Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội LHPN huyện Lý Nhân tỉnh Hà Nam , giai đoạn 20152020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.03 KB, 56 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

ĐỖ THỊ THU HÒA

NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA
HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ HUYỆN LÝ NHÂN
TỈNH HÀ NAM, GIAI ĐOẠN 2015-2020

ĐỀ ÁN TỐT NGHIỆP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


HÀ NỘI, THÁNG 6 NĂM 2015
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

ĐỀ ÁN
NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA
HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ HUYỆN LÝ NHÂN
TỈNH HÀ NAM, GIAI ĐOẠN 2015-2020

Người thực hiện: Đỗ Thị Thu Hòa
Lớp: B10-14
Chức vụ: Phó chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ
Đơn vị công tác: Huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam
Người hướng dẫn: PGS-TS Bùi Thị Thu Hà

HÀ NỘI, THÁNG 6 NĂM 2015


MỤC LỤC


A. MỞ ĐẦU .........................................................................................
1. Lý do xây dựng đề án ......................................................................
2. Mục tiêu của đề án..........................................................................
2. 1. Mục tiêu chung..........................................................................
2. 2. Mục tiêu cụ thể............................................................................
3. Giới hạn của đề án............................................................................
B. NỘI DUNG CỦA ĐỀ ÁN ...............................................................
1. Cơ sở xây dựng đề án ......................................................................
1.1.Cơ sở khoa học .............................................................................
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý ................................................................
1.3. Cơ sở thực tiễn .............................................................................
2. Nội dung thực hiện của đề án .........................................................
2.1. Bối cảnh thực hiện đề án ..............................................................
2.2. Thực trạng vấn đề cần giải quyết trong đề án
2.3. Nội dung cụ thể cần xây dựng..................................................
2.4. Các giải pháp thực hiện đề án..................................................
3. Tổ chức thực hiện đề án ..............................................................
3.1. Phân công trách nhiệm thực hiện đề án ....................................
3.2. Tiến độ thực hiện đề án ............................................................
3.3. Kinh phí thực hiện đề án ...........................................................
4. Dự kiến hiệu quả của đề án ...........................................................
4.1. Ý nghĩa thực tiễn của đề án ......................................................
4.2. Đối tượng hưởng lợi của đề án .................................................
4.3. Những thuận lợi/khó khăn và tính khả thi của đề án ..................
C. KIẾN NGHỊ, KẾT LUẬN ........................................................
1. Kiến nghị .....................................................................................
2. Kết luận .......................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................................

Trang

1
1
3
3
4
4
5
5
5
9
12
16
16
19
29
31
37
37
38
39
40
40
41
41
43
43
44
46




LỜI CẢM ƠN
Thật vinh dự cho cá nhân em khi được tham gia học tập tại trường Học
viện Chính trị khu vực I. Thời gian học tập tuy ngắn nhưng em đã được các
thầy, cô giáo truyền đạt những kiến thức bổ ích thuộc nhiều lĩnh vực, giúp em
vững bước trên con đường hoạt động thực tiễn sau này, phục vụ địa phương,
đất nước.
Em xin trân trọng bày tỏ sự kính trọng và lòng biết ơn tới các thầy, cô
giáo, đặc biệt là Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Thị Thu Hà - khoa Lịch sử Đảng,
Học viện Chính trị khu vực I, đã nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt
quá trình học tập tại học viện cũng như quá trình thực hiện, hoàn thiện đề án
tốt nghiệp về nội dung "Nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội LHPN
huyện Lý Nhân tỉnh Hà Nam , giai đoạn 2015-2020".
Mặc dù bản thân đã rất cố gắng, nhưng do thời gian ngắn và năng lực
có hạn, chắc chắn đề án còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý
kiến đóng góp quý báu của các thầy, cô để hoàn chỉnh hơn nữa những nghiên
cứu của mình và hy vọng đề án sẽ được ứng dụng vào thực tiễn, góp phần xây
dựng phong trào phụ nữ của huyện ngày một phát triển vững mạnh hơn trên
con đường đổi mới đất nước.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 26 tháng 5 năm 2015
Học viên

Đỗ Thị Thu Hòa


NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ ÁN
LHPN: Liên hiệp phụ nữ
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
TƯ: Trung ương

NQ: Nghị quyết
CNH: Công nghiệp hóa
HĐH: Hiện đại hóa
HĐND: Hội đồng nhân dân
UBND: Ủy ban nhân dân
CLB: Câu lạc bộ
TNXH: Tệ nạn xã hội


1

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do xây dựng đề án
Lý luận và thực tiễn khẳng định rằng, trong xã hội loài người, phụ
nữ là người mẹ, người thầy đầu tiên của con người, là một trong những
nguồn lực chính để phát triển xã hội và đã có những đóng góp lớn vào sự
phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Lịch sử nhân loại đã trải qua biết bao
thăng trầm, song hình ảnh người phụ nữ luôn là biểu tượng cao đẹp của con
người ở mỗi thời đại. Vì thế, vấn đề phụ nữ không phải là vấn đề riêng biệt
của từng quốc gia, không bị hạn hẹp trong phạm vi giới tính như trước đây, mà
trở thành vấn đề chung của toàn nhân loại.
Đối với Việt Nam, trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, phụ
nữ luôn đóng một vai trò trọng yếu. Vốn sinh ra trong một đất nước với nền
văn minh nông nghiệp dựa trên nền tảng nghề trồng lúa nước, phụ nữ Việt
Nam trở thành lực lượng lao động chính. Với truyền thống yêu nước, cần cù
lao động và sáng tạo, phụ nữ Việt Nam là lực lượng quần chúng hùng hậu của
cách mạng. Phụ nữ Việt Nam luôn có khát vọng tự do, hòa bình, tin tưởng
tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và đồng hành cùng sự phát triển, đi lên
của dân tộc.
Trong công cuộc đổi mới của đất nước, phụ nữ Việt Nam đóng vai trò

quan trọng tạo nên sự thành công trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá xã
hội... Tuy nhiên, trước yêu cầu tình hình mới ở trong nước và thế giới, người
phụ nữ cần phải đổi mới tư duy nhận thức, nâng cao trình độ mọi mặt để làm
tròn trách nhiệm, vai trò của người phụ nữ và nâng cao vị thế của mình trong
gia đình cũng như ngoài xã hội. Trong những năm qua, những thành tựu về
phát triển kinh tế xã hội của đất nước đã giúp cho đại bộ phận các gia đình Việt
Nam nâng cao mức sống, cải thiện đời sống gia đình; nhiều gia đình đã thoát


