Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5 6 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.49 KB, 37 trang )

TÓM TẮT SÁNG KIẾN
“Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi”
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:
Thực hiện chỉ thị số 03- CT/TW ngày 14/5/2011của Bộ chính trị gắn với
đặc thù của ngành: " Chú trọng công tác giáo dục đạo đức, nhân cách, giá trị
sống, kỹ năng sống cho học sinh".
Trẻ em ở lứa tuổi mầm non đặc biệt là trẻ mẫu giáo 5 -6 tuổi là giai đoạn
tiếp thu, lĩnh hội những giá trị sống để phát triển nhân cách, do vậy cần giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ càng sớm càng tốt, để trẻ có nhận thức đúng đắn và
có hành vi ứng xử phù hợp ngay từ khi còn nhỏ. Kỹ năng sống là những kỹ
năng nền tảng giúp trẻ mầm non hình thành và phát triển toàn diện nhân cách,
sẵn sàng tâm thế cho trẻ đi học lớp 1.
Hiện nay giáo dục kỹ năng sống đang là một yêu cầu vô cùng cấp
thiết đối với thế hệ trẻ. Nếu như trẻ thiếu kinh nghiệm sống thì rất dễ bị lôi
cuốn vào các hành vi xấu, lối sống ích kỷ, sự phát triển lệch lạc về nhân cách.
Nhưng trẻ có kỹ năng sống tốt thì sẽ giúp các em có khả năng ứng phó tích cực
trước cuộc sống, xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè và
mọi người, sống an toàn, lành mạnh và phát triển tốt.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến:
Để áp dụng sáng kiến cần có những điều kiện sau:
- Giáo viên có trình độ chuyên môn đạt chuẩn trở lên, có đầy đủ kiến thức
kinh nghiệm về các tình huống xảy ra trong cuộc sống, có đầy đủ cơ sở vật
chất, trang thiết bị về đồ dùng, đồ chơi,…
- Trẻ 5 - 6 tuổi phát triển bình thường về thể chất và tinh thần
Với mong muốn hình thành cho trẻ những kỹ năng trong cuộc sống như
làm chủ bản thân, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng ứng phó với các tình huống xảy ra
trong cuộc sống hàng ngày... Từ đó tôi mạnh dạn lựa chọn nội dung “Một số
biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi” để nghiên cứu
và áp dụng sáng kiến từ thời điểm tháng 9/2014 đến tháng 2/2015 tại lớp mẫu
giáo 5 – 6 tuổi mà tôi đang chủ nhiệm.


1


3. Nội dung sáng kiến:
Trong sáng kiến của mình tôi đề xuất 5 Biện pháp sau:
3.1. Biện pháp 1: Xác định các kiến thức cơ bản cần dạy trẻ về kỹ năng sống.
3.2. Biện pháp2: Lồng ghép tích hợp thông qua các hoạt động trong ngày, mọi
lúc mọi nơi.
3.3. Biện pháp 3: Dạy trẻ kỹ năng sống thông qua các môn học
3.4. Biện pháp 4: Giúp trẻ phát triển các ký năng thông qua việc tổ chức các
hoạt động vui chơi
3.5. Biện pháp 5: Phối hợp với phụ huynh rèn kỹ năng sống cho trẻ
*/ Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến:
- Các biện pháp tôi đưa ra đều đảm bảo tính mới, tính sáng tạo như: Tôi đưa ra
các tình huống cụ thể thường xảy ra trong cuộc sống hàng ngày, tổ chức hoạt
động giáo dục kỹ năng sống trong hoạt động học, tích hợp giáo dục kỹ năng
sống vào các hoạt động trong ngày, sáng tác các câu truyện có nội dung giáo
dục kỹ năng sống hàng ngày cho trẻ, các hoạt động tập thể vui chơi lành mạnh,
tuyên truyền phối hợp nội dung giáo dục kỹ năng sống với các bậc phụ huynh.
Với những điểm mới đó giúp trẻ có kỹ năng sống tốt hơn, luôn kích
thích sự hứng thú, tò mò và trẻ tích cực tham gia hoạt động.
*/ Khả năng áp dụng sáng kiến:
- Sáng kiến có thể áp dụng cho các lớp 5 tuổi trong các trường mầm non trong
toàn thị xã và với các độ tuổi đều có thể đưa vào dạy trẻ, nhưng tùy thuộc vào
điều kiện cơ sở vật chất của từng trường và trình độ của giáo viên, nhận thức
của từng trẻ. Trong mỗi biện pháp tôi đã trình bày rất chi tiết cách áp dụng sáng
kiến giáo viên có thể dễ dàng thực hiện.
*/ Lợi ích của sáng kiến:
Áp dụng sáng kiến “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
mẫu giáo 5 - 6 tuổi ”. sẽ mang lại những lợi ích sau:

- Nâng cao nhận thức của giáo viên về ý nghĩa và tầm quan trọng của
việc rèn kỹ năng sống cho trẻ mầm non. Giúp giáo viên xác định những kỹ

2


năng sống cơ bản cần dạy trẻ và đưa ra các biện pháp tác động nhằm hoàn thiện
và hình thành một số kỹ năng sống cơ bản cho trẻ.
- Giúp trẻ có những kinh nghiệm trong cuộc sống, biết những việc nên
làm và không nên làm. Có khả năng làm chủ bản thân, khả năng ứng xử phù
hợp với những người khác và với xã hội. Khả năng ứng phó tích cực trước các
tình huống trong cuộc sống.
- Giúp phụ huynh có kiến thức sâu hơn về dạy kỹ năng sống cho trẻ.
4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến:
Áp dụng sáng kiến củ tôi một cách đồng bộ, linh hoạt đã mang lại hiệu
quả đáng kể. Giúp giáo viên chủ động, linh hoạt và sáng tạo hơn khi xây dựng
chương trình, thông qua các hoạt động giáo viên rèn cho trẻ có những kỹ năng
cần thiết, cơ bản nhất để trẻ phát triển một cách toàn diện.
Kích thích và tạo cơ hội cho trẻ hiểu và phát triển khả năng tự kiểm soát,
đồng thời trẻ mạnh dạn, tự tin hơn trong cuộc sống.
Phụ huynh đã hiểu hơn về rèn kỹ năng cho trẻ từ đó đã quan tâm hơn và
tích cực kết hợp với giáo viên để rèn kỹ năng sống cho trẻ.
5. Đề xuất khuyến nghị.
5.1. Đối với nhà trường: Tạo mọi điều kiện hỗ trợ cơ sở vật chất, mua sắm đồ
dùng, đồ chơi, bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên, tổ chức các hội thi giáo
viên giỏi, các buổi chuyên đề, làm đồ dùng đồ chơi. Cần mở những lớp bồi
dưỡng, tổ chức chuyên đề cho giáo viên về việc rèn kỹ năng sống cho trẻ.
5.2. Đối với cấp phòng, sở giáo dục: Tạo nhiều cơ hội cho giáo viên được trau
dồi năng lực sư phạm qua các lớp bồi dữơng chuyên môn về nội dung giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ. Cung cấp các tài liệu có nội dung về giáo dục kỹ năng

sống để giáo viên học tập và nghiên cứu để tham khảo và áp dụng vào trong
thực tế dạy trẻ hàng ngày được tốt hơn.

