Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

vai trò của tổ chức công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.01 KB, 42 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bài tiểu luận “Vai trò của tổ chức Công đoàn cơ sở
trong các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay” là bài tiểu luận môn Luật Lao
động của tôi trong thời gian qua. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm nếu có
sự không trung thực về thông tin sử dụng trong bài tiểu luận khoa học này.
Hà Nội, Tháng 05, Năm 2017.
Sinh viên thực hiện.

1


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài tiểu luận này, trong quá trình tìm hiểu, thu thập và
tổng hợp thông tin tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các thành viên
Ban lãnh đạo Tổng Công Ty Công Nghiệp Ôtô Việt Nam Vinamotor, Ban lãnh
đạo Công Ty Cổ Phần Chứng Khoán Sài Gòn - Hà Nội SHS.
Nhân đây, cho phép tôi gửi lời cảm ơn chân thành tới Cô Đoàn Thị
Vượng bởi cô đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo để tôi có thể hoàn thành xuất sắc
bài tiểu luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

2


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN

3



PHẦN MỞ ĐẦU
Trong lịch sử quá trình hình thành, phát triển và đấu tranh của giai cấp
công nhân nói riêng và của giai cấp vô sản tiến bộ toàn thế giới nói chung, để
từng bước trưởng thành và đi đến thắng lợi, thành công như ngày hôm nay,
không thể không kể đến sự song hành, đóng góp cũng như vai trò, tác dụng vô
cùng to lớn của các tổ chức Công đoàn, đặc biệt là các Công đoàn cấp cơ sở.
Trong giai đoạn hiện nay, cùng với quá trình hội nhập, mở cửa và sự
phát triển không ngừng lớn mạnh của nền kinh tế đất nước, đời sống, việc
làm, thu nhập của người dân, của công nhân và người lao động cũng không
ngừng được cải thiện, nâng cao. Tuy nhiên cùng với sự cạnh tranh khốc liệt
của cơ chế thị trường và sự phát triển như vũ bão của cuộc Cách mạng Khoa
học – Kỹ thuật, Công nghệ lần thứ 4 (Cách mạng Khoa học - Công nghệ 4.0)
cùng kỷ nguyên số hóa, vấn đề giải quyết việc làm, cải thiện tiền lương, phúc
lợi, điều kiện lao động, giải quyết tranh chấp lao động, bảo đảm quyền lợi cho
nhân viên và người lao động ngày càng trở nên gay gắt, phức tạp và nóng
bỏng tới từng doanh nghiệp, từng cấp cơ sở, đòi hỏi sự vào cuộc gấp rút của
các tổ chức Công đoàn, đặc biệt là các Công đoàn cơ sở trong việc nâng cao
hơn nữa trình độ, trách nhiệm và củng vững chắc cố vai trò của mình trong
việc quan tâm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công nhân, viên chức,
người lao động.
Qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và điều tra thực tế, tôi nhận thấy vai
trò, hoạt động của các cấp Công đoàn, Công đoàn cơ sở tại các doanh nghiệp
ở nước ta hiện nay mặc dù đã đạt được rất nhiều bước tiến lớn, nhiều thành
tựu vượt bậc so với giai đoạn trước, tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn tồn tại
nhiều điểm hạn chế, yếu kém, khó khăn, vướng mắc, gây ảnh hưởng xấu đến
hoạt động cũng như việc phát huy, nâng cao tác dụng, nhiệm vụ, vai trò của tổ
chức Công đoàn, Công đoàn cơ sở trong thực tế.
Vì những lý do trên tôi quyết định chọn vấn đề “Vai trò của tổ chức
Công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài cho
4



bài tiểu luận môn Luật Lao động của mình nhằm tìm hiểu, làm rõ thêm về
những kiến thức đã được học và hiểu rõ hơn về thực trạng để có thể tìm ra
những biện pháp, giải pháp thiết thực, hữu hiệu nhằm giúp nâng cao vai trò
của tổ chức Công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, bài tiểu
luận bao gồm các chương sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về tổ chức Công đoàn,
Công đoàn cơ sở và vai trò của Công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp
ở Việt Nam hiện nay.
Chương 2: Thực trạng về vai trò của Công đoàn cơ sở trong các
doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Giải pháp nâng cao vai trò của Công đoàn cơ sở trong
các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.

5


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN,
CÔNG ĐOÀN CƠ SỞ VÀ VAI TRÒ CỦA CÔNG ĐOÀN CƠ SỞ
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1 Các khái niệm cơ bản và cơ sở pháp lý về tổ chức Công đoàn và
Công đoàn cơ sở
1.1.1 Các khái niệm cơ bản và cơ sở pháp lý về tổ chức Công đoàn
Ngay từ những năm đầu và giữa thế kỷ XIX, những tổ chức Công đoàn
đầu tiên trên thế giới đã được thành lập tại Anh, Pháp, Đức,… và từ đó lan
rộng phát triển mạnh mẽ khắp toàn thế giới. Tại Việt Nam, ngay từ những
năm đầu thập niên 1920, các tổ chức tiền thân, sơ khai của Công đoàn đã

được thành lập như Công hội Ba Son, Công hội Đỏ, Nghiệp đoàn Ái hữu,…
Từ đó cho đến nay, các tổ chức Công đoàn, Nghiệp đoàn đã luôn song hành
và hiệp đồng cùng với những người công nhân, lao động trong cuộc chiến đấu
bền bỉ chống lại ách áp bức, sự bóc lột, đàn áp, bất công của giới chủ, đòi và
bảo vệ những quyền cơ bản, những yêu cầu, lợi ích hợp pháp của toàn thể
người dân lao động cũng như lợi ích của quảng đại quần chúng nhân dân, đất
nước, quốc gia, dân tộc, đưa những cuộc đấu tranh ấy tiến tới những thắng
lợi, vẻ vang.
Trên thế giới hiện nay, cùng với sự lớn mạnh về quy mô và hoạt động
hết sức đa dạng của các tổ chức Công đoàn, Nghiệp đoàn nghề nghiệp, Công
hội, có rất nhiều các cách định nghĩa, giải thích, lý giải khác nhau về khái
niệm của tổ chức Công đoàn. Tùy theo mỗi nhà nghiên cứu, mỗi nước, mỗi
nền kinh tế, pháp luật khác nhau lại có những cách tiếp cận, nhìn nhận vấn đề,
lý giải khác nhau về tổ chức này. Các khái niệm về Công đoàn cũng vì thế mà
trở nên rất đa dạng và phong phú.
Hiến Pháp 2013 của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chỉ rõ
Công đoàn là một trong năm tổ chức chính trị - xã hội được thành lập trên cơ
sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của
6


thành viên, hội viên tổ chức mình, mà ở đây với Công đoàn là công nhân và
người lao động, cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và
thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, được nhà nước tạo điều kiện để hoạt động
[Dẫn theo 6;Tr.14-15] và định nghĩa chi tiết về Công đoàn như sau: “Công
đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của
người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao
động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao
động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia kiểm tra,

thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh
nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động;
tuyên truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng
nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [6;Tr.15].
Theo Luật Công đoàn 2012 thì Công đoàn “là tổ chức chính trị - xã hội
rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động, được thành lập trên
cơ sở tự nguyện, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; đại diện cho cán bộ, công
chức, viên chức, công nhân và những người lao động khác (sau đây gọi chung
là người lao động), cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao
động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, tham gia thanh tra,
kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh
nghiệp; tuyên truyền, vận động người lao động học tập nâng cao trình độ, kỹ
năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa” [4;Tr.1].
Một định nghĩa khác cũng được chấp nhận rộng rãi trên thế giới, theo
đó Công đoàn là "một hiệp hội của những người làm công ăn lương có mục
đích duy trì hay cải thiện các điều kiện thuê mướn họ" [11;Tr.1].