2

khỏi đói nghèo, một bộ phận gia đình có mức sống khá giả; phụ nữ đã dần
được bình đẳng với chồng con trong gia đình, với nam giới ngoài xã hội. Tuy
nhiên, nhiều vấn đề xã hội bức xúc như: vấn đề khám chữa bệnh và học hành
của con cái, tệ nạn xã hội gia tăng đang là mối lo của nhiều gia đình. Việc bảo
vệ gia đình khỏi các tệ nạn xã hội, nuôi dạy con cái nên người, tạo dựng cuộc
sống gia đình no ấm bình đẳng tiến bộ hạnh phúc đòi hỏi người phụ nữ với vai
trò người mẹ, người vợ không chỉ bằng tình thương trách nhiệm, sự nhân hậu
hy sinh mà phải cả ở tri thức, sự hiểu biết và gương mẫu.
Trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, với
nhiều thuận lợi và cũng nhiều khó khăn, thách thức đặt ra những yêu cầu mới
trong việc khai thác các nguồn lực, trong đó nguồn lực con người là rất quan
trọng. Lực lượng phụ nữ là một trong những nguồn lực to lớn, muốn khai thác
được nguồn lực đó đòi hỏi phải phát huy vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ –
tổ chức đại diện cho lợi ích hợp pháp của phụ nữ và là trung tâm tập hợp đoàn
kết các tầng lớp phụ nữ trong cả nước.
Những năm qua, Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam
luôn tích cực đổi mới cách nghĩ, cách làm, cải tiến nội dung, phương thức
hoạt động. Phong trào phụ nữ huyện Lý Nhân đã có những bước tiến đáng kể,
đáp ứng được yêu cầu và nguyện vọng của các tầng lớp phụ nữ trong toàn

huyện.Tuy nhiên, trước những tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường và
những ảnh hưởng tiêu cực của thời kì mở cửa, hội nhập kinh tế khu vực và thế
giới, việc gìn giữ, phát huy những phẩm chất, đạo đức tốt đẹp của phụ nữ Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay còn một số tồn tại như: Một số giá trị tốt đẹp về
phẩm chất, đạo đức của phụ nữ Việt Nam có phần bị mai một. Quan niệm về
các giá trị đạo đức truyền thống đang dần bị phai mờ trong nhận thức và lối
sống của một bộ phận phụ nữ. Nhận thức của một bộ phận người dân, phụ nữ
về vai trò, chức năng của gia đình còn hạn chế; trách nhiệm của mỗi cá nhân


3

trong xây dựng gia đình hạnh phúc có xu hướng bị xem nhẹ; lối sống thiếu
văn hoá, vi phạm các chuẩn mực đạo đức xã hội, đạo đức gia đình đang là vấn
đề đáng lo ngại. Một bộ phận phụ nữ còn hạn chế về mặt nhận thức, quen
sống thụ động, tự ty, an phận, chấp nhận những đối xử bất bình đẳng, chưa
biết tự bảo vệ quyền lợi của mình dẫn đến tình trạng bạo lực gia đình, ảnh
hưởng đến sức khoẻ, tâm lý. Hoạt động của các cấp hội cũng còn nhiều hạn
chế; tỷ lệ thu hút quần chúng phụ nữ tham gia sinh hoạt ở các cấp hội phụ nữ
cơ sở còn thấp. Hiệu quả hoạt động của Hội phụ nữ không những là yêu cầu
cấp bách của Hội Liên hiệp Phụ nữ nói chung mà còn là đòi hỏi cấp bách đối
với các cấp Hội, trong đó có Hội LHPN huyện Lý Nhân tỉnh Hà Nam.
Trước thực tế đó, là một cán bộ Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện, tôi thấy
trách nhiệm của mình cần phải tích cực tham mưu cho Hội Liên hiệp Phụ nữ
huyện trong việc chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ công tác Hội và đề xuất các giải
pháp để góp phần đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tập hợp phụ nữ,
tổ chức, tuyên truyền, giáo dục, vận động, hướng dẫn tạo điều kiện cho cán bộ
Hội viên phụ nữ nâng cao kiến thức, năng lực trình độ về mọi mặt nhằm đổi
mới tổ chức Hội, nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội phụ nữ đáp ứng yêu
cầu trong tình hình mới hiện nay. Chính vì lý do đó tôi xây dựng đề án:

“Nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Lý Nhân
tỉnh Hà Nam, giai đoạn 2015 - 2020” làm đề án tốt nghiệp chương trình Cao
cấp lý luận Chính trị của mình.
2. Mục tiêu của đề án
2.1. Mục tiêu chung
Đề án được triển khai thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của
Hội LHPN huyện Lý Nhân để thu hút được nhiều sự quan tâm, tham gia của
chị em phụ nữ đối với các phong trào hoạt động của Hội, làm cho tổ chức hội
và phong trào hoạt động của Hội LHPN huyện ngày càng vững mạnh. Tăng


