lý con người;
Nếu có căn cứ, Toà án còn có thể khởi tố vụ án đối với người phạm tội mới hoặc
hành vi phạm tội mới... Nói cách khác, tính chất của xét xử sơ thẩm chính là việc Toà
án phải xem xét và quyết định một cách công khai, toàn diện tất cả các vấn đề đặt ra
của vụ án, theo yêu cầu của pháp luật tố tụng hình sự.
Xuất phát từ tính chất như đã nêu trên nên hoạt động xét xử sơ thẩm có một
vị trí, vai trò rất quan trọng trong hoạt động tố tụng hình sự. Xét xử sơ thẩm được

xác định như là một công đoạn đầu tiên trong giai đoạn kết thúc của quá trình giải
quyết một vụ án hình sự. Hay nói cách khác, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai
đoạn mở đầu cho toàn bộ hoạt động xét xử của Toà án. Bởi vậy, Bộ luật tố tụng
hình sự 2015 đã giành chương XXI (Điều 243 đến Điều 321) để quy định về thủ tục
xét xử sơ thẩm [31]. Dấu hiệu đặc trưng của chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự được thể hiện cụ thể như sau:
Một là, thực hiện một trong những nội dung của quyền tư pháp: quyền xét xử
Hai là, chức năng xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự là chức năng riêng có của
Tòa án
Ba là, thực hiện quyền được xét xử: Chuẩn bị xét xử, mở phiên tòa, điều
khiển phiên tòa, xét xử, hoãn phiên tòa, nghị án, tuyên án.

12


Bốn là, kết quả của chức năng xét xử (Bản án sơ thẩm), khi đã có hiệu lực
pháp luật, có hiệu lực bắt buộc đối với chủ thể có liên quan.
Năm là, được thực hiện bằng thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Như đã nói, xét xử sơ thẩm là bước xét xử lần một của nguyên tắc hai cấp xét
xử, nhưng trong thực tế thì không phải vụ án hình sự nào cũng trải qua hai cấp xét
xử. Việc xét xử tiếp một vụ án ở cấp phúc thẩm chỉ được thực hiện khi bản án của
cấp sơ thẩm bị kháng cáo hoặc bị kháng nghị. Bởi vậy, nếu việc xét xử sơ thẩm là
chính xác, khách quan và toàn diện, tuân thủ những quy định của pháp luật nói
chung và luật tố tụng hình sự nói riêng thì tỷ lệ kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm sẽ giảm xuống, phần lớn các vụ án hình sự sẽ được giải quyết xong ngay
khi đã được xét xử sơ thẩm. Như vậy, sẽ hạn chế được lượng án mà các toà án cấp
trên phải giải quyết, tiết kiệm được về thời gian cũng như tiền bạc cho việc giải
quyết một vụ án hình sự, hiệu quả hoạt động của toà án cũng như của bộ máy Nhà
nước được nâng cao.
1.2.3. Các nguyên tắc thực hiện chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

1.2.3.1. Khái niệm nguyên tắc thực hiện chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Nguyên tắc là những điều cơ bản tổ chức đặt ra dựa trên những quan điểm tư
tưởng nhất định đòi hỏi các tổ chức và cá nhân phải tuân theo.
Để bảo đảm tính chính xác, khách quan trong phán quyết của Toà án, bảo
vệ các quyền tự do dân chủ của công dân, các quốc gia đều áp dụng nguyên tắc vụ
án có thể được tổ chức xét xử nhiều lần và tổ chức hệ thống Toà án để thực hiện
nguyên tắc đó trong thực tế. Cấp xét xử không đơn thuần chỉ là thủ tục tố tụng; nó
còn liên quan nhiều đến cách tổ chức tố tụng, tổ chức Toà án để thực hiện việc xét
xử lại vụ án.
Chính vì vậy, pháp luật Việt Nam thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử. Tức vụ
án mà bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án bị
kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn định luật được Toà án cấp trên trực tiếp xét xử
lại theo thủ tục phúc thẩm. Còn các bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp
luật được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.

