Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

hon nhan cua nguoi viet qua tuc ngu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.72 KB, 26 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phong tục tập quán là nét riêng của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng
người. Mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng người đều có những nét phong tục riêng
của mình, không thể lẫn với dân tộc, cộng đồng khác. Có thể nói, phong tục
tập quán chính là nét khu biệt giữa dân tộc, cộng đồng người này với dân
tộc, cộng đồng người khác. Nó làm nên bản sắc riêng của mỗi dân tộc, mỗi
cộng đồng người.
Có thể nói, ngôn ngữ là nơi lưu giữ lại đầy đủ và lâu bền nhất về văn
hóa, phong tục, tập quán của con người. Nếu muốn hiểu sâu về nền văn hóa,
phong tục, tập quán của một dân tộc, chúng ta hãy đi vào “giải mã” trong
ngôn ngữ, đặc biệt là trong kho tàng văn học dân gian của dân tộc đó. Tục
ngữ là một thể loại văn học dân gian rất đặc thù của dân tộc ta. Tục ngữ rất
ngắn gọn, cô đọng, súc tích. Tục ngữ không chỉ là triết học dân gian – nơi
ghi lại những đúc rút kinh nghiệm thực tiễn của nhân dân mà còn là tấm
gương phản ánh đời sống, phong tục, tập quán của nhân dân. Tục ngữ còn là
nơi truyền bá những tri thức, giáo dục lối sống đạo đức cho thế hệ sau.
Người Việt rất chú trọng đến vấn đề gia đình nói chung và hôn nhân
nói riêng. Hôn nhân là một trong những việc hệ trọng của cuộc đời mỗi con
người. Các cụ xưa đã chỉ ra hôn nhân là một trong ba việc quan trọng nhất
của đời người: Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà. Với người Việt, hôn nhân là việc
gắn với cả đời của mỗi con người. Hôn nhân tốt đẹp sẽ đem lại hạnh phúc
bền vững, cuộc sống gia đình hòa thuận, êm ấm và ngược lại.
Với người Việt, gắn liền với hôn nhân là biết bao nhiêu phong tục, lễ
nghi đầy ý nghĩa. Những phong tục tập quán trong hôn nhân của người Việt
được phản ánh trong tục ngữ khá rõ nét.


Chúng tôi chọn đề tài: Hôn nhân của người Việt qua tục ngữ là
nhằm làm sáng tỏ những điều trên.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu


Vấn đề về phong tục tập quán, đặc biệt là phong tục tập quán về hôn
nhân của người Việt đã có nhiều bài viết, nhiều tác giả quan tâm tới. Ở đề tài
này, chúng tôi có sự tiếp thu những gì mà các tác giả đã nghiên cứu.
3. Đối tượng nghiên cứu
Hôn nhân của người Việt
4. Phạm vi nghiên cứu
Trong tục ngữ của người Việt
5. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu về những phong tục, tập quán trong hôn nhân của người
Việt.
- Thấy được những giá trị của những phong tục, tập quán đó.
- Thấy được vai trò là tấm gương phản ánh cuộc sống của tục ngữ.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Tìm hiểu các tài liệu, công trình nghiên cứu có liên quan.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp : Phân tích những đặc trưng trong
phong tục hôn nhân của người Việt trong tục ngữ để qua đó thấy được những
giá trị của chúng.
Phương pháp đối chiếu, so sánh : So sánh phong tục hôn nhân xưa và
nay của người Việt.
7. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung đề tài
gồm có hai chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung
Chương 2: Hôn nhân của người Việt qua tục ngữ


NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Vài nét về phong tục hôn nhân của người Việt

1.1.1. Phong tục và lễ nghi thời phong kiến
1.1.1.1. Quan niệm về hôn nhân của người xưa
Thời phong kiến, theo luân lý "tam cương ngũ thường", con cái khi
nào cũng phải phụ thuộc vào cha mẹ, việc hôn nhân của con cái cha mẹ có
quyền độc đoán và "đặt đâu ngồi đấy". Nếu con cái không bằng lòng với
người vợ (hay chồng) mà cha mẹ chỉ định thì chỉ có cách bỏ nhà ra đi. Chính
sự không cần biết ái tình của con cái, chỉ cốt tìm được nơi "môn đăng hộ
đối" là cha mẹ nhờ "mối lái" điều đình để đính hôn nên đã xảy ra tệ tảo hôn
và tục phúc hôn.
Người xưa quan niệm mục đích hôn nhân cốt duy trì gia thống cho
nên việc hôn nhân là việc chung của gia tộc chứ không phải việc riêng của
con cái. Bởi vậy định vợ gả chồng cho con là quyền quyết định của cha mẹ.
Nghĩa vụ của mỗi người đối với tổ tiên, dòng họ là phải truyền giống về sau
để "vĩnh truyền tông tộc", do đó luân lý cho người "vô hậu" là phạm điều bất
hiếu rất lớn. Việc hôn nhân không những chỉ có nguyên nhân huyết thống
mà còn có nguyên nhân kinh tế. Người vợ không những phải sinh con đẻ cái
nối dõi tông đường mà còn phải làm lụng và coi sóc việc nhà cho gia đình
nhà chồng.
Chế độ "đa thê, đa thiếp" cho phép đàn ông được phép có nhiều vợ mà
không phải vì vợ chính không sinh con hay chỉ sinh con gái. Lấy thiếp (còn
gọi là vợ lẽ, vợ hai, vợ ba, nàng hầu...) không cần tổ chức lễ cưới và vì


người thiếp không phải là một phần tử trọng yếu trong gia đình nên chồng
hay vợ chính muốn đuổi khi nào cũng được.
1.1.1.2. Lễ nghi dân gian
Trước đây (và cả bây giờ) người Việt gọi lễ cưới là là hôn lễ. Theo
giải thích của Đào Duy Anh, chữ "hôn" nguyên nghĩa là chiều hôm, theo lễ
tục xưa người ta làm lễ cưới vào buổi chiều tối.
Dân gian coi cưới xin là một trong ba việc lớn của đời người (sự

nghiệp, làm nhà và cưới vợ) khi nhấn mạnh trong câu : "tậu trâu cưới vợ làm
nhà...”
Ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc, hôn nhân của người Việt xưa có sáu
lễ chính. Để tiến đến lễ cưới, hai gia đình phải thực hiện những lễ chính sau:
Lễ nạp thái: sau khi nghị hôn, nhà trai mang sang nhà gái một cặp
"nhạn" để tỏ ý đã kén chọn ở nơi ấy.
Lễ vấn danh: là lễ do nhà trai sai người làm mối đến hỏi tên tuổi và
ngày sinh tháng đẻ của người con gái
Lễ nạp cát: lễ báo cho nhà gái biết rằng đã xem bói được quẻ tốt, nam
nữ hợp tuổi nhau thì lấy được nhau, nếu tuổi xung khắc thì thôi.
Lễ nạp tệ (hay nạp trưng): là lễ nạp đồ sính lễ cho nhà gái, tang chứng
cho sự hứa hôn chắc chắn.
Lễ thỉnh kỳ: là lễ xin định ngày giờ làm rước dâu tức lễ cưới. Và sau
cùng là lễ thân nghinh (tức lễ rước dâu hay lễ cưới): đúng ngày giờ đã định,
họ nhà trai mang lễ đến để rước dâu về.
1.1.1.3. Lễ cưới dân gian
Khi nhà trai xin cưới và nếu nhà gái thuận thì trả lời cho ông bà mai.
Sự trả lời này còn bao gồm việc thách cưới, nghĩa là nhà gái đòi nhà trai
trong lễ đón dâu phải có những đồ lễ gì, bao nhiêu. Thách cưới, nhà gái


