CHUYÊN ĐỀ
TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG;
NGĂN CHẶN, ĐẨY LÙI SỰ SUY THOÁI VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ,
ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG, NHỮNG BIỂU HIỆN
“ TỰ DIỄN BIẾN”, “ TỰ CHUYỂN HÓA” TRONG NỘI BỘ
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH NGHỊ QUYẾT
Thứ nhất, yêu cầu của việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và khắc phục tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “ tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Để thực hiện sứ mệnh lịch sử và vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền,
trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trong công tác xây dựng
Đảng và xác định đó là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với sự
nghiệp cách mạng của nước ta. Đây là bài học kinh nghiệm lớn, sâu sắc được rút
ra trong quá trình hoạt động của Đảng và kinh nghiệm thực tiễn của nhiều đảng,
nhiều nước trên thế giới.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “…Sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng là nhân tố hàng đầu quyết đinh thắng lợi của cách mạng Việt Nam”. Càng
đi vào đổi mới, phát triển kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập, càng cần phải coi
trọng công tác xây dựng Đảng. Thực tiễn cho thấy, sau mỗi kỳ Đại hội Đảng
toàn quốc, Ban Chấp hành Trung ương đều ban hành các nghị quyết, kết luận về
công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện và đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bên cạnh mặt tích cực và những thành tựu đạt được, công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng còn nhiều hạn chế, khuyết điểm, trong đó có những khuyết
điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chưa được khắc phục.
Việc tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “ một số việc
chưa đạt mục tiêu Nghị quyết đề ra”. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống và những biểu hiện quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực,
lợi ích nhóm… trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cán
bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu các cấp không những chưa được ngăn
chặn, đẩy lùi mà có mặt, có bộ phận diễn biễn phức tạp hơn. Bên cạnh đó, biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có xu hướng diễn biễn phức tạp trong
Đảng, trong hệ thống chính trị và trong xã hội.
Đại hội XII nhận định: “Không ít cán bộ, đảng viên có những biều hiện
dao động, mất phương hướng, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, về mục
tiêu, lý tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đã xuất hiện
những việc làm và phát ngôn vô nguyên tắc, trái với Cương lĩnh, đường lối,
Điều lệ Đảng ở một số cán bộ, đảng viên”. Việc lãnh đạo, chỉ đạo của nhiều cấp
ủy, tổ chức đảng, nhất là người đứng đầu các cấp chưa có quyết tâm chính trị
cao; trong thực hiện các giải pháp có việc, có nơi chưa nghiêm túc; còn thiếu
những cơ chế, chính sách, biện pháp có tính đột phá, đủ mạnh làm chuyển biến
cơ bản tình hình. Vì vậy, Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: “Trong những năm
2
tới, yêu cầu, nhiệm vụ nặng nề của thời kỳ phát triển mới đòi hỏi phải đẩy mạnh
hơn nữa công tác xây dựng Đảng….”
Thứ hai, yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến
nhanh chóng, phức tạp, khó lường; nhiều vẫn đề mới, khó và phức tạp đặt ra đòi
hỏi Đảng ta phải nghiên cứu, giải quyết một cách thấu đáo cả về lý luận và thực
tiễn; cạnh tranh gay gắt và mặt trái của kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế, sự phát triển của công nghệ thông tin, internet, mạng xã hội tác
động mạnh mẽ, thường xuyên, nhiều chiều đến tâm tư, tình tảm, nhận thức và
hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch, tổ
chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị ráo riết thực hiện âm mưu,
hoạt động “ diễn biến hòa bình”, tạo điều kiện, nhân tố chống phá ngay từ bên
trong ngày càng tinh vi, nguy hiểm. Vì vậy, đòi hỏi phải chủ động khắc phục
những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế; kiên quyết
đấu tranh với những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Thứ ba, củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà
nước và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng.
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn quán triệt quan điểm “dân là
gốc”, dựa vào dân để xây dựng Đảng và khẳng định sức mạnh của Đảng là ở sự
gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Hiện nay, đa số nhân dân vẫn tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đặc biệt, nhân dân kỳ vọng trong nhiệm kỳ khóa XII, sự quyết tâm của Đảng,
nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ;
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc; chống
“diễn biến hòa bình”, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ có sự chuyển
biến theo hướng tích cực. Đa số ý kiến trong cán bộ, đảng viên và nhân dân ghi
nhận trong 5 năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã đạt được những thành
tựu đáng phấn khởi. Tuy nhiên, nhân dân bất bình, giảm niềm tin đối với một bộ
phận cán bộ, đảng viên yếu kém về trình độ, năng lực, ý thức trách nhiệm hoặc
thoái hóa, biến chất. Nhiều cán bộ tác phong quan liêu, gia trưởng, độc đoán,
chuyên quyền, thậm chí trù dập, ức hiếp quần chúng… Mặt khác, việc tổ chức
thực hiện các nghị quyết của Trung ương về xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiệu quả
còn thấp, chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra, chậm làm chuyển biến tình hình.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã xác định
sáu nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ, trong đó nhiệm vụ đầu tiên là: “Tăng
cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ” và nhấn mạnh, trong những năm tới phải đẩy mạnh hơn nữa công
tác xây dựng Đảng, trọng tâm là kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị
quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện
nay”. Đồng thời, toàn Đảng phải cụ thể hóa và thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số
05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo
3
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Đây là những nội dung cơ bản
cần thực hiện đồng bộ, toàn diện, có hiệu quả với trọng tâm là đấu tranh ngăn
chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự
diễn biễn”, “ tự chuyển hóa” trong nội bộ để Đảng ta trong sạch, vững mạnh
xứng đáng là lực lượng tiên phong lãnh đạo Nhà nước và xã hội, đáp ứng lòng
mong đợi của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
II. KẾT QUẢ, HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA CÔNG TÁC
XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG VÀ KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG SUY
THOÁI VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ, ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG, BIỂU HIỆN
“TỰ DIỄN BIỄN”, “TỰ CHUYỂN HÓA” TRONG NỘI BỘ THỜI GIAN
QUA.
1. Những kết quả đạt được
1.1. Về một số đánh giá khái quát
- Đảng ta luôn giữ vững bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa
học; kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn và ngày
càng lớn mạnh.
- Dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng, nhân dân ta đã giành
được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích trong thế kỷ
XX. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng cũng đã lãnh đạo đất nước vượt qua khó khăn,
thách thức và đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, thực hiện
thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc; giữ vững ổn
định chính trị; phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước; tăng cường quốc phòng - an ninh; mở rộng quan hệ đối
ngoại, nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
- Kết quả nỗ lực phấn đấu không ngừng của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân, trong đó có sự hy sinh quên mình và đóng góp của đội ngũ cán bộ, đảng
viên. Chúng ta có quyền tự hào về bản chất tốt đẹp, truyển thống anh hùng và
lịch sử vẻ vang của Đảng ta – Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đại biểu
của dân tộc Việt Nam anh hùng.
1.2. Về kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI
(1) Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về xây dựng Đảng
đã tạo những chuyển biến tích cực trong hệ thống chính trị. Quá trình tự phê
bình và phê bình đã góp phần đấu tranh với những suy nghĩ và hành vi sai trái
nhằm cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe, từng bước ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu
cực.
- Nhiều vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phúc tạp đã được phát hiện và
tập trung chỉ đạo điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh, được nhân dân đồng
tình, ủng hộ. Công tác đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” đạt được một số kết quả; tích cực đấu tranh phòng,
chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Điều đó, đã góp phần quan
trọng vào thành công của Đại hội đảng bộ các cấp, Đại hội XII của Đảng và bầu
cử đại biểu quốc hội khóa XIV, đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ
2016-2021.
4
- Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung uơng Đảng khóa XI trên cơ sở
đánh giá tình hình, những hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng, đã thông qua
Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Đây là lần
đầu tiên Đảng ta xác định việc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp là vấn đề trọng tâm, xuyên
suốt và cấp bách nhất và đề ra chủ trương, hệ thống giải pháp để đấu tranh ngăn
chặn.
- Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI đã đề ra bốn nhóm giải pháp, trong đó
nhấn mạnh phải thực hiện tốt nhóm giải pháp về tự phê bình và phê bình, nêu
cao tính tiền phong, gương mẫu của cấp trên. Nội dung kiểm điểm tập trung vào
ba vấn đề cấp bách nêu trong Nghị quyết, gắn với đánh giá việc thực hiện các
quy chế, quy định của Đảng, Nhà nước, giải quyết quyết những vấn đề bức xúc
của ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị; liên hệ làm rõ những khuyết điểm, hạn
chế, yếu kém đã chỉ ra nhiều năm nhưng chậm được khắc phục. Quá trình tự phê
bình và phê bình ở các cấp đã làm rõ, sâu sắc hơn ưu, khuyết điểm của tập thể,
cá nhân, góp phần siết lại kỷ luật, kỷ cương trong Đảng.
- Thông qua kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, các cấp ủy, tổ chức đảng
và cán bộ, đảng viên đã nhận diện rõ hơn, cụ thể hơn những biểu hiện suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; thừa nhận bản thân, cơ quan, đơn vị
mình có một số biểu hiện suy thoái ở mức độ khác nhau, như: Trong công tác và
sinh hoạt còn nể nang, né tránh, ngại và chạm, thấy đúng không dám bảo vệ,
thấy sai không dám đấu tranh; chưa hết lòng, hết sức vì công việc, vì dân, chưa
làm tròn bổn phận, chức trách được giao; còn tư tưởng chưa thực sự yên tâm
công tác được giao; còn tư tưởng chưa thực sự yên tâm công tác, chưa gắn bó
lâu dài với cơ quan, ngại khó, ngại khổ, chọn việc dễ, bỏ việc khó, làm việc cầm
chừng, hiệu quả thấp, chọn việc có nhiều điều kiện, cơ hội phát triển thăng tiến
hoặc thu được nhiều lợi ích, có thu nhập cao; thích làm việc ở các cơ quan đảng,
đoàn thể chính trị - xã hội, thích làm việc gần nhà, không muốn nhận nhiệm vụ ở
nơi xa, có nhiều khó khăn; trông chờ, ỷ lại cấp trên, thờ ơ, vô cảm trước nhiệm
vụ của cơ quan, đơn vị, dao động trước khó khăn… Một số cán bộ, đảng viên có
lối sống thực dụng, tư tưởng bình quân chủ nghĩa, đoàn kết xuôi chiều; ý thức tổ
chức kỷ luật chưa nghiêm; khi nghỉ hưu, nghỉ công tác tự bỏ sinh hoạt đảng
hoặc xin miễn sinh hoạt đảng, v.v… Qua đó, nhận thức sâu sắc hơn về yêu cầu
cấp bách phải tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình hình
mới.
