Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

luận văn kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn tỉnh Lạng Sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 73 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN BẢO NGỌC

KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH LẠNG SƠN

Chuyên ngành

: Luật Hình sự và tố tụng hình sự

Mã số

: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM MẠNH HÙNG

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học
của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm
bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học
của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kì công trình
nào khác.


TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Bảo Ngọc


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG XÉT
XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ................................................................... 7
1.1 Khái quát về kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự .................................... 7
1.2. Khái quát lịch sử phát triển các quy định về kiểm sát xét xử sơ thẩm của
Viện kiểm sát nhân dân trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 .......... 15
1.3. Khái quát các quy định về kiểm tra, giám sát hoạt động xét xử sơ thẩm
các vụ án hình sự ở một số nước. ........................................................................ 17
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2003 VỀ
KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ
THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN ............................................................... 22
2.1 Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 về kiểm sát hoạt động xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự.......................................................................................... 22
2.2 Khái quát về tổ chức hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng
Sơn. ..................................................................................................................... 30
2.3 Thực tiễn hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm
sát nhân dân hai cấp tỉnh Lạng Sơn. ................................................................... 33
CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ
MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHÁC NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HOẠT
ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ. ............................................ 47
3.1 Hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự .................................. 47
3.2 Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt động xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự. ............................................................................................. 50
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 62


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

BLHS

:Bộ luật hình sự

HĐXX

: Hội đồng xét xử

KSHĐTP

: Kiểm sát hoạt động tư pháp

TTHS

: Tố tụng hình sự

THTT

: Tiến hành tố tụng


THQCT

: Thực hành quyền công tố

VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Thống kê kết quả công tác kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự tại tỉnh Lạng Sơn ( từ năm 2012 đến năm 2016)............................................ 39
Bảng 2.2: Tỉ lệ số vụ đưa ra xét xử với số vụ truy tố ................................... 40
Bảng 2.3: Các kiến nghị của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự ....................................................................................................... 41
Bảng 2.4: Kháng nghị ................................................................................... 42


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký lệnh công bố Luật tổ chức Viện kiểm sát ngày
26/7/1960, đánh dấu sự ra đời của VKSND - cơ quan Nhà nước với chức
năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, đảm bảo cho pháp luật được chấp
hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo vệ Nhà nước của dân, do dân,
vì dân. Cùng với đó, sự ra đời của Viện kiểm sát nhân dân đã góp phần không
nhỏ vào việc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh phòng chống tội
phạm, giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
Phát triển qua các giai đoạn, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân đã
phát huy được vai trò xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Đến nay trong cơ cấu tổ chức bộ máy của Nhà nước ta, Viện kiểm sát
nhân dân là một trong bốn cơ quan được quy định trong Hiến pháp thực hiện
quyền lực của Nhà nước. Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
luôn được quan tâm nhằm đáp ứng nhu cầu cải cách toàn diện của đất nước,
đặc biệt là công cuộc cải cách hệ thống tư pháp. Một trong những mục tiêu
hướng tới trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của Đảng
ta tại Đại hội lần thứ XI là: “Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta thật sự là của
nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo… Đẩy mạnh việc
thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư
pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con
người”. Đảng ta cũng khẳng định: “Viện kiểm sát được tổ chức phù hợp với
hệ thống tổ chức tòa án, bảo đảm tốt hơn các điều kiện để viện kiểm sát nhân
dân thực hiện hiệu quả chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các

1


hoạt động tư pháp; tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra,
gắn công tố với hoạt động điều tra”.

Như vậy, chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp là một trong hai chức
năng của VKSND và một trong những nội dung của chức năng đó được thể
hiện qua công tác kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Là một bộ
phận cấu thành của hệ thống Viện kiểm sát nhân dân, trong quá trình hình
thành và phát triển của mình Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã có một
số những đóng góp vào thành tựu nhất định cho ngành Kiểm sát, trong đó có
kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự. Tuy nhiên, bên cạnh
những thành tựu đã đạt được, cũng phát sinh những hạn chế, tồn tại cần phải
có giải pháp để tháo gỡ, khắc phục kịp thời, góp phần nâng cao chất lượng và
hiệu quả của công tác kiểm sát.
Do vậy, tác giả quyết định lựa chọn đề tài: "Kiểm sát hoạt động xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn tỉnh Lạng Sơn" làm
đề tài Luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước đến nay cũng đã có một số bài viết trên các báo, tạp chí, sách,
các công trình nghiên cứu về hoạt động của VKSND trong đó có hoạt động
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Trong những năm gần đây, nhất là sau khi có các nghị quyết của Đảng
về cải cách tư pháp đã có một số bài viết như :
- “Một số vấn đề về tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của Viện
kiểm sát trong tiến trình cải cách tư pháp” của tác giả Lê Hữu Thể đăng trên
Tạp chí kiểm sát số 04 (2008) v.v. Chuyên đề về tổ chức và hoạt động của
Viện kiểm sát theo yêu cầu cải cách tư pháp của tập thể tác giả đăng trên Tạp
chí Kiểm sát số 14-16 (tháng 7,8 /2008).
2