7


1.1.2 Các khái niệm cơ bản và cơ sở pháp lý về tổ chức Công đoàn
cơ sở
Theo sự phân cấp của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cơ cấu bộ
máy các tổ chức của Công đoàn Việt Nam chia làm bốn cấp:
1. Cơ quan Trung ương Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
2. Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Công
đoàn ngành Trung ương.

3. Liên đoàn lao động quận huyện và tương đương ( hay còn gọi là
Công đoàn cấp trên cơ sở).
4. Công đoàn cơ sở.
Theo đó, Công đoàn cơ sở là cấp tổ chức nhỏ nhất trong hệ thống các
cấp của tổ chức Công đoàn Việt Nam, đó có thể là các Công đoàn cơ sở được
thành lập ở các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, các đơn vị sự
nghiệp và cơ quan Nhà nước, các tổ chức chính trị - xă hội, các tổ chức xă hội
có 5 đoàn viên trở lên và được Công đoàn cấp trên Quyết định công nhận
hoặc các Nghiệp đoàn lao động, tập hợp những người lao động tự do, hợp
pháp cùng ngành, nghề được thành lập theo địa bàn hoặc theo đơn vị lao động
có mười đoàn viên trở lên và được Công đoàn cấp trên ra Quyết định công
nhận. [Dẫn theo 8;Tr.1]
Nếu chúng ta coi Tổng Liên đoàn Lao động, Tổng Công đoàn, các tổ
chức Công đoàn cấp trên là một mái nhà lớn che chở, bảo vệ, đấu tranh cho
toàn thể người lao động thì các tổ chức Công đoàn cơ sở, Công đoàn của các
tổ chức, xí nghiệp, doanh nghiệp, nghiệp đoàn được có thể được ví như những
viên gạch ngói tạo nên mái nhà đó, là nền tảng, hạt nhân, những tế bào sống
quan trọng hàng đầu trong việc xây dựng, hình thành, hoạt động và phát triển,
thực hiện vai trò của mái nhà chung tổ chức. Bởi không có tổ chức Công đoàn
cấp trên nào mà lại không được xây dựng từ sự gắn kết, tập hợp của các tổ
chức Công đoàn cơ sở cấp dưới.
Cùng với sự phát triển đi lên của nền kinh tế đất nước, số lượng doanh
nghiệp, tổ chức, xí nghiệp, đơn vị sản xuất kinh doanh cũng không ngừng
8


tăng lên nhanh chóng, kéo đó là nhu cầu hình thành và sự phát triển, mở rộng
ngày một mạnh mẽ hơn của các tổ chức Công đoàn cấp cơ sở.
Về khái niệm Công đoàn cơ sở, theo Luật Công đoàn 2012 định nghĩa
chi tiết Công đoàn cơ sở là “tổ chức cơ sở của Công đoàn, tập hợp đoàn viên

Công đoàn trong một hoặc một số cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, được Công
đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở công nhận theo quy định của pháp luật và Điều
lệ Công đoàn Việt Nam” và “được tổ chức trong cơ quan nhà nước, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ
chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị, doanh nghiệp, tổ chức khác có sử dụng lao
động theo quy định của pháp luật về lao động, cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ
chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam” [4;Tr.1].
1.2 Vai trò của tổ chức Công đoàn và Công đoàn cơ sở trong doanh
nghiệp Việt Nam hiện nay
Trong thời đại kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập cùng với sự bùng
nổ như vũ bão của cuộc Cách mạng khoa học kỹ thuật 4.0 như hiện nay, vai
trò của Công đoàn Việt Nam nói chung và của các tổ chức Công đoàn cơ sở
nói riêng ngày càng trở nên rất quan trọng, có ý nghĩa to lớn và sâu rộng
không chỉ đối với người lao động cũng như với các tổ chức, xí nghiệp, doanh
nghiệp, mà còn đối với cả với nền kinh tế, xã hội cùng sự phát triển bền vững
của đất nước ta trong thời kỳ mới. Cụ thể, trong các tổ chức sản xuất kinh
doanh, doanh nghiệp, Công đoàn, Công đoàn cơ sở có các vai trò trong các
lĩnh vực như sau:
* Trong lĩnh vực quan hệ lao động:
- Công đoàn, Công đoàn cơ sở đóng vai trò là người tư vấn, hướng dẫn,
tuyên truyền, giáo dục, nâng cao hiểu biết, nhận thức pháp luật của người lao
động về các vấn đề của pháp luật Lao động như các quyền, nghĩa vụ của
người lao động khi giao kết, thực hiện hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc
với đơn vị sử dụng lao động như tư vấn về hình thức, nguyên tắc ký kết, loại
hợp đồng, nội dung hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên về cung cấp
thông tin, thời gian thử việc, thời gian tập sự và những vấn đề liên quan khi
9


giao kết hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc, nghĩa vụ thực hiện công việc

theo hợp đồng, trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của các bên trong trường
hợp chuyển người lao động làm công việc khác, các trường hợp tạm hoãn,
nhận lại người lao động hết thời gian tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động,
hợp đồng làm việc, các thủ tục và các chế độ, chính sách đối với người lao
động khi phát sinh sửa đổi, bổ sung, chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng
làm việc, để đảm bảo quyền và lợi ích cao nhất cho người lao động.
- Công đoàn, Công đoàn cơ sở cũng có vai trò là người tuyên truyền,
vận động, thuyết phục đối với người sử dụng lao động để họ hiểu đúng và ủng
hộ cho chủ trương, chính sách, hoạt động của Công đoàn và pháp luật Lao
động của Nhà nước, từ đó tôn trọng và thực hiện đầy đủ các quy định, chủ
trương, chính sách này, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng cho người lao
động.
- Trong các doanh nghiệp, Công đoàn cơ sở đóng vai trò người đấu
tranh, đàm phán, bảo vệ, thúc đẩy và nâng cao quyền, lợi ích cho người lao
động, giữ vai trò quan trọng là người đại diện cho lao động tham gia cùng với
các đơn vị sử dụng lao động xây dựng, sửa đổi, bổ sung và giám sát việc thực
hiện thang lương, bảng lương, các định mức lao động, quy chế trả lương, quy
chế thưởng, nội quy lao động để đảm bảo quyền lợi thưởng hợp lý, công bằng
nhất cho người lao động.
- Trong việc ký kết thỏa ước lao động tập thể, Công đoàn, Công đoàn
cơ sở đóng vai trò là người đại diện, thay mặt cho tập thể người lao động đưa
ra yêu cầu, đàm phán, sửa đổi, thương lượng, ký kết và giám sát việc thực
hiện thỏa ước lao động tập thể.
- Trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, Công đoàn,
Công đoàn cơ sở đóng vai trò là một bên tham gia đối thoại với đơn vị sử
dụng lao động, là người tư vấn pháp luật, chính sách cho người lao động để
giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động,
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của họ.
- Khi quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của tập thể lao động hoặc của
10



