Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Quản lý Ngân sách nhà nước tại Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.04 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BÙI HỒNG QUẾ

QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC TẠI
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

Chuyên ngành: QUẢN LÝ KINH TẾ
Mã số: 60340410

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ

Hà Nội, 2017
1


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã
hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học:
TS. Vũ Đình Ánh

Phản biện 1: Hoàng Văn Tú
Phản biện 2: Vũ Thư

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận
thạc sĩ họp tại: Học viện Khoa học xã hội 10 giờ 50 phút
ngày 08 tháng 08 năm 2015


Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Học viện Khoa
học xã hội
2


MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch là cơ quan của Chính phủ, thực hiện
chức năng quản lý nhà nước về văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao và du
lịch trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc lĩnh
vực văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao và du lịch theo quy định của pháp
luật. Vì vậy hoạt động của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ yếu dựa
trên nguồn Ngân sách Nhà nước. Công tác quản lý Ngân sách Nhà nước
tại Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong thời gian qua có nhiều chuyển
biến tích cực, không ngừng nâng cao cả về chất lượng và trình độ quản lý.
Tuy nhiên công tác quản lý Ngân sách Nhà nước tại Bộ Văn hóa, Thể thao
và Du lịch vẫn còn những tồn tại, bất cập, gây thất thoát, lãng phí cần
được khắc phục, điển hình là trong công tác quản lý chi ngân sách nhà
nước – vì tính đến thời điểm hiện tại, quản lý thu ngân sách nhà nước vẫn
được tiến hành theo cơ chế rót vốn từ trên xuống. Quản lý Ngân sách phải
vừa đảm bảo tính tập trung của chính sách tài chính quốc gia, vừa phát
huy tính năng động, tự chủ, sáng tạo, tính minh bạch và trách nhiệm đang
được đặt ra rất cấp bách cả về lý luận và thực tiễn. Vì vậy, tôi chọn đề tài
“Quản lý Ngân sách nhà nƣớc tại Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch”
làm Luận văn cao học với mong muốn góp một phần nhỏ vào giải quyết
những tồn tại hiện nay và từng bước nâng cao hiệu quả quản lý ngân sách
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, góp phần phục vụ cho công cuộc phát
triển kinh tế xã hội của đất nước.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, các công trình nghiên cứu về quản lý thuế (với tư

cách là quản lý thu ngân sách nhà nước) và chi ngân sách nhà nước tại
Việt Nam khá đa dạng. Tuy nhiên, đa phần các công trình này mới đề cập
đến một khía cạnh nào đó của toàn bộ khía cạnh quản lý NSNN.
Nghiên cứu kinh điển về vấn đề này có thể kể đến Joseph (1995). Tác
giả này đã hệ thống các lý thuyết về ngân sách nhà nước, nguồn thu ngân
sách nhà nước và quản lý thu ngân sách nhà nước từ thuế của Mỹ và một
1.

1


số nước châu Âu, từ đó đưa ra hàm ý cho chi NSNN. Một trong những kế
thừa lớn của ông là đã tổng hợp các lý thuyết đi trước, bao gồm lý thuyết
của Adam Smith, Keynes và Samuelson về động viên nguồn lực tài chính
của nền kinh tế vào ngân sách nhà nước và chi ngân sách nhà nước cho
các dự án đầu tư phát triển, từ đó nêu ra một số cách quản lý nguồn này và
sử dụng vào các dự án khác nhau trong nền kinh tế. Tuy nhiên, một trong
những hạn chế của nghiên cứu này là mang tính sách giáo khoa quá nhiều,
và được coi là một nguồn lý thuyết gốc cho các nghiên cứu tiếp theo chứ
không tập trung cụ thể vào nguồn nào, cũng như không đưa ra được một
nghiên cứu cụ thể về quản lý thuế - đặc biệt là thuế thu nhập doanh
nghiệp.
Các tác giả quốc tế và Việt Nam như Lê Duy Thành (2007),
Nguyễn Ngọc Túc (2007), Phạm Xuân Hòa (2014) đều đã tìm hiểu các
nghiên cứu về nguồn thu cho NSNN và tiến hành phân tích về chi NSNN
tại Việt Nam, và đi từ góc độ định tính đến định lượng nhằm xác định các
nhân tố ảnh hưởng đến nguồn thu thuế. Đặc biệt, Phạm Xuân Hòa (2014) đã
đánh giá được tác động của từng yếu tố được nêu trong nghiên cứu của
Banks (2008) đến hệ thống thuế Việt Nam, từ đó đưa ra một số hàm ý chính
sách đối với các cơ quan quản lý. Tuy nhiên, tác giả này để ngỏ một phần