- Luận văn Thạc sĩ: “Tăng thẩm quyền cho Kiểm sát viên trong quá
trình tiến hành tố tụng hình sự - Một yêu cầu tất yếu của tiến trình cải cách tư
pháp ở Việt Nam” của tác giả Trần Mạnh Đông (Khoa Luật - Đại học Quốc

gia Hà Nội, 2009).
- “Viện kiểm sát nhân dân đổi mới toàn diện và đồng bộ để triển khai
thực hiện tốt các quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ của Viện
kiểm sát trong tố tụng dân sự và tố tụng hành chính” của tác giả Nguyễn Thị
Thủy Khiêm đăng trên Tạp chí kiểm sát số 13 (tháng 7/2011)
- Luận văn Thạc sĩ: “ Chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Hải Phòng – một số vấn đề lý luận
và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Thị Tuyết Nhung (Khoa Luật – Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2012).
- Luận văn Thạc sĩ: “ Vị trí, vai trò và chức năng của Viện kiểm sát
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự” của tác giả Lê Thắng ( Khoa
luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012).
- Bài viết: “Vấn đề tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự”
trên Báo điện tử Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang của tác giả Huỳnh
Thế Anh, ngày 25/9/2013.
Ngoài ra, còn có các bài viết của nhiều tác giả khác đã được đăng
trên các báo và tạp chí chuyên ngành, các báo cáo tổng kết công tác, các
văn bản hướng dẫn nghiệp vụ, các chuyên đề của VKSNDTC qua các
năm, các đề tài khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ… Các công trình nghiên
cứu, bài viết trước đây hầu như ít đi sâu vào tìm hiểu về việc kiểm sát
hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Như vậy, đề tài không trùng với
bất cứ đề tài nào đã được công bố.

3


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu các quan điểm của Đảng và Nhà nước, cùng với
những quy định của pháp luật về kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự; hoạt động của VKSND nói chung và VKSND tỉnh Lạng Sơn nói

riêng, luận văn đi vào nghiên cứu làm rõ những vấn đề như:
- Các vấn đề lý luận về kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự.
- Quy định của pháp luật và kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự.
- Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác
kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân.
Với mục đích nghiên cứu trên, luận văn đặt ra và giải quyết các vấn
đề sau:
- Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận và các quy định của pháp luật
tố tụng hình sự về hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
- Đánh giá thực trạng tình hình thực hiện công tác kiểm sát xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn trong giai đoạn
từ năm 2012 đến năm 2016.
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự cho ngành kiểm sát nói chung và VKSND tỉnh Lạng
Sơn nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chức năng kiểm sát hoạt động xét xử
vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân được thực hiện trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của luận văn tác giả chỉ tập trung
nghiên cứu chủ yếu trên phạm vi hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
4


Lạng Sơn. Phân tích, đánh giá trong giai đoạn từ năm 2012 đến 2016
(30/9/2012 đến 01/10/20 16) chỉ ra nguyên nhân những tồn tại, hạn chế để
kiến nghị những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện trong thực tiễn.
Về phạm vi nghiên cứu thực tiễn: Đề tài nghiên cứu thực tiễn thực hiện
công tác kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong 05 năm (từ

năm 2012 đến năm 2016) trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta đối với chức năng kiểm sát công tác xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp
như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn dịch, quy nạp, thống kê.
Các phương pháp này luôn hỗ trợ nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ để
làm rõ những vấn đề thuộc đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về phương diện lý luận và thực tiễn liên quan đến chức năng kiểm sát
hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, kết quả của việc nghiên cứu luận văn
có ý nghĩa quan trọng, đó là làm rõ được những hạn chế tồn tại khi thực hiện
hoạt động này, đồng thời từ đây đề xuất những giải pháp giúp nâng cao hơn
hiệu quả thực hiện trong thực tiễn. Luận văn có thể được sử dụng là nguồn tài
liệu nghiên cứu, tham khảo phục vụ công tác thực tiễn ở địa phương.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, nội dung của luận văn gồm có 03 chương:

5


Chương 1: Khái quát chung về kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự.
Chương 2: Quy định của BLTTHS năm 2003 về kiểm sát hoạt động xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự và thực tiễn hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
Chương 3: Hoàn thiện các quy định của pháp luật về kiểm sát hoạt động
xét xử sơ thẩm vụ án hình và một số giải pháp khác nâng cao hiệu quả của

hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.