4

cường khối đại đoàn kết toàn dân, tạo sức mạnh tổng hợp nhằm phát triển
kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng, xây dựng nông thôn mới, xây dựng Đảng,
chính quyền và hệ thống chính trị vững mạnh trên địa bàn toàn huyện.
2.2. Mục tiêu cụ thể
(1) Từ năm 2016 có 90% cán bộ, hội viên phụ nữ trở lên được tham gia
các hoạt động tuyên truyền giáo dục, bồi dưỡng kiến thức do Hội tổ chức.
(2) Tích cực khai thác các nguồn lực: Tăng nguồn vốn vay hàng năm từ
10- 15 %; 100% cơ sở hội phối hợp tổ chức dạy nghề, giới thiệu việc làm cho
phụ nữ. Đến năm 2018 có 700 lao động được dạy nghề. Đến năm 2020 có
100% hộ nghèo do phụ nữ làm chủ hộ được giúp đỡ bằng nhiều hình thức,
trong đó có 80% thoát nghèo.
(3) 85% trở lên các bà mẹ được hướng dẫn kiến thức, kỹ năng về đời sống
gia đình, nuôi dạy con góp phần thực hiện tốt đề án “Giáo dục 5 triệu bà mẹ
nuôi dạy con tốt”.
(4) Từ năm 2018 trở đi có 85% cơ sở hội đạt xuất sắc, 15% cơ sở xếp loại
khá. 85% chi hội đạt xuất sắc, 15% chi hội xếp loại khá, không còn chi hội
trung bình.

(5) 100% cơ sở hội xây dựng được ít nhất một mô hình mới để thu hút hội
viên vào Hội, tỷ lệ thu hút hội viên đạt 82%; 100% cơ sở hội xây dựng phát
triển và nâng cao chất lượng hoạt động của hội viên nòng cốt;
3. Giới hạn của đề án
3.1. Về đối tượng nghiên cứu
Nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội LHPN huyện Lý Nhân tỉnh
Hà Nam
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Hội LHPN huyện Lý Nhân tỉnh Hà Nam.
- Về thời gian: Giai đoạn 2015-2020.


5

B. NỘI DUNG CỦA ĐỀ ÁN
1. Cơ sở xây dựng đề án
1.1. Cơ sở khoa học
1.1.1. Một số khái niệm có liên quan
- Căn cứ Điều lệ Hội LHPN Việt Nam đã được thông qua tại Đại hội
đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XI ngày 14/3/2012. Hội LHPN Việt Nam là
tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị, đại diện cho quyền và lợi
ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ Việt Nam; phấn đấu vì sự
phát triển của phụ nữ và bình đẳng giới.
- “Hoạt động của Hội LHPN Việt Nam”: Là toàn bộ những vấn đề, lĩnh
vực mà Hội LHPN Việt Nam chỉ đạo, tổ chức triển khai để thực hiện tôn chỉ,
mục đích, chức năng nhiệm vụ của Hội. Nội dung hoạt động của Hội Được
quy định rõ trong Điều 2 của Điều lệ Hội LHPN Việt Nam:
Một là, tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, lý tưởng cách mạng,
phẩm chất đạo đức, lối sống; đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước;

Hai là, vận động các tầng lớp phụ nữ chủ động, tích cực thực hiện đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tham gia xây dựng
Đảng, Nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; vận động, hỗ trợ
phụ nữ nâng cao năng lực, trình độ, xây dựng gia đình hạnh phúc; chăm lo cải
thiện đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ;
Ba là, Tham mưu đề xuất, tham gia xây dựng, phản biện xã hội và giám sát
việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước có liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ, gia đình và
trẻ em;
Bốn là, xây dựng, phát triển tổ chức Hội vững mạnh;


6

Năm là, đoàn kết, hợp tác với phụ nữ các nước, các tổ chức, cá nhân tiến bộ
trong khu vực và thế giới vì bình đẳng, phát triển và hòa bình.

- “Hiệu quả”: Có nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả, theo từ điển
Lepetit Lasousse định nghĩa "hiệu quả là kết quả đạt được trong việc thực
hiện một nhiệm vụ nhất định".
Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học thì hiệu quả được hiểu là:
"kết quả như yêu cầu của việc làm mang lại"
Trên cơ sở khái niệm về hiệu quả, hoạt động của hội LHPN và dựa trên
tôn chỉ, mục đích, chức năng, nhiệm vụ của Hội: “Nâng cao hiệu quả hoạt
động của Hội LHPN là những kết quả mang lại từ những việc làm, cách làm,
trong công tác triển khai chỉ đạo các hoạt động của Hội LHPN để đáp ứng
yêu cầu của sự phát triển và đòi hỏi ngày càng cao của công tác phụ nữ, góp
phần thực hiện mục tiêu bình đẳng giới”.
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vị trí, vai trò của phụ
nữ.

Lịch sử đã khẳng định rằng, phụ nữ là một nửa của nhân loại, là bộ
phận cấu thành quan trọng có ý nghĩa quyết định của lực lượng sản xuất xã
hội, góp phần quan trọng vào sự phát triển lịch sử xã hội. Các nhà kinh điển
của Chủ nghĩa Mác- Lênin đánh giá rất cao vai trò, vị thế của người phụ nữ
trong gia đình cũng như ngoài xã hội. C.Mác đã từng khẳng định: Ai đã biết
lịch sử thì biết rằng muốn sửa sang xã hội mà không có phụ nữ góp sức vào
thì không thể làm nổi và ông cho rằng sự tiến bộ của một quốc gia có thể đo
lường một cách chính xác bằng việc xem xét vị trí phụ nữ của quốc gia đó
trong xã hội. Từ đó giải phóng phụ nữ phải gắn liền với giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp; phải giải phóng người phụ nữ ngay từ trong gia đình.
Trong “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước”,
Ph.Ăngghen đã khẳng định cần giải phóng phụ nữ vào công việc gia đình,