hàm ý chính sách đối với các cơ quan quản lý không có nguồn thu.
Tóm lại, các nghiên cứu trước đây tại trong nước và quốc tế đã đề
cập đến nhiều lĩnh vực trong quản lý NSNN từ phía nguồn hình thành và
chi NSNN, song không có nghiên cứu nào đề cập sâu đến vấn đề quản lý
NSNN đối với một bộ không có nguồn thu – trong đó có bộ Văn hóa Thể
thao và Du lịch. Do đó, đề tài của tác giả chọn nghiên cứu là đề tài mới,
không trùng lắp với các nghiên cứu đi trước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát hóa cơ sở lý luận về NSNN và quản lý NSNN.
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới quản lý NSNN, trong đó tập
trung vào chi NSNN tại Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch do bộ này gần như

2


không có nguồn thu trực tiếp như Chính phủ hoặc các tỉnh hay các huyện,
mà chủ yếu do trung ương rót xuống.
- Đánh giá, phân tích thực trạng quản lýNSNN– trong đó tập trung
vào chi NSNN tại Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, đánh giá điểm mạnh,
điểm yếu từ đó nêu bật lên những kết quả đã đạt được cũng như rút ra được
những hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất giải pháp để hoàn thiện quản lý NSNN tại Bộ Văn hóa
Thể thao và Du lịch trong giai đoạn tiếp theo.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: quản lý NSNN tại Bộ Văn hóa Thể thao và
Du lịch. Luận văn tập trung vào công tác quản lý NSNN tại cấp Bộ (không
có nguồn thu), trong đó tập trung vào khâu lập dự toán, chấp hành dự toán
chi Ngân sách, quyết toán Ngân sách cho đến thanh kiểm tra, giám sát chi
ngân sách để tìm ra các giải pháp tăng cường quản lý NSNN tại Bộ Văn hóa
Thể thao và Du lịch.

- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung: nghiên cứu quản lý đầu vào, quản lý chi đầu tư phát
triển, chi thường xuyên của ngân sách cấp Bộ.
+ Về không gian: tại Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch.
+ Về thời gian: Phân tích đánh giá thực trạng giai đoạn 2007-2016
và đề xuất giải pháp đến năm 2020.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Lý thuyết tài chính công, kinh tế phát triển, lý thuyết
về quản lý nhà nước, các văn bản quy phạm phát luật về tài chính ngân
sách. Tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp, so sánh, đối chiếu; kế thừa có
chọn lọc các công trình nghiên cứu khoa học có nội dung gần gũi với đề tài.
Đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử về
lĩnh vực kinh tế, tài chính, ngân hàng để phân tích, đánh giá công tác quản
lý NSNN trong quá khứ và hiện tại có mối quan hệ với nhau tại Bộ Văn hóa
Thể thao và Du lịch.

3


Cơ sở thực tế: Luận văn sử dụng các thông tin số liệu, tài liệu thực
tế về chi NSNN tại Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, giai đoạn 2013-2016.
Đồng thời sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh dựa
trên lý thuyết tài chính và số liệu thực tiễn về ngân sách tại Bộ Văn hóa Thể
thao và Du lịch.
Luận văn chủ yếu thu thập các nguồn số liệu sơ cấp: Báo cáo quyết
toán NSNN tại Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch giai đoạn 2013-2016; Báo
cáo về một số chủ trương, biện pháp, dự toán thu chi ngân sách năm 20132016; Báo cáo quy hoạch tổng thể phát triển của Bộ đến năm 2020; đồng
thời vận dụng kết quả nghiên cứu của các công trình có liên quan để làm rõ
hơn các cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

Trên cơ sở phân tích công tác quản lý NSNN – trong đó tập trung
vào quản lý Chi NSNN -tại Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch để rút ra những
ưu điểm, những mặt hạn chế và nguyên nhân làm công tác quản lý NSNN
gặp khó khăn. Từ đó rút đề xuất các giải pháp tận dụng những lợi thế và
khắc phục những điểm yếu trong công tác quản lý NSNN.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu bao gồm 3 chương:

Chương 1: Lý luận chung về NSNN và quản lý NSNN tại
cơ quan TW không có nguồn thu trực tiếp.
Chương 2: Thực trạng quản lý NSNN tại Bộ Văn hóa
Thể thao và Du lịch Chương 3: Giải pháp hoàn thiện quản lý
NSNN tại Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch

4


CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC VÀ QUẢN LÝ
NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC TẠI CƠ QUAN TRUNG ƢƠNG KHÔNG
CÓ NGUỒN THU TRỰC TIẾP
1.1. Tổng quan về Ngân sách nhà nƣớc
1.1.1. Khái niệm về Ngân sách nhà nƣớc
Luật NSNN số 83/2015/QH3 ngày 26/6/2015 quy định: “NSNN là
toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước được dự toán và thực hiện trong
một khoảng thời gian nhất định do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết
định để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”.
Do đó, nếu dựa theo quan điểm của Quốc hội thì bản chất của
NSNN là “hệ thống các mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và xã hội phát

sinh trong quá trình Nhà nước huy động và sử dụng các nguồn tài chính
nhằm đảm bảo các nhu cầu thực hiện các chức năng quản lý và điều hành
nền KT-XH của mình”.
1.1.2. Đặc điểm của Ngân sách Nhà nƣớc
“NSNN vừa là nguồn lực để nuôi dưỡng bộ máy Nhà nước, vừa là
công cụ hữu hiệu để Nhà nước quản lý, điều tiết nền kinh tế và giải quyết
các vấn đề xã hội” nên có những đặc điểm chính sau:
Thứ nhất, “việc tạo lập và sử dụng quỹ NSNN luôn gắn liền với
quyền lực kinh tế - chính trị của Nhà nước, được Nhà nước tiến hành trên
cơ sở những luật lệ nhất định”. Thứ hai, “NSNN luôn gắn chặt với sở hữu
Nhà nước và luôn chứa đựng lợi ích chung, lợi ích công cộng”. Thứ ba,
“NSNN là một bản dự toán thu chi”. Thứ tư, “NSNN là một bộ phận chủ
yếu của hệ thống tài chính quốc gia”. Hệ thống tài chính quốc gia bao gồm:
tài chính nhà nước, tài chính doanh nghiệp, trung gian tài chính và tài chính
cá nhân hoặc hộ gia đình. Trong đó “tài chính nhà nước là khâu chủ đạo
trong hệ thống tài chính quốc gia”.
1.1.3. Các bộ phận cấu thành nên Ngân sách nhà nƣớc
Ngân sách nhà nước được cấu thành từ 2 bộ phận chính, đó là từ
thu ngân sách nhà nước và chi ngân sách nhà nước. Đối với nguồn thu, chủ

5


yếu dựa trên hình thành từ thuế, các khoản vay nợ và phát hành trái phiếu
chính phủ. Tuy nhiên, do tầm quan trọng của thuế nên đối với nguồn thu,
luận văn này chỉ tập trung vào thuế. Đối với các cơ quan quản lý, lại là các
cơ quan trung ương như Bộ Văn hóa Thể thao và du lịch, nguồn thu tập
trung vào cấp phát của NSNN trung ương. Do đó, trong phạm vi của Luận
văn này, tác giả gần như không đề cập đến nguồn thu của cấp Bộ mà tập
trung thẳng vào nghiên cứu chi NSNN. Quản lý NSNN trong Luận văn này