3


MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Trong mỗi đứa trẻ đều có những tài năng tiềm ẩn, sự chuẩn bị kỹ càng từ
lúc đầu đời chính là chìa khoá thành công cho tương lai mỗi trẻ. Chăm sóc,
nuôi dưỡng và giáo dục trẻ từ lứa tuổi mầm non chính là cơ sở giúp trẻ phát
triển toàn diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ là nền tảng của quá trình
học tập suốt đời của trẻ.
Giáo dục “kỹ năng sống” cho trẻ là giáo dục cách sống tích cực trong xã
hội hiện đại. Giáo dục kỹ năng sống nhằm giúp trẻ có những kinh nghiệm trong
cuộc sống, biết chuyển thể từ những kiến thức thành những hành vi văn minh,
thái độ cảm nhận thành những khả năng thực thụ, giúp trẻ biết xử lý các hành
vi của mình trong các tình huống khác nhau trong cuộc sống.
Với trẻ 5 tuổi tôi thấy rằng trẻ đã có kiến thức cơ bản nhưng vẫn còn
thiếu những kỹ năng sống cần thiết như: Kỹ năng giao tiếp mạnh dạn tự tin, kỹ
năng tự chăm sóc bản thân, kỹ năng tự bảo vệ, kỹ năng hợp tác, kỹ năng tự
kiểm soát bản thân. kỹ năng ứng phó với biến đổi khí hậu, kỹ năng làm việc
theo nhóm...
Giáo dục kỹ năng sống là nhằm giúp trẻ có những kinh nghiệm trong
cuộc sống biết những việc nên làm và không nên làm. Kỹ năng sống của trẻ là
những cái phải tích luỹ dần theo năm tháng mới có được thậm chí là rèn luyện
suốt cả cuộc đời, do vậy mà tôi luôn suy nghĩ cần phải kiên trì, bền bỉ chứ
không thể nóng vội ngày một ngày hai mà có được.
Bản thân tôi cũng tự nhận thấy rằng có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến
việc trẻ chưa có nhiều kỹ năng sống cần thiết trong cuộc sống mà nguyên nhân

chính là do: Giáo viên chưa hiểu hết được ý nghĩa, tầm quan trọng của việc rèn
kỹ năng sống cho trẻ, còn coi trọng việc dạy kiến thức hơn là dạy kỹ năng.
Chưa xác định được hết những kỹ năng cơ bản cần dạy trẻ, còn lúng túng trong
việc lồng ghép tích hợp rèn kỹ năng sống cho trẻ thông qua các hoạt động trong
ngày.

4


Những người thân trong gia đình còn qúa luông chiều, cung phụng trẻ,
chiều theo ý thích của trẻ, không cho trẻ làm bất cứ việc gì, khiến cho trẻ không
có kỹ năng tự phục vụ. Những hành vi của người lớn cũng chưa thực sự là một
tấm gương sáng cho trẻ học tập và noi theo. Muốn vậy người lớn phải tạo cho
trẻ có môi trường để trải nghiệm, thực hành. Trên thực tế, trong xã hội hiện nay
các gia đình thường chú trọng đến việc học kiến thức của trẻ mà không chú ý
đến phát triển các kỹ năng cho trẻ. Luôn bao bọc, nuông chiều, làm hộ trẻ khiến
trẻ ỷ lại, ích kỷ không quan tâm đến người khác và các kỹ năng trong cuộc
sống rất hạn chế. Khó khăn cho trẻ khi có các tình huống bất ngờ xảy ra trong
cuộc sống.
Từ những lí do trên và cũng để rèn kỹ năng sống cho trẻ được tốt hơn
lên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi ” để nghiên cứu và áp dụng cho lớp tôi đang chủ
nhiệm. Xin được trình bày để các bạn đồng nghiệp cùng tham khảo.
* Mục đích nghiên cứu
- Đối với trẻ: Giúp trẻ có kỹ năng tự phục vụ bản thân, kỹ năng giáo tiếp,
kỹ năng hợp tác, kỹ năng ứng phó với các tình huống trong cuộc sống. trẻ tiếp
thu bài tốt qua đó trẻ biết cảm thông chia sẻ, biết nhường nhìn, đoàn kết với
bạn bè có tình yêu quê hương, đất nước, biết quan tâm đến bạn bè, cô giáo,
người thân trong gia đình, biết yêu cái đẹp, cái tốt loại bỏ cái xấu và đặc biệt
hơn là phát triển ngôn ngữ để trẻ bạo dạn hơn trong giao tiếp hàng ngày.

- Đối với bản thân: Sau khi áp dụng đề tài tôi nắm vững phương pháp
giảng dạy, biết lồng ghép tích hợp giáo dục kỹ năng sống vào các hoạt động
khác một cách linh hoạt, sáng tạo, biết rèn kĩ năng sống cho trẻ. Ngoài ra tôi
làm trang trí một số góc có nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Từ đó tôi
sẽ tự tin hơn khi cho trẻ tiếp xúc giaol ưu, ứng xử một cách tốt nhất để đạt kết
quả mình mong muốn.
- Đối với phụ huynh: Nhằm giúp cho các bậc phụ huynh nhận thức được
tầm quan trọng của việc rèn kỹ năng sống cho trẻ, từ đó cùng phối kết hợp với

5


giáo viên cùng rèn kỹ năng sống cho trẻ để trẻ được phát triển một cách tốt
nhất.
* Phương pháp nghiên cứu.
Để nghiên cứu đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận: Đọc và tìm hiểu sách vở có
nội dung liên quan đến đề tài, tham khảo một số kinh nghiệm trong tập san và
bạn bè đồng nghiệp.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Tìm hiểu về thực trạng của
lớp mình.
- Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm: Trẻ trực tiếp tham gia vào các
hoạt động học và hoạt động ngoài giờ học lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ.
- Phương pháp phân tích tổng hợp thống kê: Điều tra, khảo sát và phân
tích đánh giá những số liệu, vấn đề thu thập được và đề ra những biện pháp áp
dụng vào thực tế nhóm lớp.
- Phương pháp so sánh đối chứng: So sánh kết quả trước và sau khi áp
dụng đề tài.
- Phương pháp khái quát hoá: Từ những kết quả thu được. khái quát

thành những bài học kinh nghiệm cho bản thân.
* Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu và áp dụng với mẫu giáo nói
chung và trẻ 5 - 6 tuổi nói riêng trong trường mầm non A.
- Đối tượng nghiên cứu: “ Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi”
2. Cơ sở lí luận
Trong những năm gần đây Đảng và nhà nước ta rất quan tâm đến ngành
giáo dục. Trong Đại hội VIII của Đảng về giáo dục và đào tạo đã nhấn mạnh: “
Cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ thì giáo dục đào tạo là quốc
sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”
và đặc biệt chú trọng tới giáo dục mầm non. Vì theo quan điểm của ngành tâm
6


lý học hiện đại trên thế giới thì: “ Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên, là
mắt xích quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân vì nó có vai trò, nhiệm
vụ cực kỳ quan trọng là nền móng vững chắc ban đầu cho sự phát triển cả về
thể chất, tinh thần, trí tuệ và là nền tảng cho việc hình thành và phát triển nhân
cách con người”. Đáp ứng được yêu cầu của đổi mới căn bản toàn diện giáo
dục, thích ứng điều kiện mới phát triển sản phẩm giáo dục ra quốc tế có thể hòa
nhập với thế giới.
Sinh thời Bác Hồ kính yêu của chúng ta luôn quan tâm đến công tác
chăm sóc, bồi dưỡng, giáo dục. Trong bài thơ " Nửa đêm" của tập thơ (Nhật Ký
trong tù) Bác đã khẳng định:
"Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên"
Hai câu thơ đã thể hiện quan điểm của Bác về sự hình thành và phát
triển nhân cách của con người dưới sự ảnh hưởng không chỉ do yếu tố di truyền
mà giáo dục chính là cốt nõi để rèn luyện nhân cách con người.