người lao động bị đe dọa, xâm phạm, Công đoàn cơ sở - là tổ chức gần gũi,
gắn bó và hiểu rõ nhất tâm tư, nguyện vọng của người lao động, sẽ đóng vai
trò là người bảo vệ, người đại diện, là cầu nối cho người lao động gửi các
kiến nghị các yêu cầu lên các tổ chức Công đoàn cấp trên, các cơ quan quản
lý nhà nước có thẩm quyền xem xét, tiến hành giải quyết và đóng vai trò là
người hỗ trợ, đại diện cho người lao động, tập thể người lao động khi họ tham
gia khởi kiện tại Tòa án.
Đồng thời, Công đoàn, Công đoàn cơ sở cũng được pháp luật thừa nhận
với vai trò là người lãnh đạo và tổ chức các cuộc đình công, bãi công, lãn
công theo đúng quy định của pháp luật, cụ thể là tại điều 210 Bộ Luật lao
động 2012.
Về vai trò của tổ chức Công đoàn cũng như Công đoàn cơ sở trong lĩnh
vực này, Điều 188 Luật Lao động 2012 chỉ rõ vai trò của các tổ chức công
đoàn như sau:
“1. Công đoàn cơ sở thực hiện vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp, chính đáng của đoàn viên Công đoàn, người lao động; tham gia,
thương lượng, ký kết và giám sát việc thực hiện thỏa ước lao động tập thể,
thang lương, bảng lương, định mức lao động, quy chế trả lương, quy chế
thưởng, nội quy lao động, quy chế dân chủ ở doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức;
tham gia, hỗ trợ giải quyết tranh chấp lao động; đối thoại, hợp tác với người
sử dụng lao động xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định, tiến bộ tại
doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức.
2. Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở có trách nhiệm hỗ trợ Công đoàn
cơ sở thực hiện các chức năng, nhiệm vụ theo quy định tại khoản 1 Điều này;
tuyên truyền giáo dục, nâng cao hiểu biết về pháp luật về lao động, pháp luật
về Công đoàn cho người lao động.
3. Ở những nơi chưa thành lập tổ chức Công đoàn cơ sở, Công đoàn
cấp trên trực tiếp cơ sở thực hiện trách nhiệm như quy định tại khoản 1 Điều

này.
4. Tổ chức Công đoàn các cấp tham gia với cơ quan quản lý nhà nước
11


cùng cấp và tổ chức đại diện người sử dụng lao động để trao đổi, giải quyết
các vấn đề về lao động.” [5;Tr.100-101]
* Trong lĩnh vực chính trị:
Công đoàn, Công đoàn cơ sở đóng vai trò là cầu nối giữa người công
nhân, lao động, đoàn viên với các cơ quan, các cấp lãnh đạo của Đảng, Nhà
nước, là nơi gửi gắm nguyện vọng của người lao động tới Đảng, Nhà nước,
đồng thời là nơi tuyên truyền, đưa các chủ trương, chính sách của các cấp
lãnh đạo đến với thực tiễn lao động, sản xuất, kinh doanh, bảo đảm sự tập
trung dân chủ, quyền làm chủ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
* Trong lĩnh vực văn hoá - tư tưởng:
Trong thời đại kinh tế thị trường hiện nay, bên cạnh những thành tựu
đạt được đã bắt đầu xuất hiện tình trạng thoái hóa, biến chất về tư tưởng, đạo
đức lối sống trong một bộ phận nhà quản lý, lãnh đạo các doanh nghiệp cũng
như người lao động. Trong bối cảnh đó, các tổ chức Công đoàn, Công đoàn
cơ sở có vai trò rất lớn trong việc trong việc giáo dục các thành viên trong
doanh nghiệp nâng cao nhận thức, giữ vững lòng kiên định với chủ nghĩa Mác
- Lênin, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh,
phát huy những giá trị cao đẹp, truyền thống, xây dựng nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Ngoài ra, Công đoàn cũng là cơ sở để các
cán bộ, đoàn viên, công nhân viên chức, người lao động được tham gia các
hoạt động giao lưu văn hóa, thể thao lành mạnh, nâng cao trinh độ văn hóa,
tăng cường sự đoàn kết, xây dựng văn hóa, văn minh trong tổ chức, góp phần
vào sự phát triển toàn diện của người lao động.
* Trong lĩnh vực kinh tế - xã hội:
Công đoàn, đặc biệt là các Công đoàn cơ sở có vai trò rất lớn trong việc

chăm lo, quan tâm, đảm bảo cuộc sống, việc làm, điều kiện làm việc, điều
kiện học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ, phẩm chất, tăng thu nhập, bảo đảm
lương thưởng, tạo điều kiện để lao động yên tâm sản xuất, thăm hỏi động viên
khi lao động ốm đau, tai nạn, bệnh nghề nghiệp, đảm bảo các lợi ích thiết thực
cho công nhân và người lao động, góp phần đảm bảo ổn định sản xuất và thực
12