thường đòi với số lượng lớn, yêu cầu thường là trầu rượu, cau, trà, bánh trái,
gạo, heo, đồ trang sức, y phục cho cô dâu và tiền mặt.
Đúng ngày cưới, người ta chọn giờ "hoàng đạo" mới đi, thường là về
chiều, có nơi đi vào chập tối. Dẫn đầu đám rước đàng trai là một cụ già
nhiều tuổi được dân làng kính nể vì tuổi tác, tư cách, địa vị xã hội, đóng vai
chủ hôn.
Ở miền Bắc Việt Nam ngày xưa, tại nhà trai, người ta chờ đợi đám
rước dâu về. Một quả lò than đốt hồng đặt trước ngưỡng cửa để chờ cô dâu
với nghĩa: lửa hồng sẽ đốt hết những tà ma theo ám ảnh cô dâu và sẽ đốt vía

của tất cả những kẻ độc mồm độc miệng đã quở mắng cô dâu ở dọc đường.
Cô dâu vào lễ gia tiên nhà chồng xong, ông bà cũng như bố mẹ chồng
tặng cho cô dâu món quà, thường là tiền hoặc là đồ nữ trang.
Lễ tơ hồng được cử hành rất đơn giản. Bàn thờ thiết lập ngoài trời,
bày lư hương và nến hay đèn, tế vật dùng xôi, gà, trầu, rượu.
Hai ngày sau lễ cưới, vợ chồng đưa nhau về thăm cha mẹ vợ với một
số lễ vật, tùy theo tập tục địa phương bên vợ. Xưa lễ này gọi là "Nhị hỷ".
Nếu nhà chồng ở cách xa quá, không về được trong hai ngày thì có thể để
bốn ngày sau, gọi là "Tứ hỷ".
Theo tục lệ vợ chồng đem lễ chay hoặc lễ mặn về nhà để cúng gia
tiên, để trình bày với gia tiên và cha mẹ, cùng họ hàng việc cưới đã xong
xuôi toàn mãn.
1.1.2. Phong tục và lễ nghi ngày nay
1.1.2.1. Lễ chạm ngõ
Lễ chạm ngõ (còn gọi là lễ xem mặt, lễ dạm ngõ) là một nghi lễ trong
phong tục hôn nhân của người Việt. Lễ này nhằm chính thức hóa quan hệ
hôn nhân của hai gia đình.


Lễ chạm ngõ ngày nay là buổi gặp gỡ giữa hai gia đình. Nhà trai xin
đến nhà gái đặt vấn đề chính thức cho đôi nam nữ được tìm hiểu nhau một
cách kỹ càng hơn trước khi đi đến quyết định hôn nhân. Buổi lễ này, không
cần vai trò hẹn trước của người mối (kể cả những trường hợp yêu nhau nhờ
mai mối), không cần lễ vật rườm rà.
Về bản chất, lễ này chỉ là một ứng xử văn hóa, thông qua đó hai gia
đình biết cụ thể về nhau hơn (về gia cảnh, gia phong), từ đó dẫn tới quyết
định tiếp tục hay không quan hệ hôn nhân của hai gia đình. Lễ vật của lễ
chạm ngõ theo truyền thống rất đơn giản: chỉ có trầu cau.
Xét về mặt chức năng: nếu bỏ qua lễ này mà đi thẳng vào lễ ăn hỏi thì
mọi việc sẽ bị cảm thấy đường đột, ngang tắt, không có khởi đầu. Vì thế, tuy

không phải là một lễ trọng nhưng lại là một lễ không thể thiếu trong tiến
trình hôn lễ. Hơn nữa, lễ này không tốn kém (lễ vật chỉ có trầu cau) mà lại
biểu thị được bản sắc văn hóa dân tộc (văn hoá trầu cau) thì việc bỏ qua lễ
này là điều không hợp lý.
Đối với lễ này, thường người Việt Nam vẫn tiến hành theo khuôn mẫu
cổ truyền:
- Thành phần tham gia: Nhà trai: Bố, mẹ, chú rể, người mối (nếu có),
nhà gái: Cả gia đình nhà gái
- Trang phục: Trai: Comple , gái: áo dài. Mọi người mặc trang phục
lịch sự ăn nói nhẹ nhàng có văn hoá, không nhất thiết mặc comple và áo dài
(vì còn phụ thuộc vào thời tiết nắng mưa và địa hình, khoảng cách nhà gái...)
Lễ vật của nhà trai: Trầu cau và chè. Số lượng phải tính chẵn. (Ví dụ:
2 gói chè, hai chục cau).
Nhà gái: Dọn dẹp nhà cửa sạch, đẹp. Ăn mặc đẹp, trang trọng. Khi
đoàn khách nhà trai đến, đón chào niềm nở. Tiếp khách bằng trà (nếu có trà


thơm là tốt nhất). Khi nhà gái đồng ý nhận lễ vật, mang đặt lên bàn thờ thì
cuộc lễ coi như kết thúc.
1.1.2.2. Lễ ăn hỏi
Lễ ăn hỏi còn được gọi là lễ đính hôn là một nghi thức trong phong
tục hôn nhân truyền thống của người Việt. Đây là sự thông báo chính thức về
việc hứa gả giữa hai họ. Đây là giai đoạn quan trọng trong quan hệ hôn
nhân: cô gái trở thành "vợ sắp cưới" của chàng trai, và chàng trai sau khi
mang lễ vật đến nhà gái là đã chính thức xin được nhận làm rể của nhà gái
và tập gọi bố mẹ xưng con.
Trong lễ ăn hỏi, nhà trai mang lễ vật tới nhà gái. Nhà gái nhận lễ ăn
hỏi tức là chính danh công nhận sự gả con gái cho nhà trai, và kể từ ngày ăn
hỏi, đôi trai gái có thể coi là đôi vợ chồng chưa cưới, chỉ còn chờ ngày cưới
để công bố với hai họ.