- Việc xây dựng và thực hiện kế hoạch khắc phục, sửa chữa khuyết điểm
đã đạt được một số kết quả bước đầu, thể hiện trên một số lĩnh vực chính, như:
Nhiều cấp ủy rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy chế, quy định đã có và xây
dựng, ban hành các quy chế, quy định mới để thực hiện (quy đinh về nêu gương
của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu; quy định về thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí, quản lý chặt chẽ tài sản công; quy chế thi tuyển cán bộ, công
chức, viên chức…). Nhiều cấp ủy địa phương đã chỉ đạo rà soát các dự án trên
địa bàn để điều chỉnh cho phù hợp; xử lý những nhiệm vụ nổi cộm về quản lý,
5
sử dụng đất đai, khoáng sản và vi phạm trật trự xây dựng đô thị. Nhiều cấp ủy,
tổ chức đảng rà soát, bổ sung. Điều chỉnh quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý;
đẩy mạnh việc đào tạo, bồi dưỡng và luân chuyển cán bộ; sắp xếp, điều chuyển
hoặc bố trí công tác khác đối với những cán bộ có khuyết điểm; tăng cường
kiểm tra, giám sát việc thực hiện các biện pháp để đấu tranh ngăn chặn tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
- Sự lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng thông tin của Đảng, các cơ quan truyền
thông đã làm tốt công tác thông tin tuyên truyền, đấu tranh, phê phán với những
biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; đấu tranh với những
hành vi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; phản bác các thông tin, luận điệu sai trái
của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị. Nhiều cấp ủy, chi bộ đã coi
trọng nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, sinh hoạt chi bộ; tăng cường sinh
hoạt chuyên đề cung cấp thông tin và định hướng tư tưởng cho cán bộ, đảng
viên.
Đại hội XII đánh giá: “Quá trình kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo
Nghị quyết Trung ương 4 và việc khắc phục, sửa chữa những hạn chế, khuyết
điểm đã góp phần siết lại kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, tạo được chuyển biến
tích cực bước đầu trong việc ngăn chặn trên một số mặt tình trạng suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng… Quá trình triển khai thực hiện
Nghị quyết Trung ương 4 đã có tác động thúc đẩy đất nước vượt qua khó khăn,
giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố niềm tin trong
Đảng và nhân dân”.
(2) Về đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, “tự diễn biễn”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
- Nhận thức và đấu tranh ngăn chăn suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng viên:
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra, trong cuốn Đường cách mệnh (1927); tác
phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” (đăng trên
báo Nhân Dân ngày 3-2-1969); trong Di chúc.
+ Giai đoạn trước đổi mới:
-> Đại hội II của Đảng (tháng 2-1951), Đảng ta đã chỉ rõ những hạn chế,
yếu kém trong Đảng, đồng thời chỉ rõ trách nhiệm của Trung ương trong lãnh
đạo, bồi dưỡng, kiểm tra đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, đó là: “… ở các cơ
quan lãnh đạo các cấp, về lề lối làm việc, về chủ trương và cách lãnh đạo còn có
những khuyết điểm khá phổ thông và nghiêm trọng. Ấy là những bệnh chủ quan,
quan liêu, mệnh lệnh, hẹp hòi và bệnh công thần. Bệnh chủ quan tỏ ra ở tư
tưởng cho rằng trường kỳ kháng chiến có thể trở thành đoản kỳ kháng chiến.
Bệnh quan liêu tỏ ra ở chỗ thích giấy tờ, xa quần chúng, không điều tra nghiên
cứu, không kiểm tra theo dõi việc thi hành, không học tập kinh nghiệm của quần
chúng. Bệnh mệnh lệnh tỏ ra ở chỗ hay dựa vào chính quyền mà bắt dân làm, ít
tuyên truyền giải thích cho dân tự giác, tự động. Bênh hẹp hòi tỏ ra ở chỗ đối
với người ngoài đảng nhiều khi quá khắt khe, hoặc phớt lờ người ta đi, không
chịu bàn bạc, hỏi han ý kiến. Còn bệnh công thần thì tỏ ra: cậy mình có một ít
thành tích, thì tự kiêu tự đại cho mình là “ cứu tinh” của dân, “công thần” của
Đảng. Rồi đòi địa vị, danh vọng. Việc to không làm được, việc nhỏ không muốn
6
làm. Bệnh công thần rất có hại cho đoàn kết ở trong Đảng cũng như ở ngoài
Đảng. Cậy thế mình là người của Đảng, phớt lờ cả kỷ luật và cả cấp trên trong
các đoàn thể nhân dân hoặc cơ quan Chính phủ. Những đồng chí mắc bệnh ấy
không hiểu rằng: mỗi đảng viên cần phải làm kiểu mẫu phục tùng kỷ luật, chẳng
những kỷ luật của Đảng, mà cả kỷ luật của các đoàn thể nhân dân và của cơ
quan chình quyền cách mạng.
Trong Đảng có những căn bệnh ấy và bệnh khác, Trung ương cũng phải
chịu một phần trách nhiệm. Vì Trung ương chưa chú trong việc kiểm tra. Sự
huấn luyện về chủ nghĩa tuy có, nhưng chưa được khắp, chưa được đủ. Dân chủ
trong Đảng chưa được thực hiện rộng rãi. Phê bình và tự phê bình chưa thành
nền nếp thường xuyên.
-> Đại hội III của Đảng (tháng 9-1960) đã chỉ đạo: “Khắc phục tình trạng
tổ chức cồng kềnh, phân tán, và lề lối làm việc luộm thuộm, chậm chạp. Phải
làm cho tổ chức gọn ghẽ, giảm bớt những cấp trung gian không cần thiết; phát
huy tác phong khẩn trương, hoạt bát,... kiện toàn và tăng cường tổ chức cho
những cấp và ngành nào xét ra cần thiết”.
Tăng cường sự liên hệ giữa Đảng và quần chúng. Cán bộ, đảng viên phải
bồi dưỡng tác phong đi đường lối quần chúng, chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh.
-> Đại hội IV (tháng 12-1976), Đảng đã yêu cầu: “… Phải kiên quyết và
kịp thời loại ra khỏi Đảng những phần tử thoái hóa, biến chất, những người
không đủ tư cách đảng viên… Những cán bộ mà phẩm chất chính trị hoặc năng
lực công tác không tương xứng với trách nhiệm cần được sắp xếp lại cho hợp
lý…, khắc phục tư tưởng bảo thủ, hẹp hòi, cục bộ, bè phái, tránh thành kiến
hoặc cảm tình riêng”.
-> Đại hội V của Đảng (tháng 3-1982) chỉ rõ: “… Những khuyết điểm
trong sự lãnh đạo và quản lý kinh tế - xã hội chậm được sữa chữa, cùng với
nhiều khuyết điểm kéo dài trong công tác tư tưởng và công tác tổ chức của
Đảng, nhất là những biểu hiện sa sút về phẩm chất cách mạng, ý chí chiến đấu,
tinh thần trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ
phụ trách ở các cấp, các ngành đã làm giảm hiệu quả lãnh đạo của các tổ chức
đảng, gây trở ngại lơn cho việc chấp hành các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và
pháp luật Nhà nước, ảnh hưởng không tốt đến uy tín của Đảng trong quần
chúng”. Đại hội cũng nhấn mạnh: “Công tác tư tưởng phải hướng mạnh vào việc
giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất cách mạng cho cán bộ, đảng viên, chống chủ
nghĩa cá nhân, chống chủ nghĩa cơ hội dưới mọi hình thức, kiên quyết khắc phục
những biểu hiện sa sút về phẩm chất chính trị, vô kỷ luật về mặt tổ chức, thoái
hóa về lối sống, quan liêu về tác phong, bảo thủ trong cách nhìn nhận sự vật của
môt bộ phận cán bộ, đảng viên.
Phải kết hợp chặt chẽ các hình thức giáo dục tư tưởng, tư phê bình và phê
bình với các biện pháp tổ chức tăng cường kiểm tra thi hành kỷ luật của Đảng
một cách nghiêm minh; kết hợp công tác giáo dục tư tưởng trong Đảng với cuộc
đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực trong các cơ quan nhà nước, trong xã
hội”. Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, có tiến hành một đợt
giáo dục chính trị sâu sắc trong toàn Đảng, lấy việc nghiên cứu các văn kiện của
Đại hội làm nội dung giáo dục cán bộ, đảng viên về đường lối, chính sách của
7
Đảng, tiến hành tự phê bình và phê bình nghiêm túc, phê phán những tư tưởng
sai lầm, nâng cao ý chí cách mạng và tinh thần trách nhiệm của người đảng viên
cộng sản trước tình hình và nhiệm vụ mới.