hiện an sinh xã hội. Ngoài ra, Công đoàn cũng là cơ sở hình thành nên các
phong trào mang tính xã hội, nhân văn sâu rộng, đóng góp vào sự phát triển
bền vững của xã hội, đất nước. Đồng thời với đó, Công đoàn, Công đoàn cơ
sở cũng đóng vai trò giám sát, đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp theo đúng quy định của nhà nước về kinh tế thị trường, chống tệ
nhũng nhiễu, quan liêu, bao cấp, tham nhũng và các vi phạm, hành vi trái
pháp luật khác trong doanh nghiệp, góp phần giúp Đảng và Nhà nước củng cố
sự ổn định, phát triển và bền vững của nền kinh tế, xã hội.
Kết luận: Qua những cơ sở lý thuyết và cơ sở pháp lý trên ta thấy
Công đoàn, với nền tảng cấu thành cơ bản nhất là các Công đoàn cơ sở, là
một trong những tổ chức chính trị - xã hội có độ lan tỏa rộng lớn và đặc biệt
quan trọng của giai cấp công nhân cũng như toàn thể người lao động trong
các tổ chức, xí nghiệp, doanh nghiệp, có vai trò và ý nghĩa hàng đầu không
chỉ trong việc đấu tranh, đòi hỏi và bảo vệ những quyền, lợi ích chính đáng
của người lao động trong lĩnh vực quan hệ lao động mà còn giữ vai trò rất lớn
trong các lĩnh vực như chính trị, văn hóa - tư tưởng, kinh tế - xã hội tại các tổ
chức, doanh nghiệp cũng như trong toàn thể nền kinh tế, xã hội, đất nước.
Chính vì vậy việc nâng cao vai trò, hiệu quả hoạt động của các tổ chức Công
đoàn, đặc biệt là Công đoàn cấp cơ sở có ý nghĩa rất quan trọng và cấp bách,
cần được các nhà quản lý, các cấp lãnh đạo quan tâm giải quyết, nhất là trong
thời đại kinh tế thị trường, hội nhập, mở cửa như hiện nay.


13


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VỀ VAI TRÒ CỦA CÔNG ĐOÀN CƠ SỞ TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
2.1 Thực trạng vai trò của Công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp
hiện nay
2.1.1 Những vai trò Công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp Việt
Nam hiện nay đã thực hiện được
Trong những năm trở lại đây, nhờ sự vào cuộc, quan tâm chỉ đạo sát sao
của Đảng, Chính phủ và các lãnh đạo Công đoàn các cấp cùng sự nỗ lực, cố
gắng bền bỉ của các cán bộ, đoàn viên Công đoàn, vai trò của các Công đoàn
cơ sở đã đạt được nhiều thay đổi, chuyển biến tích cực, ngày càng được hoàn
thiện và nâng cao, đáp ứng nhu cầu nguyện vọng của toàn thể Công đoàn
viên, công nhân, viên chức, nhân viên, người lao động trong các tổ chức,
doanh nghiệp, xí nghiệp hiện nay.
Cụ thể, Công đoàn cơ sở đã được thể hiện, thực hiện được vai trò của
mình trong những công tác và những công việc như sau:
- Trong giai đoạn hiện nay, vai trò là người tư vấn, hướng dẫn, tuyên
truyền, giáo dục, nâng cao hiểu biết, nhận thức pháp luật của người lao động
về các vấn đề của pháp luật Lao động của tổ chức Công đoàn cơ sở tại phần
lớn các doanh nghiệp, xí nghiệp, công ty đã được cải thiện và nâng cao rõ rệt.
Nhiều Công đoàn của các doanh nghiệp đã bắt đầu quan tâm hơn tới việc mở
các lớp đào tạo, hướng nghiệp, tổ chức hỗ trợ, tư vấn chính sách, phổ biến các
chủ trương, đường lối chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước bằng nhiều
biện pháp đa dạng và phong phú của cho người lao động và mở các lớp nâng
cao nghiệp vụ, trình độ, kiến thức pháp lý cán bộ Công đoàn.
Ví dụ, tại doanh nghiệp Công ty Cổ phần Cơ khí Ôtô Ngô Gia Tự, một
đơn vị trực thuộc Tổng Công Ty Công Nghiệp Ô tô Việt Nam Vinamotor,

trong giai đoạn 2010 – 2015 Công đoàn đã tham gia mở 51 lớp đào tạo hướng
nghiệp, nâng cao trình độ pháp luật, phổ biến các chủ trương, chính sách,
14


pháp luật của Đảng, Nhà nước của cho cán bộ, công nhân viên, người lao
động trong doanh nghiệp, tăng 27,45% so với giai đoạn 2005 - 2010, trong đó
có 19 lớp đào tạo nâng cao nghiệp vụ công tác Công đoàn, kiến thức, trình độ
pháp lý cán bộ Công đoàn, tăng 21,05% so với giai đoạn 2005 – 2010. Ngoài
ra Công đoàn Công ty cũng tổ chức các biện phạm nhằm tuyên truyền phổ
biến pháp luật như áp phích, phát động, cho nhân viên tham gia các phong
trào, cuộc thi học tập, tìm hiểu pháp luật Lao động. [Dẫn theo 1; Tr.21]
- Vai trò của các tổ chức Công đoàn cơ sở trong việc đấu tranh, đàm
phán, bảo vệ, thúc đẩy và nâng cao quyền, lợi ích cho người lao động cũng có
những bước tiến vượt bậc, rõ rệt. Cụ thể như trong việc đàm phán về việc
nâng lương tối thiểu vùng năm 2016, các tổ chức Công đoàn cơ sở, là cấp
Công đoàn gần gũi và gắn bó với cơ sở, với thực tế lao động sản xuất nhất, là
những người nắm bắt rõ nhất về tâm tư, nguyện vọng cũng như đời sống, sinh
hoạt và sự khó khăn, thiếu thốn của công nhân, người lao động tại các doanh
nghiệp nơi mình hoạt động, đã cùng nhau đồng loạt tổ chức kiến nghị, gửi yêu
cầu lên Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, yêu cầu tổ chức này đề xuất lên
Thủ tướng Chính phủ và Hội đồng Tiền lương Quốc gia về việc tiếp tục giữ
vững và nâng cao hơn nữa mức tăng lương tối thiểu vùng và cuối đã buộc các
doanh nghiệp, người sử dụng phải chịu nhượng bộ, chấp nhận mức lương tối
thiểu vùng Hội đồng Tiền lương Quốc gia, cao hơn so với đề xuất của đại diện
giới chủ doanh nghiệp.
- Trong việc ký kết thỏa ước lao động tập thể, Công đoàn cơ sở đã phát
huy rất tốt vai trò của mình trong việc là người đại diện, thay mặt cho tập thể
người lao động tham gia đề đàm phán, thương lượng, buộc giới chủ sử dụng
lao động, lãnh đạo doanh nghiệp phải nhượng bộ, ký kết và chấp nhận những

yêu cầu, lợi ích chính đáng, có lợi cho toàn thể người lao động trong xí
nghiệp, đơn vị trong nội dung bản thỏa ước lao động tập thể. Tại rất các nhiều
các công ty, tổng công ty, doanh nghiệp, quyền lợi người lao thỏa ước lao
động tập thể thậm chí còn được xác định cao hơn, cá biệt có đơn vị còn cao
hơn rất nhiều lần so với các quy định của pháp luật Lao động, đảm bảo cơ sở
15