- Thành phần tham gia
Nhà trai: Chú rể, bố mẹ, ông bà, gia đình, bạn bè và một số thanh niên
chưa vợ bưng mâm quả (hoặc bê tráp). Thường thì người bê tráp là nữ
nhưng do mâm quả bây giờ khá nặng nên có thể thay thế bằng nam. Số
người bê tráp là số lẻ, 3, 5, 7, 9 hoặc 11.
Nhà gái: Cô dâu, bố mẹ, ông bà, gia đình và một số nữ chưa chồng để
đón lễ ăn hỏi, số nữ đón lễ vật tương ứng với số nam bưng mâm.
- Lễ vật: Trầu, cau; bánh cốm; mứt sen; rượu; chè; thuốc lá; bánh phu
thê (bánh xu xê), bánh đậu xanh, lợn sữa quay, tiền dẫn cưới v.v.
Những gia đình xưa thường dùng bánh cặp nghĩa là gồm hai thứ bánh
tượng trưng cho âm dương. Những cặp bánh thường dùng trong lễ ăn hỏi là
bánh phu thê và bánh cốm - bánh phu thê tượng trưng cho Dương, bánh cốm
tượng trưng cho Âm; hoặc bánh chưng và bánh dày - bánh chưng vuông là
Âm, bánh dày tròn là Dương. Thường thường cùng kèm với bánh chưng và


bánh dày thường có quả khem. Bánh cốm, bánh xu xê, bánh chưng, bánh
dày và quả khem dùng trong lễ ăn hỏi đều được đựng trong hộp giấy màu đỏ
hoặc bọc trong giấy đỏ, màu đỏ chỉ sự vui mừng. Cũng có gia đình thay vì
các thứ bánh trên, dùng xôi gấc và lợn quay.
Đó là những lễ vật tối thiểu theo tục lệ cổ truyền; tất nhiên, chất lượng
và số lượng thêm bớt thì tùy thuộc vào năng lực kinh tế của từng gia đình.
Theo phong tục Hà Nội truyền thống thường có lợn sữa quay, còn theo
phong tục miền Nam có thể có một chiếc nhẫn, một dây chuyền hay bông
hoa tai đính hôn. Tuy nhiên, số lượng lễ vật nhất thiết phải là số chẵn (bội số
của 2, tượng trưng cho có đôi có lứa), nhưng lễ vật đó lại được xếp trong số
lẻ của tráp (số lẻ tượng trưng cho sự phát triển).
Lễ vật dẫn cưới thể hiện lòng biết ơn của nhà trai đối với công ơn
dưỡng dục của cha mẹ cô gái. Nói theo cách xưa là: nhà trai bỗng dưng được
thêm người, còn nhà gái thì ngược lại, "Con gái là con người ta". Mặt khác,

lễ vật cũng biểu thị được sự quý mến, tôn trọng của nhà trai đối với cô dâu
tương lai.
Trong một chừng mực nào đó, đồ dẫn cưới cũng thể hiện thiện ý của
nhà trai: xin đóng góp một phần vật chất để nhà gái giảm bớt chi phí cho hôn
sự. Tuy nhiên, điều này ngày nay càng lúc càng trở nên mờ nhạt xét về vai
trò, vì dễ dẫn đến cảm giác về sự gả bán con, thách cưới.
- Thủ tục
Rước lễ vật: Tất cả các lễ vật phải được sắp xếp gọn gàng và thẩm
mỹ. Và nhất thiết phải được bày vào quả sơn son thếp vàng (hay mâm đồng
đánh bóng, phủ vải đỏ). Có như thế mới nhấn mạnh được tính biểu trưng của
lễ vật. Xưa, người đội lễ phải khăn áo chỉnh tề, thắt dây lưng đỏ. Nay, các cô
gái đội lễ đã có áo dài đỏ thay thế nên không cần phải dùng thắt lưng đỏ nữa.
Dù dùng phương tiện đi lại là: ô tô, xích lô, xe máy, hay đi bộ thì đoàn ăn


hỏi cũng nên dừng lại cách nhà gái khoảng l00 m, sắp xếp đội hình, rồi mới
đội lễ vào nhà gái. Đây thực sự là một hình thái văn hóa dân tộc.
Tiếp khách: Vì đây là một lễ trọng nên nhà gái phải chuẩn bị chu đáo
hơn lễ chạm mặt. Tuy nhiên, do nội dung chủ yếu của lễ này là sự bàn bạc cụ
thể, chính thức của hai gia đình về việc chuẩn bị lễ cưới, nên nhà gái không
bày tiệc mặn mà chỉ bày tiệc trà. Ngày nay hầu hết các gia đình gái đều
chuẩn bị tiệc mặn để thết đãi gia đình trai mong tạo hòa khí gắn bó và hàn
huyên. Nghi thức trao nhận lễ vật cũng nên trở thành nghi thức bắt buộc.
Cô dâu: Phải ngồi trong phòng cho đến khi nào chú rể vào đón hoặc
cha mẹ gọi mới được ra. Ra mắt tổ tiên bằng cách thắp hương lên bàn thờ.
Sau đó cô dâu sẽ cầm ấm trà đi từng bàn để rót nước mời khách.
Nhà gái: Nhà gái nhận lễ rồi đặt một phần lên bàn thờ gia tiên. Khi lễ
ăn hỏi xong, bánh trái, cau, chè được nhà gái "lại quả" (chuyển lại) cho nhà
trai một ít, còn nhà gái dùng để chia cho họ hàng và người thân.
Biếu trầu: Đại diện nhà gái chuẩn bị đón tiếp nhà trai trong lễ ăn hỏi,

các cô gái nhận tráp lễ vật mặc áo dài màu đỏ
Xưa, sau lễ ăn hỏi, nhà gái dùng các lễ vật nhà trai đã đưa để chia ra
từng gói nhỏ để làm quà biếu cho họ hàng, bè bạn, xóm giềng,... Ý nghĩa của
tục này là sự loan báo: Cô gái đã có nơi có chỗ.
Trong việc chia bánh trái, cau, chè cau phải chia theo số chẵn, nhưng
kiêng chia hai quả, nghĩa là mỗi nơi từ bốn quả cau, bốn lá trầu trở lên. Con
số chẵn là số dương, số lẻ là số âm dùng trong việc cúng lễ.
Theo lối mới bây giờ, cũng chia bánh trái, thường có kèm theo những
tấm thiếp của đôi bên hai họ báo tin đính hôn của đôi trẻ. Nếu ngày nghênh
hôn không xa ngày hỏi, trong thiếp sẽ ghi rõ lễ cử hành vào ngày nào. Trong
trường hợp này có khi cùng với thiếp "báo hỷ" lại có thiếp mời tiệc cưới.


- Trang phục: Trang phục cho cô dâu: một bộ áo dài, vừa có thể mặc
trong lễ cưới, vừa có thể mặc ở những dịp lễ hội sau này. Có thể sắm cho cô
dâu tương lai những đồ trang sức sau: xuyến, vòng, hoa tai. Chú rể mặc
comple, cà vạt.
- Chia lễ: Nhà gái thường nhờ các cô gái trong họ hoặc bạn bè chia
giúp. Khi nhà trai dẫn lễ ăn hỏi tới nhà gái, nhà gái thường làm cơm thết đãi.
Sau lễ ăn hỏi đôi bên kể là giao kết gắn bó với nhau rồi. Tuy vậy ngày xưa
các cặp vị hôn phu và hôn thê cũng không được phép gặp nhau, trừ trường
hợp đặc biệt lắm đôi bên cha mẹ mới cho phép. Phong tục ngày nay đổi
khác, sau lễ ăn hỏi đôi trai gái thường gặp nhau luôn. Từ lễ ăn hỏi đến lễ
cưới, xưa kia có khi hàng bốn năm năm, nhưng ngày nay thời gian đó
thường được rút ngắn, có khi chỉ vài ba ngày.
Chính ngày xưa, các cụ vẫn khuyên các chàng trai đã hỏi vợ thì cưới
ngay để tránh sự bất trắc của thời gian. Ca dao có câu: Cưới vợ thì cưới liền
tay / Chớ để lâu ngày lắm kẻ gièm pha.
Lễ ăn hỏi xong đôi bên trai gái chờ lễ cưới là xong nhưng theo tục
xưa, có nhiều nhà gái đã nhận ăn lễ hỏi của nhà trai cũng không cho cử hành