Trong những năm trở lại đây, sự cải cách lớn của nền giáo dục cơ bản,
nước ta bước đầu đã chuyển hóa theo hướng giáo dục tố chất toàn diện giáo dục
phát triển lấy trẻ làm trung tâm. Đây là cơ hội đồng thời là thử thách lớn cho
nền giáo dục Việt Nam. Mặc dù trong giáo dục thì giáo dục kỹ năng sống
không phải là một môn học chính nhưng có ảnh hưởng lớn đến mọi mặt trong
việc nâng cao tố chất toàn diện, nó cũng có vai trò quan trọng trong việc hình
thành và phát triển tố chất toàn diện cho trẻ.
3. Điều tra thực trạng
Một việc làm không thể thiếu khi thực hiện đề tài đó là “điều tra thực
trạng” vì nó giúp cho tôi thấy được những ưu điểm và hạn chế của đối tượng
nghiên cứu khi áp dụng đề tài để từ đó giúp tôi tìm ra được biện pháp thực hiện
có hiệu quả tốt nhất.
3.1. Thuận lợi:
- Được sự quan tâm của ban giám hiệu nhà trường luôn chỉ đạo sát sao
với công tác chuyên môn, luôn có sự đầu tư và bồi dưỡng cho chuyên môn.
7


- Giáo viên có trình độ đạt chuẩn trở lên. Nhà trường tạo mọi điều kiện
về cơ sở vật chất trang thiết bị đồ dùng phục vụ cho việc dạy và học.
- Học sinh có cùng độ tuổi nên cũng thuận lợi cho việc giảng dạy. Phụ
huynh cũng đã quan tâm tới việc học của con em mình. Tuy nhiên bên cạnh đó
thì cũng không ít những khó khắn:
3.2. Khó khăn:
- Khả năng lông ghép kỹ năng sống vào các hoạt động và các môn học
khác của giáo viên còn hạn chế.
- Qua thực tế nhiều năm giảng dạy thì về cơ sở vật chất của trẻ đã có
nhưng còn thiếu thốn chưa đạp ứng được với vấn đề chăm sóc giáo dục trẻ và
qua điều tra thực tiễn cho thấy trẻ mầm non hiện nay còn thiếu những kỹ năng
sống cơ bản, cần thiết.

- Một số trẻ còn nhút nhát, chưa mạnh dạn tự tin tham gia vào các hoạt
động, chưa mạnh dạn khi trả lời câu hỏi. Trẻ chưa tự giác tham gia vào những
công việc tự phục vụ, chưa cố gắng hoàn thành công việc được giao vẫn để cô
phải nhắc nhở. Một số trẻ chưa biết tìm cách giải quyết các mâu thuẫn, vẫn nhờ
sự can thiệp của cô.
- Một số phụ huynh chưa hiểu hết được tầm quan trọng của việc rèn kỹ
năng sống cho trẻ, do vậy mà chưa thực sự quan tâm đến vấn đề này. Cái mà
phụ huynh quan tâm là hôm nay con học được chữ cái gì, số mấy, kể được câu
chuyện gì, hát được bài gì..... hơn là hôm nay con đã học được kỹ năng gì. Bố
mẹ trẻ cũng chưa thực sự là một tấm gương sáng cho trẻ học tâp và noi theo mà
với trẻ môi trường sống trong gia đình là nơi trẻ dễ học tập nhất. Trong thực tế
hiện nay mỗi gia đình chỉ có 1 đến 2 con, cuộc sống tương đối khá giả nên đa
số cha mẹ là rất chiều con, không muốn con phải làm bất cứ việc gì, mọi việc
của trẻ đều do cha mẹ làm hết, ngay cả kỹ năng tự phục vụ trẻ cũng có thể tự
thực hiện được rất tốt nếu như có sự hướng dẫn của người lớn và trẻ thường
xuyên được thực hiện nhưng vì thương con không muốn con làm nên cha mẹ
đã tự làm mất đi tính tự lập của trẻ.
8


Để tiến hành “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu
giáo
5- 6 tuổi” đạt kết quả tốt, tôi đã thực hiện các biện pháp khảo sát ở lớp tôi phụ
trách tại thời điểm tháng 9 năm học 2014 và kết quả như sau:
- Bảng 1: Kết quả điều tra. (Phụ lục 3)
Thời

Tổng

điểm


số trẻ

Các kỹ năng Tốt

Tỷ lệ

Kh

Tỷ lệ

Đạt

Tỷ lệ

Không

Tỷ lệ

á
11

%
36

y/c
8

%
27


đạt
6

%
20

Kỹ năng giao
tiếp

5

%
17

Kỹ năng nhận
thức bản thân

9

30

12

40

7

23


2

7

Kỹ năng quản
Tháng
lý clý cảm xúc
Kỹ năng hợp
9/ 2014 30
Tác

5

17

10

33

10

33

5

17

4

13


9

30

11

37

6

20

3

10

8

27

9

30

10

33

kỹ năng ứng

phó với các
tình huống có
thể xảy ra.

Từ kết quả khảo sát trên cho thấy những kỹ năng của trẻ chưa cao do vậy
tôi đã tiến hành sử dụng các biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ để đưa
vào áp dụng dạy trẻ.
4. Các biện pháp thực hiện
4.1. Biện pháp 1: Xác định các kiến thức cơ bản cần dạy trẻ về kỹ năng
sống.
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là giáo dục cho trẻ có những kinh nghiệm
trong cuộc sống. Trong cuộc sống trẻ cần có rất nhiều kinh nghiệm để hòa nhập
và phát triển do vậy tôi cần xác định rõ những kỹ năng cơ bản nhất cần dạy trẻ
là các kỹ năng:
- Kỹ năng giao tiếp. Kỹ năng giao tiếp lịch sự lễ phép là trẻ biết lắng
nghe, không nói leo, kỹ năng chào hỏi khi đến lớp biết chào cô về nhà biết chào
ông bà, bố mẹ gặp người lớn biết chào. Khi người khác cho qua biết xin bằng
9


hai tay, biết cảm ơn,… Kỹ năng ứng xử lễ phép, gần gũi với những người xung
quanh.
- Kỹ năng nhận thức bản thân: Là trẻ nhận biết về bản thân mình như tên,
tuổi, đặc điểm, tên bố mẹ, địa chỉ nhà, số điện thoại,…
- Kỹ năng quản lý cảm xúc: Trẻ biết thể hiện cảm xúc của mình như
“vui, buồn, biết lắng nghe, chia sẻ cảm xúc của mình với mọi người xung
quanh”.
- Kỹ năng hợp tác: Trẻ thể hiện sự thân thiện, hòa thuận với bạn bè biết
chia sẽ giúp đỡ bạn khi cần thiết, cùng bạn hoàn thành một việc đơn giản, biết
tìm sự giúp đỡ khi cần thiết.

- Kỹ năng ứng phó với các tình huống có thể xảy ra: Trong cuộc sống có
rất nhiều các tình huống bất chắc có thể xảy ra như “ bị lạc mẹ, người lạ dủ đi,
xâm hại trẻ, hay thiên tai, hỏa hoạn, bao lũ, đuối nước,…” những tình huống đó
có thể xảy ra bất cứ lúc nào vì vậy trẻ cũng cần có những kỹ năng nhận biết và
ứng phó với các tình huống nẩy sinh trong xã hội.
4.2. Biện pháp2: Lồng ghép tích hợp thông qua các hoạt động trong ngày,
ở mọi lúc mọi nơi.
4.2.1: Kỹ năng giao tiếp lịch sự và quan hệ xã hội:
Giao tiếp là một trong những kỹ năng cơ bản và quan trọng đối với trẻ vì
thông qua đó trẻ có thể bày tỏ ý tưởng, suy nghĩ, nhận thức của mình với người
khác như giới thiệu về bản thân, gia đình trước mọi người, biết đặt ra những
câu hỏi cho cô và cho bạn, hình thành kỹ năng sống tự tin, mạnh dạn, giúp trẻ
nhận thức được mình là ai cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với
người khác.
Thông qua giờ đón trả trẻ tôi dạy trẻ kỹ năng biết giao tiếp lịch sự, lễ phép,
biết chào hỏi mọi người xung quanh, khi nói chuyện nói đủ nghe không la hét
và nhìn vào mặ của người đang nói chuyện đó là một trong những kỹ năng đầu
tiên cần dạy trẻ. Khi vào lớp các cháu biết khoanh tay chào cô, về nhà biết chào
ông bà, bố mẹ biết chào hỏi quan tâm tới mọi người xung quanh.