6


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ SƠ
THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1 Khái quát về kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm xét xử sơ thẩm án hình sự
Để đảm bảo cho việc phát hiện, xác minh tội phạm được thực hiện một
cách chính xác, nghiêm minh, không bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội;
đồng thời bảo vệ một cách tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của công dân,
BLTTHS nước ta quy định trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự trải qua
các giai đoạn: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.
Các cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau thì thực hiện chức năng, nhiệm
vụ khác nhau. Mỗi giai đoạn đều có các hoạt động tố tụng diễn ra độc lập
nhưng có mối liên hệ với nhau, giai đoạn trước là tiền đề cho giai đoạn sau,
tạo thành một hệ thống có mối quan hệ chặt chẽ, hướng tới một mục đích là
giải quyết vụ án một cách khách quan, công bằng, toàn diện theo đúng quy
định của pháp luật. Trong đó, xét xử vụ án hình sự là giai đoạn trung tâm của
TTHS, thể hiện đầy đủ nhất bản chất chế độ tư pháp hình sự của mỗi quốc
gia, quyết định việc giải quyết vụ án, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Tòa án phải xét xử chính xác, công minh
vì thông qua phán quyết về những hành vi phạm tội, tòa án duy trì công lý
trong xã hội, kiểm soát xã hội trong vòng trật tự.
Trong khoa học hình sự, xét xử sơ thẩm có vị trí, vai trò quan trọng nhất,
không chỉ trong giai đoạt xét xử mà còn trong cả quá trình giải quyết vụ án.
Đây được xem là giai đoạn trung tâm của tố tụng hình sự. Hiện nay, khái
niệm “ xét xử sơ thẩm” có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Theo Từ điển Luật


7


học lý giải: "Xét xử sơ thẩm là lần đầu tiên đưa vụ án ra xét xử tại một Tòa án
có thẩm quyền" [30, tr. 780]. Đây là khái niệm mang tính khái quát chung cho
cả xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, dân sự; v.v… và đã phản ánh được nét
đặc trưng của xét xử sơ thẩm là "lần đầu tiên" một vụ án được đưa ra xét xử
và do "một Tòa án có thẩm quyền" tiến hành.
Giáo trình Luật TTHS của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh định nghĩa: "Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là xét xử ở cấp thứ nhất do
tòa án có thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự"
[27, tr. 451]. Cũng theo như định nghĩa, thì đây là xét xử vụ án ở cấp đầu tiên,
bản án, quyết định của tòa án chưa có hiệu lực pháp luật ngay và bản án,
quyết định đó có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong
thời hạn đã được quy định trong luật hiện hành.
Giáo trình Luật TTHS của Trường Đại học Luật Hà Nội đưa ra định
nghĩa: "Xét xử sơ thẩm là giai đoạn của tố tụng hình sự, trong đó tòa án có
thẩm quyền tiến hành xem xét, giải quyết vụ án, ra bản án, quyết định tố tụng
theo quy định của pháp luật" [28, tr. 345] Định nghĩa này đã xác định xét xử
sơ thẩm là hoạt động tố tụng thực hiện chức năng xét xử của tòa án dưới hình
thức phiên tòa xem xét và giải quyết vụ án hình sự, có nghĩa là tòa án trên cơ
sở bản cáo trạng và các chứng cứ được kiểm tra tại phiên tòa đưa ra phán
quyết về toàn bộ những vấn đề của vụ án. Đây là điểm mấu chốt phân biệt xét
xử sơ thẩm với xét xử phúc thẩm. Phiên tòa sơ thẩm chỉ có thể tiến hành khi
có quyết định truy tố của VKS và có đủ điều kiện để tiến hành phiên tòa.
Qua phân tích những định nghĩa nêu trên, ta thấy xét xử sơ thẩm là giai
đoạn trung tâm và quan trọng trong TTHS, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, các nhân. Kết hợp nội dung các