lễ nghênh hôn sớm, có khi vì cô gái còn quá nhỏ tuổi, có khi vì cha mẹ
thương con vì không muốn con sớm phải về nhà chồng.
1.1.2.3. Lễ cưới
Lễ nạp tài: Là ngày nhà trai đem sính lễ sang nhà gái. Đồ sính lễ gồm
trầu cau, gạo nếp, thịt lợn, quần áo và đồ trang sức cho cô dâu. Ý nghĩa của
lễ nạp tài là nhà trai góp với nhà gái chi phí cỗ bàn, cho nhà gái và cô dâu
biết mọi thứ đã chuẩn bị sẵn. Với đồ nữ trang cho cô dâu làm vốn, cô có thể
yên tâm xây dựng tổ ấm mới, chứ không đến nỗi sẽ gặp cảnh thiếu thốn.
Lễ xin dâu: Trước giờ đón dâu nhà trai cử người đem trầu, rượu đến
xin dâu, báo đoàn đón dâu sẽ đến. Tục chăng dây: ở một số đám cưới, nhà


gái bố trí vài em nhỏ bụ bẫm, xinh xắn, mặc áo đỏ chăng dây trước của nhà
gái. Khi nhà trai đến, một trong các em nhỏ chạy về báo cho nhà gái biết.
Nhà trai chuẩn bị một ít kẹo để phân phát cho lũ trẻ chăng dây này, khi đã
nhận được kẹo bọn chúng sẽ rút dây để đoàn nhà trai đi vào nhà gái.
Lễ rước dâu: Đoàn rước dâu của nhà trai đi thành một đoàn, có cụ già
cầm hương đi trước, cùng với người mang lễ vật. Nhà gái cho mời cụ già
thắp hương vái trước bàn thờ rồi cùng ra đón đoàn nhà trai vào. Cô dâu cùng
với chú rể lạy trước bàn thờ, trình với tổ tiên. Sau đó hai người cùng bưng
trầu ra mời họ hàng. Bố mẹ cô dâu tặng quà cho con gái mình. Có gia đình
cũng lúc này bày cỗ bàn cho cả họ nhà gái chung vui. Khách nhà trai cũng
được mời vào cỗ. Sau đó là cả đoàn rời nhà gái, để đưa dâu về nhà chồng.
Họ nhà gái chọn sẵn người đi theo cô gái, gọi là các cô phù dâu.
Rước dâu vào nhà: đoàn đưa dâu về đến ngõ. Lúc này, bà mẹ chồng
cầm bình vôi, tránh mặt đi một lúc, để cô dâu bước vào nhà. Hiện tượng này
được giải thích theo nhiều cách. Thường người ta cho rằng việc làm này có ý
nghĩa khắc phục những chuyện cay nghiệt giữa mẹ chồng và nàng dâu sau
này.
Lễ tơ hồng: khi hai họ ra về, một số người trừ người thân tín ở lại

chứng kiến cô dâu chú rể làm lễ cúng tơ hồng. Người ta cho rằng vợ chồng
lấy được nhau là do ông Tơ bà Nguyệt trên trời xe duyên cho. Cúng tơ hồng
là để tạ ơn hai ông bà này. Lễ cúng đơn giản, ông cụ già cầm hương lúc đón
dâu, hoặc ông cụ già cả nhất của họ hàng làm chủ lễ. Hai vợ chồng lạy lễ tơ
hồng rồi vái nhau.
Trải giường chiếu: bà mẹ chồng, hoặc một bà cao tuổi khác, đông con
nhiều cháu, phúc hậu, hiền từ, cô dâu chú rể vào phòng tân hôn, bà sẽ trải sẽ
trải đôi chiếu lên giường ngay ngắn, xếp gối màn cẩn thận...


Lễ hợp cẩn: đây là buổi lễ kết thúc đám cưới tại nhà trai. Trước
giường có bàn bày trầu rượu và một đĩa bánh phu thê. Ông cụ già đứng lên
rót rượu vào chén rồi mời đôi vợ chồng cùng uống.
Tiệc cưới: dù đám cưới lớn hay nhỏ, cũng phải có tiệc cưới. Đặc biệt
là ở nông thôn, tính cộng đồng xóm giềng, làng xã, họ hàng đang còn mạnh
thì tiệc cưới là một dịp tốt để củng cố tính cộng đồng ấy. Ở thành phố, người
ta thường tổ chức tiệc cưới ngay sau lễ thành hôn, cho nên nhiều khi cái
"tục" của sự ăn lấn át mất cái "thiêng" của lễ cưới. Người ta đến ăn, ngồi
cùng bàn ăn là những người không quen biết, ăn sao cho đúng giờ. Tiệc cưới
có thể tổ chức nhà gái (trước hôm cưới) và nhà trai (trong ngày cưới); nhưng
cũng có thể hai nhà tổ chức chung thành một tiệc.
Lễ cheo: một số vùng của Việt Nam còn có lễ cheo. Lễ cheo có thể
tiến hành trước nhiều ngày, hoặc sau lễ cưới một ngày. Lễ cheo là nhà trai
phải có lễ vật hoặc kinh phí đem đến cho làng hay cho xóm có con gái đi lấy
chồng. Lễ cưới là để họ hàng công nhận, lễ cheo là để xóm làng tiếp thu
thêm thành viên mới, tế bào mới của làng.
Lễ lại mặt: (còn gọi là nhị hỷ hoặc tứ hỷ), sau lễ cưới (2 hoặc 4 ngày),
hai vợ chồng trẻ sẽ trở về nhà cha mẹ vợ mang theo lễ vật để tạ gia tiên. Lễ
vật cũng có trầu, xôi, lợn. Bố mẹ vợ làm cơm để mời chàng rể và con gái
mình. Ở một số trường hợp nếu xảy ra chuyện gì mà nhà trai không bằng

lòng sau đêm hợp cẩn, thì lễ nhị hỉ lại có những chuyện không hay, nhưng
trường hợp này rất hiếm.
1.2. Vài nét về tục ngữ
Theo T.S. Lê Đức Luận: Tục ngữ là một thể loại Văn học dân gian
ngắn gọn, súc tích, giàu vần điệu, hình ảnh nhằm đúc rút kinh nghiệm,
truyền bá tri thức, giáo dục lối sống đạo đức cho con người. Tục ngữ trong