cũng tập trung vào quản lý Chi NSNN.
1.2. Quản lý Ngân sách nhà nƣớc tại cơ quan trung ƣơng không có
nguồn thu
1.2.1. Khái niệm quản lý Ngân sách nhà nƣớc
Quản lý NSNN là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
sử dụng các phương pháp và công cụ chuyên ngành để tác động đến quá
trình thu và chi NSNN nhằm đảm bảo các khoản chi NSNN được thực hiện
theo đúng chế độ chính sách đã được Nhà nước quy định, đảm bảo Nhà
nước hoàn thành tốt các chức năng, nhiệm vụ của mình trong từng thời kỳ.
Theo định nghĩa này thì quản lý NSNN sẽ quản lý đối với quá trình hình
thành nên nguồn và quá trình chi. Tuy nhiên, đối với quá trình hình thành
NSNN tại các cơ quan trung ương không có nguồn thu trực tiếp thì quản lý
dễ dàng hơn rất nhiều, do cơ chế hoạt động của các cơ quan này theo luật
định, và nguồn cũng được tập trung từ NSNN trung ương xuống. Vì vậy,
quản lý NSNN ở các cơ quan như Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch chỉ tập
trung vào quản lý chi NSNN.
Quản lý chi NSNN tại các cơ quan trung ương không có nguồn thu:
là sự tác động của cơ quan trung ương đóđến các hoạt động chi NSNN
nhằm mục tiêu đảm bảo sử dụng NSNN đúng mục đích, tiết kiệm, hiệu quả,
phù hợp với yêu cầu của thực tế, đúng chính sách, chế độ của Nhà nước,
nhằm phục vụ tốt nhất cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ do cơ
quan đó đảm nhận. Quản lý chi NSNN tại cơ quan trung ương không có
nguồn thu còn là việc vận dụng một hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả của công tác phân bổ, quản lý điều hành chi chặt chẽ, thực hiện tiết

6


kiệm triệt để các khoản chi thường xuyên, nhằm kiềm chế lạm phát, góp
phần ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng một cách hợp lý, nâng cao

chất lượng và hiệu quả tăng trưởng, bảo đảm phúc lợi và an sinh xã hội và
góp phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của toàn thể người dân.
1.2.2. Sự cần thiết của quản lý ngân sách nhà nƣớc tại các cơ quan
trung ƣơng không có nguồn thu trực tiếp
Quản lý NSNN tại các cơ quan trung ương không có nguồn thu có
một vai trò quan trọng, nhằm đáp ứng được đủ nguồn để phục vụ cho các
hoạt động quản lý tại chính cơ quan đó, đồng thời thực hiện hoạt động liên
kết với các cơ quan có liên quan. Trước đây, công tác lập dự toán thu và chi
theo trình tự có từ trước, song đến thời điểm hiện tại, dự toán được thực
hiện từ tháng 10, dựa trên những mục chi dự định sẽ tiến hành.
1.2.3. Nguyên tắc quản lý ngân sách nhà nƣớc tại các cơ quan trung
ƣơng không có nguồn thu trực tiếp
Một là, nguyên tắc tập trung dân chủ. Hai là, nguyên tắc kết hợp hài
hòa các lợi ích. Ba là, nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả. Bốn là, nguyên tắc
hợp pháp, công khai, minh bạch, đúng quy định. Năm là, nguyên tắc bảo
đảm cân đối ngân sách.
1.2.4. Nội dung quản lý ngân sách nhà nƣớc tại cơ quan trung ƣơng
không có nguồn thu trực tiếp
Quản lý NSNN tại các cơ quan không có nguồn thu bao gồm các
nội dung sau đây
Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước; Lập dự toán ngân sách tại
các cơ quan trung ương không có nguồn thu trực tiếp; Phân bổ, giao dự toán
NSNN tại các cơ quan trung ương không có nguồn thu trực tiếp; Chấp hành
dự toán NSNN tại các cơ quan trung ương không có nguồn thu trực tiếp;
Kiểm tra, kiểm soát, thanh toán các khoản chi ngân sách tại các cơ quan
trung ương không có nguồn thu trực tiếp; Quyết toán các khoản chi ngân
sách tại các cơ quan trung ương không có nguồn thu trực tiếp;