8


quy định của Hiến pháp năm 2013 và BLTTHS năm 2003, ta có thể rút ra một
số đặc điểm đặc trưng của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự như sau:
Thứ nhất, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được tiến hành theo trình tự thủ
tục chặt chẽ và có tính bắt buộc. Đây là giai đoạn tiếp sau giai đoạn truy tố,
các tài liệu chứng cứ đã thu thập trước đó lúc này được đưa ra xem xét một
cách công khai, minh bạch, toàn diện với sự có mặt đầy đủ của những người
tham gia tố tụng tại phiên tòa và dùng làm căn cứ để Tòa án đưa ra phán
quyết. Để đảm bảo việc xét xử được thực hiện một cách khách quan, chính
xác, không bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội, BLTTHS năm 2003 cũng
quy định, khi có kháng cáo, kháng nghị hay một số điều kiện nhất định khác,
vụ án có thể được đưa ra xem xét, xét xử theo từng cấp phúc thẩm rồi đến
giám đốc thẩm, tái thẩm. Đồng nghĩa với việc, các cấp xét xử sau xét xử sơ
thẩm có diễn ra hay không còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác mà không
phải là bắt buộc.
Thứ hai, xét xử sơ thẩm là một thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết
một vụ án hình sự vì tại phiên tòa sơ thẩm, những người THTT và người tham
gia tố tụng được nghe trực tiếp lời khai của các bên liên quan, được tranh
luận, chất vấn những điều mà tại CQĐT, VKS họ không có điều kiện thực
hiện. Nói cách khác, xét xử sơ thẩm chỉ được tiến hành khi CQĐT đã điều tra
vụ án, VKS đã truy tố bị can trước tòa án bằng bản cáo trạng.
Thứ ba, phán quyết của Tòa án không chỉ dựa vào cơ sở đánh giá, xem
xét các tài liệu chứng cứ được thu thập trong giai đoạn điều tra, truy tố mà
còn dựa trên kết quả của việc tranh tụng công khai, bình đẳng, dân chủ trước
HĐXX, có như vậy mới đưa ra phán quyết có căn cứ đúng pháp luật, bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, sự công bằng của pháp luật và quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân. Chính vì lẽ đó, có thể nói, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có kết


9


quả là một bản án, quyết định công minh, có cơ sở căn cứ và đúng pháp luật
hiện hành.
Thứ tư, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự góp phần duy trì, bảo vệ công lý,
khôi phục, giữ gìn sự công bằng, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân.
1.1.2 Khái niệm, đặc điểm kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Kiểm sát xét xử vụ án hình sự là tổng hợp các quyền năng pháp lý của
Viện kiểm sát có nội dung kiểm tra, giám sát hoạt động tuân theo pháp luật
của các chủ thể tham gia hoạt động TTHS theo các thủ tục sơ thẩm, phúc
thẩm nhằm bảo đảm cho việc xét xử của Tòa án đúng pháp luật, nghiêm minh
và kịp thời.
Trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án, VKS còn là
cơ quan giám sát tuân theo pháp luật trong việc xét xử đối với các tư cách
THTT và tham gia xét xử. Đây là chức năng Kiểm sát hoạt động tư pháp
trong xét xử vụ án hình sự, có ý nghĩa quan trọng bởi nó giúp đảm bảo tuân
thủ pháp chế trong TTHS. Theo quy định của pháp luật hiện hành, ở nước ta
kiểm sát hoạt động tư pháp chỉ do một chủ thể tiến hành đó là Việm kiểm sát.
Khi đó, kiểm sát viên là người thực hiện trên cơ sở nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của Viện kiểm sát được ghi nhận trong BLTTHS và Luật Tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân.
Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là hoạt động của Viện
kiểm sát nhằm đảm bảo cho quá trình xét xử được thực hiện đúng pháp luật
các bản án, các quyết định của tòa án cấp sơ thẩm được đúng đắn, hợp pháp
và hợp hiến. Việc kiểm sát tuân theo pháp luật của VKS trong hoạt động xét
xử của Tòa án cấp sơ thẩm, HĐXX và những người tham gia tố tụng giúp kịp