vững chắc cho việc nâng cao và bảo đảm đời sống, điều kiện làm việc và các
lợi ích khác của người lao động.
Và số lượng Công đoàn cơ sở làm được điều đó không phải là con số
nhỏ. Điển hình như các Công đoàn cơ sở của Công đoàn ngành Công thương.
Trong năm 2013, trong số các bản thỏa ước lao động tập thể mà các Công
đoàn cơ sở của ngành này tham gia đề xuất, thương lượng, ký kết với giới chủ
sử dụng lao động, có khoảng 60% các bản thỏa ước lao động tập thể có nhiều
quy định, điều khoản có lợi hơn cho người lao động so với các quy định của
pháp luật Lao động, khoảng 30% các bản thỏa ước lao động tập thể có ít quy
định, điều khoản có lợi cho người lao động hơn so với quy định và khoảng
10% các bản thỏa ước lao động tập thể là sao chép lại Luật. [Dẫn theo 2;Tr.1]
- Các Công đoàn cơ sở cũng thực hiện rất tốt vai trò của mình trong
lĩnh vực chính trị trong các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nhà nước, khi là công cụ đắc lực hỗ trợ cho hoạt động của các Đảng ủy,
chi bộ Đảng tại các xí nghiệp, doanh nghiệp này, hỗ trợ cho các tổ chức này
và các cơ quan quản lý nhà nước các cấp nắm vững tâm tư, nguyện vọng,
hoàn cảnh, khó khăn của người lao động để có chính sách, biện pháp xử lý, hỗ
trợ hợp lý, mở và tổ chức nhiều buổi phổ biến chủ trương, chính sách, cảm
tình Đảng, giới thiệu các Đoàn viên ưu tú kết nạp vào Đảng, xứng đáng là một
trong năm tổ chức chính trị - xã hội lớn và quan trọng nhất của giai cấp công
nhân, người lao động và của đất nước.
- Công đoàn cơ sở cũng thực hiện có rất tốt và có hiệu quả vai trò của

mình trong lĩnh vực văn hoá - tư tưởng tại các doanh nghiệp. Từ Công đoàn
cơ sở, nhiều phong trào học tập, rèn luyện đạo đức, tư tưởng như người tốt
việc tốt, học tập và làm theo tấm gương tư tưởng, đạo đức, phong của Bác, tự
kiểm điểm, tự phê bình đã được ra đời, phát triển và phát huy sâu rộng những
giá trị, tác dụng tốt đẹp của mình trong việc thúc đẩy, nâng cao tư tưởng, nhận
thức, đạo đức của toàn thể doanh nghiệp. Cũng từ các Công đoàn cơ sở các
phong trào văn hóa văn nghệ, xây dựng phong cách làm việc văn minh, hiện
đại, xây dựng văn hóa công sở, thể dục thể thao quần chúng, các cuộc giao
16


lưu văn hóa, vui chơi, giải trí lành mạnh, các cuộc đi dã ngoại, đi du lịch, nghỉ
dưỡng cho người lao động đã được tạo lập, lớn mạnh và phát huy sức lan tỏa,
góp phần nâng cao giá trị văn hóa, tinh thần, sự gắn kết cho người lao động
nói riêng cũng như toàn thể doanh nghiệp nói chung.
- Các Công đoàn cơ sở cũng thực hiện và phát huy rất tốt vai trò của
mình trong lĩnh vực kinh tế - xã hội ở các doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt
động của mình, rất nhiều Công đoàn cơ sở đã thực hiện rất tốt vai trò trong
lĩnh vực xã hội của mình với việc tổ chức các cuộc thăm hỏi, tặng quà, hỗ trợ,
quyên góp, giúp đỡ người lao động có hoàn cảnh khó khăn, ốm đau, tai nạn,
tặng các suất quà cho con em cán bộ, nhân viên, hỗ trợ đi lại, về quê ăn Tết,
hỗ trợ cho lao động nữ đang mang thai và nuôi con nhỏ, hỗ trợ công nhân,
người lao động được đi học, nâng cao trình độ tay nghề, chuyên môn,… góp
phần đảm bảo cho người lao động có cơ hội được phát triển toàn diện, có
được điều kiện sống, điều kiện làm việc, cuộc sống tốt nhất, đóng góp to lớn
vào việc đảm bảo an sinh xã hội và giải quyết các vấn đề xã hội có liên quan
đến lao động.
Cùng với đó, Công đoàn cùng là nơi hình thành và phát triển các phong
trào xã hội mang tính nhân văn, cộng đồng cao đẹp như các phong trào từ
thiện, quyên góp ủng hộ người nghèo, người gặp hoàn cảnh khó khăn, đồng

bào vùng thiên tai, sẻ chia các khó khăn cùng cộng đồng, thăm hỏi các gia
đình chính sách, trao học bổng vì ngày mai,… đóng góp tích cực vào sự phát
triển bền vững và tương lai tốt đẹp xã hội.
Ta có thể thấy rõ được các Công đoàn cơ sở đã thực hiện và phát huy
tốt vai trò vai trò này như thế nào thông qua hoạt động xã hội của một số
doanh nghiệp cụ thể:
Trong giai đoạn 2010 – 2016, Công đoàn Công Ty Cổ Phần Chứng
Khoán Sài Gòn - Hà Nội SHS đã tổ chức được 1208 cuộc thăm hỏi, động
viên, tặng quà, hỗ trợ, quyên góp, giúp đỡ người lao động có hoàn cảnh khó
khăn, ốm đau, tai nạn, quyên góp ủng hộ hàng trăm tỷ đồng cho các hoạt động
từ thiện như chương trình mổ tim cho trẻ em nghèo Trái Tim cho em, ủng hộ
17


đồng bà lũ lụt miền Trung trong trận lũ lịch sử tại các tỉnh miền Trung năm
2016 và rất nhiều các chương trình thiện nguyên khác. [Dẫn theo 3; Tr. 31]
Trong giai đoạn 2010 – 2015, Công đoàn Tổng Công Ty Công Nghiệp
Ôtô Việt Nam Vinamotor đã tổ chức 1809 cuộc thăm hỏi động viên, tặng quà,
hỗ trợ, ủng hộ, giúp đỡ người lao động có hoàn cảnh khó khăn, ốm đau, tai
nạn, đang gặp khó khăn khi nuôi con nhỏ, tổ chức nhiều chương trình thiện
nguyện nơi vùng cao, các xã nghèo khó khăn như chương trình áo ấm cho em,
tổ chức tặng quà, trao học bổng cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn vươn lên
vượt khó, học tập tốt ở một huyện nghèo khu vực miền núi phía Bắc. Ngoài
ra, hàng năm vào mỗi dịp 1/6, Trung Thu Tổng công ty đều tổ chức chương
trình tặng quà cho con em cán bộ, công nhân viên có thành tích học tập xuất
sắc, vui tết Thiếu nhi, vui Trung Thu. Tại các nhà máy của doanh nghiệp,
hàng năm đều tổ chức các chương trình hỗ trợ công nhân về quê đoàn viên ăn
Tết, tặng quà, bánh chưng vào dịp lễ, cải tiến để nâng cao vệ sinh, an toàn bếp
ăn tập thể cho người lao động. [Dẫn theo 1;Tr.19]
Công đoàn cũng là nơi hình thành nên các phong trào, cuộc thi tay nghề