7

phải đưa họ tham gia vào nền sản xuất của xã hội. Xã hội giúp phụ nữ giảm
nhẹ gánh nặng công việc gia đình; công việc gia đình trở thành một bộ phận
của công việc xã hội. Chỉ khi nào phụ nữ không còn phải lựa chọn hoặc tham
gia sản xuất, hoặc làm việc nhà, mà họ đồng thời làm tốt được cả hai việc đó
thì địa vị của họ mới được khẳng định.
Là học trò xuất sắc của Mác và Ăgghen, Lênin đã phát triển quan điểm
giải phóng phụ nữ trong xã hội mới như sau: Thứ nhất, phụ nữ là một lực
lượng quan trọng của cách mạng, cho nên Đảng cách mạng phải biết vận động
đàn bà con gái nấu ăn cũng biết làm cách mạng. Thứ hai, sau khi có chính
quyền, việc đầu tiên giai cấp vô sản phải thủ tiêu pháp luật tư sản vì “Không
thể có, không có và sẽ không bao giờ có “tự do” thực sự chừng nào phụ nữ
còn chưa được giải phóng khỏi đặc quyền mà luật pháp giành riêng cho nam
giới”, tiếp đó là việc ban hành pháp luật mới mà nội dung không còn dấu vết
gì về việc phụ nữ bị đối đãi bất bình đẳng. Thứ ba, không chỉ giải phóng phụ

nữ bằng pháp luật, để phụ nữ được thực sự bình đẳng phải đưa họ tham gia
vào lĩnh vực quản lý nhà nước, xây dựng chế độ mới. Chính vì vậy, khi bàn
về nhiệm vụ của giai cấp vô sản trong xây dựng chế độ mới, Lênin nhắc nhở:
"Chừng nào phụ nữ chưa được quyền tự do tham gia đời sống chính trị nói
chung cho hết thảy mọi người, thì chừng ấy không những thể nói đến chủ
nghĩa xã hội được quyền gánh vác một công việc thường xuyên và chung cho
hết thảy mọi người, thì chừng ấy không những chưa thể nói đến chủ nghĩa xã
hội được mà cũng chưa nói đến chế độ dân chủ toàn vẹn bền vững”. Thứ tư,
không chỉ giải phóng phụ nữ ở ngoài xã hội mà còn phải giải phóng họ ngay
trong gia đình. Chính nơi đây, gánh nặng công việc hàng ngày, hàng giờ đang
đè nặng vai họ, làm họ không có được điều kiệu phát triển như nam giới.
1.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của phụ nữ trong
Cách mạng Việt Nam


8

Hồ Chí Minh, danh nhân văn hoá kiệt xuất, anh hùng giải phóng dân
tộc, suốt đời phấn đấu cho độc lập, tự do của Tổ quốc, hy sinh vì sự nghiệp
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Hồ Chí
Minh là nhà tư tưởng đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có quan điểm, tư
tưởng coi trọng và đặt vị thế, đánh giá tài năng, trí tuệ của người phụ nữ
ngang tầm với nam giới.
Trong công cuộc xây dựng và kiến thiết đất nước, Hồ Chí Minh
đánh giá cao vai trò của lực lượng phụ nữ. Trên cơ sở phân tích khoa học,
Người coi phụ nữ là một lực lượng cách mạng trong cải tạo và xây dựng
cuộc sống mới. Người nhìn thấy ở phụ nữ sự thông minh, bền bỉ hiếm có,
bắt nguồn từ lòng căm thù giặc sâu sắc, lòng nhân hậu, yêu hoà bình, yêu
công bằng và cả sức mạnh giới tính nữa. Luôn tự hào và đánh giá cao vai
trò của phụ nữ, Hồ Chí Minh thật sự vui mừng trước sự phấn đấu vươn lên

và sự tiến bộ của phụ nữ.
Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của lực lượng phụ nữ
trong công cuộc xây dựng Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người chỉ
rõ: “Phụ nữ ta là một lực lượng lớn trong công cuộc xây dựng Tổ quốc,
(1)

xây dựng chủ nghĩa xã hội” . Trong những năm tháng vừa xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa tích cực sản xuất để chi viện cho miền Nam,
Người đã nói với nhân dân miền Bắc: “Bây giờ toàn dân ta ai cũng muốn
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải làm
gì? Nhất định phải tăng gia cho thật nhiều. Muốn sản xuất nhiều thì phải

1()

Hồ Chí Minh(2000), Toàn tập – tập 10, NXB CTQG, Hà Nội., Tr.451


9

có sức lao động, muốn có nhiều sức lao động thì phải giải phóng sức lao
(2)

động cho phụ nữ” .
Sự đóng góp của phụ nữ Việt Nam vào công cuộc kiến thiết nước
nhà được Hồ Chí Minh khái quát: “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ
(3)

ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ” . Đây là
luận điểm có tính khái quát sâu sắc và thấm đượm hình ảnh giới về vai trò
của phụ nữ Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, sự nghiệp cách mạng nói chung, sự
nghiệp giải phóng phụ nữ nói riêng, đòi hỏi phải có phong trào cách mạng
quần chúng rộng rãi, mới có sức lôi cuốn lực lượng phụ nữ tham gia. Chỉ
có phong trào ấy mới thu hút đông đảo phụ nữ vào công cuộc đấu tranh
chung nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người,
làm cho phụ nữ tin vào sức mạnh của mình; đồng thời, rèn luyện ý chí tự
lực, tự cường, vượt qua mọi khó khăn thử thách cũng như nhược điểm của
bản thân để giành chiến thắng. Sự nỗ lực phấn đấu, tự thân vận động, đoàn
kết đã trở thành một sức mạnh không gì ngăn cản nổi, góp phần vào làn
sóng đấu tranh mạnh mẽ của dân tộc, giành độc lập tự do và xây dựng một
xã hội mới tốt đẹp hơn.
Trước khi đi xa, trong Di chúc, Người còn căn dặn: “Trong sự
nghiệp chống Mỹ cứu nước, phụ nữ ta đảm đang đã góp phần xứng đáng
trong chiến đấu và trong sản xuất, Đảng và Chính phủ phải có kế hoạch
thiết thực để bồi dưỡng, cân nhắc và giúp đỡ để ngày càng thêm nhiều phụ
2()

Hội LHPN Việt Nam (2002), Phụ nữ bước vào thế kỷ XXI, Nxb CTQG, Hà Nội,., Tr.104.