13


Từ đây có thể đưa ra khái niệm về nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng
hình sự: là tư tưởng chỉ đạo, có tính bắt buộc chung, thể hiện quan điểm có tính
định hướng của nhà nước trong việc tổ chức tố tụng để xét xử các vụ án hình sự,
được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự trong đó xác định một vụ việc hình
sự được xét xử lại và chỉ có thể được xét xử lần đầu ở cấp sơ thẩm có thể được xét
xử lại và chỉ cỏ thể được xét xử lại một lần nữa ở cấp phúc thẩm nếu có kháng cáo,
kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, nhằm giải quyết đúng đắn,
kịp thời vụ việc bản đảm lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân,
cơ quan, tổ chức.
1.2.3.2. Các nguyên tắc
(1) Nguyên tắc pháp chế
Nguyên tắc này được quy định tại Điều 7 Bộ luật tố tụng hình sự 2015: “Mọi

hoạt động tố tụng hình sự phải được thực hiện theo quy định của Bộ luật này.
Không được giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử ngoài
những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định.” [31].
(2) Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân
Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân là một nguyên tắc và
yêu cầu cơ bản, có tính chất xuyên suốt của thủ tục tố tụng hình sự Việt
Nam.Nguyên tắc này được quy định tại Điều 8 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 là: Khi
tiến hành tố tụng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và
lợi ích hợp pháp của cá nhân; thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết
của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó
nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết. Nội dung nguyên tắc
này nhấn mạnh đến trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng, mà ở trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm chính là trách nhiệm của thẩm phán và hội thẩm nhân dân, vì
những người này khi thực hiện hành vi tố tụng sẽ tác động trực tiếp đến các quyền
cơ bản của công dân.Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, tính hợp pháp và cần thiết của
những biện pháp đã được áp dụng nhất là đối với biện pháp tạm giam, phải được

14


thường xuyên kiểm tra, nếu thấy không còn cần thiết nữa thì phải huỷ bỏ hoặc thay
đổi. Việc thay đổi hoặc huỷ bỏ các biện pháp đã áp dụng phải xuất phát từ ý thức
tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân [31].
(3) Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật
Đây là nguyên tắc Hiến định, được quy định tại Điều 16 Hiến pháp năm
2013. “1. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. 2. Không ai bị phân biệt đối xử
trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”[28].
Điều 9, Bộ luật tố tụng hình sụ 2015 quy định về bảo đảm quyền bình
đẳng trước pháp luật như sau:“Tố tụng hình sự được tiến hành theo nguyên tắc mọi

người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính, tín
ngưỡng, tôn giáo, thành phần và địa vị xã hội. Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử
lý theo pháp luật. Mọi pháp nhân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt
hình thức sở hữu và thành phần kinh tế” [31].
(4) Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án
Theo quy định tại Điều 29 Bộ luật tố tụng hình sự 2003, nội dung của quyền
bình đẳng trước Toà án là Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người
tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, yêu cầu và
tranh luận trước Toà án.Hiện nay, do nhận thức chưa đầy đủ về quyền này nên ở một
số phiên toà đã xảy ra tình trạng Hội đồng xét xử, không tôn trọng việc bị cáo, người
bào chữa, người tham gia tố tụng đưa ra các chứng cứ, yêu cầu; tình trạng thiếu sự
tôn trọng lẫn nhau, gây mất trật tự tại phiên toà [30].
(5) Nguyên tắc bảo đảm việc tham gia tố tụng hình sự của các tổ chức xã hội
và công dân.
Theo quy định tại Điều 8 Bộ luật tố tụng hình sự 1988 thì Mặt trận Tổ quốc,
Công đoàn, Hội nông dân, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp
phụ nữ, các tổ chức xã hội khác và công dân có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng
hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, góp phần đấu tranh chống và
phòng ngừa tội phạm, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Cơ quan
tiến hành tố tụng có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức xã hội và