giỏi, thi đua sản xuất, các cuộc thi cải tiến nâng cao khoa học – kỹ thuật, nâng
cao giá trị hàng hóa, thực hành tiết kiệm, chống quan liêu, tham nhũng,lãng
phí và nhiều phong trào khác, góp phần thực hiện tốt vai trò trong lĩnh vực
kinh tế của Công đoàn, đóng góp vào sự phát triển lớn mạnh của doanh
nghiệp cùng sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế đất nước.
2.1.2 Những hạn chế, yếu kém trong việc thực hiện vai trò của các
Công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp hiện nay
Trong vòng 10 năm từ 2005 - 2015, số lượng Công đoàn cơ sở và số
lượng đoàn viên tăng lên nhanh chóng, góp phần vào sự phát triển, mở rộng
và lan tỏa của toàn thể tổ chức Công đoàn. Tính đến tháng 6/2005, Công đoàn
Việt Nam có “76.678 công đoàn cơ sở với 5,25 triệu đoàn viên” [Dẫn theo
7;Tr.1] thì đến tháng 7/2015 cả nước đã có 120.156 công đoàn cơ sở và 8,748
triệu đoàn viên [Dẫn theo 9; Tr.1], tăng 1,567 lần hay 156,70 % về số Công
đoàn cơ sở và tăng 1,662 lần hay 166,62 % về số đoàn viên Công đoàn.
18


Tuy tăng trưởng rất nhanh, mạnh về số lượng tổ chức, số đoàn viên
tham gia và đã thực hiện được rất tốt nhiều vai trò của mình trong các tổ chức,
doanh nghiệp, tuy nhiên chất lượng, hiệu quả hoạt động cũng như việc thực
hiện vai trò của các Công đoàn cơ sở lại không tăng lên tương xứng với sự
phát triển đó, vẫn còn tồn tại rất nhiều bất cập, yếu kém, thậm chí trong một
số trường hợp Công đoàn cơ sở còn cản trở, chống lại việc thực hiện các vai
trò đã được quy định của chính mình. Cụ thể thực trạng những bất cập, khó
khăn, yếu kém trong việc thực hiện vai trò của các Công đoàn cơ sở trong các
doanh nghiệp hiện nay là:
- Nhiều tổ chức Công đoàn cơ sở hiện nay hoạt động mang tính chất rất
hình thức, đối phó, cầm chừng, một số Công đoàn tại các doanh nghiệp một
năm chỉ tổ chức được một số lượng rất nhỏ các hoạt động thường niên và hầu
như rất ít tiến hành tổ chức các buổi tiếp xúc, lắng nghe ý kiến, tâm tư,

nguyện vọng của người lao động, dẫn đến tính trạng đoàn thể hoạt động kém
hiểu quả, làm các Công đoàn cơ sở suy giảm khả năng thực hiện hoặc không
thể thực hiện được nhiều vai trò của tổ chức.
- Cá biệt hiện nay, đã xảy ra tình trạng có một số lượng không hề nhỏ
các tổ chức Công đoàn cơ sở đã bị rơi vào tình trạng tê liệt, “chết cứng” hoàn
toàn, bởi thậm chí ngay chính bản thân những người lao động, đoàn viên tại
các Công đoàn đó cũng không còn thiết tha gắn bó, mặn mà với việc tiếp tục
hoạt động trong Công đoàn nữa, khiến tổ chức Công đoàn ở các doanh nghiệp
đó chỉ còn là cái “xác ve không hồn”, “tổ chức còn tồn tại với cái tên trên
giấy” trong lòng các doanh nghiệp, không còn tồn tại trên thực tế và thực hiện
được bất kỳ một vai trò nào mà tổ chức Công đoàn cơ sở phải thực hiện.
- Về việc thực hiện vai trò là người tuyên truyền, vận động, thuyết phục
đối với người sử dụng lao động để họ hiểu đúng và ủng hộ cho chủ trương,
chính sách, hoạt động của Công đoàn và pháp luật Lao động của Nhà nước,
các Công đoàn cơ sở đã không thể thực hiện được tốt vai trò này của mình,
nhất là tại các doanh nghiệp của thành phần kinh tế ngoài nhà nước. Nhiều tổ
chức doanh nghiệp vẫn tiếp tục ngang nhiên thực hiện các hành vi vi phạm
19


pháp luật, vi phạm thỏa ước lao động, làm tổn hại đến quyền và lợi ích chính
đáng, hợp pháp của người lao động, bất chấp các kiến nghị, đề xuất và sự
tuyên truyền, vận động, thuyết phục của tổ chức Công đoàn cơ sở tại doanh
nghiệp. Cá biệt, có những những doanh nghiệp còn thực hiện hành vi vi phạm
pháp luật Lao động để ngăn cản vai trò của Công đoàn, hạn chế quyền lợi và
chi phí hoạt động của Công đoàn khi tổ chức này thực hiện kiến nghị, vận
động, thuyết phục đòi hỏi quyền lợi chính đáng, hợp pháp cho người lao
động.
- Trong các tổ chức Công đoàn tại các doanh nghiệp tư nhân, tại các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tình trạng thay đổi, thay mới cán bộ

Công đoàn, cán bộ lãnh đạo Công đoàn cơ sở mà không có đội ngũ kế cận
tương xứng diễn ra rất thường xuyên và phổ biến, làm ảnh hưởng rất lớn, làm
gián đoạn các hoạt động, các công tác phong trào và gây khó khăn trong việc
thực hiện liên tục các vai trò của các Công đoàn cơ sở, làm cho các Công
đoàn cơ sở này, các cán bộ Công đoàn kế cận ở các doanh nghiệp này vốn đã
non trẻ, yếu ớt và không thực hiện được nhiều vai trò của mình, nay lại càng
trở nên yếu kém và giảm sút hiệu quả hơn.
- Việc thực hiện vai trò của Công đoàn cơ sở trong việc tư vấn, hướng
dẫn, tuyên truyền, giáo dục, nâng cao hiểu biết, nhận thức pháp luật của người
lao động về các vấn đề của pháp luật Lao động tại phần lớn các doanh nghiệp,
xí nghiệp, công ty hiện nay tuy đã được cải thiện và nâng cao rõ rệt hơn rất
nhiều, tuy nhiên vẫn còn rất hạn chế, mang nặng tính hình thức, đối phó, nặng
về lý thuyết, giáo điều mà chưa bám sát thực tiễn sản xuất, việc thực hiện
cũng không đáp ứng, giải quyết được đòi hỏi thực tế, sát sườn của người lao
động, các biện pháp thực hiện tuy đã đa dạng và phong phú hơn nhưng vẫn
chưa thực sự có sự đột phá, thay đổi lối mòn, để thu hút sự quan tâm của công
nhân, người lao động trong doanh nghiệp, dẫn đến các việc đoàn viên mất dần
sự tin tưởng vào việc thực hiện vai trò này của Công đoàn và ngày càng xa
cách hơn với tổ chức.
- Mặc dù đóng vai trò là người tham gia cùng với các đơn vị sử dụng
20