3()

Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, Hà Nội, Tr.423.


10

nữ phụ trách mọi công việc, kể cả lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố
gắng vươn lên. Đó là cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thực sự
cho phụ nữ”


(4)

Ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề phụ nữ và bình đẳng giới
đã chiếu rọi con đường vươn lên của phụ nữ Việt Nam. Trong xã hội ngày
nay, phụ nữ có mặt trong mọi hoạt động của đời sống xã hội, ở đâu cũng có
những người phụ nữ xuất sắc, phụ nữ có những đóng góp không nhỏ vào
xây dựng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, vấn đề giải
phóng phụ nữ vẫn chưa được giải quyết một cách toàn diện và sâu sắc. Phụ
nữ vẫn còn phải chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống, vẫn còn tư tưởng
trọng nam khinh nữ, hiện tượng đánh đập và ngược đãi phụ nữ, trẻ em gái,
thậm chí cả tệ nạn buôn bán phụ nữ, lạm dụng tình dục đối với phụ nữ…
Những điều đó cho thấy, tính chất khó khăn, lâu dài của công cuộc giải
phóng phụ nữ, giành quyền bình đẳng thực sự cho phụ nữ mà Hồ Chí Minh
đã sớm chỉ ra. Đồng thời, Người cũng chỉ rõ: “Phụ nữ không thể chỉ trông
chờ vào Đảng, mà chính bản thân tổ chức Hội phải tìm ra phương thức
hoạt động phù hợp để quần chúng tự nguyện tham gia hoạt động công tác
Hội, gắn bó với tổ chức Hội làm cho công tác vận động phụ nữ ngày càng
5

có hiệu quả thiết thực” .
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý
Ngay từ khi thành lập và trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề cao vị trí, vai trò của phụ nữ và phong trào
phụ nữ. Lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng, có một chính Đảng thấu hiểu
4()

Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh (2004), Nxb CTQG, Hà Nội, .

5()


Hồ Chí Minh(1970), Hồ Chủ tịch với vấn đề giải phóng phụ nữ, Nxb Phụ nữ, Hà Nội,. Tr.34.


11

sâu sắc tình hình, đặc điểm của phụ nữ Việt Nam và có những chủ trương
đúng đắn đối với lực lượng phụ nữ. Trong Luận cương chính trị năm 1930,
ba nhiệm vụ cách mạng được Đảng đặt ra là: “Giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và giải phóng phụ nữ”. Đồng thời, Đảng khẳng định: Ba
nhiệm vụ đó phải được tiến hành song song, hỗ trợ cho nhau trong cuộc
đấu tranh chung. Trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, đã viết: “Phải đem
phụ nữ công nông vào công hội, nông hội cho đông lại, cần phải đem họ
(6)

vào cơ quan chỉ huy để tập làm công việc lãnh đạo quần chúng” .
Trong suốt quá trình cách mạng, Ðảng ta luôn quan tâm lãnh đạo công
tác phụ nữ và thực hiện mục tiêu bình đẳng giới. Trong thời kỳ đổi mới, chủ
trương của Ðảng về công tác phụ nữ và bình đẳng giới được thể hiện xuyên
suốt trong Nghị quyết Ðại hội Ðảng, các Nghị quyết và Chỉ thị của Trung
ương Ðảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác vận động phụ nữ, công tác
cán bộ nữ. Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách cụ thể nhằm tạo điều kiện
để phụ nữ phát triển và thúc đẩy bình đẳng giới. Cụ thể:
- Hiến pháp đầu tiên (1946) của nước Việt Nam khẳng định: “Phụ nữ bình
đẳng với nam giới về mọi phương diện”; Đến Hiến pháp năm 2013, Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam đã được công nhận nằm trong hệ thống chính trị của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,“Là cơ sở của chính quyền nhân
dân…”. Một số quyền của phụ nữ Việt Nam đã được khẳng định rất cụ thể
vấn đề bình đẳng nam nữ tiếp tục được khẳng định. Vị trí vai trò của phụ nữ
đã được Nhà nước thể chế hoá thông qua hệ thống luật pháp, cơ chế chính
sách nhằm đảm bảo lợi ích chính đáng của phụ nữ trong tất cả các lĩnh vực.

- Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 04/BCT, ngày 12/7/1993, về: “Đổi mới và
tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới”.
6()

Hội LHPN Việt Nam(2002) Phụ nữ Việt Nam bước vào thế kỷ XXI, Nxb CTQG, Hà Nội,. Tr.101.


12

- Ban chấp hành Trung ương (khoá VII), ngày 16/5/1994 đã ra Chỉ thị
37- CT/TW “Về một số vấn đề công tác cán bộ trong tình hình mới”. Chỉ thị
đã đánh giá thực tiễn 10 năm thi hành Chỉ thị 44-CT/TW của Ban Bí thư
Trung ương Đảng “Về một số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ” đã
xác nhận sự trưởng thành và đóng góp lớn lao của đội ngũ cán bộ nữ.
- Ngày 29 tháng 11 năm 2006 Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ X10 đã
thông qua Luật Bình đẳng giới.
- Ngày 21 tháng 11 năm 2007 Quốc hội ban hành Luật Phòng, chống bạo
lực gia đình.
- Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/T.Ư , ngày 27-4-2007,
về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Một số quan điểm trong Nghị quyết là: “Phát huy vai trò, tiềm năng to lớn
của phụ nữ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, nâng cao địa vị phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới trên mọi lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội là một trong những nhiệm vụ và mục
tiêu quan trọng của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới"
- Ngày 12 tháng 3 năm 2010 Chính phủ đã ban hành 03 Đề án:
+ Đề án "Hỗ trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm giai đoạn 2010- 2015";
Đề án "Tuyên truyền, giáo dục phẩm chất, đạo đức phụ nữ Việt Nam thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giai đoạn 2010 – 2015";
Đề án "Giáo dục 5 triệu bà mẹ nuôi dạy con tốt giai đoạn 2010- 2015"