Văn học dân gian các dân tộc anh em được gọi bằng các tên khác nhau. Dân
tộc Thái gọi là “Quăm Chiên”, Ê Đê dọi là “Đuê”, Ba Na gọi là “Norp ti”,
Gia Rai gọi là “QtưPodok”, Chăm gọi là “Mnôipdit”…Tục ngữ theo từ
nguyên là: “Tục” chỉ thói quen có từ lâu đời được mọi người thừa nhận,
“Ngữ” là lời nói…
Nội dung phản ánh của tục ngữ: Tục ngữ phản ánh những kinh
nghiệm về lao động sản xuất. Đó là sự dự báo thời tiết (Gió bấc là duyên lúa
mùa; Gió bấc hiu hiu, sếu kêu trời rét…), kinh nghiệm trồng trọt; chăn nuôi;
ngư nghiệp (Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống; Cơm quanh rá, mạ
quanh bờ; Chấm trán lọ đuôi, không nuôi cũng nậy; Tôm đi chạng vạng, cá
đi rạng đông…). Tục ngữ phản ánh những vấn đề xã hội. Đó là sự phản ánh
đặc điểm xã hội như: ghi lại dấu ấn các thời kỳ lịch sử xã hội (thời kỳ
nguyên thủy: Ăn lông ở lỗ; Chồng chung vợ chạ…Thời kỳ mẫu quyền: Con
dại cái mang…), phản ánh những danh lam thắng cảnh; của ngon vật là ở
mỗi vùng quê (Nhất kinh kỳ, nhì phố Hiến), phản ánh những hoạt động tín
ngưỡng; phong tục tập quán (Bói ra ma, quét nhà ra rác; Miếng trầu là đầu
câu chuyện…), ghi lại những đặc điểm tổ chức; thể chế xã hội phong kiến
(Phép vua thua lệ làng), thể hiện những quan niệm về triết lý nhân sinh (đề
cao giá trị con người – Người sống đống vàng, thể hiện lối sống trọng tình
nghĩa – Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, kinh nghiệm đánh giá con người…)

Chương 2

HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI VIỆT QUA TỤC NGỮ
2.1. Vai trò của cha mẹ trong hôn nhân của con cái


Thời kỳ đầu xã hội nguyên thủy, nam nữ tự do lựa chọn bạn đời,
nhưng thời đại xã hội càng văn minh, tài sản sở hữu càng nhiều, thì quyền
lực của cha mẹ trong việc quyết định hôn nhân của con cái ngày càng cao.
Trong xã hội phong kiến, người ta quan niệm rất rõ ràng trong việc
dựng vợ gả chồng cho con cái theo quan niệm: Cha mẹ đặt đâu con ngồi
đấy. Nghĩa là cha mẹ đóng vai trò quan trọng, quyết định cuộc đời của các
đôi nam nữ thanh niên. Khi đó những đôi thanh niên nam nữ không có
quyền tự do yêu đương, tự do lựa chọn bạn đời như bây giờ. Các cụ lựa chọn
dâu, rể theo lối “môn đăng hộ đối”. Không chỉ có vậy, khi hỏi vợ; gả chồng
cho con cái, các cụ ngày xưa rất quan tâm đến vấn đề gia giáo; truyền thống
của gia đình cô dâu, chàng rể mà mình lựa chọn. Tục ngữ có câu: Lấy vợ
xem tông, lấy chồng xem giống. Như vậy, rõ ràng trong xã hội phong kiến,
những bậc cha mẹ can thiệp rất sâu vào hạnh phúc riêng tư của những đôi
bạn trẻ. Bởi vì, vấn đề hôn nhân không chỉ là của riêng đôi bạn trẻ mà còn là
vấn đề của gia đình, dòng tộc.
2.2. Chọn vợ, kén chồng
2.2.1. Chọn vợ
Những cô gái được chọn làm vợ thường nằm trong khung tiêu chuẩn
“tứ đức”: Công, dung, ngôn, hạnh. Điều đó được thể hiện rất rõ trong tục
ngữ.
Tục ngữ chỉ ra rằng: Xem bếp biết đàn bà, Đàn bà không biết nuôi
heo đàn bà nhác…là muốn đề cập đến chữ công trong tứ đức của người phụ
nữ. Công ở đây là nết ăn nết làm, sự đảm đang tháo vác lo vén mọi việc
trong nhà của người con gái. Đó là các việc như: chăm tằm, cám bã lợn gà,
dệt vải, thêu thùa, may vá, cỗ bàn, lễ tết…đều phải chu toàn mọi việc nhanh,
gọn, sạch. Nghĩa là người phụ nữ giỏi nội trợ. Chính vì lẽ đó mà trong tục



ngữ có câu : Giàu vì bạn, sang vì vợ. Người vợ đảm đang, tháo vác với vai
trò là “nội tướng” trong gia đình sẽ là một nhân tố quan trong đem đến sự
hạnh phúc, yên ấm cho gia đình.
Về nhan sắc, dung nhan, hay chữ dung trong tứ đức: Mặc dù tục ngữ
có câu: Cái nết đánh chết cái đẹp nhưng khi chọn vợ, người ta vẫn rất chú ý
đến nhan sắc. Đó là những cô gái xinh đẹp, tình tứ, duyên dáng: Những
người con mắt lá răm, lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền; Những người
thắt đáy lưng ong, vừa khéo chiều chồng vừa khéo nuôi con…Đó còn là vẻ
đẹp của sự dịu dàng, duyên dáng, kín đáo, tế nhị: Đàn ông cười hoa, đàn bà
cười nụ. Tiêu chuẩn về cái đẹp của mỗi thời là khác nhau, nhưng khi chọn
vợ, người ta quan tâm đầu tiên đến vấn đề khỏe mạnh, không bệnh tật, có
khả năng sinh con đẻ cái tốt của người con gái. Tục ngữ đã nêu lên kinh
nghiệm chọn vợ như thế: Lưng chữ cụ, vú chữ tâm. Những người con gái mà
có hình thức như vậy sẽ rất mắn đẻ. Mà ngày xưa, người Việt, với nền văn
hóa nông nghiệp cho nên rất “chuộng” sinh nhiều con. Các cụ quan niệm
mỗi con mỗi lộc, càng nhiều con thì càng có nhiều phúc.
Về lời ăn tiếng nói hay chữ ngôn trong tứ đức: Với người Việt, lời ăn
tiếng nói vô cùng được chú trọng. Các cụ đã dạy rằng: Lời nói chẳng mất
tiền mua / Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau, Chim khôn kêu tiếng rảnh
rang / Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe, Lời chào cao hơn mâm cỗ,
Lời nói đọi máu…Với người phụ nữ, vấn đề lời ăn tiếng nói lại càng được
chú trọng hơn. Người vợ phải biết thưa gửi, dạ vâng, biết ý từ rào trước; đón
sau để không làm mất lòng ai, cứng nhưng phải mềm, có cương, có nhu, lựa
lời mà nói với chồng cho phù hợp từng hoàn cảnh. Các cụ đã dạy điều đó rất
rõ qua câu tục ngữ: Chồng giận thì vợ bớt lời / Cơm sôi bớt lửa một đời
không khê.