+ Từ khi đổi mới đến nay:
-> Đại hội VI và các kỳ đại hội tiếp theo, Đảng ta tiếp tục cảnh báo về
nguy cơ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng. Đại hội
VI của Đảng (tháng 12-1986), với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá
đúng sự thật, nói rõ sự thật, đã chỉ rõ: “Vấn đề đạo đức xã hội đang được đặt ra
một cách cấp bách. Trong xã hội ta đang diễn ra cuộc đấu tranh giữa hai lối
sóng: lối sống có lý tưởng, lành mạnh, trung thực, sống bằng lao động của mình,
có ý thức tôn trọng và bảo vệ của công, chăm lo lợi ích của tập thể và của đất
nước, với lối sống thực dụng, dối trá, ích kỷ, ăn bám, chạy theo đồng tiền… Đã
có lúc, có nơi, một số đảng viên thụ động, bàng quang, bất lực trước sự lan tràn
của những tin đồn nhảm, những dư luận ác ý, tê liệt trước sự tiến công của địch
về tư tưởng”. Cơ chế quản lý cán bộ có đúng thì sự đánh giá cán bộ mới chính
xác, mới phát hiện, đề bạt được cán bộ tốt, thay đổi những người xấu và yếu
kém.
-> Trong nhiệm kỳ Đại hội VII của Đảng, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp
hành Trung ương Đảng đã đánh giá: “Tệ tham nhũng, hối lộ, buôn lậu, ăn chơi
vung phí tái sản của nhân dân rất nghiêm trọng và kéo dài. Những hiện tượng đó
gây tác hại lớn, làm tổn hại thanh danh, uy tín của Đảng”.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994) đã
nhấn mạnh tới tính nguy hại của sự suy thoái trong Đảng, đó là: “… tình trạng
suy thoái, hư hỏng cùng với sự bất cập về năng lực, sự lỏng lẻo về ý thức, kỷ
luật và tệ quan liêu, cửa quyền của không ít cán bộ trong các tổ chức đảng và
chính quyền ở các ngành, các cấp, các lĩnh vực quản lý nhầ nước và lĩnh vực
kinh doanh, đang vô hiệu hóa nhiều chủ trương, chính sách, cản trợ công cuộc
đổi mới, làm giảm lòng tin của nhân dân. Đây là trở lực lớn nhất đối với công
cuộc đổi mới và phát triển của đất nước ta, là thách thức gay gắt nhất đối với sự
lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước”.
-> Kể từ Đại hội VIII đến nay, nhận thức của Đảng ta về phạm vi, mức độ
và tác động nguy hại của chiều hướng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống đối với bản chất và sự tồn vong của Đảng, chế độ và đối với việc phát
triển khai thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng ngày càng cụ thể, sâu sắc.
Đại hội VIII của Đảng (tháng 7-1996) nhấn mạnh: “Một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng bản thân, phai nhạt lý tưởng, mất cảnh
giác, giảm sút ý chí, kém ý thức tổ chức kỷ luật, sa đọa về đạo đức và lối sống”.
Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (tháng 61997) nhận định: “ Một bộ phận không nhỏ cán bộ đã thoái hóa về chính trị và
phẩm chất, đạo đức, lợi dụng chức quyền để tham ô, lãng phí, quan liêu, bè phái,
mất đoàn kết, cơ hội và thực dụng”.
Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII đánh giá: “… Sự suy thoái về
tư tưởng chính trị; tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí của một phận cán
bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển nghiêm trọng hơn”.
8
Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) nhấn mạnh: “… Tình trạng tham
nhũng và suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên đang cản trợ việc thực hiện đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, gây bất bình và làm giảm lòng tin trong nhân dân…”
Đại hội X của Đảng chỉ ra cụ thể: “Thoái hóa, biến chất về chính trị, tư
tưởng, về đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân
trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng, kéo dài
chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, nhất là trong các cơ quan công quyền, các lĩnh
vực xây dựng cơ bản, quản lý đất đai, quản lý doanh nghiệp nhà nước và quản lý
tài chính, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng…”.
Đại hội XI của Đảng khẳng định: Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình
trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa
được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân
hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều
ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn
định, phát triển của đất nước.
Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa suy thoái tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống với “ tự diễn biến”, “ tự chuyển hóa” trong nội bộ, đó
là: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn
biến phức tạp hơn; một số rất ít cán bộ, đảng viên bị phần tử xấu lợi dụng lôi
kéo, kích động, xúi giục, mua chuộc đã có tư tưởng, việc làm chống đối Đảng,
Nhà nước”.
- Nhận thức và đấu tranh ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ.
+ Nội dung:
-> Có thể hiểu “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là quá trình
diễn ra sự thay đổi từng bước, từ lượng đến chất về tư tưởng và hành động của
cá nhân cán bộ, đảng viên hoặc của tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức,
đoàn thể trong hệ thống chính trị, do sự tác động từ hoạt động tuyên truyền thù
địch, sự tác động tiêu cực của diễn biến tình hình thế giới và sự tác động bởi
tình trạng mất dân chủ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí nghiêm trọng, phân hóa
giàu – nghèo gia tăng dẫn tới sự bất mãn, bất bình trong xã hội.
-> Đó là quá trình đấu tranh trong nội tâm cán bộ, đảng viên; trong đó yếu
tố tiêu cực dần dần tăng lên, yếu tố tích cực, cách mạng, tư tưởng xã hội chủ
nghĩa phai nhạt dần.
-> “Tự chuyển hóa” là sự nối tiếp của quá trình “tự diễn biến”, đó là sự
thay đổi về chất. Khi quan điểm, tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng
viên đã bị suy thoái đến một mức độ nhất định thì sẽ dẫn đến hành động chống
lại chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
-> Nguyên nhân dẫn đến “ tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có từ các
nguyên nhân khách quan, song, trước hết và chủ yếu là do nguyên nhân chủ
quan từ chính bản thân những cán bộ, đảng viên lập trường tư tưởng chính trị
9
không vững vàng, do bất mãn hay do sự buông lỏng công tác quản lý, giáo dục
của tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị- xã hội…
+ Hình thức “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ:
-> “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng chính trị. Đây là những
thay đổi theo hướng phủ định chế độ xã hội chủ nghĩa, phủ nhận hệ thống chính
trị của Việt Nam; phủ định đường lối, quan điểm, các chủ trương và vai trò lãnh
đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam.
-> “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng pháp quyền: Trong một
bộ phận cán bộ, đảng viên, niềm tin vào chân lý, tính đúng đắn của những tư
tưởng, quan điểm pháp quyền của chủ nghĩa Mác-Lênin, của Đảng cộng sản
Việt Nam không chỉ đã và đang “tự diễn biễn” mà còn “tự chuyển hóa” thành
những tư tưởng đối lập.
-> “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng văn hóa, đạo đức: hiện
tượng sùng bái tư tưởng đạo đức, lối sống tư sản, từ bỏ các giá trị đạo đức, lối
sống mang bản sắc văn hóa dân tộc; đề cao quá mức chủ nghĩa cá nhân, lối sống
thực dụng, cơ hội vụ lợi, hưởng lạc, hám danh.
+ Nhận thức và chủ trưởng, giải pháp của Đảng về đấu tranh ngăn chặn
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
-> Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994),
Đảng ta đã xác định bốn nguy cơ gồm: (1) “ Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế
so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới do điểm xuất phát thấp, nhịp độ
tăng trưởng chưa cao và chưa vững chắc, lại phải đi lên trong môi trường cạnh
tranh gay gắt; (2) Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa nếu không khắc phục
được những lệch lạc trong chủ trương, chính sách và chỉ đạo thực hiện; (3) Nguy
cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; (4) Nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các
thế lực thù địch”.
-> Nhận định của Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII về
những nguy cơ đối với chế độ ta tiếp tục được các đại hội của Đảng, từ Đại hội
lần thứ VIII, lần thứ IX, lần thứ X và đến Đại hội lần thứ XI khẳng định lại với
tinh thần đánh giá những nguy cơ này chẳng những vẫn đang tồn tại mà có phần
còn nghiêm trọng hơn. Đại hội XI nêu rõ: “Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có những diễn
biến phức tạp”.
-> Từ những nhận định, phân tích, đánh giá quan trọng nêu trên, Đảng ta
đã đề ra các chủ trương, giải pháp nhằm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi những biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, như: (1) Bộ Chính trị khóa X
có Kết luận số 86-KL/TW ngày 5-11-2010 về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05CT/TW của Bộ Chính trị về tăng cường lãnh đạo công tác bảo đảm an ninh quốc
gia trong tình hình mới; (2) Ban Bí thư khóa X có Chỉ thị số 34-CT/TW ngày
17-4-2009 về tăng cường cuộc đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến
hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng nêu
rõ cần chủ động phòng ngừa, đấu tranh phê phán những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; (3) Bộ
Chính trị khóa XI ban hành Chỉ thị số 46-CT/TW ngày 22-6-2015 về tăng cường
10
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh, trật tự trong tình hình
mới…
-> Các cấp ủy, tổ chức Đảng đã coi trọng hơn công tác giáo dục chính trị
tư tưởng, nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho cán
bộ, đảng viên. Đề cao tinh thần cảnh giác, đấu tranh với biểu hiện “tự diễn
biến”, “ tự chuyển hóa” trong nội bộ, nhất là việc đấu tranh với biểu hiện nói và
làm trái với Cương lĩnh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước. Coi trọng xây dựng, củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của
các tổ chức trong hệ thống chính trị, nhất là ở cơ sở, giữ vững ổn định chính trị,
kịp thời đấu tranh, ngăn chặn biều hiện “tự diễn biến”, “ tự chuyển hóa” trong
nội bộ ngày từ khi mới manh nha.
-> Công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ được coi trọng và tăng
cường hơn, góp phần tăng cường đoàn kết trong Đảng, đã giải quyết tốt các vấn
đề liên quan đến lịch sử chính trị, gắn công tác bảo vệ chính trị nội bộ với công
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phòng, chống “tự diễn biến”, “ tự chuyển hóa”,
kịp thời chuyển trọng tâm sang nằm và giải quyết vấn đề chính trị hiện nay của
cán bộ, đảng viên. Kịp thời phát hiện, đấu tranh có hiệu quả, làm thất bại âm
mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử
cơ hội, bất mãn chính trị.