7



1.2.5. Các chỉ tiêu đánh giá quản lý chi NSNN
Thứ nhất, đánh giá về phân cấp chi NSNN. Thứ hai, đánh giá việc
lập dự toán NSNN. Thứ ba, đánh giá việc phân bổ, giao dự toán chi NSNN.
Thứ tư, đánh giá việc chấp hành dự toán chi NSNN. Thứ năm, đánh giá
việc quyết toán các khoản chi ngân sách
1.2.6. Các nhân tố ảnh hƣởng đến quản lý Ngân sách nhà nƣơc tại các
cơ quan trung ƣơng không có nguồn thu trực tiếp
Các nhân tố này gồm: Cơ chế, chính sách liên quan đến quản lý chi
ngân sách; Chủ trương, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH
của Nhà nước; Ảnh hưởng của hệ thống kiểm tra, giám sát tới quản lý chi
ngân sách tại các cơ quan trung ương không có nguồn thu trực tiếp; Phẩm
chất và năng lực của cán bộ quản lý tại các cơ quan trung ương không có
nguồn thu trực tiếp; Ảnh hưởng của hệ thống công nghệ thông tin trong
quản lý ngân sách tại các cơ quan trung ương không có nguồn thu trực tiếp;
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC
TẠI BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH
2.1. Khái quát chung về Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch là cơ quan của Chính phủ, thực
hiện chức năng quản lý nhà nước về văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao và
du lịch trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc
lĩnh vực văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao và du lịch theo quy định của
pháp luật. Ngày 16 tháng 7 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị định
số 76/2013/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

8



2.2. Khái quát tình hình sử dụng NSNN tại Bộ Văn hóa, Thể thao, Du lịch
2.2.1 Mô hình quản lý NSNN tại Bộ Văn hóa, Thể thao, Du lịch
Quản lý chi NSNN là sự tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng
quản lý nhằm đạt được mục tiêu. Bộ máy quản lý NSNN tại Bộ Văn hóa,
Thể thao, Du lịch chính là Chủ thể quản lý chi ngân sách cấp cơ quan trung
ương bao gồm:
+ Lãnh đạo cấp Bộ: có nhiệm vụ thông qua dự toán thu chi ngân
sách cấp bộ và đơn vị trực thuộc, gồm dự toán chi đầu tư phát triển, chi
thường xuyên, dự phòng ngân sách theo quy định. Trong chi đầu tư phát
triển phân bổ theo tỷ lệ nguồn thu tiền sử dụng đất được hưởng theo phân
cấp. Chi thường xuyên có mức chi cụ thể cho các lĩnh vực giáo dục - đào
tạo và dạy nghề, khoa học và công nghệ; quản lý hành chính nhà nước,…;
quyết định phân bổ dự toán ngân sách chi tiết theo chi đầu tư phát triển, chi
thường xuyên, dự toán chi thường xuyên của từng cơ quan, đơn vị thuộc
cấp dưới mình, mức bổ sung cho ngân sách từng đơn vị cấp dưới trực tiếp,
gồm bổ sung cân đối ngân sách, bổ sung có mục tiêu; phê chuẩn quyết toán
ngân sách của cơ quan trung ương; quyết định điều chỉnh dự toán ngân sách
trong trường hợp cần thiết.
+ Vụ Kế hoạch, Tài chính có nhiệm vụ: Hướng dẫn các cơ quan,
đơn vị dự toán trực thuộc xây dựng dự toán ngân sách hàng năm; xây dựng,
trình Ban lãnh đạo dự toán ngân sách theo hướng dẫn của Bộ Tài chính;
Lập dự toán chi ngân sách và tổng hợp dự toán ngân sách của các vụ, cục
cấp dưới, phương án phân bổ ngân sách trình ban lãnh đạo; lập dự toán
ngân sách điều chỉnh trong trường hợp cần thiết để trình ban lãnh đạo; tổ
chức thực hiện dự toán ngân sách đã được quyết định; hướng dẫn, kiểm tra
việc quản lý tài chính, ngân sách, giá, thực hiện chế độ kế toán của các cục,
vụ trực thuộc, và các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp khác thuộc tại
Bộ Văn hóa, Thể thao, Du lịch; thẩm định quyết toán thu, chi ngân sách; xét
duyệt quyết toán đối với các cơ quan, đơn vị được ngân sách hỗ trợ; lập
quyết toán thu, chi ngân sách của Bộ; tổng hợp, lập báo cáo quyết toán thu

NSNN dựa trên phân bổ vốn của trung ương.