10


Ngoài ra tôi còn rèn cho trẻ có một số quy tắc trong giờ học đó là không
nói leo, nói đổng, muốn trả lời con phải giơ tay và thưa cô. Nếu có lỗi phải biết
nhận lỗi và xin lỗi người khác và trẻ hứa sẽ không tái phạm nữa.
* Ví dụ: Trong một tình huống
Khi hai trẻ tranh giành đánh nhau, lúc đó cô sẽ là người giải quyết mâu
thuẫn giữa hai trẻ. Trước hết cô phải tìm ra nguyên nhân và lý do dẫn đến hành
vi đánh nhau của hai bạn và giải thích cho trẻ hiểu, sau đó cho trẻ xin lỗi bạn.

Qua đó rèn cho trẻ có thói quen biết xin lỗi khi mắc lỗi, biết xin bằng hai tay và
cảm ơn khi người khác cho quà hoặc làm một việc gì đó cho mình.
* Kỹ năng mạnh dạn, tự tin, tự trọng:
Kỹ năng giao tiếp là vô cùng cần thiết đối với trẻ do vậy mà tôi luôn gần
gũi với trẻ, tạo cho trẻ có một tâm lý thoải mái ở mọi lúc mọi nơi.
Tôi luôn tạo môi trường giao tiếp cho trẻ và giúp cho trẻ có cảm giác thoải mái
có nhu cầu giao tiếp bằng lời, có nghĩa là trong hoạt động tôi phải kích thích trẻ
hoạt động thông qua các trò chơi, câu đố, các câu hỏi để kích thích trẻ tham gia
qua đó giúp trẻ mạnh dạn, tự tin hơn khi giao tiếp.
*Ví dụ: Trong chủ đề gia đình với tiết KPXH “Gia đình của bé” tôi trò
chuyện với trẻ, rèn cho trẻ có kỹ năng giao tiếp với cô giáo với các bạn đây là
một trong những kỹ năng cơ bản và quan trọng đối với trẻ vì thông qua đó trẻ
có thể bày tỏ ý tưởng, suy nghĩ, nhận thức của mình với người khác như trẻ có
thể giới thiệu về bản thân và gia đình thông qua các câu hỏi của cô như:
+ Con hãy giới thiệu về mình? sở thích của con là gì?
+ Nhà con có mấy người ?
+ Bố mẹ con tên là gì? làm nghề gì?
+ Địa chỉ , số điện thoại bố( mẹ)?.....
Hay trong các tiết học tôi thường cho trẻ tự đặt ra câu hỏi cho cô và các
bạn, tự nói lên những suy nghĩ của mình trước cô và các bạn hình thành kỹ
năng sống tự tin, mạnh dạn trước đám đông, giúp trẻ nhận thức được mình là ai
cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với người khác.

11


* Kỹ năng thuyết phục và thương thuyết:
- Ngoài ra để giúp trẻ có kỹ năng giao tiếp được tốt tôi thường xuyên cho trẻ
làm việc và hoạt động theo nhóm để trẻ học cách thiết lập mối quan hệ với bạn
bè, biết thuyết phục và thương thuyết, chia việc và giải quyết các vấn đề cùng

nhau để đạt được kết quả cao nhất.
4.2.2. Kỹ năng nhận thức về bản thân:
- Kỹ năng tự phục vụ:
Đây là một trong những kỹ năng rất cần thiết mà cô giáo cần phải dạy trẻ
giúp trẻ có những kỹ năng như: Kỹ năng tự phục vụ bản thân, kỹ năng tự bảo
vệ trước những nguy hiểm, nhận biết những giá trị của bản thân. Để trẻ có kỹ
năng sống tốt, chúng ta cần giúp cho trẻ thành thạo những kỹ năng nhỏ nhất đó
là kỹ năng tự phục vụ như: tự xúc ăn, tự mặc quần áo, tự chăm lo vệ sinh cá
nhân, những văn hoá trong ăn uống ...
* Ví dụ: Trong giờ ăn
Tôi rèn cho trẻ có một số kỹ năng tự phục vụ, tính tự lập như: tự kê bàn, kê
phản, lấy chiếu, tự rửa tay sạch sẽ trước khi ăn, tự xúc ăn, biết phơi khăn mặt,
biết mời cô mời các bạn trước khi ăn, biết cách sử dụng đồ dùng vật dụng trước
khi ăn. Thái độ ăn uống từ tốn không vội vã, ngồi ngay ngắn, không làm rơi vãi
thức ăn, nhai nhỏ nhẹ, ngậm miệng khi nhai thức ăn, không nói chuyện trong
giờ ăn. Ăn xong biết cất dọn bát thìa, ca, cốc, bàn ghế đúng nơi quy định.
- Kỹ năng tự bảo vệ bản thân:
Ngoài ra cô giáo cần dạy cho trẻ có kỹ năng tự bảo vệ mình trước
những nguy hiểm, biết tránh xa những đồ dùng, vật dụng có thể gây nguy hiểm
cho bản thân mình.
* Ví dụ: Cô phải giải thích, giáo dục cho trẻ biết lý do tại sao không
được chơi với những vật dụng sắc nhọn như dao, kéo, đinh, kim, những ổ điện,
phích nước nóng,...có thể gây nguy hiểm để trẻ biết và tránh xa. Dạy trẻ không
được nói chuyện, nhận quà và đi theo người lạ, dạy trẻ thuộc lòng địa chỉ, số
điện thoại của bố mẹ đó là kỹ năng giúp trẻ biết tự bảo vệ mình trước những
nguy hiểm.
12


Ngoài ra tôi còn đưa ra các tình huống cụ thể như cho trẻ chơi trò chơi

“Bé làm gì khi có cháy”?
- Mục đích để trẻ nhận biết được các ký hiệu: Cửa thoát hiểm, cầu thang thoát
hiểm. Trẻ biết cách xử lý khi xảy ra hỏa hoạn. Trẻ biết tuân thủ sự hướng dẫn
của người lớn khi xảy ra hỏa hoạn….
Sau khi trẻ được thực hành cô cho trẻ thảo luận về cảm giác của trẻ khi
nghe tiềng hô báo” Cháy! Cháy!...”
Cô đặt ra các câu hỏi gợi mở trí tưởng tượng của trẻ và trẻ phải suy nghĩ để đưa
ra câu trả lời.
* Ví dụ: - Con sẽ làm gì nếu áo của mình bị cháy?
- Con sẽ làm gì nếu áo bạn bị cháy?
- Con và gia đình sẽ làm gì khi có khỏi và lửa trong nhà?...
Với những câu hỏi tôi đưa ra trẻ sẽ phải suy nghĩ và nêu ra ý tưởng của
mình. Từ đó cô giáo dục cho trẻ những kỹ năng sống cần có khi có các tình
huống bất thường xảy ra.
Ngoài ra tôi còn lồng giáo dục kỹ năng sống “Thông qua tình huống cụ
thể” như:
*Ví dụ: Tình huống“Khi bé bị lạc mẹ trong siêu thị thì - bé sẽ làm gì”?
Tôi cho trẻ suy nghĩ và mỗi trẻ đưa ra một cách giải quyết khác nhau. Cô lắng
nghe ý kiến của trẻ, cho trẻ trả lời theo ý nghĩ của trẻ cô có thể gợi mở cho trẻ
bằng các câu hỏi:
+ Theo con làm như vậy có được không? Tại sao? Sau đó cô giúp trẻ đưa
ra phương án tối ưu nhất để giải quyết đó là:
- Khi bị lạc mẹ, bé hãy bình tĩnh, không khóc và không chạy lung tung hãy
đứng yên tại chỗ vì bố mẹ sẽ quay lại tìm hoặc con có thể đến chỗ chú bảo vệ
hay cô bán hàng nhờ gọi điện cho bố, mẹ hoặc đọc lên loa báo tìm bố mẹ.
Tuyệt đối không được đi theo người lạ dù người đó có hứa đưa con về với bố,
mẹ. Vì đó có thể là kẻ xấu lợi dụng để bắt cóc hoặc làm hại con.