-> Trên thực tế, thời gian qua, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đã chủ động
phòng ngừa và từng bước ngăn chặn được tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ Đảng, làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế
lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị, góp phần giữ
vững ổn định chính trị và xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có lập trường tư
tưởng vững vàng, giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng, hoàn thành tốt chức
trách, nhiệm vụ được giao.
2. Hạn chế, khuyết điểm
2.1. Công tác xây dựng Đảng còn không ít hạn chế, khuyêt điểm
- Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nghiên cứu, tổng kết thực tiễn,
giảng dạy và học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chưa đáp ứng
yêu cầu. Việc giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng
viên, nhất là việc đề cao vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cấp chưa được chú trọng. Việc học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh ở nhiều nơi còn hình thức, chưa đi vào chiều sâu, hiệu quả
thấp.
- Nội dung sinh hoạt Đảng ở nhiểu nơi còn đơn điệu, hình thức, hiệu quả
chưa cao. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp.
Chất lượng sinh hoạt đảng chưa cao, tính chiến đấu trong tự phê bình và phê
bình còn yếu, tình trạng nể nang, né tránh, hữu khuynh, ngại va chạm, “dĩ hòa vi
quý” còn xảy ra phổ biến, thậm chí có tình trạng lợi dụng tự phê bình và phê
bình để ca ngợi, nịnh bợ, tâng bốc nhau. Việc nắm bắt diễn biến tư tưởng quản
lý đảng viên ở một số nơi còn lỏng lẻo, vô nguyên tắc, nhất là trong việc chuyển
sinh hoạt đảng đối với đảng viên nghỉ hưu, nghỉ công tác về nơi cư trú; quản lý
đảng viên đi làm ăn xa nơi cư trú. Một số trường hợp đảng viên không chuyển
11
sinh hoạt đảng, bỏ sinh hoạt đảng nhưng chưa bị xóa tên, khi có vi phạm liên
quan đến vấn đề an ninh, trật tự, an toàn xã hội… các cơ quan pháp luật phải xử
lý rất phức tạp.
- Công tác tổ chức, cán bộ và quản lý cán bộ đảng viên còn yếu kém.
Nhiều cán bộ, đảng viên trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên
phong, gương mẫu; còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát
thực tế, cơ sở. Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu qua nhiều nhiệm kỳ nhưng chưa
được khắc phục, thiếu tiêu chí khoa học, cụ thể làm căn cứ đánh giá, cách đánh
giá chưa có sự so sánh cùng chức danh trong cơ quan, đơn vị với nhau. Công tác
tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sắp xếp và thực
hiện chính sách cán bộ còn nhiều bất cập. Việc kiện toàn tổ chức, bộ máy chưa
gắn với tinh giản biên chế và nâng cao chất lương đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức. Tình trang quá nhiều cấp phó ở nhiều cơ quan, đơn vị, địa phương
trái với quy định nhưng chậm được chấn chỉnh; gây khó khăn trong phân công,
quy trách nhiệm cá nhân.
- Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật chưa đủ sức răn đe, ngăn chặn,
đẩy lùi sự suy thoái. Chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và xử lý tổ
chức đảng, đảng viên vi phạm chưa đủ sức góp phần ngăn chặn, đẩy lùi suy
thoái, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực…
2.1. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI
- Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, một số việc chưa đạt được
mục tiêu, yêu cầu đề ra. Tự phê bình và phê bình nhiều nơi mang tính hình thức;
vẫn còn tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm; một số cán bộ, đảng viên
thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong công việc được
giao. Việc phân định thẩm quyền, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của người
đứng đầu với tập thể cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị chưa rõ ràng.
Việc chuẩn bị và tiến hành kiểm điểm tập thể ở một số cấp ủy, tổ chức
đảng còn nặng về đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, chưa đi sâu
làm rõ những hạn chế, yếu kém về ba vấn đề cấp bách nêu trong Nghị quyết.
Không ít cán bộ, đảng viên và một số cán bộ lãnh đạo quản lý ở các cấp chưa
thực sự gương mẫu, chưa nhìn nhận đúng mức khuyết điểm và trách nhiệm cá
nhân trong những hạn chế, khuyết điểm chung của tập thể.
Một số cấp ủy chậm đề ra kế hoạch, biện pháp sửa chữa, khắc phục
khuyết điểm hoặc xây dựng kế hoạch còn chung chung, chưa gắn với khắc phục
khuyết điểm của tập thể, cá nhân; việc chỉ đạo sửa chữa, khắc phục khuyết điểm
chưa đồng bộ, thiếu kiên quyết; xem xét xử lý đối vơi một số trường hợp vi
phạm chưa kịp thời nghiêm minh, dứt điểm; một số vụ việc nổi cộm, phức tạp,
gây bức xúc trong Đảng, trong xã hội giải quyết còn chậm.
Một số cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ chưa nghiêm, chưa cụ thể hóa nguyên tắc bằng các quy định cụ
thể còn biểu hiện độc đoán, chuyên quyền, gia trưởng, bè phái, cục bộ.
Việc thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt yêu cầu.
diễn biến vẫn còn phức tạp, nghiêm trọng, xảy ra ở nhiều lĩnh vực, nhiều cấp,
nhiều ngành, nhiều loại đối tượng với nhiều hình thức tinh vi. Việc kê khai,
công khai tài sản, thu nhập còn hình thức và không thực chất.
12
- Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có bộ phận còn diễn biến tinh
vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung
vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước. Tình hình mâu thuẫn, mất
đoàn kết nội bộ không chỉ ở các cấp cơ sở mà ở cả một số cơ quan trung ương,
tập đoàn kinh tế, tổng công ty.
Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất
cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn “tự diễn biến”, “ tự
chuyển hóa”; việc đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc của
các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị còn bị
động, thiếu sắc bén và hiệu quả chưa cao.
Trong khi đó, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới
“tự diễn biến”, “ tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy
hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu xa, thù
địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.
Trong nhiều kỳ Đại hội Đảng và một số nghị quyết Trung ương đã đề ra
những giải pháp đấu tranh, ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhưng các nhiệm kỳ gần đây,
Đảng đều đánh giá chưa ngăn chặn, đẩy lùi được tình trạng này.
Đảng ta nhận định: “Bốn nguy cơ chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt diễn biến
phức tạp”, như nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch với những
thủ đoạn tinh vi và thâm độc chống phá; sự suy thoái về tư tưởng chính trị “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên có các biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống đáng lo
ngại, với mức độ khác nhau, như: sự phai nhạt về lý tưởng, nói nhiều làm ít, nói
và làm không nhất quán; không làm tròn bổn phận, chức trách được giao, không
thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt của Đảng; không báo cáo đúng
sự thật, không trung thực, thẳng thắn trong tự phê bình và phê bình; thiếu dân
chủ hoặc dân chủ hình thức; sa sút ý chí phấn đấu, thấy đúng không bảo vệ, thấy
sai không đấu tranh…
Một số cán bộ còn kén chọn chức danh, vị trí công tác; một số cán bộ
chưa sẵn sàng nhận nhiệm vụ, đưa ra nhiều lý do thiếu thuyết phục khi được
phân công công tác. Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý thiếu gương mẫu
trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ; có những biểu hiện độc đoán, gia trưởng,
chuyên quyền trong điều hành, chỉ đạo các hoạt động tư pháp, kinh tế - xã hội;
áp đặt, thiếu dân chủ, khách quan trong bố trí, sắp xếp cán bộ. Không ít cán bộ,
đảng viên sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, kèn cựa địa vị, cơ hội, thực dụng, “dĩ
hòa vi quý”, nói dựa, lấy lòng nhau. Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý các
cấp, kể cả cán bộ cao cấp có biểu hiện “tư duy nhiệm kỳ”, mắc bệnh “thành
tích”, bè phái, “lợi ích nhóm”, cục bộ, mất đoàn kết; tham nhũng, lãng phí;
phong cách quan liêu, lối sống sa hoa, hưởng lạc; chạy chức, chạy quyền, chạy
chỗ, chạy tội, chạy luân chuyển, chạy khen thưởng… Một số cán bộ có quan hệ
trực tiếp với dân thì thờ ơ, vô cảm, quan cách, cửa quyền, hách dịch, nhũng
nhiễu… Tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, xảy ra trên nhiều
lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều người nhưng chưa được ngăn chặn, đẩy lùi.
13
Sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên
thường diễn biến âm ỉ, chuyển hóa rất phức tạp, cái này là tiền đề, dung dưỡng
cho cái kia phát triển; được che đậy rất khôn khéo, tinh vi dưới nhiều hình thức,
thường gắn liền với lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm - cán bộ, đảng viên có chức, có
quyền trong xã hội.
Theo kết quả điều tra xã hội học tháng 7-2016 của Viện nghiên cứu dư
luận xã hội: 56% số người được hỏi khẳng định suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên có chức, có quyền là: “nghiêm trọng
36%” và “rất nghiệm trọng 20%”. Đa số những người được hỏi cho rằng: Sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống tập trung chủ yếu trong đội ngũ cán
bộ, đảng viên công tác tại “cơ quan nhà nước”, “cơ sở y tế, giáo dục” và tập
trung chủ yếu ở “cấp quận, huyện” và “cấp tỉnh, thành phố”.
Trong 5 năm trở lại đây, những biểu hiện suy thoái xuất hiện nhiều trong
đội ngũ cán bộ, đảng viên là: (1) “Dĩ hòa vi quý”, đúng không dám bảo vệ, sai
không dám đấu tranh; (2) Vì chức, quyền, tiền bạc bất chấp thủ đoạn; chạy chức,
chạy quyền, chạy luân chuyển, chạy dự án, chạy bằng cấp, chạy danh hiệu thi
đua, chạy tội; (3) Tham nhũng, lãng phí; (4) Ngại học tập lý luận chính trị,
nghiên cứu các nghị quyết của Đảng, không am hiểu thực tiễn; (5) Mất đoàn kết,
bè phái, cục bố, lợi ích nhóm.