Nghị định số 56/2012/NĐ-CP ngày 16 tháng 7 năm 2012 của Chính
phủ: Quy định trách nhiệm của Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các cấp trong
việc bảo đảm cho các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tham gia quản lý
nhà nước. Theo Nghị định “Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm tạo
điều kiện thuận lợi cho Hội Liên hiệp Phụ nữ cùng cấp thực hiện các hoạt
động của Hội như hỗ trợ kinh phí, điều kiện và phương tiện làm việc, các


13

hoạt động gây quỹ Hội, tổ chức sản xuất, dịch vụ, hỗ trợ phụ nữ giải quyết
những vẫn đề xã hội liên quan đến sự tiến bộ và bình đẳng của phụ nữ phù
hợp với luật pháp, chính sách của Nhà nước”.
- Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt nam, ngày 06/02/2013 đã ban hành Đề án
“Nâng cao chất lượng hoạt động tổ chức hội cơ sở giai đoạn 2013 – 2017”.
1.3. Cơ sở thực tiễn
1.3.1. Nhiệm vụ hoạt động của Hội LHPN huyện Lý Nhân
Hội LHPN huyện Lý Nhân hoạt động bám sát sự chỉ đạo của Thường
trực Huyện ủy và Hội LHPN tỉnh Hà Nam, triển khai thực hiện các nhiệm vụ
chính trị của địa phương và 6 nhiệm vụ trọng tâm của Hội, cụ thể là:
Một là, tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, lý tưởng cách
mạng, phẩm chất đạo đức, lối sống; đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước;
Hai là, vận động, hỗ trợ phụ nữ tham gia phát triển kinh tế, giảm nghèo
bền vững.
Ba là, vận động hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến
bộ hạnh phúc.
Bốn là, tham mưu đề xuất, tham gia xây dựng, phản biện xã hội và
giám sát việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước có liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ

nữ, gia đình và trẻ em;
Năm là, xây dựng, phát triển tổ chức Hội vững mạnh;
Sáu là, đoàn kết, hợp tác với phụ nữ các nước, các tổ chức, cá nhân tiến
bộ trong khu vực và thế giới vì bình đẳng, phát triển và hòa bình.
1.3.3. Thực tiễn phong trào hoạt động của Hội Liên hiệp phụ nữ
huyện Lý Nhân


14

Thực hiện nghiêm túc sự lãnh đạo, chỉ đạo của Huyện ủy và hội cấp
trên, hội LHPN huyện Lý Nhân đã tuyên truyền, vận động cán bộ, hội viên
tích cực triển khai thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương và 6
nhiệm vụ trọng tâm của Hội, những việc làm, kết quả hoạt động của Hội đã
được Cấp ủy, chính quyền và nhân dân đánh giá cao, vai trò vị thế của Hội
ngày được nâng cao được xã hội và nhân dân ghi nhận.
Bên cạnh những kết quả to lớn đó, hoạt động công tác hội và phong
trào phụ nữ huyện Lý Nhân, đặc biệt là ở cở sở còn nhiều khó khăn hạn chế
chưa được khắc phục.
* Về đội ngũ cán bộ, một bộ phận Ban chấp hành hội phụ nữ cơ sở
thiếu kiến thức, kỹ năng, nhất là đội ngũ cán bộ chi. Năng lực thực tiễn còn
hạn chế. Chính sách đối với cán bộ cơ sở chưa được quan tâm thỏa đáng, chỉ
có chức danh chủ tịch (là cán bộ chuyên trách) là được hưởng lương từ ngân
sách nhà nước, các chức danh từ phó chủ tịch đến cán bộ chi hội không có
nguồn kinh phí đào tạo bồi dưỡng, nguồn chủ yếu phụ thuộc vào nguồn ngân
sách ở địa phương. Nhiều chị do kinh tế khó khăn nên ít có thời gian dành cho
công tác hội. Cán bộ hội cơ sở có vai trò quan trọng trong sự phát triển của
hội, song các cấp Hội lại chưa có chiến lược về đội ngũ cán bộ cơ sở. Mặc dù
những năm gần đây Hội đã có những động thái tích cực nhằm đào tạo bồi
dưỡng, từng bước chuẩn hóa đội ngũ cán bộ Hội cơ sở nhưng vẫn chưa đáp

ứng yêu cầu nhiệm vụ.
* Về hội viên chưa có sự hài hòa, cân đối giữa các độ tuổi trong cơ cấu
hội viên. Hội viên đa số trong độ tuổi 35 – 60, chủ yếu là nông dân. Việc đa
dạng hình thức hoạt động tập hợp, thu hút phụ nữ tham gia sinh hoạt hội,
những đối tượng nữ doanh nhân, nữ tiểu thương, phụ nữ thanh niên, phụ nữ
cao tuổi còn hạn chế. Tỷ lệ sinh hoạt thường xuyên ở một số xã chưa đến
50%. Tỷ lệ hội viên đi làm ăn xa ngày một tăng nên khó cho công tác nắm bắt


15

tư tưởng hội viên. Công tác chăm lo phát triển nhóm hội viên nòng cốt ở một
số xã chưa được quan tâm, đầu tư đúng mức. Công tác tổng kết đánh giá các
mô hình chưa được kịp thời. Việc quản lý hội viên tại một số xã còn chưa cập
nhật thường xuyên, thiếu thống nhất.
Về nội dung và phương thức hoạt động, mặc dù Hội phụ nữ trong toàn
huyện có quan tâm chú trọng đổi mới nội dung phương thức hoạt động song
việc triển khai còn chậm. Việc cán bộ hội chuyên trách hội phụ nữ huyện và
cán bộ dự sinh hoạt tại các chi hội chưa chủ động thường xuyên để nắm bắt
tình hình và hướng dẫn hoạt động. Một số Hội phụ nữ xã chưa xác định được
vấn đề ưu tiên, hoạt động ôm đồm, dàn trải. Sự chủ động trong xây dựng,
thực hiện kế hoạch và có chính kiến, quan điểm riêng đối với những hoạt
động không phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của cơ sở Hội còn yếu. Công
tác thông tin, báo cáo lên Hội cấp trên chưa kịp thời, đôi khi thiếu chính xác
ảnh hưởng đến chất lượng tham mưu, định hướng chỉ đạo phong trào của Hội
cấp trên. Công tác tham mưu của cán bộ hội cơ sở với cấp ủy chưa chủ động,
chưa có sức thuyết phục, do đó việc triển khai thực hiện chức năng đại diện
của tổ chức Hội cơ sở còn mức độ và chưa thực sự thể hiện vai trò của cầu nối
giữa quần chúng phụ nữ với Đảng, Nhà nước
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những khó khăn hạn chế nêu trên, trong