13



Với tình hình phức tạp trong xã hội hiện nay, nhiều tình huống bất trắc
có thể xảy ra đối với trẻ như bắt cóc, xâm hại,…tôi đưa ra các tình huống để
dạy trẻ như:
“Nếu có người không quen biết cho con quà con nên làm như thế nào” Ở tình
huống này với lứa tuổi của trẻ thì trẻ sẽ rất thích được nhận quà và không biết
được tại sao mình không được nhận. Khi trẻ đưa ra thảo luận với những giả
thiết, tình huống xấu “Nếu đó là kẻ xấu sẽ rất nguy hiểm cho trẻ”. Cô phân tích
cho trẻ giải thích cho trẻ giúp trẻ đưa ra phương án giải quyết đó là:
- Tuyệt đối không nhận quà hoặc ăn bánh kẹo của người lạ vì có thể người xấu
sẽ tẩm thuốc mê và sẽ bị trúng mưu của kẻ xấu. Khi gặp trường hợp này con sẽ
nói “Cháu cảm ơn cô (bác), nhưng bố mẹ cháu không cho nhận quà của người
lạ ạ”.
Từ những tình huống cụ thể như vậy tôi dạy cho trẻ những kỹ năng đơn
giản nhất trong cuộc sống hàng ngày nhằm tạo cho trẻ có kiến thức sâu sắc về
việc tự bảo vệ bản thân và người thân của mình.
4.2.3. Kỹ năng quản lý cảm xúc:
* Kỹ năng biết cảm thông chia sẻ:
- Ví dụ1: Tôi dạy trẻ biết cách chia sẻ đồ dùng học tập, đồ chơi cho bạn
qua thông điệp " Chơi với bạn thì vui- chơi một mình thì buồn".
- Hay: Thường xuyên kể cho trẻ nghe những câu chuyện cổ tích qua đó rèn
luyện đạo đức cho trẻ, dạy trẻ biết yêu thương con người, sống có trách nhiệm
với người thân, yêu quê hương đất nước như truyện: Ba cô gái, Tấm cám,
Thánh Gióng,....
- Ví dụ 2: Lớp tôi có một cháu rất nhút nhác cháu không muốn chơi với
mọi người xung quanh, chỉ ngồi một mình, lúc nào cũng tỏ ra sợ sệt. Lúc đầu
các trẻ trong lớp tôi thường chêu chọc, không thích gần nhưng tôi đã phải kể
cho trẻ nghe câu chuyện: "Bạn mới", sau đó tôi giải thích cho trẻ hiểu sự thiệt
thòi của bạn và nói cho các cháu biết là bạn ấy đang rất cần sự giúp đỡ, cảm
thông, chia sẻ của cô và các con đấy, chính vì thế cô và các con phải gần gũi


14


yêu thương bạn ấy hơn nhé. Từ đó tôi thấy trẻ lớp tôi có thái độ khác hẳn như:
rủ bạn ngồi cùng, rủ bạn cùng chơi, cùng làm, giúp bạn lấy đồ dùng học tập…
* Kỹ năng tự lập:
Đây là một trong những kỹ năng rất cần thiết đối với trẻ giúp trẻ có tính
tự giác, độc lập, không dựa giẫm vào người khác có ý thức tự lập biết tự phục
vụ mình trẻ biết làm những việc đơn giản vừa với sức của mình, thích làm việc
giúp đỡ mọi người.
- Ví dụ: Cho trẻ tự thay quần áo, tự xúc ăn, tự cất đồ chơi sau khi chơi, tự
rửa tay,.... trẻ muốn giúp cô, mẹ quét nhà, cất dọn bàn ghế, bát đĩa sau khi ăn
xong, …
* Kỹ năng tò mò ham học hỏi:
- Ví dụ: Trong giờ hoạt động khám phá khoa học hay Hoạt động ngoài trời:
Đây là một trong những hoạt động mà trẻ rất thích thú bởi thông qua hoạt động
này trẻ được khám phá trải nghiệm những điều mới lạ từ thế giới xung quanh
mình như cỏ, cây hoa lá, nước, cát, sỏi, các hiện tượng tự nhiên mưa, gió, sấm,
chớp, mặt trời, mặt trăng... Tất cả với trẻ đều vô cùng mới lạ những câu hỏi
như: Tại sao lại có mưa? Vì sao lại có cầu vồng? Nước ở đâu mà có?.....Tất cả
những câu hỏi đó của trẻ đều thể hiện kỹ năng tò mò, ham học hỏi, kỹ năng
thấu hiểu của trẻ, đây là kỹ năng vô cùng quan trọng đối với trẻ, giáo viên cần
phát huy kỹ năng này của trẻ thông qua các hoạt động và giáo viên phải luôn tỏ
ra vui vẻ trước những câu hỏi đầy tò mò của trẻ, qua đó nó kích thích tư duy
tưởng tượng của trẻ.
Ngoài ra trong giờ ăn, ngủ tôi rèn cho trẻ có ý thức không chêu đùa bạn,
không nói chuyện trong giờ ngủ sẽ làm ảnh hưởng tới bạn khác. Trong giờ hoạt
động ngoài trời trẻ được chăm sóc cây xanh giúp trẻ có ý thức chăm sóc và bảo
vệ cây. Trong giờ hoạt động chiều tôi đưa những nội dung giáo dục kỹ năng

sống vào dạy trẻ như dạy trẻ biết tự gấp quần áo ngăn lắp gọn gàng, để đồ
dùng, đồ chơi đúng nơi quy định hay trẻ được thực hành kỹ năng sử dụng năng
lượng tiết kiệm hiệu quả, kỹ năng xử lí các tình huống có thể xảy ra…

15


4.2.4. Kỹ năng ứng phó với biến đổi khí hậu.
Biến đổi khí hậu là một trong những vấn đề gây ra rất nhiều thiệt hại với
những tổn thất nặng nề vật chất, tinh thần, về tính mạng con người. Trẻ nhỏ là
người nhạy cảm với những ảnh hưởng của môi trường, dễ bị tổn thương nhất
với sự biến đổi đột ngột của khí hậu vì vậy trong cuộc sống hiện đại thì việc
cần làm và cấp thiết đó là dạy cho trẻ những kỹ năng nhận biết và ứng phó với
việc BĐKH. Trẻ biết tự bảo vệ mình khi thời tiết thay đổi hay có biến cố gì xảy
ra…
- Ví dụ: Tôi đưa ra tình huống bé làm gì để bảo vệ sức khỏe và đảm bảo
an toàn khi có hiện tượng thời tiết bất thường?
Trước tiên cô phải trao đổi cùng trẻ về những dấu hiệu bất thường của
thời tiết, biểu hiện của BĐKH làm ảnh hường tới sức khỏe như: Nóng sốt, ho,
chảy mước mũi,… Hoặc những dấu hiệu nhận biết trời sắp mưa, trời mưa, bão,
lũ lụt. Có thể cho trẻ tìm hiểu qua tranh ảnh hay những cuốn phim tư liệu về
những hình ảnh mưa bão, lũ lụt, lốc xoáy,… để trẻ nhận biết và ghi nhớ những
hiện tượng bất thường về khí hậu. Dạy trẻ biết tránh xa những nơi nguy hiểm
như: Sườn đồi, dốc khi có mưa hay gây sạt lở đất, lũ lụt, không đứng dưới cây
to, cột điện khi có mưa to, sẫm sét…
Cách ứng phó với biến đổi khí hậu
Các biểu hiện tiêu cực của thời tiết
Cách ứng phó
Trời nắng nóng gay gắt(Nắng nóng - Ra ngoài trời phải đội mũ, đeo khẩu
khó chịu, người ra nhiều mồ hôi, trang. Mặc quần áo mỏng, uống nước