Kết quả điều tra dư luận xã hội nêu trên cũng chỉ ra các biểu hiện suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống khác: (1) Tranh công đổ tội, “đánh
bóng” bản thân, né tránh trách nhiệm; (2) Đề cao chủ nghĩa “dòng tộc”, nặng về
tư tưởng “con ông cháu cha”; (3) Bao che cấp dưới, thiếu tinh thần trách nhiệm;
(4) Không yêu nghề, không có chí hướng phấn đấu, vươn lên; (5) Coi thường
công tác đảng, công tác giáo dục chính trị; (6) Không có tinh thần tự phê bình và
phê bình; (7) Ganh ghét với người giỏi, so kè, tị nạnh với đồng nghiệp; làm ít
đòi hỏi nhiều; (8) Có cách hành xử và thể hiện lối sống cậy quyền thế, tiền tài;
(9) Xa rời thực tiễn, không hiểu biết về văn hóa, phong tục truyền thống địa
phương nơi công tác; (10) Hướng ngoại, xem thường các giá trị dân tộc.
Có thể nói, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên không những chưa bị đẩy lùi mà
diễn biến phức tạp hơn, kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ, chậm được khắc phục, làm
giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, thách thức đối với vai
trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ.
Suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên
chưa được đấu tranh, ngăn chặn kịp thời có hiệu quả, cùng với những tác động
của “diễn biến hòa bình”, mặt trái của cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế;
những yếu kém trong lãnh đạo, điểu hành quản lý kinh tế, xã hội, đính hướng và
quản lý thông tin, mạng xã hội…dẫn tới những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ ngày càng phức tạp”. Một số cán bộ, đảng viên có
những biểu hiện cụ thể như hoang mang, dao động, mất phương hướng, hoài
nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, về mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam; nói và làm không đúng, thậm chí ngược lại với chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phản bác, phủ định
chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường đi lên chủ nghĩa xã
14
hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn; phủ nhận mọi thành tựu mà
Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta giành được trong cuộc đấu tranh cách mạng giành
độc lập dân tộc, thống nhất đất nước trước đây cũng như trong công cuộc xây
dựng vào bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa như ngày nay; truyền bá
học thuyết, văn hóa, lối sống tư sản cũng như các qua điểm tư tưởng phi mácxit,
phi xã hội chủ nghĩa, đối lập với chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
vv…
Đại hội XII của Đảng đánh giá: “… những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” có xu hướng diễn biến phức tạp trong Đảng, trong hệ thống chính
trị và trong xã hội. Không ít cán bộ, đảng viên có những biểu hiện dao động, mất
phương hướng, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, về mục tiêu, lý tưởng và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đã xuất hiện những việc làm và
phát ngôn vô nguyên tắc, trái với Cương lĩnh, đường lối, Điều lệ Đảng ở một số
cán bộ, đảng viên”.
Trong khi đó, nhiều cấp ủy, tổ chức đảng còn hạn chế trong nhận thức và
lúng túng trong đấu tranh ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; lơ là, mất
cảnh giác trước những âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”. Tình trạng lộ,
lọt thông tin, bí mật nhà nước, nhất là qua mạng internet, qua các phương tiện
thông tin đại chúng ngày càng nghiêm trọng. Công tác quản lý cán bộ, đảng viên
có yếu tố nước ngoài, quản lý báo chí, xuất bản, internet, mạng xã hội chưa chặt
chẽ, còn nhiều sơ hở. Việc đấu tranh, phản bác những luận điệu tuyên truyền,
xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn
chính trị còn bị động, thiếu sắc bén và hiệu quả còn chưa cao. Xử lý các đối
tượng vi phạm đường lối, quan điểm, nguyên tăc của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước chưa kịp thời, nghiêm minh. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ
còn hạn chế, trách nhiệm của cấp ủy đảng và sự phối hợp của các cơ quan chức
năng trong phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” còn bị động, chưa xác
định rõ phạm vi trách nhiệm, quyền hạ của cơ quan bảo vệ chính trị nội bộ Đảng
với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong công tác bảo vệ Đảng, quản lý cán bộ,
đảng viên.
3. Về nguyên nhân
3.1. Nguyên nhân khách quan
- Tác động từ khủng hoảng chủ nghĩa xã hội trên thế giới sau sụp đổ của
Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu; từ mặt trái của kinh tế thị
trường, những hoạt động lợi dụng sự phát triển của khoa học công nghệ thông
tin, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tê.
- Những khó khăn, thách thức của các nước đi theo con đường xã hội chủ
nghĩa trong bối cảnh quốc tế hiện nay; nhiều vấn đề mới, phức tạp phát sinh từ
thực tiễn nhưng chưa được lý giải và xử lý kịp thời, hiệu quả.
- Các thế lực thù địch, phản động đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn
biến hòa bình”, lợi dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, dân tộc, tôn giáo
và những yếu kém, sơ hở, mất cảnh giác của ta để xuyên tạc, bóp méo tình hình;
cổ súy cho lối sống hưởng thụ, thực dụng, ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa; đồng thời,
cấu kết với các phần tử cơ hội bất mãn chính trị hoạt động ráo riết, chống phá
cách mạng ngày càng tinh vi, nguy hiểm hơn.
15
3.2. Nguyên nhân chủ quan
- Nguyên nhân sâu xa, chủ yếu của tình trạng suy thoái ở một bộ phận cán
bộ, đảng viên trước hết là do bản thân những cán bộ, đảng viên đó thiếu tu
dưỡng, rèn luyện; lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động
trước những tác động từ bên ngoài; sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, bị
cám dỗ bởi các lợi ích vật chất, không làm tròn trách nhiệm, bổn phận của mình
trước Đảng, trước dân.
- Công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên về chủ nghĩa
Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giảng dạy và học tập nghị quyết của Đảng
chưa được coi trọng đúng mức, kém hiệu quả, nội dung và phương pháp giáo
dục, truyền đạt chậm đổi mới; chưa tạo được sự thống nhất cao trong nhận thức
về tình trạng suy thoái, những biểu hiện “ tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và
những hậu quả gây ra. Sinh hoạt đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ ở nhiều nơi còn
hình thức, đơn điệu. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa có
chiều sâu, không theo kịp tình hình thực tế. Chưa chú trọng xây dựng, tuyên
truyền, nhân rộng những mô hình mới, điển hình tiên tiến, lấy tích cực đẩy lùi
tiêu cực.
- Một số nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng có nội dung chưa sát
thực tiễn, thiếu tính khả thi và thiếu chế tài xử lý. Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng,
người đứng đầu các cấp chưa có quyết tâm chính trị cao; việc cụ thể hóa các
nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Ban chấp hành Trung ương, Bộ chính trị, Ban Bí
thư thành chương trình kế hoạch tổ chức thực hiện ở một số địa phương, đơn vị
còn chung chung, chỉ đạo thiếu quyết liệt.
- Việc xử lý cán bộ, đảng viên vi phạm còn nương nhẹ, nể nang, thiếu
cương quyết. Chưa có cơ chế khen thưởng những tập thể, cá nhân tổ chưc thực
hiện nghị quyết sáng tạo, có hiệu quả và xử lý nghiêm những tập thể, cá nhân
không thực hiện hoặc thực hiện không nghiêm túc.
- Việc nghiên cứu, sửa đổi, ban hành cơ chế, chính sách luật pháp thích
ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa kịp thời. Tổ
chức bộ máy còn cồng kềnh, chồng chéo, hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả. Cơ
chế kiểm soát quyền lực chậm được hoàn thiện, còn nhiều sơ hở. Thiếu cơ chế
để xử lý, thay thế kịp thời những cán bộ lãnh đạo, quản lý yếu về năng lực, giảm
sút uy tín, trì trệ trong công tác, kém hiệu quả trong phòng ngừa, đấu tranh
chống tham nhũng, tiêu cực. Chậm ban hành quy định xử lý tổ chức cá nhân có
biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
- Đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ còn nể nang, cục bộ. Một số cơ chế,
chính sách, trong đề bạt, bổ nhiệm cán bộ chưa công bằng; chính sách tiền
lương, nhà ở chưa tạo được động lực cống hiến cho cán bộ, công chức.
- Việc thực hiện kỷ cương, kỷ luật của Đảng chưa nghiêm, còn có biểu
hiện “nhẹ trên, nặng dưới”. Công tác quản lý cán bộ, đảng viên còn thiếu chặt
chẽ. Nguyên tắc tập trung dân chủ ở nhiều nơi bị buông lỏng; nguyên tắc tự phê
bình và phê bình thực hiện không nghiêm, chưa có cơ chế để bảo vệ người đấu
tranh phê bình. Sự phối hợp giữa công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với công
tác thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử chưa chặt chẽ, xử lý chưa đủ
16
nghiêm minh. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt
yêu cầu; việc kê khai tài sản thu nhập còn hình thức.
- Chưa chủ động và thiếu giải pháp phù hợp để định hướng thông tin
trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và công nghệ thông tin, mạng xã hội
phát triển mạnh mẽ. Việc quản lý thông tin còn lỏng lẻo, thiếu giải pháp đủ
mạnh để đấu tranh có hiệu quả với các thông tin sai lệch, phản bác lại những
luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội và bất
mãn chính trị.
- Việc phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, cac đoàn thể
chính trị- xã hội, các cơ quan truyền thông và nhân dân trong đấu tranh, ngăn
chặn suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên còn hạn
chế, hiệu quả chưa cao.
III. NHẬN DIỆN NHỮNG BIỂU HIỆN SUY THOÁI VỀ TƯ TƯỞNG
CHÍNH TRỊ, ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG, “TỰ DIỄN BIỄN”, “TỰ CHUYỂN
HÓA”
1. Biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị
(1) Phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ
nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
(2) Xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng; không kiên định con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội; phụ họa theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái.
(3) Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập
lý luận chính trị, lười học tập chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ
trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước.