lao động xây dựng, sửa đổi, bổ sung và giám sát việc thực hiện thang lương,
bảng lương, các định mức lao động, quy chế trả lương, quy chế thưởng, nội
quy lao động để đảm bảo quyền lợi hợp lý, công bằng nhất cho người lao
động, tuy nhiên vai trò của Công đoàn cơ sở trong những công tác này còn rất
hạn chế, yếu kém, mờ nhạt, nhất là các Công đoàn tại các doanh nghiệp tư
nhân, ngoài quốc doanh. Tại các công ty, doanh nghiệp này Công đoàn cơ sở
thường có rất ít vai trò và tiếng nói trong việc tham gia xây dựng thang, bảng

lương, định mức lao động, quy chế trả lương, quy chế thưởng, nội quy lao
động và hầu như đều đồng ý, không dám mạnh dạn can thiệp, ra quyết định
phản đối, bác bỏ, bày tỏ kiến nghị với các đề xuất, quyết định của người sử
dụng lao động, dù rằng các đề xuất, quyết định ấy có vi phạm các quy định
của pháp luật hay trái với các điều khoản của thảo ước lao động tập thể, dẫn
đến việc gây thiệt hại rất lớn về quyền, lợi ích chính đáng của người lao động,
hình thành nên các mâu thuẫn, tranh chấp lao động trong tổ chức, xí nghiệp,
doanh nghiệp.
- Mặc dù đã làm rất tốt vai trò của mình trong việc là người đại diện,
thay mặt cho tập thể người lao động đưa ra yêu cầu, đàm phán, sửa đổi,
thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể, đưa ra được rất nhiều các bản
thảo ước lao động tập thể có lợi hơn cho người lao động, thậm chí còn cao
hơn những quyền lợi trong pháp luật Lao động, thế nhưng các Công đoàn cơ
sở lại thực hiện rất kém hiệu quả, ở một số đơn vị gần như không thực hiện
được, phát huy được vai trò của mình trong việc giám sát thực hiện các bản
thảo ước lao động tập thể này. Tại rất nhiều tổ chức, nhà máy, doanh nghiệp,
việc tổ chức thực hiện, tuân thủ thỏa ước lao động bị các lãnh đạo doanh
nghiệp, người sử dụng lao động vi phạm trắng trợn nhưng Công đoàn cơ sở
hầu như không có được những biện pháp tích cực để giám sát, đảm bảo việc
thi hành thỏa ước, ngăn chặn và bảo vệ quyền lợi cho người lao động, làm cho
các quyền, lợi ích của người lao động dù đã được thỏa thuận công nhận công
khai nhưng bị xâm phạm nghiêm trọng, gây tâm lý hoang mang, mất niềm tin
của các Công đoàn viên, người lao động với tổ chức của mình và doanh
21


nghiệp.
- Trong quá trình hoạt động của mình, rất nhiều Công đoàn cơ sở đã
không thực hiện được hiệu quả vai trò là một bên tham gia đối thoại với đơn
vị sử dụng lao động, là người tư vấn pháp luật, chính sách cho người lao động

để giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của người lao
động, trong hoạt động sản xuất kinh doanh và đặc biệt là trong quá trình xử lý
kỷ luật lao động. Tại nhiều xí nghiệp, doanh nghiệp, mặc dù là một bên có
mặt khi chủ sử dụng lao động xử lý kỷ luật người lao động theo điều 123 Luật
Lao động 2012, tuy nhiên Công đoàn cơ sở tại các doanh nghiệp này lại hầu
như không tiến hành phản đối, bác bỏ bất cứ một quyết định sai trái, quyết
định vi phạm quy đinh pháp luật, việc đơn phương chấp dứt hợp đồng lao
động trái pháp luật nào của các đơn vị sử dụng lao đông và cũng hầu như
không thực hiện bất cứ một biện pháp hỗ trọ, tư vấn pháp luật, chính sách nào
để bảo vệ và trợ giúp người lao động bị xâm hại.
- Khi quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của tập thể lao động hoặc của
người lao động bị đe dọa, xâm phạm Công đoàn cơ sở cũng đã không phát
huy được tốt vai trò của mình trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
người lao động. Nhiều tổ chức Công đoàn cơ sở không thực sự sâu sát với
thực tế sản xuất, công nhân, người lao động đã không nắm bắt ngay được vi
phạm khi sự việc xảy ra, chỉ biết đến và hỗ trợ giải quyết sự vụ khi sự đã rồi,
khi bức xúc của lao động lên đến đỉnh điểm dẫn đến bãi công, đình công bất
hợp pháp hoặc khi có khiếu kiện vượt cấp. Khi biết rõ về các sai phạm, nhiều
Công đoàn cơ sở rất lại lúng túng trong việc xử lý, giải quyết vấn đề, tư vấn
về pháp lý về quyền lợi, nghĩa vụ cho lao động, tư vấn tìm giải pháp xử lý,
tháo gỡ, thực hiện các biện pháp pháp lý, thủ tục khiếu kiện nhằm bảo vệ
người lao động.
- Trong thực tế hiện nay tại các nhà máy, doanh nghiệp, Công đoàn cơ
sở không những không thực hiện được tốt vai trò của mình trong việc là tổ
chức, là người lãnh đạo đình công hợp pháp theo đúng quy định của pháp luật
mà trong nhiều trường hợp, vô tình hoặc cố ý, còn là tác nhân cản trở việc
22