9


2.2.2. Tình hình thu – chi ngân sách nhà nƣớc tại Bộ Văn hóa, Thể thao
và Du lịch
Lĩnh vực Văn hóa, Thể thao, Du lịch (và thời điểm hiện tại thêm
Gia đình) là lĩnh vực được Nhà nước quan tâm đầu tư phát triển nhằm mục
tiêu xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao
đời sống tinh thần, vật chất của người dân. Chính sách của Nhà nước, đặc
biệt là chính sách đầu tư tài chính, trong đó có chi ngân sách có vai trò rất
quan trọng trong việc thực hiện định hướng trên vì nó giúp tạo lập và duy
trì các điều kiện vật chất thuận lợi để các cá nhân, tổ chức hoạt động trong
lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và gia đình sáng tạo và thực hiện giá trị.
Nguồn ngân sách nhà nước có vai trò quản lý điều tiết các hoạt động sử
dụng ngân sách nhà nước, đưa ra những khuôn khổ pháp lý để các hoạt
động trong lĩnh vực tuân theo quy định về phân cấp ngân sách và theo định
hướng đầu tư phát triển của nhà nước.
Ngân sách nhà nước dành cho thể thao, văn hóa và du lịch càng lớn,
trong vòng các năm tư 2010 đến 2016 đã tăng từ 687 tỷ lên đến 1.551 tỷ,
tức là tăng hơn 2,5 lần trong vòng 6 năm. Những hoạt động chi này nhằm
hướng đến các chương trình kỷ niệm các ngày lễ lớn, trọng đại của dân tộc.
Cơ cấu chi thường xuyên chiếm tỷ trọng cao trong tổng chi ngân sách. Về
cơ cấu thực chi đầu tư phát triển trong các năm tuy chiếm tỷ trọng nhỏ hơn
thực chi thường xuyên, nhưng số thực chi qua các năm hầu hết là cao hơn
so với dự toán. Hơn nữa, nếu xét cả số chi chuyển nguồn XDCB sang năm
sau, thì về thực chất con số này vẫn nằm trong cơ cấu chi đầu tư phát triển,
điều này càng chứng tỏ một thực tế rằng nhiệm vụ chi đầu tư phát triển của
Bộ luôn được chú trọng và đảm bảo cho nhu cầu đầu tư phát triển và XDCB

về mạng lưới các nhà văn hóa, các bảo tàng, và các chương trình phát triển
sức khỏe cộng đồng hoặc tri ân với các thế hệ có công với cách mạng.
2.2.3. Nội dung quản lý ngân sách nhà nƣớc tại Bộ Văn hóa, Thể thao,
Du lịch
Thực trạng phân cấp nhiệm vụ chi ngân sách

10


Hoạt động phân cấp thu chi ngân sách của Bộ được chia thành 3
lĩnh vực lớn nằm trong quá trình quản lý thành Văn hóa, thể thao, du lịch và
1 phần cho gia đình.
Lập dự toán chi NSNN
Dự toán chi NSNN của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch được thực
hiện theo các quy định của Luật ngân sách; Nghị định 60/2003/NĐ – CP
ngày 06/6/2003 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật
ngân sách; Thông tư 59/2003/TT – BTC ngày 23/6/2003 của Bộ Tài chính
hướng dẫn thực hiện Nghị định 60/2003/NĐ- CP ngày 06/6/2003 của Chính
phủ; Quyết định số 59/2010/QĐ-TTg ngày 30/9/2010 của Thủ tướng Chính
phủ ban hành định mức phân bổ chi thường xuyên NSNN. Các cơ sở trên
làm căn cứ cho công tác quản lý chi NSNN đạt hiệu quả và đúng mục đích
trong thời kỳ ổn định ngân sách 2007 – 2010 và thời kỳ ổn định ngân sách
2011 – 2015 được kéo dài đến hết năm 2016.
Thực trạng quản lý phân bổ, giao dự toán NSNN tại Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch
Căn cứ nhiệm vụ được giao, hàng năm Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch xây dựng phương án phân bổ, giao dự toán chi NSNN dựa trên tỉ lệ
điều tiết (%) giữa các nguồn thu của từng đơn vị để trình lãnh đạo quyết
định. Tiếp đó, sau khi lãnh đạo Bộ xem xét, chấp thuận và quyết phương án
phân bổ, giao dự toán chi NSNN cho các đơn vị, lúc này mới ra quyết định