10



thời phát hiện vi phạm trong xét xử vụ án ngay tại phiên tòa để từ đó nhanh
chóng khắc phục, sửa chữa.
Về nguyên tắc, bản án, quyết định của Tòa án phải có căn cứ và hợp
pháp. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan khác nhau, hoạt động xét
xử vẫn tồn tại những sai lầm, vi phạm đáng tiếc. Do vậy, việc kiểm tra tính có
căn cứ và hợp pháp của các bản án, quyết định của tòa án phải được thực hiện
thường xuyên, không những trước mà cả sau khi bản án, quyết định đó có
hiệu lực pháp luật. Điều 19 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014
đã quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn
xét xử vụ án hình sự.
Từ một số khái niệm nêu trên, có thể thấy kiểm sát hoạt động xét xử sơ
thẩm trong TTHS khác với kiểm sát hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, thi
hành án và đồng thời khác với hoạt động kiểm sát trong các vụ án dân sự,
hành chính… Đặc thù này thể hiện qua một số đặc điểm như sau:
a) Đối tượng của kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có sự tham gia của nhiều đối
tượng tố tụng: Cơ quan tiến hành tố tụng là Tòa án nhân dân và VKSND;
người tiến hành tố tụng bao gồm: Kiểm sát viên, thẩm phán, hội thẩm nhân
dân, thư ký tòa án; những người tham gia tố tụng gồm: bị cáo, người bào
chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc những người đại diện hợp pháp của họ,
người làm chứng, người giám định, người phiên dịch… Khi tham gia vào giải
quyết vụ án hình sự, các chủ thể này có những quyền và nghĩa vụ của mình
được quy định trong pháp luật TTHS. Sự tuân thủ pháp luật của họ chính là
đối tượng của hoạt động kiểm sát xét xử hình sự sơ thẩm.

11



Cụ thể như sau: Đối với những người tiến hành tố tụng VKS phải đảm
bảo những người tiến hành tố tụng thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ
của mình, điều đặc biệt cần phải chú ý đến là việc áp dụng pháp luật của
những người tiến hành tố tụng bởi những quyết định của người tiến hành tố
tụng ảnh hưởng rất lớn đến việc xác định sự thật của vụ án. Đối với những
người tham gia tố tụng như bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc
những người đại diện hợp pháp của họ, việc kiểm sát không chỉ đảm bảo họ
được thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình mà còn phải chú ý đến những nội
dung yêu cầu của của họ, nếu những nội dung yêu cầu đó là đúng pháp luật
thì cần kiểm sát để những yêu cầu của họ được thực hiện đúng theo quy định
pháp luật. Đối với người làm chứng, người giám định, người phiên dịch…
việc kiểm sát cần phải đảm bảo họ thực hiện hoạt động tố tụng một cách
khách quan, công bằng, đúng pháp luật…
b) Phạm vi kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Phạm vi của công tác này bắt đầu từ khi Tòa án thụ lý hồ sơ vụ án, kết
thúc khi Tòa án ra bản án, quyết định sơ thẩm. Giai đoạn xét xử sơ thẩm là
giai đoạn rất quan trọng. Tại giai đoạn này Tòa án không chỉ tiến hành xét xử
để đưa ra bản án mà còn có thể đưa ra các quyết định quan trọng khác như
triệu tập những người cần thiết để làm rõ bản chất vụ án, hủy bỏ, thay đổi các
biện pháp ngăn chặn mà các cơ quan khác đã áp dụng trước đó v.v... Tất cả
những quyết định đó của Tòa án đều sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nội dung, kết
quả giải quyết vụ án, do đó, để đảm bảo các quyết định của Tòa án được đưa
ra và thực hiện đúng pháp luật thì VKS sẽ kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong hoạt động xét xử của Tòa án và bên cạnh đó là sự tuân thủ và thực hiện
pháp luật của những người tham gia tố tụng xét xử khác.