đình công hợp pháp, đòi hỏi quyền lợi chính đáng của lao động. Trên thực tế,

trong nhiều cuộc đình công của công nhân, một trong những tác nhân lớn nhất
khiến các cuộc bãi công này trở thành bất hợp pháp được xác định chính là
bởi tổ chức Công đoàn khi tổ chức này không tham gia lãnh đạo hoặc quyết
định đình công của Ban chấp hành Công đoàn không đúng luật định. Tại
nhiều doanh nghiệp, bởi các cán bộ Công đoàn không nắm vững quy trình thủ
tục pháp lý, nôn nóng muốn tạo điều kiện cho người lao động đòi hỏi quyền
lợi chính đáng hoặc có những doanh nghiệp Cán bộ Công đoàn không thực sự
sâu sát với thực tế sản xuất, với công nhân, nhân viên nên không biết được
tâm tư, nguyện vọng, thái độ của người lao động, không nắm rõ được thời
điểm xảy ra đình công nên đã không ra quyết định thực hiện đình công hoặc
ra những quyết định đình công không kịp thời, hợp lý, không phù hợp với luật
định, khiến cho cuộc đình công bị trở thành bất hợp pháp, làm ảnh hưởng xấu
đến quyền lợi của người lao động. Ngoại ra, tại một số doanh nghiệp, vì chủ
sử dụng lao động và cán bộ Công đoàn đã bắt tay, tán đồng, thỏa thuận với
mong muốn dừng cuộc đình công, duy trì và ổn định sản xuất, môi trường
kinh doanh, hoãn đình công để thương lượng với tập thể người lao động nên
đã không ra quyết định đình công khiến cho cuộc đình công bị trở thành bất
hợp pháp.
- Mặc dù vai trò của Công đoàn cơ sở trong lĩnh vực chính trị tại doanh
nghiệp đã được thực hiện rất tốt, tuy nhiên phần lớn vai trò này của Công
đoàn cơ sở chỉ thể hiện tốt ở các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có
vốn sở hữu nước, còn tại các doanh nghiệp tư nhân và các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, vai trò này của Công đoàn cơ sở gần như không được
thực hiện hiệu quả. Có những Công đoàn tại doanh nghiệp này trong suốt một
năm không hề tổ chức được một báo cáo, trao đổi, liên hệ cụ thể nào với các
cấp Đảng ủy, các cấp quản lý về doanh nghiệp và tình hình người lao động,
không tổ chức được bất kỳ một lớp hay phong trào nào nhằm bồi dưỡng, phổ
biến chủ trương, chính sách, cảm tình đảng, không kết nạp Đảng viên nào,
dẫn đên việc gây khó khăn cho hoạt động cũng như công tác nắm bắt quần
23



chúng, ra quyết định quản lý của các Đảng và cơ quan quản lý nhà nước.
2.2. Nguyên nhân của sự hạn chế, yếu kém trong việc thực hiện vai
trò của các Công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp hiện nay
Những nguyên nhân dẫn đến sự bất cập, hạn chế, yếu kém trong việc
thực hiện vai trò của các Công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp hiện nay cụ
thể là:
- Một trong những nguyên nhân hàng đầu khiến cho Công đoàn cơ sở ở
một số doanh nghiệp, đặc biệt là các đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân,
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc các doanh nghiệp đã thoái vốn
nhà nước gặp rất nhiều khó khăn trong việc thực hiện các vai trò, chức năng
của mình chính là bởi sự bất cập trong việc vấn đề tài chính, ngân sách của
Công đoàn cơ sở. Chi phí đầu tư, ngân sách cho hoạt động của Công đoàn cơ
sở vốn đã rất thấp, phụ thuộc và được xây dựng chủ yếu từ các khoản đóng
Công đoàn phí eo hẹp của đoàn viên, từ sự đóng góp, thường rất dè dặt, của
các chủ doanh nghiệp và trong một số trường hợp của một số công ty, xí
nghiệp, từ sự hỗ trợ, bổ sung thêm, thường cũng rất nhỏ, của Nhà nước hoặc
từ các cấp Công đoàn cấp trên, đã vậy lại thường không được cung ứng, bổ
sung không kịp thời và bị chi sai mục đích cho nhiều việc không phù hợp dẫn
đến tình trạng nhiều Công đoàn luôn trong tình trạng thiếu hụt lớn về tài
chính, thiếu tiền để duy trì sự tồn tại, duy trì các hoạt động cơ bản và thực
hiện các vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình, nghiêm trọng hơn tình trạng
này đã khiến cho nhiều Công đoàn đã phải ngừng hoạt động hoặc “sống lay
lắt”, chỉ còn những thực hiện được những hoạt động mang ý nghĩa hành
chính, hình thức, đối phó và không thực hiện bất cứ vai trò nào.
+) Trong thực tế hiện nay, tại rất nhiều doanh nghiệp, các chủ doanh
nghiệp thường không thực hiện nghiêm chỉnh, trốn đóng hoặc cung ứng rất
chậm trễ, nhỏ giọt, không đầy đủ trong việc đóng nộp 2% quỹ tiền lương làm
căn cứ đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động cho ngân sách Công đoàn cơ

sở theo quy định của mục 2 điều 26 Luật Công đoàn 2012, đã vậy nhiều chủ
sử dụng lao động, lãnh đạo doanh nghiệp lại tìm cách chi phối, kiểm soát việc
24


chi tiêu của các Công đoàn cơ sở như yêu cầu chỉ được chi vào ngày lễ, tết
nhất định, chỉ được chi để tổ chức các hoạt động nhất định, chỉ được chi cho
những đối tượng nhất định hoặc yêu cầu, bắt ép Công đoàn cơ sở thực hiện
các khoản chi không đúng với vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Công đoàn
như chi phí quà tặng dịp lễ tết, tham quan du lịch, văn hoá thể thao, vui chơi
bốc thăm trúng thưởng, may đồng phục nhân viên và nhiều chi phí oái oăm
khác, gây khó khăn lớn cho việc sử dụng kinh phí và chi tiêu phục vụ công
việc, vai trò, nhiệm vụ Công đoàn.
+) Công tác thu Công đoàn phí từ các đoàn viên cũng gặp nhiều khó
khăn. Hiện nay, rất nhiều Công đoàn cơ sở không thể thực hiện được việc thu
đúng, thu đủ đoàn phí Công đoàn, bởi nếu thu đoàn phí thấp quá thì sẽ không
đủ kinh phí, còn nếu thu cao quá sẽ không thu hút được đoàn viên tham gia,
gia nhập Công đoàn, ngoài ra nhiều đoàn viên Công đoàn trong một số tổ
chức cũng không còn mặn mà, hứng thú nữa với Công đoàn, dẫn đến tình
trạng chậm hoặc không đóng phí Công đoàn.
+) Ta có thể thấy rõ điều này qua ví dụ về Văn phòng Công ty mẹ Tổng
Công Ty Công Nghiệp Ôtô Việt Nam Vinamotor. Sau khi thoái vốn Nhà nước,
tiến hành tư nhân hóa vào năm 2015, ngoài các khoản thu nhận được từ việc
đóng Công đoàn phí của Công đoàn viên (vẫn còn nợ đọng Công đoàn
16,3%) và sự đóng góp 2% quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội
cho người lao động của lãnh đạo Tổng công ty, doanh nghiệp (vẫn còn nợ
đọng Công đoàn 29,5%) để hình thành nên quỹ, kinh phí hoạt động cho Công
đoàn cơ sở theo quy định tại của Luật Công đoàn 2012, các chi phí hỗ trợ, bổ
sung khác cho công tác, hoạt động của Công đoàn Tổng Công ty trong năm
2016 từ lãnh đạo doanh nghiệp đã bị cắt giảm 48,69 % so với năm 2016, số

cán bộ Công đoàn rời khỏi doanh nghiệp lên đến 52,95 % tổng số cán bộ, các
hoạt động, hoạt động thường niên, phong trào của Công đoàn cũng bị cắt
giảm khoảng một nửa, làm giảm sút rất lớn vai trò của Công đoàn cơ sở tại
doanh nghiệp này. [Dẫn theo 1;Tr.26]
- Một trong những nguyên nhân khác dẫn đến tình trạng thực hiện kém
25


×