Về phẩm hạnh hay chữ hạnh trong tứ đức của người phụ nữ: Là đức
tính tốt đẹp, là cách cư xử với mọi người, từ già tới trẻ, từ lớn tới bé đều
đúng mực, nhất là đối với tứ thân phụ mẫu, anh em nội ngoại. Dâu hiền rể
thảo là những điều mà các cụ mong muốn nhất. Tục ngữ khuyên đàn ông:
Lấy vợ hiền hòa, làm nhà hướng nam
Như thế theo quan niệm truyền thống của người Việt, người phụ nữ lý
tưởng để chọn làm vợ phải là người gọn gàng, khéo léo, xinh đẹp tình tứ,
giỏi quản lý gia đình, giỏi chăn nuôi, nội trợ, hiền thục, tế nhị, kín đáo…
2.2.2. Kén chồng
Kén chồng: Lấy chồng khó giữa làng, hơn lấy chồng sang thiên hạ.
Tiêu chuẩn hàng đầu để người phụ nữ kén chồng đó là lấy người đàn ông
cùng làng. Tiêu chuẩn này mang rõ tâm lý của những người nông dân, sống
gắn bó đời này qua đời khác trong lũy tre làng với nền kinh tế tiểu nông tự
cấp tự túc. Họ rất sợ phải chịu thân phận của người ngụ cư, sợ cảnh bơ vơ
nơi "thiên hạ", cho dù "thiên hạ" chỉ là một làng khác cách có vài quãng
đồng. Người đàn ông phải giỏi việc làng, việc nước: Ăn đua cho đáng ăn
đua, lấy chồng cho đáng việc vua, việc làng; phải là người thạo nhiều việc:
Đàn ông như con dao pha; phải là người không cờ bạc: Lấy chồng cờ bạc là
duyên nợ nần; phải là người chưa vợ: Đói lòng ăn nắm lá sung, chồng một
thì lấy, chồng chung thì đừng; phải biết lo kinh tế gia đình: Đàn ông như
giỏ, đàn bà như hom….
Đó là hình mẫu lý tưởng của người đàn ông và đàn bà cho những
chàng trai, cô gái đến tuổi cập kê chọn lựa. Tuy nhiên, cuộc đời đâu phải khi
nào cũng chiều theo lòng người. Không phải ai, khi nào, cũng có thể tìm
được người lý tưởng. Hơn nữa lý tưởng của mỗi người cũng khác nhau. Do
vậy, điều quan trọng là phải tìm được người tương hợp. Trong khía cạnh ứng
xử này, tục ngữ cho ta những phương châm rất quý giá, khuyên ta phải biết


mình, biết người để chọn lựa đúng đối tượng: Nồi nào vung ấy.

Nếu bỏ qua phương châm ứng xử khôn khéo trên đây, rất có thể ta sẽ bị rơi
vào hoàn cảnh: Già kén kẹn hom, hoặc Lắm mối tối nằm không.
Hình mẫu lý tưởng, tiêu chuẩn cụ thể đôi khi cũng chưa đủ căn cứ để
người ta lựa chọn đối tượng hôn nhân. Một cơ sở quan trọng khác là xuất
phát điểm của hôn nhân hay quan niệm về hôn nhân. Lịch sử nhân loại từng
có hai hình thức cơ bản của hôn nhân là hôn nhân vị tình cảm và hôn nhân vị
mưu sinh. Mỗi dân tộc, mỗi thời đại đều có cách lựa chọn hôn nhân khác
nhau, song tựu trung lại chỉ quy vào hai quan điểm chính trên. Vậy người
Việt chọn quan điểm hôn nhân nào?
Trong hệ thống tục ngữ ta thấy khá nhiều câu liên quan đến vấn đề
này. Chẳng hạn: Cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy (1). Ép dầu, ép mỡ ai nỡ ép
duyên (2). Trái duyên khôn ép (3). Phải duyên thì dính như keo, trái duyên
chổng chểnh như kèo chênh vênh (4). Giàu trong làng trái duyên khôn ép,
khó thiên hạ phải kiếp cũng theo (5). Từ những câu tục ngữ trên ta thấy một
số điều sau: Trong xã hội người Việt cổ truyền khá phổ biến hiện tượng ép
duyên, xuất phát từ quan điểm hôn nhân vị mưu sinh. Bằng chứng của hiện
tượng này là câu tục ngữ (1) và các câu phải đối việc ép duyên (2,3,4,5). Mặt
khác, cũng có hàng loạt những câu tục ngữ khuyên con người lựa chọn tình
yêu theo quan điểm hôn nhân vị tình cảm. Có lẽ đây mới là quan điểm chủ
đạo, phù hợp với truyền thống trọng tình của người Việt. Vì vậy, ép duyên là
cách ứng xử có tồn tại trong xã hội song không được coi như một giá trị văn
hóa, mà là một hiện tượng cần phê phán. Từ những nhận xét trên ta thấy
cách ứng xử bị ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo với những quan điểm "Môn
đăng hộ đối", "Lấy vợ kén tông, lấy chồng kén giống" tuy có tồn tại trong xã
hội Việt Nam, song nó không bắt rễ sâu chắc như quan niệm bản địa vốn
trọng tình. Có thể dẫn ra hàng loạt những câu tục ngữ cổ vũ hôn nhân vị tình


cảm như: Yêu nhau bốc bải giần sàng. Cũng là nhà ngói bức bàn, chẳng yêu
coi bẵng như gian chuồng bò…

2.3. Sự tương hợp giữa lứa đôi
Trong hôn nhân, người Việt đặc biệt quan tâm đến tuổi tác gữa đôi trai
gái. Ngày nay, trong xã hội hiện đại, vấn đề tuổi tác cũng vẫn được người ta
quan tâm trong vấn đề dựng vợ gả chồng. Dựa vào can chi, các cụ quan
niệm những tuổi hợp nhau giúp cho vợ chồng sau này hạnh phúc, gia đình
yên ấm, con cái đuề huề là những tuổi thuộc tam hợp và lục hợp. Ngược lại
là những tuổi thuộc lục hại, lục sát, tứ hành xung. Nhưng trong tục ngữ, các
cụ lại chỉ ra rằng: vợ chồng cùng tuổi hoặc vợ hơn hai hay trai hơn một thì
cuộc sống hôn nhân sẽ tốt đẹp: Vợ chồng cùng tuổi, ngồi duỗi mà ăn; gái
hơn hai, trai hơn một.
Người ta hay nói tới số phận, duyên phận. Có lẽ, người ta nên vợ nên
chồng với nhau đó cũng là cái duyên cái nợ: Nhất duyên, nhì phận, tam
phong thổ. Bên cạnh câu Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy thì tục ngữ còn có
câu Ép dầu, ép mỡ, ai nỡ ép duyên; Giàu trong làng trái duyên khôn ép, khó
nước người phải kiếp cũng theo. Duyên chính là cái gắn kết, làm nên hạnh
phúc lứa đôi: Phải duyên thì dính như keo, trái duyên chổng chểnh như kèo
đục vênh. Nhưng đôi khi nhiều duyên quá đó lại là một điều bất hạnh: Đa
nhân duyên, nhiều đường phiền não…
Vấn đề chênh lệch tuổi tác, vị thế của các cặp lứa đôi cũng được thể
hiện rõ trong tục ngữ. Trong tục ngữ có những câu chê cười những người
chồng trẻ lấy vợ già mà lại không chê cười chồng già lấy vợ trẻ: Chồng già
vợ trẻ là tiên, vợ già chồng trẻ là duyên nợ nần. Phải chăng đó là dấu ấn của
trọng nam khinh nữ. Người ta còn quan tâm tới cả anh em của chàng trai (cô
gái) trong gia đình: Trai con một thì lấy, gái con một thì đừng; Ăn mày nơi
cả thể, làm rể nơi nhiều con.