khát nước, hayngười vã mồ hôi và đầy đủ, không chơi ngoài nắng…
lạnh đột ngột…)
Trời mưa, dông, sấm sét (Mưa to làm - Chạy ngay vào nhà, vào lớp học. thay
ướt quần áo, cây đổ,…)

quần áo và giữ cho cơ thể luôn được
ấm, gọi người lớn đến giúp. Gọi số 113

để tìm người cứu giúp.
Khi có cháy xảy ra (Cháy to khói - Thấy có cháy hét thật to để báo cho
nhiều không tìm được lối ra cửa,…)

người lớn và mọi người xung quanh

Cháy trong phòng (nóng, khói…)

biết. biết gọi số điện thoại khẩn cấp 114
16


- Dùng khăn ướt bịt mũi để hạn chế hít
phải khói.
Từ những kiến thức cô cung cấp cho trẻ, trẻ được nghe, tim hiểu, quan
sát cô đưa ra các câu hỏi để trao đổi, trò chuyện về cách bảo vệ sức khỏe khi
thời tiết thay đổi.
+ Những dấu hiệu nào cho con biết mình sắp bị ốm?
+ Khi đi ra ngoài gặp trời mưa bão con sẽ làm gì?
+ Khi trời nắng nóng gay gắt con nên làm gì?...
Cô đặt ra các câu hỏi để trẻ phải suy nghĩ và từ những kiến thức trẻ đã được
nghe, xem và từ đó đưa ra suy nghĩ, ý kiến của mình và các cách giải quyết.

Cô chú ý lắng nghe và đưa ra những ý kiến tổng quát để giúp cho trẻ hiểu rõ
hơn và từ đó áp dụng vào trong thực tế, cuộc sống hàng ngày của trẻ.
Ngoài ra cô cho trẻ chơi các trò chơi thực hành các tình huống để rèn
luyện cho trẻ phản xạ nhanh nhẹn với việc ứng phó với việc BĐKH.
4.3. Biện pháp 3. Dạy trẻ kỹ năng sống thông qua các môn học
Tôi luôn quan tâm đến việc rèn kỹ năng sống cho trẻ 5 – 6 tuổi vì vậy
trong năm học này tôi nghiên cứu và lựa chọn lồng ghép kỹ năng sống vào các
môn học để dạy trẻ như.
* Thông qua HĐLQVH: với chủ đề “Gia đình”. Khi dạy trẻ câu truyện“Ai
đáng khen nhiều hơn” cô giáo dục cho trẻ biết vâng lời mẹ và biết giúp đỡ
người khác khi gặp khó khăn biết quan tâm đến những người xung quanh. Và
hơn hết là chính bản thân mình nếu trẻ bị lạc bố mẹ thì trẻ phải làm gì? …
Thông qua hình thức tổ chức để rèn kỹ năng cho trẻ trong phần đàm
thoại tôi sử dụng hình thức trò chơi như “Rung chuông vàng” ở đây trẻ biết kết
hợp cùng nhau để tìm ra câu trả lời cho câu hỏi cô đặt ra. Và bầu ra một người
nhóm trưởng để lãnh đạo nhóm chơi.
Ở chủ đề “Nước và mùa hè” với chủ đề này ngoài việc giáo dục trẻ tránh
xa ao, hồ, hố nước nguy hiểm, sông, suối thì nhà vệ sinh, nhà tắm cũng nhiều
tình huống có thể xảy ra gây nguy hiểm cho trẻ. Vì vậy tôi đã sưu tâm và sáng

17


tác ra một số câu chuyện để dạy trẻ cách sử dụng an toàn trong phòng tắm bằng
cách đưa vào câu truyện để trẻ rút ra bài học kinh nghiệm cho mình.
* Ví dụ 1: Truyện ( Mùa hè đáng nhớ - Phụ lục 4).
Qua câu truyện tôi giúp trẻ rút ra bài học:
- Sàn nhà tắm rất trơn, tuyệt đối không chạy nhảy, leo trèo sẽ bị ngã. Có
những tình huống bất trắc xảy ra không chỉ với trẻ em mà đôi khi còn xảy ra
với cả người lớn đó chính là nội dung câu truyện mà trẻ cần biết để tăng thêm

kỹ năng sống cho bản thân mình. Ngoài ra tôi còn giáo dục cho trẻ nếu không
có người lớn xả nước thì tuyệt đối trẻ không được tự làm vì xả nước ở vòi vào
mùa đông có nước nóng rất dễ xảy ra bỏng khi sử dụng bình nóng lạnh.
- Khi tắm bồn: Chờ người lớn xả nước và giúp vào bồn, không tự ý xả
nước và trèo vào đề phòng nước nhiều quá sẽ gây nguy hiểm.
Trong cuộc sống sinh hoạt thường ngày có rất nhiều những bất trắc xảy
ra rất dễ gặp trong cuộc sống mà trẻ nhỏ vần chưa ý thức được do vậy với chủ
đề Giao Thông tôi đưa ra câu truyện:
Ví dụ 2: Truyện “Không nên vội - phụ lục 4”.
Qua câu truyện trên trẻ đã nhận thức được sự cần thiết của việc đội mũ
bảo hiểm khi tham gia giao thông. Khi ngồi trên xe bắt buộc phải đội mũ bảo
hiểm và việc đội mũ bảo hiểm sẽ an toàn hơn khi tham gia giao thông. Từ đó
tạo cho trẻ ý thức luôn chấp hành tốt luật lệ ATGT ngay từ bé.
* Thông qua HĐ giáo dục âm nhạc: Với bài hát “Tập rửa mặt” của nhạc sỹ
“ Hồng Đăng” tôi lồng giáo dục kỹ năng tự rửa mặt, rửa tay vào cho trẻ và cho
trẻ nói nên các bước rửa mặt, rửa tay từ đó trẻ sẽ có ý thức tự giác thực hành
thao tác vệ sinh cá nhân mà không cần sự nhắc nhở của cô.
Trong hoạt động giáo dục âm nhạc thì việc tổ chức cho trẻ biểu diễn theo nhóm
cũng là một hình thức phát triển hoạt động theo nhóm, tổ, cả lớp. Khi cô mời
trẻ lên biểu diễn thì trẻ có thể mời thêm các bạn khác cùng lên thể hiện bài hát
đó cùng trẻ.
* Thông qua HĐKPKH: với đề tài “Mũ bảo hiểm, khẩu trang, kính” Qua bài
cô giáo dục cho trẻ có ý thức tự giác thích đội mũ bảo hiểm, đeo khẩu trang,
18


đeo kính. Dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ, biết phê bình cái xấu. Từ đó giáo dục trẻ
luôn chấp hành luật lệ ATGT… Ví dụ (Giáo án minh họa - Phụ lục 5)
* Thông qua hoạt động tạo hình: Ví dụ đề tài “Vẽ hoa mùa xuân”
Ví dụ (Giáo án minh họa- Phụ lục 6)