12



c) Nội dung của kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Thứ nhất, kiểm sát trình tự, thủ tục, căn cứ, thẩm quyền áp dụng các thủ
tục tố tụng trong các bước giải quyết vụ án ở giai đoạn xét xử sơ thẩm.
Với nhiệm vụ phải giải quyết mọi vấn đề của vụ án một cách toàn diện
và dứt điểm, pháp luật quy định cụ thể về thời hạn tiếp nhận, nghiên cứu hồ
sơ vụ án của tòa án và trong từng trường hợp khác nhau tòa án có thể ra các
quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung, quyết
định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án cùng với đó là việc giao các quyết định
đó cho những người mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ có thể bị tác động
rất lớn từ những quyết định này. Kiểm sát tính có căn cứ của bản án, quyết
định của Tòa án cũng như kiểm sát thủ tục tố tụng của Tòa án và Hội đồng xét
xử có đảm bảo đúng theo quy định pháp luật hay không là nhiệm vụ VKS.
Thứ hai, kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn.
Sau khi hồ sơ được chuyển sang Tòa án, thì Tòa án có quyền quyết định
việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo.
Việc áp dụng, thay đổi hay hủy bỏ biện pháp ngăn chặn phụ thuộc vào tính
chất của vụ án, nhân thân của người phạm tội. VKS cần phải kiểm sát tính có
căn cứ và tính hợp pháp cũng như thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn,
kiểm sát tính có căn cứ và tính hợp pháp, thẩm quyền của việc ra quyết định
áp dụng, hủy bỏ, thay đổi biện pháp ngăn chặn của Tòa án, Hội đồng xét xử.
Thứ ba, kiểm sát việc ra các quyết định, bản án của Tòa án.
Kết quả của giai đoạn xét xử sơ thẩm là việc tòa án ra bản án, quyết định
xác định có hay không có hành vi phạm tội, ai là người thực hiện hành vi
phạm tội, tính chất lỗi, mức độ thiệt hại, quyết định hình phạt, các biện pháp
tư pháp. VKS tiến hành kiểm sát để kịp thời phát hiện những vi phạm, thiếu
sót của Tòa án việc ra các quyết định, bản án và trong từng trường hợp cụ thể
13



sẽ ban hành kiến nghị, kháng nghị đối với những quyết định, bản án của Tòa
án nhằm khắc phục những sai phạm này
d) Hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự do VKS tiến hành
trên cơ sở và phạm vi quy định của pháp luật
VKS là cơ quan duy nhất có quyền kiểm sát các quyết định tố tụng
trong các giai đoạn THTT nói chung và giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự nói riêng. Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp là một trong hai chức
năng của VKS, được quy định trong Hiến pháp năm 1992, trên cơ sở kế thừa
các bản Hiến pháp trước đó và được khẳng định lại trong Hiến pháp năm
2013 (Điều 107). Các quy định trong Hiến pháp; các đạo luật khác như Luật
tổ chức VKSND, BLTTHS, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính;
các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp… đã bảo đảm cho VKS có khả
năng giám sát toàn bộ quá trình tố tụng, giám sát toàn bộ quá trình thực hiện
quyền tư pháp. Đây cũng là cơ sở quan trọng để phát hiện vi phạm trong hoạt
động tư pháp nói chung và trong hoạt động xét xử sơ thẩm nói riêng.
Hoạt động kiểm sát xét xử của VKS không cản trở hoạt động bình
thường của Tòa án, cũng như không làm ảnh hưởng đến nguyên tắc độc lập
xét xử của cơ quan này. Theo qui định của pháp luật, hoạt động kiểm sát xét
xử được tiến hành song song với quá trình xét xử của Tòa án. Khi bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật, VKS có nhiệm vụ kiểm sát bản án, quyết
định củaTòa án, nếu phát hiện vi phạm thì kiến nghị hoặc kháng nghị theo qui
định của pháp luật. VKS thực hiện quyền hạn của mình để xem xét lại tính
hợp pháp và tính có căn cứ của các hành vi tố tụng; các phán quyết của Tòa
án. Quyền hạn của VKS chủ yếu mang tính "khuyến nghị", "yêu cầu" mà
không có ý nghĩa trực tiếp làm thay đổi các hành vi tố tụng cũng như phán
quyết của Tòa án.

14



Kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một dạng giám sát nhà nước
về tư pháp, đây là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước. Tuy nhiên, khác
với hoạt động giám sát Nhà nước nói chung về tư pháp, kiểm sát xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự là sự giám sát trực tiếp các hoạt động cụ thể của cơ quan
tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố
tụng khi tham gia hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Mục đích của hoạt
động này là nhằm đảm bảo cho pháp luật được áp dụng nghiêm chỉnh và
thống nhất trong quá trình xét xử vụ án ở cấp đầu tiên – cấp sơ thẩm.
1.2 Khái quát lịch sử phát triển các quy định về kiểm sát hoạt động
xét xử sơ thẩm của VKSND trước khi có BLTTHS năm 2003
Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập vào ngày
02/9/1945, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau khi Cách mạng
tháng Tám thành công. Lúc này, dù đã dành được độc lập cho một phần đất
nước nhưng Nhà nước ta phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thách thức,
trước những thế lực thù trong, giặc ngoài. Trước tình hình đó, hệ thống các cơ
quan tư pháp cũng như cơ quan thực hiện quyền công tố được tổ chức hết sức
đa dạng và linh hoạt sao cho phù hợp nhất với tình hình cách mạng phức tạp
thời bấy giờ. Đáp ứng nhu cầu của thời kì này, Nhà nước ta chỉ tổ chức các
Tòa án quân sự và chức năng công tố tại phiên tòa do một ủy viên quân sự
đảm nhiệm.
Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1988
Ngày 31/12/1959, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa I đã thông qua bản
Hiến pháp mới thay thế Hiến pháp năm 1946; và ngày 01/ 01/ 1960, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã ký lệnh công bố Hiến pháp năm 1959. Hiến pháp đã dành