2.4. Một số tục lệ
2.4.1. Tục nạp cheo
Tiền "cheo" là khản tiền nhà trai nạp cho làng xã bên nhà gái. Trai gái

cùng làng xã lấy nhau cũng phải nạp cheo song có giảm bớt. Xuất xứ của lệ
"Nạp cheo" là tục "Lan nhai" tức là tục chăng dây ở dọc đường hoặc ở cổng
làng. Đầu tiên thì người ta tổ chức đón mừng hôn lễ, người ta chúc tụng, có
nơi còn đốt pháo mừng. Để đáp lễ, đoàn đưa dâu cũng đưa trầu cau ra mời,
đưa quà, đưa tiền biếu tặng. Dần đần có những người làm ăn bất chính, lợi
dụng cơ hội cũng chăng dây, vòi tiền, sách nhiễu, trở thành tục lệ xấu. Vì
thói xấu lan dần, gây nhiều cản trở, triều đình phải ra lệnh bãi bỏ. Thay thế
vào đó, cho phép làng xã được thu tiền cheo. Khi đã nạp cheo cho làng, tức
là đám cưới được làng công nhận có giấy biên nhận hẳn hoi. Ngày xưa, chưa
có thủ tục đăng ký kết hôn, thì tờ nạp cheo coi như tờ hôn thú. Nạp cheo so
với chăng dây là tiến bộ. Khoản tiền cheo này nhiều địa phương dùng vào
việc công ích như đào giếng, đắp đường, lát gạch, xây cổng làng...Nhưng
nhiều nơi chỉ cung đốn cho lý hương chè chén. Đã hơn nửa thế kỷ, lệ này bị
bãi bỏ rồi. Thanh niên ngày nay chỉ còn thấy bóng dáng của tiền cheo qua ca
dao- tục ngữ.
- Nuôi lợn thì phải vớt bèo
Lấy vợ thì phải nộp cheo cho làng.
- Cưới vợ không cheo như tiền gieo xuống suối.
2.4.2. Trầu cau trong nghi lễ cưới hỏi
Trầu cau không chỉ được têm để ăn hay đãi khách hằng ngày mà còn
được dùng làm tặng phẩm hay làm lễ vật trong các dịp cúng Phật, tế lễ thần
linh, cúng gia tiên hay trong tang lễ, hôn lễ…


Trong hôn nhân của người Việt, trầu cau không thể thiếu trong mọi
nghi lễ. Các cụ đã nói rất rõ điều đó trong tục ngữ: Miếng trầu là đầu câu
chuyện, Miếng trầu nên dâu nhà người…
Người bình dân Việt Nam xưa nhờ vào hoàn cảnh sống gần gũi với
thiên nhiên, nhờ điều kiện sinh hoạt tập thể về nông nghiệp, hội hè, hát
xướng, lại nhờ vào tục mời trầu của xã hội... đã giúp cho tình yêu của họ dễ

dàng nẩy nở, cởi mở, hồn nhiên. Dù thế nào chăng nữa, tình yêu của họ cũng
không cuồng nhiệt, tự do quá trớn đến vượt ra khỏi vòng lễ giáo gia đình và
phong tục xã hội.
Thực tế, người thiếu nữ vẫn hằng nhủ lòng “áo mặc sao qua khỏi
đầu”, nên khi vừa bước vào cuộc tình là không quên nhắc nhở bạn về thủ tục
đầu tiên:
Thương tôi rượu chén, trầu cơi
Đến cùng phụ mẫu, đến nơi sinh thành.
Trước hết, nhà trai phải đem phẩm vật đến cầu cạnh người mai mối,
nhờ họ chuyển lời cầu hôn đến nhà gái, đúng như phong tục đã định:
Mâm trầu hũ rượu đàng hoàng / Cậy mai đến nói phụ mẫu nàng mới xong.
Trong lễ chạm ngõ, nhà trai chỉ phải đem tới nhà gái vài gói trà, vài chai
rượu và một nhánh cau cùng một xấp lá trầu (tất cả đều phải đi số chẵn).
Theo tục lệ trong Nam thì ngoài trà rượu bánh mứt, nhà trai còn đem tới nhà
gái một khay trên bầy 2 cái chung (ly) nhỏ, 1 nậm rượu và 1 cơi trầu têm sẵn
4 miếng, để mời anh chị sui mà trực tiếp thưa chuyện giạm vợ cho con.
Chiếc khăn nhiễu tím đội đầu / Quai thao, nón thúng, cơi trầu cầm tay.
Nếu cô dâu, chú rể tương lai chưa hề biết nhau thì đây chính là dịp họ được
thấy mặt nhau, nên lễ này còn gọi là lễ xem mặt. Người thiếu nữ từ ngày
nhận trầu cau coi như đã là dâu con nhà người, tục ngữ có câu: Miếng trầu
nên dâu nhà người là vậy.


Tuy nhiên lễ chạm ngõ không quan trọng mấy, vì dù sao mới chỉ là
“giạm”, nghĩa là ướm hỏi trước giữa hai gia đình mà thôi. Do đó sau này vì
lẽ gì một bên muốn bãi bỏ thì cũng dễ dàng, chỉ cần thông báo cho bên kia
biết chứ không phải thưa kiện, bồi thường gì. Thế nên tục ngữ lại có câu:
Miếng trầu chạm ngõ là miếng trầu bỏ đi.
Lễ ăn hỏi: trong Nam lễ vật quan trọng nhất kỳ này là trầu cau, rượu
trà và cặp đèn cầy để lễ gia tiên bên gái. Ở ngoài Bắc, xưa có lệ vào dịp lễ ăn

hỏi, nhà gái chia phần trầu bánh cho bà con họ hàng, xóm giềng, bạn bè để
báo tin lễ đính hôn chính thức của đôi trẻ; vì thế nhà trai phải dẫn cho đủ số
trầu cau, trà bánh, nem trạo để nhà gái biếu xén.
Lễ đón dâu: sáng sớm ngày lễ đón dâu, chính bà mẹ chồng đích thân
mang một cơi trầu, ngoài phủ khăn điều, trong đựng 6 miếng trầu, tượng
trưng đủ 6 lễ, đem tới nhà gái để xin dâu cho trịnh trọng (nếu bà mẹ chồng
mất sớm mới phải nhờ tới cô, bác hay người chị lớn của chú rể đi thay).
Đồng thời báo cho nhà gái biết trước giờ phái đoàn nhà trai đến để sửa soạn
nghênh tiếp.
Phái đoàn đón dâu đi đầu là vị chủ hôn (phải là người trọng tuổi, vợ
chồng song toàn, con cái đề huề, kén chọn trong gia đình họ hàng chú rể),
sau đến vợ chồng người mai dong, tiếp theo là đoàn người đội phù trang
mang đồ sính lễ, gồm trầu, cau (nguyên buồng), trà rượu, bánh mứt, xôi
heo...
Sau khi lễ gia tiên, (4 lạy, 3 vái) cô dâu chú rể lạy tạ cha mẹ vợ (2 lạy,
1 vái), đoạn đi chào ra mắt cùng mời trầu, mời thuốc chú bác, cô dì nhà gái;
đồng thời họ nhận được tiền phong bao cùa họ hàng. Xong xuôi, lễ vật còn
lại với cỗ bàn được bưng ra, đãi đằng hai họ:
Anh hai đi cưới chị hai,
Mâm trầu, hũ rượu tốn hai mươi tiền.