Sau khi đàm thoại cùng trẻ tôi hướng để trẻ làm việc theo nhóm cho trẻ thi đưa
giữa các nhóm từ đó kích thích tính hợp tác và biết động viên nhắc nhở nhau
cùng làm nhanh và làm tốt bài của mình.
Trong phần nhận xét sản phẩm tôi để cho trẻ tự nhận xét bài của mình, bài của
bạn để trẻ tự nói lên suy nghĩ, ý tưởng của mình. Từ đó phát triển cho trẻ kỹ
năng mạnh dạn, tự tin nói lên cảm nghĩ của mình.
4.4. Biện pháp 4. Giúp trẻ phát triển các kỹ năng sống thông qua
việc tổ chức các hoạt động vui chơi.
Hoạt động vui chơi là hoạt động chiếm vai trò chủ đạo trong hoạt động
của trẻ ở trường mầm non. Qua giờ chơi trẻ được đóng các vai khác nhau trong
xã hội trẻ thể hiện lại những gì trẻ nhìn thấy, nghe thấy trong cuộc sống với
những kiến thức và kinh nghiệm có được trong cuộc sống sẽ được trẻ thể hiện
lại qua hoạt động vui chơi. Chính vì lẽ đó tôi rất chú trọng đến việc tạo các tình
huống khi trẻ đóng vai để trẻ tìm cách giải quyết cũng như quan sát trẻ xem trẻ
thể hiện những kiến thức trẻ được học đó như thế nào?
*Kỹ năng hợp tác: làm việc theo nhóm:
Đây là một trong những kỹ năng rất cần thiết và quan trọng với trẻ giúp
trẻ biết cảm thông, đoàn kết và cùng làm việc với bạn. Đặc biệt là thông qua
các trò chơi sẽ giúp trẻ hiểu cách cùng làm việc với bạn tốt hơn.
Vui chơi càng mang tính chất tự nguyện bao nhiêu thì càng phát huy tính
chủ động, sáng tạo, độc lập và nảy sinh nhiều sáng tạo bấy nhiêu. Trong khi
chơi các trò chơi đóng vai theo chủ đề đòi hỏi trẻ phải có sự phối hợp giữa các
thành viên trong nhóm chơi với nhau, biết ra quyết định và giải quyết các vấn
đề theo cách của riêng trẻ. Thông qua các trò chơi đóng vai, tạo cơ hội cho trẻ
được tương tác, kỹ năng hợp tác sẽ giúp cho trẻ biết cảm thông, chia sẻ cùng

19


làm việc với bạn. Đây cũng là cơ hội cho trẻ tập luyện kỹ năng sống một cách

phù hợp vào các tình huống chơi.
Trong khi tổ chức cho trẻ chơi cô nhập vai cùng trẻ cô tạo tình huống mẹ
đi chợ về mưa một túi đồ rất nặng gọi trẻ ra mang vào giúp. Khi trẻ không
mang được vật nặng đó trẻ đã biết phối hợp với bạn nhờ bạn đến giúp để cùng
nhau mang đến đồ đến cho cô.
Từ các tình huống xảy ra trong thường ngày trẻ đã có kỹ năng biết chơi
và cùng phối hợp biết giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn.
- Ví dụ trong HĐ góc: Trong góc chơi phân vai trò chơi “Gia đình” khi
cô đóng gia một người lạ đến gõ cửa nhà khi bé ở nhà một mình thì trẻ biết
nhắc bạn là không được mở cửa phải chờ bố, mẹ về đã”.
Hoặc cho trẻ trong nhóm chơi gia đình đi siêu thị mua đồ sắm tết tình huống
đặt ra là trẻ bị lạc mất mẹ thì trẻ sẽ làm gì? Ngay lập tức trẻ đã đi tới chỗ cô bán
hàng và bảo cô gọi điện thoại giúp cho bố, mẹ. trẻ đóng vai là người bán hàng
cũng nhắc trẻ đứng vào đây cùng cô tí bố mẹ sẽ đến đón.
Với nhóm chơi nấu ăn thì tôi cũng chú ý tới các thao tác, hành động mà trẻ thể
hiện khi đóng vai của mình.
Ví dụ: Khi trẻ chơi nấu ăn cô chú ý xem trẻ bắc nồi lên bếp như thế nào
và đặt đúng giữa bếp chứa? Khi bắc phải dùng nót tay và chú ý không sẽ bị
bỏng.
Qua các trò chơi đóng vai trẻ thể hiện được những kỹ năng mà trẻ đã thu
nhận được qua đời sống thực tế hàng ngày.
Ngoài ra cô còn cho trẻ thể hiện qua các trò chơi dân gian. Qua một số các trò
chơi dân gian tôi rèn luyện cho trẻ có kỹ năng vận động, kỹ năng hợp tác, đoàn
kết phối hợp cùng nhau: Trò chơi rồng rắn, mèo đuổi chuột, lộn cầu vồng, kéo
co, Bịt mắt bắt dê...
Ngoài ra thông qua các hoạt động thì sự khen ngợi, động viên trẻ kịp thời
của giáo viên cũng là phương pháp tốt để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.

20



4.5. Biện pháp 5: Phối hợp với phụ huynh rèn kỹ năng sống cho trẻ.
Bên cạnh việc dạy trẻ ở trường thì tôi cũng chú trọng đến việc trao đổi
với phụ huynh để cùng phối hợp dạy kỹ năng sống cho trẻ. Tuyên truyền trao
đổi cùng phụ huynh không nên làm hộ con mà phải dạy con tính tự lập từ nhỏ.
Hướng dẫn cho trẻ biết cách tự bảo vệ mình, biết nhận biết những mối nguy
hiểm từ xung quanh và cách xử lý trẻ sẽ vững vàng vượt qua những thử thách
đó trong mọi tình huống xấu. Việc dạy trẻ những kỹ năng đó cần một quá trình
dài, nhiều phụ huynh nghĩ rằng con mình còn quá nhỏ để hiểu những điều đó
cũng như nghĩ rằng trẻ đã có sự bao bọc của bố mẹ nên không cần dạy điều đó.
Nhưng trên thực tế thì không phải lúc nào bố mẹ cũng ở bên cạnh con không có
tình huống xấu.
Trong thời gian gần đây có nhiều trẻ nhỏ bị lạm dụng, bị xâm hại mà thủ
phạm không ai khác lại là những người thân quen như bạn bố mẹ hay những
người hàng xóm quen biết,…chính vì vậy người lớn cần khéo léo, tế nhị kể cho
con nghe những tình huống xấu có thể gây hại cho trẻ và giúp con biết cần xử
lý như thế nào. Cô giáo cùng phối hợp với phụ huynh khéo léo dạy trẻ biết giữ
gìn bảo vệ các cơ quan, các bộ phận trên cơ thể giúp trẻ chủ động, cảnh giác
với những người quan tâm thái qua đến cơ thể của trẻ.
Trong cuộc sống hàng ngày nên dạy trẻ xử lý các tình huống bất trắc mà trẻ có
thể gặp phải dưới các hình thức như trò chuyện, tạo tình huống, gợi mở giúp trẻ
tìm cách giải quyết vấn đề, không nên áp đặt cho trẻ, cấm đoán trẻ. Mà cho trẻ
tự suy nghĩ và nói lên cách xử lý sau đó bố, mẹ, cô giáo mới nói lên cách giải
quyết hợp lĩ nhất để giúp trẻ hiểu nếu xảy ra sẽ phải làm như thế nào?
Từ những suy nghĩ cách xử lý ở các tình huống cụ thể giúp trẻ dần có kỹ
năng suy đoán, và biết áp dụng những kinh nghiệm của mình để tìm cách giải
quyết. Từ đó dần hình thành cho trẻ những kinh nghiệm, những kỹ năng biết tự
bảo vệ mình trong cuộc sống sau này.
Không ngừng tuyên truyền tời các bậc phụ huynh rằng: Giáo dục kỹ
năng sống là giúp trẻ nâng cao năng lực tự bảo vệ bản thân, biết suy đoán và

giúp đỡ những người xung quanh xuất phát từ chính những kinh nghiệm, kỹ
21


năng mà trẻ đã học được. Bên cạnh đó yêu cầu phụ huynh phối hợp cùng cô
giáo trong việc thông nhất phương pháp giáo dục trẻ như:
- Tin tưởng vào trẻ và năng lực của trẻ.
- Tôn trọng ý kiến của trẻ, không áp đặt ý kiến của mình.
- Không vội vàng phê phán trẻ đúng hay sai mà cần kiên trì giúp trẻ biết tranh
luận và có thể đưa ra kết luận của mình.
Bằng cách tuyên truyền trao đổi trực tiếp tôi với phụ huynh tôi đã nhận
được sự đồng tình ủng hộ từ phụ huynh. phụ huynh đã hiểu được răng dạy trẻ
những kỹ năng sống ngay từ nhỏ là rất cần thiết và phụ huynh cũng đã nhiệt
tình tham gia phối hợp cùng dạy trẻ để trẻ phát triển một cách tốt nhất.
5. Kết quả đạt được
Trên đây là một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5 – 6 tuổi
tôi đã đưa vào áp dụng đến tháng 2 năm 2015 và thu được kết quả như sau:
- Bảng 2. Kết quả khảo sát tháng 2/ 2015:
Thời

Tổng

điểm

số trẻ

Các kỹ năng Tốt

Tỷ lệ


Kh

Tỷ lệ

Đạt

Tỷ lệ

Không Tỷ lệ

á
10

%
33

y/c
3

%
10

đạt

Kỹ năng giao
tiếp

17

%

57

Kỹ năng nhận
thức bản thân

20

67

9

30

1

3

Kỹ năng quản 12
Tháng 30 lý clý cảm xúc
Kỹ năng hợp 10
2/ 2015
Tác

40

10

33

8


27

33

15

5

17

30

13

8

27

kỹ năng ứng
phó với các
tình huống có
thể xảy ra.