15


bốn điều quy định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát

nhân dân.
Theo Hiến pháp 1959, ngoài chức năng Công tố, Viện kiểm sát nhân
dân còn thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ
quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan nhà nước địa phương, các nhân viên
cơ quan nhà nước và công dân. Về tổ chức và hoạt động, Viện kiểm sát nhân
dân các cấp chịu sự lãnh đạo của VKSND cấp trên và sự lãnh đạo thống nhất
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách
nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không
họp thì chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của VKSND
được quy định trong Hiến pháp, Luật Tổ chức VKSND năm 1960 quy định hệ
thống cơ quan VKSND trong bộ máy nhà nước ta, từ trung ương đến đơn vị
hành chính cấp huyện và các VKS quân sự. Điều 3 luật Tổ chức VKSND năm
1960, VKSND thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình bằng các công tác cụ
thể sau:
a. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các nghị quyết, quyết định,
thông tư, chỉ thị và biện pháp của các cơ quan thuộc Hội đồng chính phủ và
cơ quan nhà nước địa phương, kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các nhân
viên cơ quan nhà nước và công dân;
b. Điều tra những việc phạm pháp về hình sự và truy tố ra trước Tòa án
nhân dân những người phạm pháp về hình sự;
c. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra của cơ quan
Công an và các cơ quan điều tra khác;
d. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giam, giữ của trại giam;

16


e. Khởi tố hoặc tham gia tố tụng những vụ án dân sự quan trọng liên
quan đến lợi ích nhà nước và nhân dân.

Giai đoạn từ năm 1988 đến trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự 2003
Ngày 28/6/1988, Bộ luật Tố tụng hình sự đầu tiên của Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội thông qua quy định trình tự,
thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Hiến pháp năm
1992 sửa đổi cũng làm căn cứ cho Luật Tổ chức VKSND năm 2002 được ra
đời, hoàn thiện, bổ sung và thay thế cho luật cũ. Luật Tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 2002 đã quy định rõ Viện kiểm sát nhân dân có hai chức năng
là "thực hành quyền công tố" và "kiểm sát các hoạt động tư pháp", đồng thời
cũng quy định rõ ràng, cụ thể, nhiệm vụ quyền hạn của hai chức năng này, đã
tách bạch được hai nội dung của công tác thực hành quyền công tố và kiểm
sát xét xử hình sự.
Những quy định của pháp luật về Viện kiểm sát nhân dân nói chung và
về công tác kiểm sát xét xử hình sự nói riêng giai đoạn từ 1988 đến trước khi
có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã có sự phát triển mới, rõ ràng hơn, cụ
thể hơn, phù hợp hơn với pháp luật các nước trên thế giới, đáng lưu ý là đã
xác định rõ chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp, lấy hoạt động xét xử là
trọng tâm.
1.3 Khái quát các quy định về kiểm tra, giám sát hoạt động xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự ở một số nước
*Tại Hòa Kỳ:
Cơ quan Công tố ở Hoa Kỳ có chức năng chủ yếu là truy tố người
phạm tội hình sự và giữ quyền công tố tại Tòa án. Người giữ vai trò thực hành
quyền công tố là công tố viên.

17


Do vai trò là chủ thể hành động vì lợi ích của công lý và trách nhiệm
truy tố, công tố viên phải xem xét toàn bộ vụ án một cách nghiêm túc, không
chỉ xem chứng cứ có đầy đủ không mà còn phải xem xét cả tính đáng tin cậy