(4) Không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức Đảng; sa sút ý chí
phấn đấu, không gương mẫu trong công tác; né tránh trách nhiệm, thiếu trách
nhiệm, trung bình chủ nghĩa, làm việc qua loa, đại khái, kém hiệu quả; không
còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn chức trách, nhiệm vụ được
giao.
(5) Trong tự phê bình còn giấu diếm, không dám nhận khuyết điểm; khi
có khuyết điểm thì thiếu thành khẩn, không tự giác nhận kỷ luật. Trong phê bình
thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu
tranh; lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ
trích, phê phán người khác với động cơ cá nhân không trong sáng.
(6) Nói và viết không đúng với quan điểm, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước. Nói không đi đôi với làm; hứa nhiều làm ít; nói
một đằng làm một nẻo; nói trong hội nghị khác, nói ngoài hội nghị khác; nói và
làm không nhất quán giữa khi đương chức với lúc về nghỉ hưu.
(7) Duy ý chí, áp đặt, bảo thủ, chỉ làm theo ý mình, không chịu học tập,
lắng nghe, tiếp thu ý kiến hợp lý của người khác.
(8) Tham vọng chức quyền, không chấp hành sự phân công của tổ chức,
kén chọn chức danh, vị trí công tác; chọn nơi nhiều lợi ích, chọn việc dễ, bỏ việc
khó; không sẵn sàng nhận nhiệm vụ ở nơi xa, nơi có khó khăn. Thậm chí còn
tìm mọi cách để vận động, tác động, tranh thủ phiếu bầu, phiếu tín nhiệm cho cá
nhân một cách không lành mạnh.
17
(9) Vướng vào “tư duy nhiệm kỳ”, chỉ tập trung giải quyết những vấn đề
ngắn hạn trước mắt, có lợi cho mình; tranh thủ bổ nhiệm người thân, người
quen, người nhà dù không đủ tiêu chuẩn, điều kiện giữ chức vụ lãnh đạo, quản
lý hoặc bố trí, sắp xếp vào vị trí có nhiều lời ích.
2. Biểu hiện về suy thoái đạo đức, lối sống
(1) Cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu
vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể; ganh ghét, đố kị, so bì, tị nạnh,
không muốn người khác hơn mình.
(2) Vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, gây mất đoàn kết nội bộ; đoàn
kết xuôi chiều, dân chủ hình thức; cục bộ; bè phái, kèn cựa địa vị, tranh chức,
tranh quyền; độc đoán, gia trưởng, thiếu dân chủ trong chỉ đạo điều hành.
(3) Kê khai tài sản, thu nhập không trung thực.
(4) Mắc bệnh “thành tích”, háo danh, phô trương, che giấu khuyết điểm,
thổi phồng thành tích, “đánh bóng” tên tuổi; thích được đề cao, ca ngợi: “chạy
thành tích”, “chạy khen thưởng”, “chạy danh hiệu”.
(5) Quan liêu, xa rời quần chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu kiểm tra đôn
đốc, không nắm chắc tình hình địa phương, cơ quan, đơn vị minh; thờ ơ, vô
cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng
của nhân dân.
(6) Quyết định hoặc tổ chức thực hiện gây lãng phí thất thoát tài chính, tài
sản, ngân sách nhà nước, đất đai, tài nguyên…; đầu tư công tràn lan, hiểu quả
thấp không hiệu quả; mua sắm, sử dụng tài sản công vượt quy định; chỉ tiêu
công quỹ tùy tiện, vô nguyên tắc. Sử dụng lãng phí nguồn nhân lực, phí phạm
thời gian lao động.
(7) Tham ô, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn cấu kết với doanh
nghiệp, với đối tượng khác để trục lợi. Lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn
được giao dể dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực.
(8) Thao túng trong công tác cán bộ; chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ,
chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy tội,… Sử dụng quyền lực được giao để
phục vụ lợi ích cá nhân hoặc để người thân, người quen lợi dụng chức vụ, quyền
hạn của mình để trục lợi.
(9) Đánh bạc, rượu chè bê tha, mê tín dị đoan, ủng hộ hoặc tham gia các
tổ chức tôn giáo bất hợp pháp. Sa vào các tệ nạn xã hội, vi phạm thuần phong,
mỹ tục, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, chuẩn mực đạo đức gia đình
và xã hội.
3. Biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ
(1) Phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; đòi thực
hiện “đa nguyên, đa đảng”.
(2) Phản bác, phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa; đòi thực hiện thể chế “tam quyền phân lập”, phát triển
“xã hội dân sự”. Phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
chế độ sở hữu toàn dân về đất đai.
(3) Nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước. Hạ thấp, phủ nhận những thành quả cách mạng;
18
thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước. Xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo
các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước.
(4) Kích động tư tưởng bất mãn, bất đồng chính kiến, chống đối trong nội
bộ. Lợi dụng và sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội
để nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín vai trò lãnh đạo của Đảng, gây chia rẽ nội bộ,
nghi ngờ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
(5) Phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối
với lực lượng vũ trang; đòi “phi chính trị hóa” quân đội và công an; xuyên tạc
đường lối quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; chia rẽ quân đội với công
an; chia rẽ nhân dân với quân đội và công an.
(6) Móc nối, cấu kết với các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ
hội, bất mãn chính trị để truyền bá tư tưởng, quan điểm đối lập; vận động, tổ
chức, tập hợp lực lượng để chống phá Đảng và Nhà nước.
(7) Đưa thông tin sai lệch, xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại của
Đảng và Nhà nước; thông tin phiến diện, một chiều về tình hình quốc tế, gây bất
lợi trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước.
(8) Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, văn học - nghệ
thuật. Tác động, lôi kéo, lái dư luận xã hội không theo đường lối của Đảng; cổ
súy cho quan điểm, tư tưởng dân chủ cực đoan; thổi phồng mặt trái của xã hội.
Sáng tác, quảng bá những tác phẩm văn hóa, nghệ thuật lệch lạc, bóp méo lịch
sử, hạ thấp uy tín của Đảng.
(9) Có tư tưởng dân tộc hẹp hòi, tôn giá cực đoan. Lợi dung vấn đề “dân
chủ”, “nhân quyền”, dân tộc, tôn giáo để gây chia rẽ nội bộ, gây chia rẽ giữa các
dân tộc, giữa các tôn giáo, giữa các dân tộc và tôn giáo, giữa các dân tộc, tôn
giáo với Đảng và Nhà nước.
IV. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM VÀ NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP
1. Mục tiêu
- Nhận thức sâu sắc về nguy cơ, nhận diện đúng những biểu hiện và đề ra
các giải pháp phù hợp để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ.
- Kiên quyết khắc phục những yếu kém trong công tác cán bộ và quản lý
cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các
cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, trách nhiệm, năng lực và động
cơ đúng đắn, thực hiện tiên phong, gương mẫu, luôn đặt lợi ích của tập thể, quốc
gia, dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, thực sự là cán bộ của dân, phục vụ nhân
dân. Củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
2. Quan điểm
- Nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật. Kết hợp
giữa “xây” và “chống”; “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; “chống”
là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách.
- Kiên quyết, kiên trì thực hiện với quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn;
phát huy sự chủ động, sáng tạo và sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị,
của nhân dân, trong đó cán bộ lãnh đạo, quản lý, trước hết là cán bộ cấp cao, cán
bộ chủ chốt, người đứng đầu các cấp là nòng cốt; thực hiện quyết liệt, đồng bộ
19
các giải pháp để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” có hiệu quả, nhất là những vụ việc gây bức xúc trong dư luận để
củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
- Tăng cường sự lãnh đạo và đoàn kết, thống nhất trong Đảng, trước hết là
Ban chấp hành Trung ương, Bộ chính trị, Ban bí thư, cấp ủy và ban thường vụ
cấp ủy các cấp. Giữ vững nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương của Đảng; đề cao pháp
luật của Nhà nước. Chủ động phòng ngừa, tích cực đấu tranh làm thất bại âm
mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội, bất
mãn chính trị.
3. Các nhóm nhiệm vụ, giải pháp
3.1. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao nhận thức trong đoàn Đảng về ý
nghĩa, vai trò, tầm quan trọng và sự cần thiết của việc học tập, nghiên cứu, vận
dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Có
kế hoạch học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận bắt buộc hằng năm đối
với cán bộ, đảng viên gắn với việc cung cấp thông tin, cập nhật kiến thức mới
phù hợp từng đối tượng, từng cấp, từng ngành, từng địa phương. Thực hiện
nghiêm túc, có hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh theo chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị.
- Tích cực đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng; đẩy mạnh công tác
tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, nhất là những mô hình mới, kinh nghiệm
hay; khuyến khích phát triển tư duy lý luận phù hợp với đường lối đổi mới của
Đảng. Đổi mới nội dunng, phương pháp hình thức dạy và học lý luận chính trị
gắn với ứng dụng thực tế, tăng cường kiểm tra và quản lý chặt chẽ chất lượng
dạy và học. Chủ động nắm bắt diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên để có
chủ trương, giải pháp xử lý kịp thời, hiệu quả.
- Xây dựng và thực hiện có hiệu quả nội dung xây dựng Đảng về đạo đức,
trong đó chú trọng xây dựng hệ thống chuẩn mực các mối quan hệ của cán bộ
đảng viên với tổ chức đảng và với nhân dân. Hằng năm, người đứng đầu và từng
cán bộ, đảng viên có cam kết rèn luyện giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống,
không suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; các cấp ủy, tổ chức đảng kiểm
tra, giám sát việc thực hiện cam kết của cán bộ, đảng viên ở địa phương, cơ
quan, đơn vị của mình.
- Hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc quy định về trách nhiệm nêu gương
của cán bộ, đảng viên, trước hết là các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí
thư, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương và bí thư các ủy các cấp.
- Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức để nâng cao chất lượng sinh hoạt
chi bộ. Xây dựng quy định tự phê bình và phê bình, khắc phục tình trạng nể
nang, né tránh, ngại va chạm và bảo vệ người thẳng thắn, dám đấu tranh; cấp
trên gợi ý kiểm điểm và trực tiếp dự, chỉ đạo ở những nơi có vấn đề phức tạp,
nơi có biểu hiện suy thoái “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Hoàn thiện quy chế
đánh giá cán bộ một cách khoa học, phù hợp; quy định lấy phiếu tín nhiệm ở các
cấp, các ngành định kỳ hoặc đột xuất.
- Tăng cường quản lý, chấn chỉnh hoạt động báo chí, xuất bản, internet,
mạng xã hội. Phát huy vai trò, nêu cao trách nhiệm của các cơ quan báo chí
trong công tác đấu tranh phòng, chống suy thoái, quan liêu, tham nhũng, lãng
20
phí, tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Chủ động định hướng, cung cấp
thông tin thường xuyên hoặc đột xuất; chú trọng tuyên truyền chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, những thành quả trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, những nhân tố tích cực, điển hình tiên tiến,
gương người tốt, việc tốt. Khen thưởng kịp thời những tập thể, cá nhân có thành
tích; xử lý nghiêm những tập thể, cá nhân có thành tích; xử lý nghiêm những tập
thể, cá nhân vi phạm quy định về thông tin, báo chí, tuyên truyền.
- Chủ động chuẩn bị các phương án, biện pháp cụ thể, sát với tình hình;
xây dựng lý luận sắc bén để đấu tranh, phản bác có hiệu quả đối với các quan
điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ
hội và bất mãn chính trị chống phá Đảng, Nhà nước và khối đại đoàn kết toàn
dân tộc.
- Hoàn thiện Quy chế về kỷ luật phát ngôn đối với cán bộ, đảng viên; xử
lý nghiêm những cá nhân, nhóm người cấu kết với nhau, lợi dụng vấn đề “dân
chủ”, “nhân quyền”, tôn giáo, dân tộc để tuyên truyền, xuyên tạc và có hành vi
nói, viết, lưu trữ, phát tán tài liệu sai trái. Tổ chức diễn đàn trao đổi, đối thoại
những vấn đề còn có nhận thức, quan điểm khác nhau liên quan đến đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Cấp ủy, chính quyền và người đứng đầu các cấp phải xây dựng kế
hoạch, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm tra, giám sát, khắc phục tình trạng
quan liêu, xa dân. Chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, rèn luyện phong
cách làm việc khoa học, cụ thể, sâu sát cơ sở cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý các cấp.
- Hằng năm hoặc khi chuẩn bị đề bạt, luân chuyển điều động công tác đối
với cán bộ, tiêu chi quan trọng để đánh giá, xếp loại tổ chức và cán bộ, đảng
viên là: chương trình hành động tập thể và cá nhân; kết quả thực hiện nhiệm vụ
được giao; kết quả thực hiện cam kết rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối
sống, tự phê bình và phê bình; sự nêu gương của cán bộ lãnh đạo, quản lý; hiệu
quả đấu tranh, khắc phục suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
3.2. Về cơ chế, chính sách
- Các cấp ủy, tổ chức đảng chỉ đạo rà soát, hoàn thiện và thực hiện
nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi quyền lực của người
có chức, có quyền theo hướng quyền hạn đến đâu trách nhiệm đến đó; phân định
rõ thẩm quyền và trách nhiệm tập thể, có chế tài xử lý nghiêm những hành vi vi
phạm. Kiên quyết sàng lọc, miễn nhiệm, thay thế, cho từ chức đối với cán bộ
làm việc kém hiệu quả, không hoàn thành nhiệm vụ, yếu về năng lực, kém hiệu
quả, không hoàn thành nhiệm vụ, yếu về năng lực, kém về phẩm chất đạo đức,
tín nhiệm thấp mà không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác, nhất là cán bộ lãnh
đạo, quản lý và người đứng đầu. Trước mắt, rà soát, kiểm tra, xử lý dứt điểm các
vụ việc vi phạm trong thực thi quyền lực gây bức xúc trong cán bộ, đảng viên và
nhân dân.
- Các cấp ủy, tổ chức đảng chỉ đạo rà soát, hoàn thiện các quy định, văn
bản quy phạm pháp luật về quản lý, điều hành bảo đảm công khai, minh bạch,
góp phần xóa bỏ cơ chế “ xin - cho”, “ duyệt - cấp”; ngăn chặn, đẩy lùi tham
nhũng, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, “sân sau”, trục lợi trong quản lý, sử dụng ngân
21
sách, tài sản công, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, vốn đầu tư, đất đai, tài
nguyên, khoáng sản, tài chính, ngân hàng, thuế, hải quan, phân bổ, quản lý và sử
dung biên chế… Tăng cường hiệu quả công tác phòng, chống rửa tiền, chuyển
mạnh từ thanh toán tiền mặt sang thanh toán không dùng tiền mặt.
- Kiên quyết thực hiện đúng mục tiêu, có hiệu quả việc sắp xếp lại bộ
máy, tinh giản biên chế gắn với cải cách chế độ công vụ, cơ cấu lại đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức và đổi mới chính sách tiền lương. Thực hiện chế độ
hợp đồng có thời hạn đối với viên chức nhà nước. Xây dựng và thực hiện chính
sách nhà ở nhằm tạo động lực cho cán bộ, công chức theo hướng nhiều chủ thể
tham gia, hạn chế tối đa việc sử dụng ngân sách nhà nước.
- Đẩy mạnh xã hội hóa, tách cung ứng dịch vụ công và quản lý sản xuất
kinh doanh ra khỏi chức năng quản lý nhà nước nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu
quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước; khắc phục tình trạng qua liêu,
cửa quyền, sách nhiễu, tiêu cực của cán bộ, công chức. Rà soát, thoái hóa, cổ
phần hóa chấn chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp quân đội và công an sản
xuất kinh doanh thua lỗ, không phục vụ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính trong Đảng; rà soát, sửa đổi, hoàn thiện
các quy định nhằm tăng cường quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên; khắc phục
ngay tình trạng ăn uống, chè chén, “liên hoan”, “gặp mặt” không lành mạnh, với
động cơ không trong sáng; khắc phục những bất hợp lý trong công tác cán bộ
như: Phân công, phân cấp, thẩm quyền quản lý, quy trình bổ nhiệm… nhằm đảm
bảo nguyên tắc bình đẳng, tổng thể, liên thông giữa các cơ quan trong hệ thống
chính trị và chấn chỉnh, khắc phục tình trạng kén chọn vị trí, chức danh trong
đội ngũ cán bộ, đảng viên.
- Hoàn thiện quy định về tổ chức, bộ máy và công tác bảo vệ chính trị nội
bộ; bảo đảm sự trong sạch về chính trị trong nội bộ; bảo đảm sự trong sạch về
chính trị trong nội bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược. Chú trọng
nắm tình hình và giải quyết tốt vấn đề chính trị hiện nay; chủ động phát hiện,
ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm các đối tượng chống đối, phần tử cơ hội, bất
mãn chính trị. Rà soát, hoàn thiện quy định về quản lý cán bộ, đảng viên nghiên
cứu, học tập, lao động và công tác ở nước ngoài. Phát huy vai trò, trách nhiệm
của Quân ủy Trung ương, Đảng ủy Công an Trung ương trong đấu tranh phòng,
chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
3.3. Về kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng
- Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát định kỳ hoặc đột xuất việc tổ chức
thực hiện các nghị quyết, kết luận Đảng, xử lý nghiêm tập thể cá nhân ban hành
văn bản không đúng, không phù hợp hoặc thực hiện không nghiêm túc các nội
dung nghị quyết, kết luận của Đảng; khen thưởng kịp thời tập thể, cá nhân thực
hiện có hiệu quả.
- Các cấp ủy , tổ chức đảng tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và
công khai kết quả để góp phần đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái, "tự diễn
biến" "tự chuyển hóa". Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ban thường vụ cấp ủy các
cấp chỉ đạo rà soát ngay đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc quyền và xử lý
nghiêm những trường hợp suy thoái, "tự diễn biến" "tự chuyển hóa", không bảo
22
đảm về tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình bổ nhiệm, năng lực và hiệu quả công tác
thấp, nhất là những trường hợp có nhiều dư luận.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban chỉ đạo Trung ương và cơ quan
thường trực về phòng chống tham nhũng. Nghiên cứu việc tăng thẩm quyền và
chế tài xử lý trách nhiệm của ủy ban kiểm tra các cấp trong việc kiểm tra, giám
sát, kỷ luật đối với tổ chức đảng, đảng viên. Rà soát, hoàn thiện các quy định
của Đảng và Nhà nước về xử lý kỷ luật, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ giữa kỷ
luật của Đảng với kỷ luật hành chính của Nhà nước.
- Tăng thẩm quyền và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu trong việc
tạm đình chỉ công tác cán bộ dưới quyền để kiểm điểm khi có dấu hiệu vi phạm,
đồng thời xem xét tư cách đảng viên và phối hợp với các cơ quan chức năng có
biện pháp ngăn chặn hành vi bao che, cản trở, gây khó khăn trong xử lý hoặc có
dấu hiệu bỏ trốn.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát cũng như phát huy vai
trò của các cơ quan thanh tra, kiểm tra, điều tra và các cơ quan tư pháp để nâng
cao hiệu quả công tác phòng chống tham nhũng, xử lý nghiêm minh đối với
những cán bộ sai phạm theo quy định của pháp luật.
- Siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, thực hiện nghiêm các nguyên tắc
tổ chức của Đảng; cán bộ, đảng viên vi phạm phải có hình thức xử lý kịp thời,
bảo đảm công khai, minh bạch.
Thực hiện nghiêm việc kê khai tài sản, thu nhập theo quy định; xây dựng
và hoàn thiện cơ chế giải trình và giám sát việc tăng giảm tài sản của cán bộ,
đảng viên. Cơ quan đề xuất, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ phải tiến hành thẩm định,
xác minh, đánh giá trung thực việc kê khai theo quy định.