phê chuẩn dự toán ngân sách đồng thời giao nhiệm vụ thu, chi, số bổ sung
ngân sách cho từng đơn vị. nhiệm vụ chi thường xuyên của các năm chiếm
tỉ lệ cao nhất, cụ thể tỷ lệ nhiệm vụ chi thường xuyên: luôn chiếm đến xấp
xỉ 70%. Năm 2011 và năm 2012 tỷ lệ chi thường xuyên không cao như các
năm khác (mặc dù vẫn giữ mức ổn định) là do tác động của suy thoái kinh
tế toàn cầu, nền kinh tế đất nước gặp khó khăn chung, nguồn thu của Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ yếu được bổ sung từ ngân sách cấp trên
nên buộc phải điều tiết giảm bớt khoản chi thường xuyên. Tỷ lệ chi thường
xuyên đã được phục hồi ở năm 2013. Đến năm 2014, tỷ lệ chi thường xuyên
được tăng lên trên 70% nhằm để khắc phục những hệ quả của khó khăn

11


kinh tế những năm 2011 và 2012. Tiếp đến, tỉ lệ chi đầu tư và phát triển
cũng chiếm tỷ trọng phù hợp qua các năm – và luôn dao động trong vòng
28% - 31%.
Chấp hành dự toán chi NSNN
Dựa vào thu chi NSNN hàng năm và quan điểm, chủ trương của
Nhà nước, hàng năm Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch tiến hành phân bổ
vào 2 khoản mục chính là chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển. Tuy
nhiên, một điều đáng nói là tổng chi lại vượt khá nhiều so với tổng mức chi
thường xuyên: nếu chi thường xuyên chỉ tập trung vào các hoạt động chi trả
lương cho nhân viên, chi trả các kinh phí quản lý cho cán bộ lãnh đạo, các
chương trình thường niên nằm trong kế hoạch của chính phủ và các khoản
chi liên quan đến tài sản khác thì hoạt động đầu tư phát triển lại có xu
hướng tăng rất nhanh, đẩy tỷ lệ quyết toán trên dự toán chi NSNN của Bộ
tăng cao.
Kiểm tra, kiểm soát, thanh toán các khoản chi ngân sách tại Bộ
VHTTDL

Trong những năm qua, KBNN tiếp tục hoàn thiện cơ chế kiểm soát
chi theo hướng đơn giản hóa thủ tục, tạo thuận lợi cho các đơn vị sử dụng
ngân sách và chủ đầu tư. Đồng thời, công tác này cũng phải đảm bảo đúng
quy định của Luật NSNN, Luật thực hành tiết kiệm chống lãng phí và Luật
phòng chống tham nhũng.
Quyết toán chi NSNN tại Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Quy trình quyết toán chi ngân sách tại Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch gồm 5 bước
Bước 1: Vụ Kế hoạch – Tài chính nhập số liệu quyết toán thu, chi
của các đơn vị sử dụng ngân sách, nhập số liệu quyết toán ghi thu, ghi chi,
nhập số liệu quyết toán chi đầu tư xây dựng cơ bản.
Bước 2: Tập hợp số liệu vào biểu mẫu quyết toán theo quy định của
Luật NSNN.
Bước 3: Đối chiếu và xác nhận số liệu quyết toán với Kho bạc nhà
nước.

12


Bước 4: Vụ Kế hoạch – Tài chính gửi báo cáo lên bộ phận quản lý
thuộc bộ (Bộ trưởng, Thứ trưởng) trình duyệt.
Bước 5: Truyền số liệu quyết toán thu, chi ngân sách cho Bộ Tài
chính tổng hợp.
2.3. Đánh giá thực trạng quản lý chi NSNN tại Bộ VHTTDL
2.3.1 Những kết quả đạt đƣợc
Về cơ bản, các nội dung trong chu trình quản lý chi NSNN đã được
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tuân thủ.
Đã thực hiện phân cấp nhiệm vụ chi theo đúng quy định của Nhà
nước
Các khoản chi ngân sách được kiểm soát thường xuyên qua KBNN