đó bao gồm cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Về chủ
quan, đó là: bản thân cán bộ Hội cơ sở chưa khắc phục khó khăn để học tập
nâng cao trình độ; công tác chỉ đạo, hướng dẫn của Hội cấp trên chưa kịp
thời, phù hợp; công tác tuyên truyền về vị trí vai trò của tổ chức Hội chưa đầy
đủ, tài liệu sinh hoạt còn thiếu, nội dung sinh hoạt chưa phong phú, chưa thu
hút phụ nữ đến với Hội. Về khách quan: nguồn kinh phí hoạt động của Hội
cấp cơ sở hạn chế; chế độ chính sách đối với cán bộ Hội cấp cơ sở đặc biệt là
cán bộ Ban chấp hành và chi hội chưa có, chế độ đãi ngộ không có, nghề


16

nghiệp không nhiều triển vọng nên khó khăn thu hút cán bộ. Cán bộ chủ chốt
của Hội phụ nữ cơ sở thường được luân chuyển công tác hoặc nếu đi học tập
trung từ hai đến ba năm sẽ không đảm nhận công việc, nhiều trường hợp học
xong không được tái cử và đề cử; điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện làm
việc chưa đảm bảo; sự đánh giá của cấp ủy, chính quyền đối với vai trò, hoạt
động của tổ chức chính trị – xã hội ở cơ sở nói chung và Hội phụ nữ nói riêng
còn hạn chế, chưa đúng mức nên đầu tư còn ở mức bình quân, dàn trải dẫn
đến cán bộ Hội cơ sở thiếu nhiệt huyết với phong trào.
2. Nội dung thực hiện của đề án
2.1. Bối cảnh thực hiện đề án
2.1.1. Khái quát về tình hình kinh tế - xã hội huyện Lý Nhân tỉnh
Hà Nam
Lý Nhân là một huyện thuần nông nằm ở phía đông tỉnh Hà Nam có
diện tích tự nhiên gần 168km2 (trong đó diện tích đất sản xuất nông nghiệp
chiếm gần 70% diện tích); dân số trên 190.000 người. Huyện có 22 xã và
01 thị trấn.Toàn huyện có 345 thôn, xóm và 2 tổ dân phố.
Huyện có 2 trục đường giao thông chính là tuyến đường quốc lộ
38B đi qua từ giáp huyện Duy Tiên đến Nam Định với chiều dài gần

40km và đường tỉnh lộ ĐT.491 từ sông Hồng đi Phủ Lý. Là huyện sản
xuất nông nghiệp là chủ yếu với cơ cấu kinh tế: nông - lâm - thủy sản
chiếm tỷ lệ 34,8%, công nghiệp - xây dựng chiếm tỷ lệ 33,6%, thương
mại, dịch vụ chiếm tỷ lệ 31,6%. Hội liên hiệp phụ nữ huyện với 23 cơ sở
Hội, trong đó phụ nữ từ 18 trở lên có mặt tại địa bàn huyện là 45.652 Số hội
viên tham gia sinh hoạt Hội phụ nữ là 35.882 đạt tỷ lệ thu hút là 78,6% được
sinh hoạt tại 364 chi hội phụ nữ trong đó có 345 chi hội nông dân. Là huyện
có phong trào thi đua yêu nước sôi nổi rộng khắp, liên tục là đơn vị dẫn đầu


17

toàn tỉnh. Những đặc điểm trên là điều kiện thúc đẩy phong trào hoạt động
của Hội phụ nữ trên địa bàn toàn huyện.
Trong thời gian qua đất nước ta nói chung tỉnh Hà Nam và huyện Lý
Nhân nói riêng đã và đang đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
trong bối cảnh đó không thể tránh khỏi vấn đề tồn tại, như: Phân tầng xã hội,
đô thị hóa quá tải, công nghiệp hóa quá nhanh và các hệ lụy, các vấn đề xã hội
mới nảy sinh, tình hình biến đổi khí hậu toàn cầu, chênh lệch giàu nghèo,…
Những vấn đề đó các cấp chính quyền không thể đủ sức để giải quyết mà cần
sự vào cuộc và chia sẻ của các tổ chức chính trị xã hội mà trong đó có LHPN
Thêm vào đó, trình độ học vấn của người dân ngày càng được nâng
cao, đời sống kinh tế của nhân dân trên địa bàn huyện ngày càng được cải
thiện là điều kiện để cho mọi người, nhất là phụ nữ nhận thức rõ về vai trò và
ý nghĩa của các hoạt động mà có sự góp sức của phụ nữ.
2.1.2. Khái quát về cơ cấu tổ chức, về đội ngũ cán bộ, hoạt động của
Hội LHPN huyện Lý Nhân
2.1.2.1. Về cơ cấu tổ chức
* Cấp huyện:
Ban Thường vụ Hội LHPN huyện, nhiệm kỳ 2011- 2016 cơ cấu Đại hội

bầu 05 Ủy viên Ban Thường vụ. Trong đó, có 04 Ủy viên Ban thường vụ
thuộc cơ quan chuyên trách huyện hội, 01 đồng chí là phó chủ tịch HĐND.
Ban Chấp hành Hội LHPN huyện cơ cấu Đại hội bầu 33 đồng chí.
Trong đó có 23 chị là chủ tịch Hội phụ nữ xã, thị trấn; 4 chị thuộc cơ quan
chuyên trách huyện hội còn lại là cơ cấu của các ngành.
Toàn huyện có 23 Hội phụ nữ xã, thị trấn; 364 chi hội phụ nữ. Tổng số
hội viên là 35.885, tỷ lệ thu hút 75%.
* Cấp xã, thị trấn (cấp cơ sở):
Hội LHPN huyện có cơ cấu tổ chức Hội phát triển đồng đều ở các địa bàn