- Xây dựng quy định xử lý những tập thể,cá nhân suy thoái nghiêm trọng
về tư tưởng chính trị đạo đức, lối sống, có lời nói và việc làm biểu hiện "tự diễn
biến" "tự chuyển hóa" nghiêm trọng.
3.4. Về phát huy vai trò nhân dân và Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính
trị - xã hội
- Các cấp ủy, chính quyền phải nhận thức sâu sắc, quán triệt và thực hiện
nghiêm Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị về việc
ban hành quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các đoàn thể chính trị - xã hội và Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày
12/12/2013 của Bộ Chính trị ban hành quy định về việc mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng,
xây dựng chính quyền.
- Tăng cường công tác dân vận của Đảng và của Chính quyền; phát huy
vai trò giám sát của Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể chính trị- xã hội, của nhân
dân, báo chí và công luận trong đấu tranh, ngăn chặn suy thoái " tự diễn biến"
"tự chuyển hóa" trong cán bộ, đảng viên.
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội và Hội đồng
nhân dân các cấp, bảo đảm mọi chính sách pháp luật của Nhà nước phải theo
đúng cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng và phải xuất phát từ nguyện
vọng, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
23
- Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp phải thực hiện nghiêm túc
việc tiếp dân định kì, hoặc đột xuất để tiếp nhận thông tin, lắng nghe đối thoại
trực tiếp và xử lý những phản ánh, kiến nghị của nhân dân, nhất là những biểu
hiện suy thoái " tự diễn biến" " tự chuyển hóa" trong cán bộ, đảng viên.
- Xây dựng và thực hiện cơ chế bảo vệ, khuyến khích người dân phản ánh,
tố giác và tích cực đấu tranh phòng, chống suy thoái, "tự diễn biến" "tự chuyển
hóa".
V. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
- Bộ Chính trị ban hành Kế hoạch thực hiện, xác định rõ nhiệm vụ của các
cơ quan, tổ chức đảng ở Trung ương và trực thuộc Trung ương; phân công, chỉ
đạo cụ thể, đôn đốc việc thực hiện nghị quyết.
- Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự Đảng Chính phủ chỉ đạo các cơ quan
chức năng nghiên cứu, thể chế hóa, cụ thể hóa nội dung nghị quyết thành các
văn bản pháp luật để thực hiện.
- Các ban Đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy,
cơ quan trực thuộc Trung ương tổ chức học tập, quán triệt, chủ động xây dựng
kế hoạch, đề án cụ thể để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết.
24
CHUYÊN ĐỀ
MỘT SỐ CHỦ TRƯỜNG, CHÍNH SÁCH LỚN NHẰM TIẾP TỤC
ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
TĂNG TRƯỞNG, NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG, SỨC CẠNH TRANH
CỦA NỀN KINH TẾ
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH NGHỊ QUYẾT
- Sau 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được được nhiều thành tựu trong
phát triển KT-XH nói chung và tăng trưởng kinh tế nói riêng. Thế nhưng vấn đề
đặt ra, những thành tựu đạt được của chúng ta chưa thực sự bền vững, tốc độ
tăng trưởng kinh tế của chúng ta đang có xu hướng giảm dần, chất lượng tăng
trưởng chậm, năng suất lao động và sức cạnh tranh của kinh tế còn thấp (năm
2001 - 2010 tốc độ trung bình 6,8% thì năm 2011 - 2015 giảm xuống 5,8%. Mục
tiêu tăng trưởng cho giai đoạn 2016 - 2020 là 6,5 - 7% sẽ khó đạt được).
- Nguyên nhân sâu xa nằm trong chính mô hình tăng trưởng với các động
lực tăng trưởng chủ yếu dựa vào vốn lao động, tài nguyên. Trong lúc nguồn lực
đầu vào đã tới hạn, dư địa gia tăng, các yếu tố này càng ngày càng bị thu hẹp,
kéo theo những bất ổn kinh tế vĩ mô và chất lượng tăng trưởng chững lại. Chưa
nói đến, tài nguyên đang kiệt dần, hậu quả của biến động môi trường - xã hội
của tăng trưởng kinh tế có dấu hiệu tác động tiêu cực đối với tăng trưởng kinh tế
và chất lượng cuộc sống. Mô hình tăng trưởng trên tất yếu sẽ làm giảm dần tốc
độ tăng trưởng.
- Một vấn đề được đặt ra là nếu chúng ta không tiếp tục đổi mới tăng
trưởng thì liệu chúng ta có theo kịp các nước trong khu vực và trên thế giới
không? Vậy làm thế nào để chúng ta vừa chuyển đổi tăng trưởng được cả chiều
rộng, trong đó có cả đổi mới chiều sâu. Mục đích của Đại hội XI của Đảng đã
chính thức hóa chủ trương đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền
kinh tế, hướng đến mô hình tăng trưởng chất lượng hơn, năng suất cao hơn và
gắn với tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Chính vì vậy, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh yêu
cầu đổi mới mô hình tăng trưởng cho giai đoạn 2016 - 2020, trong đó chỉ rõ:
Mô hình tăng trưởng trong thời gian tới kết hợp có hiệu quả phát triển chiều
rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu". Thực hiện yêu cầu quan
trọng này của Đại hội XII, Nghị quyết về "Một số chủ trương, chính sách lớn
nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng,
năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế" được ban hành với mục
đích như vậy.
II. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHỦ TRƯƠNG ĐỔI MỚI
MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG GẮN VỚI CƠ CẤU LẠI NỀN KINH TẾ
THEO HƯỚNG NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG, NĂNG
SUẤT LAO ĐỘNG, SỨC CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ
1. Những kết quả đạt được
- Bước đầu đã có sự chuyển biến sang kết hợp giữa chiều rộng và chiều
sâu. Phát triển kinh tế tiếp tục được thúc đẩy theo hướng tăng thu hút đầu tư từ
25
khu vực tư nhân trong nước, đầu tư trực tiếp nước ngoài, mở rộng sản suất, tạo
thêm công ăn việc làm cho người lao động.
+ Tỷ lệ dân số có việc làm giai đoạn 2011 - 2015 đạt 58%, cao hơn so với
giai đoạn 2006 - 2010 là 55%.
+ Tốc độ tăng việc làm của khu vực nông thôn cao hơn thành thị, góp
phần vào ổn định xã hội. Tỷ lệ hộ nghèo đã tiếp tục giảm từ 12,6% năm 2011
xuống còn 7% năm 2015.
+ Một số chỉ số tăng trưởng được cải thiện, đưa nền kinh tế có xu hướng
phát triển theo chiều sâu.
+ Tốc độ tăng năng suất lao động giai đoạn 2011 - 2015 ở mức trung bình
4,3% cao hơn so với 3,4% giai đoạn 2006 – 2010.
+ Đóng góp của các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế được
nâng từ mức -4,5% giai đoạn trước lên 29% trong giai đoạn 2011 - 2015.
+ Năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam tăng từ vị trí 65/142 nước
năm 2011 lên 56/140 nước vào năm 2015.
+ Một số doanh nghiệp Việt Nam đã khẳng định được vị trí, tên tuổi trên
thị trường trong nước và quốc tế.
+ Một số sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vẫn tiếp tục được duy
trì và mở rộng thị trường, giữ được vị trí xuất khẩu đạt thứ hạng cao trên thế
giới như gạo, cà phê, cao su, hồ tiêu, hạt điều, cá tra, tôm, dệt may...
- Việc cơ cấu lại nền kinh tế, nhất là một số lĩnh vực trọng tâm, bước đầu
đã cải thiện chất lượng tăng trưởng, tăng năng suất lao động và sức cạnh tranh
của nền kinh tế.
+ Cơ cấu lại đầu tư công, với việc ban hành luật đầu tư công, sửa đổi luật
đấu thầu, ưu tiên tập trung vào dự án hạ tầng kinh tế - xã hội quan trọng, cấp
bách bước đầu đã cải thiện thể hiện qua chỉ số ICOR giảm dần trong giai đoạn
2011 - 2015 so với giai đoạn 2006 - 2010.
+ Doanh nghiệp nhà nước được cơ cấu lại với trọng tâm là các tập đoàn
và tổng công ty nhà nước đang được triển khai. Thể chế quản lý doanh nghiệp
nhà nước tiếp tục được hoàn thiện; nâng cao trách nhiệm kiểm tra, giám sát của
chủ sở hữu; phân định rõ quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của chủ sỡ hữu cũng
như doanh nghiệp để đáp ứng yêu cầu quản lý trong tình hình mới. Giai đoạn
2011 - 2015 đã sắp xếp được 558 doanh nghiệp, trong đó cổ phần hóa được 478
doanh nghiệp, đạt 93% kế hoạch; sắp xếp theo các hình thức khác được 80
doanh nghiệp; thoái vốn đầu tư doanh nghiệp nhà nước khỏi 5 lĩnh vực nhạy
cảm, thu được 10.742 tỉ đồng. Nhờ đó, góp phần ngăn chặn tình trạng đầu tư
ngoài ngành sản xuất kinh doanh chính, cải thiện hiệu quả sử dụng vốn nhà
nước. Tỷ suất lợi nhuận của cả khu vực doanh nghiệp nhà nước cao hơn mức
trung bình của hệ thống doanh nghiệp.
+ Cơ cấu lại thị trường tài chính, bước đầu đã triển khai trọng tâm cơ cấu
lại tổ chức tín dụng, giám sát chặt chẽ, sắp xếp lại được các ngân hàng yếu kém,
triển khai xử lý nợ xấu, lành mạnh hóa bảng cân đối tài sản của các tổ chức tín
dụng, tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra, bảo đảm an toàn hệ thống. Thị
trường tài chính đi dần vào ổn định, quy mô tăng, thị trường tiền tệ và trong lĩnh
vực nhân hàng từng bước được tăng cường, góp phần cải thiện môi trường kinh