Ở ngoài Bắc trước năm 1954, và ở trong Nam trước năm 1975, lễ ăn
hỏi vẫn còn giữ lại tục lệ chia trầu cau, trà và bánh mứt (thường là bánh dầy,
bánh chưng, sau mới đổi ra bánh xu xê – chính là bánh phu thê – hay bánh
quế, bánh cốm, mứt sen) cho bà con họ hàng, xóm giềng và bạn bè. Tất
nhiên nhà nào nghèo thì chỉ cần chia trầu cau với gói trà nhỏ cũng đủ.
2.5. Tình nghĩa vợ chồng
Khi đã nên vợ nên chồng, ứng xử trong gia đình người Việt được dựa
trên nền tảng tình cảm hết sức vững chắc, tốt đẹp: Vợ chồng đầu gối tay ấp;

Vợ chồng sống gửi thịt, chết gửi xương. Mối quan hệ đó thật bền chặt, gắn
bó, thiêng liêng và sâu sắc. Quan hệ vợ chồng là quan hệ gắn bó từ hai phía,
phụ thuộc từ hai phía, vì nhau và luôn cậy nhờ lẫn nhau. Trong tục ngữ có
hai câu thú vị sau đây: Bé thì nhờ mẹ nhờ cha, lớn lên nhờ vợ, lúc già nhờ
con (Nói về người đàn ông), Bé nhờ cha, lớn nhờ chồng, già nhờ con (Nói
về người đàn bà).
Xuất phát từ quan điểm gắn bó và bình đẳng này, người phụ nữ trong
gia đình truyền thống người Việt có vai trò rất đặc biệt. Của cải trong gia
đình là của chung: Của chồng, công vợ. Mọi việc trong gia đình phải: Thuận
vợ, thuận chồng. Người đàn bà là tay hòm chìa khóa: Đàn ông như giỏ, đàn
bà như hom, và đôi khi còn: Lệnh ông không bằng cồng bà. Người vợ cũng
đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp của chồng: Giàu vì bạn, sang vì
vợ ... Tóm lại, người vợ trong gia đình có vị trí được tôn trọng, bình đẳng
với người chồng. Mặt khác, trong cuộc sống gia đình, phương châm ứng xử
của người vợ cũng lại rất khéo léo theo kiểu: Lạt mềm buộc chặt; Chồng
giận thì vợ bớt lời, cơm sôi nhỏ lửa có đời nào khê; Chồng giận thì vợ làm
lành, miệng cười tủm tỉm hỏi anh giận gì…
Xét trong cùng hệ thống những câu tục ngữ có liên quan như trên, ta
thấy đây thực sự là một phương châm ứng xử tuyệt vời của những người vợ


Việt Nam, xuất phát từ đặc trưng trọng hòa hiếu, trọng cuộc sống cộng đồng
(cho dù chỉ là cộng đồng nhỏ - gia đình của người phương Đông). Theo
truyền thống này, con người luôn muốn hòa hợp, thích nghi với nhau để
cùng chung sống. Tục ngữ cũng đã dạy: Trong có ấm thì ngoài mới êm. Nếu
không có cách ứng xử mềm mại, hợp lý những khi: Chồng bát cũng có lúc
xô thì làm sao có được gia đình êm ấm và hạnh phúc được? Sự nhún nhường
trong ứng xử của người vợ không phải là sự hạ thấp phẩm giá của người phụ
nữ, mà là một nét đẹp trong văn hóa ứng xử của người Việt: Chồng tôi áo
rách tôi thương, chồng người áo gấm xông hương mặc người

Người vợ - người xây tổ ấm, nuôi dưỡng, dạy bảo con cái: Người phụ
nữ có một thiên chức cao quý là “xây tổ ấm” gia đình, nuôi dưỡng và dạy
bảo con cái: Mồ côi cha ăn cơm với cá/ mồ côi mẹ lót lá mà nằm, Con hư tại
mẹ, cháu hư tại bà…
Vợ chồng được người xưa coi là "đạo phu thê" - đây là một trong
những quy phạm đạo đức vô cùng đặc biệt trong đời sống tình cảm con
người. Vợ chồng phải sống gắn bó, thủy chung đến "đầu bạc răng long".
Cuộc sống của vợ chồng ngày xưa thường suốt đời lo gánh vác, vun xới
hạnh phúc cho gia đình và nuôi dạy con cái thành người.


KẾT LUẬN
Hôn nhân là việc hệ trọng trong cuộc đời của mỗi con người. Với
người Việt, hôn nhân là chuyện trăm năm. Gắn liền với hôn nhân, người Việt
có biết bao nhiêu phong tục. Mỗi phong tục đều mang những giá trị độc đáo
riêng. Vợ chồng lấy nhau là cái duyên của trời định. Tuy nhiên, hôn nhân
không chỉ là chuyện riêng của từng đôi bạn trẻ nữa mà trở thành chuyện
chung của cả hai bên gia đình, dòng họ. Vì vậy, trong hôn nhân của người
Việt có sự “can thiệp” rất sâu của gia đình, dòng họ nhằm kén chọn được
dâu hiền, rể thảo, nhằm đảm bảo sự “môn đăng hộ đối”. Vì hôn nhân là việc
hệ trọng liên quan đến hạnh phúc của cả đời người, liên quan đến thế hệ con
cháu sau này cho nên người Việt rất chú trọng đến việc chọn vợ, kén chồng.
Những cô gái được chọn phải là những cô gái mang trong mình “tứ đức”. Đó
là những đức tính: công, dung, ngôn, hạnh. Nghĩa là người con gái đó phải
đảm đang, tháo vác, duyên dáng, biết cách ứng xử, kính trên nhường dưới,
phẩm hạnh đoan trang…Mẫu người con trai mà các cô gái kén chọn: Người
đàn ông phải giỏi việc làng, việc nước; phải là người thạo nhiều việc, phải là
người không cờ bạc; phải là người chưa vợ; phải biết lo kinh tế gia đình, là
trụ cột chỗ dựa cho gia đình…Bên cạnh những tiêu chuẩn đó, người Việt còn
đặc biệt chú trọng đến vấn đề hợp tuổi hợp tác giữa đôi nam nữ. Từ khi tìm

được ý trung nhân vừa ý, các đôi nam nữ phải trải qua rất nhiều lễ nghi thì
mới chính thức nên vợ nên chồng, như: lễ giạm ngõ, lễ ăn hỏi, lễ cưới…
Trong mỗi lễ nghi đó lại có nhiều những nghi lễ khác nhau…
Tất cả những quan niệm, phong tục, lễ nghi… có liên quan đến hôn
nhân của người Việt đều được phản ánh rất đậm nét trong tục ngữ của người
Việt. Qua đó, một lần nữa, chúng ta càng thêm khẳng định được vai trò của
tục ngữ là cuốn biên niên sử lưu giữ vững bền nhất về văn hóa của dân tộc.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Mục đích nghiên cứu
6. Phương pháp nghiên cứu
7. Cấu trúc đề tài
NỘI DUNG
Chương 1: Một số vấn đề chung
1.1. Vài nét về phong tục hôn nhân của người Việt
1.1.1. Phong tục và lễ nghi thời phong kiến
1.1.1.1. Quan niệm về hôn nhân của người xưa
1.1.1.2. Lễ nghi dân gian
1.1.1.3. Lễ cưới dân gian
1.1.2. Phong tục và lễ nghi ngày nay
1.1.2.1. Lễ chạm ngõ
1.1.2.2. Lễ ăn hỏi
1.1.2.3. Lễ cưới
1.2. Vài nét về tục ngữ

Chương 2: Hôn nhân của người Việt qua tục ngữ
2.1. Vai trò của cha mẹ trong hôn nhân của con cái
2.2. Chọn vợ, kén chồng
2.2.1. Chọn vợ
2.2.2. Kén chồng


×