18

nông thôn gồm 22 Hội LHPN xã và 01 thị trấn. Mỗi xã, thị trấn bộ máy tổ chức
có Chủ tịch, 01 phó chủ tịch; có 3- 5 Ủy viên Ban Thường vụ, có từ 7- 11 ủy
viên Ban Chấp hành. Trong đó, chỉ có Chủ tịch là cán bộ chuyên trách được
hưởng lương theo công chức xã, thị trấn; còn lại đều tham gia kiêm nhiệm và
hưởng phụ cấp.
2.1.2.2. Về đội ngũ cán bộ hội
Đội ngũ cán bộ Hội từ huyện tới cơ sở nhìn chung đều chấp hành tốt chủ
trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, có tinh thần
trách nhiệm, tâm huyết với phong trào, có uy tín; năng động sáng tạo tích cực
tham mưu với cấp ủy, phối hợp với chính quyền đoàn thể, là lực lượng nòng
cốt trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị địa phương. Tỷ lệ cán bộ Hội
có trình độ chính trị thấp, số lượng cán bộ Hội chưa là đảng viên còn cao, tập
trung ở đội ngũ cán bộ chi Hội và được mô tả chi tiết ở bảng 2.1.
Nếu xét cơ cấu cán bộ hội theo trình độ đào tạo chuyên môn nghiệp vụ
(minh họa cụ thể ở bảng 2.2), tính đến năm 2014 toàn huyện số người có trình
độ đại học, cao đẳng rất ít chỉ tập trung ở Ban chấp hành Hội phụ nữ huyện và
cơ quan chuyên trách, trình độ trung và sơ cấp tập trung ở cán bộ Ban chấp

hành Hội phụ nữ cấp xã/thị trấn nhưng số lượng này cũng không cao; phần
lớn số lượng cán bộ còn lại, đặc biệt là cấp chi hội hầu hết chưa qua đào tạo.
(đội ngũ chi hội trưởng có bằng đại học (2%) là do các chi hội đặc thù như chi
hội nhà trường). Do vậy, cán bộ Hội hoạt động thông qua kinh nghiệm là chủ
yếu. Điều này cản trở tới kết quả hoạt động của phong trào phụ nữ huyện. Đặc
biệt cán bộ chưa qua đào tạo phần nhiều mới tốt nghiệp THCS. Lực lượng này
cần được chú trọng đào tạo để nâng cao nghiệp vụ, riêng bản thân họ cũng
phải tự ý thức học hỏi, trang bị thêm kiến thức, kỹ năng cho chính mình.
Số liệu thống kê của Hội Liên hiệp phụ nữ huyện Lý Nhân năm 2014,
khi xét theo độ tuổi cán bộ (mô tả cụ thể ở bảng 2.3) nhìn chung lực lượng


19

cán bộ Hội tại địa phương ở độ tuổi khá cao, có nhiều kinh nghiệm trong nghề
song phần lớn cán bộ Hội điều hành công việc chưa chuyên nghiệp do hạn
chế về năng lực chuyên môn nghiệp vụ.
2.1.2.3. Về hoạt động công tác Hội Liên hiện phụ nữ huyện Lý Nhân.
Hội Liên hiệp phụ nữ huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam là cơ quan thuộc
các đoàn thể trong khối Đảng, đoàn thể của huyện dưới sự lãnh đạo trực tiếp
của Huyện ủy và Ban thường vụ Hội LHPN tỉnh Hà Nam. Hội Liên hiệp Phụ
nữ huyện Lý Nhân phối hợp với cấp ủy, chính quyền cấp cơ sở để lãnh đạo
chỉ đạo thực hiện hoạt động công tác phụ nữ ở 23 xã, thị trấn trên địa bàn toàn
huyện với nội dung hoạt động cụ thể căn cứ theo chức năng và nhiệm vụ mà
Nghị quyết Đại hội đại biểu phụ nữ lần thứ XI đề ra đó là: Phong trào thi đua
"Phụ nữ tích cực học tập lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc" và
6 hoạt động trọng tâm.
Công tác chỉ đạo của hội LHPN huyện đã chủ động xây dựng kế hoạch
cụ thể, tập trung, có trọng điểm trên cơ sở bám sát nhiệm vụ chính trị của
huyện và định hướng của Hội LHPN tỉnh Hà Nam. Tổ chức nhiều hoạt động

hướng về cơ sở, luôn coi trọng chỉ đạo điểm, quan tâm, giúp đỡ những đơn vị
khó khăn. Tích cực đa dạng hóa, đổi mới nội dung, hình thức hoạt động đi
vào chiều sâu phù hợp với tình hình thực tiễn của từng địa phương được đông
đảo phụ nữ đồng tình hưởng ứng. Hoạt động công tác Hội luôn được hội
LHPN tỉnh và các cấp ủy trong huyện đánh giá, ghi nhận là đơn vị có thành
tích xuất sắc trong nhiều năm. Bên cạnh đó hoạt động công tác Hội còn gặp
nhiều bất cập, nội dung hoạt động chưa đa dạng, đổi mới, kinh phí cho hoạt
động còn gặp nhiều khó khăn cả cấp huyện và cơ sở, vì vậy hiệu quả hoạt
động ở một số nội dung, đơn vị có lúc chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu
đặt ra.


×