15


công dân tham gia tố tụng hình sự. Hiện nay nguyên tắc này không còn được nhắc
đến trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003 và 2015.
Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, nguyên tắc này được thể hiện ở các nội dung
như:
- Đối với những vụ án mà bị cáo bị đưa ra xét xử là người chưa thành niên
thì thành phần Hội đồng xét xử phải có một Hội thẩn nhân dân là giáo viên hoặc là

cán bộ Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh; đại diện của nhà trường hoặc tổ
chức xã hội, cha mẹ hoặc người thân của bị cáo phải được triệu tập đến tham gia
phiên toà để phát biểu ý kiến về những vấn đề có liên quan đến hành vi phạm tội
của bị cáo.
- Khi phát hiện có những vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng, các tổ chức xã hội và công dân có quyền kiến nghị
với các cơ quan có thẩm quyền và các cơ quan này phải xem xét, giải quyết và trả
lời cho các tổ chức xã hội và công dân đã kiến nghị biết.
(6) Nguyên tắc không ai có thể bị coi là có tội, nếu chưa có bản án kết tội đã
có hiệu lực pháp luật của Toà án.
Nguyên tắc này được quy định tại Khoản 1, Điều 31, Hiến pháp 2013:
“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo
trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” [28].
Điều 13, Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về suy đoán vô tội thì:
“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh
theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết
tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội” [31].
Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, nguyên tắc này được thể hiện là người bị
Viện kiểm sát truy tố và Toà án quyết định đưa vụ án ra xét xử, hoặc ngay cả khi đã
tuyên án và kết án, nhưng bản án chưa có hiệu lực pháp luật thì họ chưa bị coi là
người có tội, họ còn đầy đủ các quyền của một công dân, vì vậy những người tiến

16


hành tố tụng và người tham gia tố tụng không được có định kiến, đối xử với họ như
một kẻ có tội. Các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải tạo
điều kiện để bị cáo được thực hiện các quyền của người công dân, bị cáo hoặc

người bào chữa cho bị cáo được sử dụng các biện pháp do luật định để gỡ tội hoặc
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
(7) Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án
Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, việc xác định sự thật khách quan
của vụ án không chỉ là mục đích của hoạt động tố tụng mà nó còn thể hiện toàn bộ
nội dung, bản chất của quá trình chứng minh tội phạm. Nguyên tắc này được quy
định tại Điều 15, Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về xác định sự thật của vụ án. Ở giai
đoạn xét xử sơ thẩm, nguyên tắc này yêu cầu người tiến hành tố tụng, mà cụ thể là
Hội đồng xét xử, phải xác định nội dung vụ án: đúng với thực tế khách quan, tức là
phải nêu đúng sự việc phạm tội, không thêm bớt, không nêu những nhận xét, đánh
giá của cơ quan tiến hành tố tụng và của người tiến hành tố tụng; toàn diện, tức phải
xem xét, đánh giá các chứng cứ buộc tội cũng như gỡ tội, tình tiết tăng nặng, giảm
nhẹ, nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm...; đầy đủ, tức không bỏ sót tình
tiết nào của vụ án.Trong thực tiễn, không ít trường hợp, do không thực hiện đúng
nguyên tắc này, việc xem xét, đánh giá chứng cứ của thẩm phán, hội thẩm nhân dân
mang tính chủ quan, tuỳ tiện nên dẫn đến vụ án bị xử oan, sai [31].
(8) Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo
Điều 16, Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về bảo đảm quyền bào chữa
của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự:
“Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”
[31]. Nguyên tắc này nhằm bảo đảm cho bị cáo sử dụng tất cả các biện pháp theo
quy định của pháp luật để bảo vệ mình trước toà án. Những người tiến hành tố tụng
phải tạo điều kiện cho bị cáo hoặc người bào chữa của bị cáo được sử dụng các biện
pháp theo quy định của pháp luật để chứng minh bị cáo vô tội hoặc giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo ở giai đoạn xét xử
sơ thẩm được coi như tập trung nhất về quyền bào chữa.