của bằng chứng cũng như giá trị pháp lý của chúng. Quyền tuỳ nghi truy tố là
quyền đặc biệt của Công tố viên. Với tư cách là một nhân viên được bầu hoặc
được bổ nhiệm, công tố viên là người có quyền lực nhất trong hệ thống tư
pháp hình sự.
Ngoài ra, các cơ quan này còn có thêm chức năng giám sát hoạt động
điều tra và giám sát chế độ giam giữ tại các trại giam. Pháp luật Mỹ không
quy định về quyền kiểm sát xét xử đối với viện công tố. Hoạt động giám sát
tuân thủ pháp luật chỉ thể hiện trong quan hệ với cơ quan điều tra và viện
công tố không giám sát việc tuân theo pháp luật ở giai đoạn xét xử vụ án. Lúc
này, cơ quan công tố là một bên tranh tụng thuần túy, bình đẳng với bên bào
chữa. Hoạt động giám sát tuân theo pháp luật của Viện công tố rất hạn chế mà
thay vào đó việc giám sát tuân thủ pháp luật của các bên tranh tụng và những
người tham gia phiên tòa do tòa án thực hiện.
Sở dĩ các nước phát triển như Hoa Kỳ và các nước Tây Âu, cơ quan
công tố không thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân thủ pháp luật là vì đây
là những nước đã có nển tảng văn hóa pháp lý lâu đời, vững chắc nhờ cơ cấu
xã hội và Nhà nước; xã hội dân sự tiến bộ, phát triển, ổn định; năng lực tự
điều chỉnh hành vi cùng với ý thức tôn trọng pháp luật của người dân khá cao.
Bên cạnh đó, Tòa án ở Hoa Kỳ có uy thế nổi trội bởi hệ thống thông luật chủ
yếu là các án lệ nên không cần phải có một thiết chế nhà nước như Viện kiểm
sát giám sát các cơ quan tư pháp để thực hiện tốt việc tuân thủ pháp luật.
*Tại Trung Quốc
Mô hình tố tụng hình sự Trung Quốc về cơ bản là mô hình tố tụng thẩm
vấn có kết hợp với một số yếu tố của tố tụng tranh tụng. Đặc trưng điển hình
18


của mô hình tố tụng thẩm vấn của Trung Quốc là quy định cả ba cơ quan; Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án đều có quyền thu thập chứng cứ chứng
minh tội phạm và người phạm tội. Nghi can, bị can, bị cáo có quyền nhưng

không có nghĩa vụ phải chứng là mình vô tội.
Quyết định truy tố của Viện kiểm sát làm phát sinh hoạt động xét xử
của Tòa án, đồng thời giới hạn phạm vi xét xử của Tòa án để bảo đảm sự
thống nhất giữa đối tượng xét xử của Tòa án với đối tượng truy tố của Viện
kiếm sát vì không thể xét xử bị cáo hoặc các sự việc chưa bị truy tố. Theo quy
định của Luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa năm 1997
thì Viện kiểm sát có chức năng giám sát hoạt động xét xử của Tòa án nên
quan hệ giữa Viện kiểm sát và Tòa án là quan hệ giữa chủ thể kiểm sát với đối
tượng bị kiểm sát. Bởi lẽ đó, nếu Viện kiểm sát cho rằng phán quyết của Tòa
án nhân dân có sai lầm thì Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo trình tự
phúc thẩm hoặc trình tự giám đốc thẩm. Nếu phát hiện Tòa án nhân dân khi
xét xử vụ án đã vi phạm trình tự tố tụng mà pháp luật quy định thì Viện kiểm
sát có quyền đưa ra yêu cầu Tòa án sửa đổi.
Bên cạnh đó, điều 129 Hiến pháp nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
quy định "Viện kiểm sát nhân dân Trung hoa là cơ quan giám sát pháp luật
của Nhà nước…". Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, Điều 5 Luật tổ
chức VKSND Trung Hoa đã quy định cụ thể chức năng kiểm sát việc xét xử
vụ án hình sự của VKSND như sau:
- Thực hiện quyền kiểm sát đối với các vụ án phản quốc, chia rẽ đất
nước và các vụ án phạm tội to lớn, phá hoại nghiêm trọng việc thực hiện
thống nhất chính sách, pháp luật, pháp lệnh, quy chế hành chính của Nhà
nước….

19


- Khởi tố và hỗ trợ truy tố đối với các vụ án hình sự; thực hiện giám
sát hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân xem có tuân thủ đúng pháp luật
hay không.
- Thực hiện giám sát đối với việc chấp hành phán quyết và quyết định

của các vụ án hình sự...
Luật tổ chức VKSND của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa không
quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của VKS cũng như của kiểm sát viên
trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự như ở nước ta mà các văn bản pháp luật
chuyên ngành Luật TTHS sẽ quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của
VKS và kiểm sát viên trên từng trường hợp, lĩnh vực cụ thể. Trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự, VKS giám sát tính hợp pháp trong các phán quyết và
quyết định của Tòa án nhân dân, kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm các
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, nếu phát hiện có vi
phạm pháp luật.

20


×