9

50

43


%

Kết quả khảo sát trên cho thấy đã có sự thay đổi đáng khich lệ khi lồng ghép
các kỹ năng sống vào trong giảng dạy đã không còn học sinh nào không đạt ở
các kỹ năng đã đưa ra mà trẻ thực hiện rất tốt các kỹ năng đã được học.

22


Sau khi đưa sáng kiến vào áp dụng và lồng ghép kỹ năng sống vào các
môn học tháng 9/ 2014 đến tháng 2/ 2015 kết quả thu được như sau:
Bảng 3. So sánh đối chứng
Thời

Tổng

điểm

số trẻ

Các kỹ năng Tốt

Tỷ lệ Khá

Tỷ lệ

Đạt Tỷ lệ

Không


Tỷ lệ

Kỹ năng giao
tiếp

5

%
17

Kỹ năng nhận
thức bản thân

9

30

12

40

7

23

2

7

Kỹ năng quản

Tháng 30 lý clý cảm xúc
Kỹ năng hợp
9/ 2014
Tác

5

17

10

33

10

33

5

17

4

13

9

30

11


37

6

20

3

10

8

27

9

30

10

33

23

76

5

17


2

7

Kỹ năng nhận
thức bản thân

22

73

7

23

1

3

Kỹ năng quản
Tháng 30 lý clý cảm xúc
Kỹ năng hợp
2/ 2015
Tác

12

40


15

50

3

10

10

33

15

5

17

10

33

8

12

40

kỹ năng ứng
phó với các

tình huống có
thể xảy ra.
Kỹ năng giao
tiếp

kỹ năng ứng
phó với các
tình huống có
thể xảy ra.

11

%
36

y/c
8

%
27

đạt
6

%
20

50

27


Qua kết khảo sát tôi thấy tỷ lệ trẻ đạt tốt của các kỹ năng tăng lên rõ rệt
kỹ năng giao tiếp tăng 51%. Kỹ năng nhận thức bản thân tăng 43%, quản lý
cảm xúc cũng tăng đáng kể, tỷ lệ trẻ khá giảm xuống 23%, không còn trẻ không
đạt yêu câu.
Điều đó khẳng định những kinh nghiệm của tôi áp dụng hoàn toàn hợp lí
và đạt kết quả cao.
23


Có được kết quả trên là sự cố gắng, lỗ lực không chỉ của bản thân tôi và
các bé đặc biệt hơn nữa là sự góp sức của các bậc phụ huynh.
Sau khi nghiên cứu và thực hiện công việc trên tôi rút ra bài học kinh
nghiệm sau:
- Cô giáo phải thực sự là tấm gương sáng, mẫu mực, nhiệt tình có tấm lòng yêu
nghề, yêu trẻ, am hiểu tâm sinh lí trẻ. Muốn vậy cô giáo phải không ngừng
nâng cao kiến thức, tự học hỏi, tu dưỡng, rèn luyện bản thân. Tích cực sáng tạo,
cải tiến phương pháp giảng dạy sao cho đạt kết quả tốt.
- Khi tổ chức các hoạt động cho trẻ cô giáo phải linh hoạt và phải chú ý đến
từng cá nhân trẻ và khích lệ trẻ cùng sáng tạo trong khi học.
- Tạo điều kiện cho trẻ được học ở mọi lúc, mọi nơi.
- Giáo viên cần làm tốt công tác tuyên truyền với các cấp lãnh đạo và phụ
huynh hỗ trợ kinh phí tạo tích cực ủng hộ đồ dùng, đồ chơi để phục vụ cho việc
lồng ghép kỹ năng sống vào các môn học.
6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng
*Về nhân lực: Đảm bảo số trẻ và số cô trên một nhóm lớp để đề tài dễ
thực hiện.
- Giáo viên có trình độ đạt chuẩn và trên chuẩn, có năng lực chuyên môn
vững vàng, có kinh nghiệm dạy trẻ kỹ năng sống.
- Trẻ có cùng độ tuổi và được học liên tục qua các độ tuổi.

Về cơ sở vật chất: Có đầy đủ đồ dùng trang thiết bị cho cô và trẻ, đảm
bảo an toàn tuyệt đối mang tính thảm mỹ cao.
- Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao ban giám hiệu nhà trường và sự phối
hợp chặt chẽ của các bậc phụ huynh.
Với đề tài này tôi đã áp dụng vào lớp 5 - 6 tuổi tôi đang giảng dạy và đã
đạt kết quả cao. đề tài này có thể áp dụng cho các lớp 5 tuổi nói riêng và các độ
tổi khác trong trường mầm non trong toàn thị xã để sáng kiến được nhân rộng.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận.
24


Giáo dục kỹ năng sống nhằm giúp trẻ có những kinh nghiệm trong cuộc
sống. Qua đó trẻ giao tiếp mạnh dạn tự tin, biết tự chăm sóc, bảo vệ, bản thân.
Vì vậy giáo dục kỹ năng sống cho trẻ càng sớm thì trẻ sẽ có nhận thức đúng
đắn và có hành vi ứng xử phù hợp ngay từ khi còn nhỏ. Kỹ năng sống là những
kỹ năng nền tảng giúp trẻ mầm non hình thành và phát triển toàn diện nhân
cách, ngoài ra phát triển kỹ năng sống còn giúp trẻ có tính cách nhanh nhen
trong khi hoạt động trẻ biết cảm nhận cái đẹp yêu cái đẹp cái tốt và loại bỏ
những cái xấu.
Muốn làm được điều đó người giáo viên cần linh hoạt, sáng tạo luôn tìm
ra những điều mới mẻ tốt nhất để cung cấp cho trẻ và hơn nữa người giáo viên
phải nắm được thị hiếu tâm sinh lý của trẻ để tạo ra thế giới ấy cho phù hợp để
trẻ có bước đầu vững chắc hơn khi trẻ đến với một tương lai tươi sáng.
2. Khuyến nghị
Sau khi thực hiện đề tài “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi” tôi xin được mạnh dạn đề xuất một số khuyến nghị
sau:
1. Đối với nhà trường:

Tạo mọi điều kiện hỗ trợ cơ sở vật chất, mua sắm đồ dùng, đồ chơi, bồi
dưỡng chuyên môn cho giáo viên, tổ chức các hội thi giáo viên giỏi, chuyên đề,
làm đồ dùng đồ chơi. Cần mở những lớp bồi dưỡng, tổ chức chuyên đề cho
giáo viên về việc rèn kỹ năng sống cho trẻ.
2. Đối với cấp phòng, sở giáo dục
Tạo nhiều cơ hội cho giáo viên được trau dồi năng lực sư phạm qua các
lớp bồi dưỡng chuyên môn về nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Cung cấp các tài liệu có nội dung về giáo dục kỹ năng sống để giáo viên
học tập và nghiên cứu để tham khảo và áp dụng vào trong thực tế dạy trẻ hàng
ngày được tốt hơn.
Trên đây là một số kinh nghiệm tôi đưa ra và đã thực hiện thành công
trong việc thực hiện đề tài ”Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ

25


×