17



(9) Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng hoặc
người tham gia tố tụng
Theo Điều 21, Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về bảo đảm sự vô tư của người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng: “Người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng, người phiên dịch, người dịch thuật, người giám định, người định
giá tài sản, người chứng kiến không được tham gia tố tụng nếu có lý do cho rằng họ
có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ” [31]. Để nguyên tắc này được
thực hiện, thủ tục tố tụng hình sự quy định cụ thể những trường hợp phải thay đổi
người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng (như việc thay đổi thẩm phán
hoặc hội thẩm nhân dân quy định tại Điều 30 Bộ luật tố tụng hình sự...)
(10) Nguyên tắc xét xử có hội thẩm nhân dân tham gia
Theo Điều 22, Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về thực hiện chế độ xét xử có
Hội thẩm tham gia: “Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án có Hội thẩm tham gia, trừ
trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn do Bộ luật này quy định” [31]. Nguyên tắc
xét xử có hội thẩm nhân dân tham gia được coi là một nguyên tắc dân chủ và là việc
cụ thể hoá nguyên tắc “bảo đảm việc tham gia phiên toà của các tổ chức xã hội và
công dân”, nhưng là việc tham gia trực tiếp vào việc xét xử, có quyền như thẩm
phán. Nguyên tắc này thể hiện tính nhân dân trong hoạt động xét xử của Toà án, là
sự kết hợp giữa kiến thức pháp lý của thẩm phán và sự hiểu biết của hội thẩm nhân
dân về thực tế tâm tư của nhân dân. Nguyên tắc này chỉ áp dụng cho giai đoạn xét
xử và cũng không phải là nguyên tắc bắt buộc đối với tất cả các giai đoạn xét xử mà
chỉ ở giai đoạn xét xử sơ thẩm thì nó mới là nguyên tắc bắt buộc.
(11) Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật
Theo Điều 23, Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về Thẩm phán, Hội
thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào
việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm .Cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc
xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm dưới bất kỳ hình thức nào thì tùy tính chất, mức độ


18


vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo quy định của luật” [31].
Độc lập xét xử không chỉ là nguyên tắc xét xử mà còn là nguyên tắc hiến
định, nhằm bảo đảm việc xét xử của Toà án không bị chi phối bởi bất cứ sự tác
động nào khi ra bản án hoặc những quyết định. Nội dung của nguyên tắc này là
thẩm phán và hội thẩm nhân dân hoàn toàn độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong
khi tiến hành chức năng xét xử các vụ án nói chung và vụ án hình sự nói riêng. Các
cơ quan, tổ chức xã hội hoặc bất cứ ai khác không được can thiệp vào hoạt động xét
xử của Toà án.Trong thực tiễn, không ít trường hợp, có những cá nhân tìm cách tác
động, gây áp lực để tác động đến hoạt động xét xử của thẩm phán, hội thẩm nhân
dân, vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc này. Sự sai phạm này, trách nhiệm trước hết
là của thẩm phán và hội thẩm nhân dân vì họ tự mình đã không đấu tranh và không
thực hiện đúng nguyên tắc này.
(12) Nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số
Theo Điều 24, Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về Tòa án xét xử tập
thể: “Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ
tục rút gọn do Bộ luật này quy định” [31]. Nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định
theo đa số là một nguyên tắc thật sự dân chủ trong hoạt động xét xử và có quan hệ
mật thiết với các nguyên tắc khác như: nguyên tắc “xét xử có hội thẩm tham gia”
[31], nguyên tắc “thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật” [31]. Thực hiện một nguyên tắc này cũng tức là bảo đảm cho nguyên tắc
khác được thực hiện.Nguyên tắc này được bảo đảm bằng các quy định của Bộ luật
tố tụng hình sự về thành phần hội đồng xét xử ở cấp sơ thẩm, về thủ tục nghị án.
(13) Nguyên tắc xét xử công khai
Xét xử công khai là một trong những nguyên tắc dân chủ của hoạt động xét
xử được quy định tại Điều 19 Bộ luật tố tụng hình sự. Tính công khai trong hoạt
động xét xử được thể hiện ở chỗ phiên toà phải tiến hành công khai, mọi công dân

(trừ những người dưới 16 tuổi) đều có quyền được dự và theo dõi diến biến của
phiên toà. Ngay cả khi để đảm bảo bí mật Nhà nước hoặc giữ gìn đạo đức xã hội,

19


×