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã thực hiện tốt công tác thanh
tra, kiểm tra nhằm hạn chế những thất thoát kém hiệu quả trong chi ngân
sách
2.3.2 Hạn chế
Những hạn chế trong phân cấp NSNN tại Bộ VHTTDL như trong
quá trình thực hiện các nhiệm vụ chi như: duy tu, sửa chữa, nâng cấp các di
tích lịch sử; các công trình giao thông; hay chi cho sự nghiệp phát triển thể
dục thể thao,... vẫn còn lẫn lộn giữa trách nhiệm, quyền hạn của nhiệm vụ
chi mà mỗi cấp phải bảo đảm. Bên cạnh đó, một số lĩnh vực hoạt động khác
như: Sự nghiệp giáo dục thuộc các trường đại học như Văn hóa, Thể dục
thể thao thuộc Bộ Giáo dục, tuy nhiên thực tế ngân sách Bộ VHTTDL lại
chi mục đầu tư phát triển và các khoản phụ cấp lương,...
Những hạn chế trong lập dự toán NSNN tại Bộ VHTTDL như năng
lực, trình độ xây dựng dự toán của các đơn vị còn yếu kém (đặc biệt tại các
trường đại học, cao đẳng trực thuộc). Nguyên nhân là do một số cán bộ làm
công tác kế toán chưa được đào tạo chính quy, thậm chí với một số cán bộ
còn quen cơ chế bao cấp trước đây nên quá trình lập dự toán chưa căn cứ
đầy đủ vào chế độ tài chính, tiêu chuẩn, định mức chi.
Những hạn chế trong giao và phân bổ dự toán NSNN của Bộ
VHTTDL như, mục tiêu của quản lý ngân sách là nâng cao hiệu quả và kết

13


quả đầu ra của tất cả các hoạt động tiêu dùng ngân sách. Tuy nhiên thực tế
tại Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, trong quá trình thực hiện việc phân bổ
và giao dự toán thì Vụ Kế hoạch - Tài chính chủ yếu mới tính đến yếu tố
chi tiêu theo mức đầu vào (ngược lại so với mục tiêu, hướng dẫn trong quá
trình quản lý) do đó, việc sử dụng ngân sách chưa hiệu quả, chưa tiết kiệm,
chưa đạt được mục tiêu.

Những hạn chế trong thực hiện dự toán NSNN của Bộ VHTTDL
như việc chấp hành dự toán và quyết toán NSNN còn bị ảnh hưởng bởi hệ
thống, cơ chế, chính sách. Các tiêu chuẩn định mức chi tiêu chưa được ban
hành kịp thời, đầy đủ và chưa thực sự đồng bộ với nhau, do đó đã gây khó
khăn trong triển khai thực hiện việc chấp hành dự toán cũng như quyết toán
NSNN của Bộ. Ngoài ra, quá trình thực hiện dự toán chi XDCB của một số
trường đại học, cao đẳng và các đơn vị trực thuộc vẫn còn mang tính dàn
trải, chưa tập trung vốn cho các dự án ưu tiên.
Những hạn chế trong kiểm soát, thanh toán NSNN qua KBNN như:
Mặc dù hàng năm Kho bạc nhà nước đã cấp vốn tạm ứng cho các chủ đầu
tư theo kế hoạch, tuy nhiên, việc triển khai thực hiện dự án lại không kịp
thời so với kế hoạch cấp vốn vì không có mặt bằng để thi công.
Những hạn chế trong quyết toán chi NSNN của Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch như chất lượng thẩm định, xét duyệt báo cáo đôi khi còn
mang tính hình thức, né tránh; việc quyết toán chi NSNN củaBộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịchmới chỉ lại ở việc chấp nhận những khoản đã chi trong
năm. Khi phát hiện sai sót chưa kiên quyết xử lý xuất toán đối với các
khoản chi không đúng quy định, mà chỉ dừng lại ở mức rút kinh nghiệm.
Những hạn chế trong thanh tra, kiểm tra chi NSNN của Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch như mặc dù trong quá trình kiểm tra phát hiện
được sai sót của các đơn vị trong việc lập dự toán, thực hiện dự toán, báo
cáo kết toán,… nhưng lại không có chế tài xử lý kịp thời nhằm điều chỉnh
nhiệm vụ hợp lý.

14


2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế
Những hạn chế trong quản lý NSNN của Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch trong những năm qua do rất nhiều nguyên nhân gây ra. Ngoài

những nguyên nhân khách quan chung như: nguồn ngân sách còn hạn hẹp,
định mức sử dụng thấp, chưa theo kịp thực tế; hệ thống văn bản quy định có
liên quan thường xuyên thay đổi; hệ thống văn bản, chính sách, pháp luật về
quản lý đầu tư xây dựng và quản lý đất đai cũng chưa đồng bộ từ Trung
ương đến địa phương làm cho việc triển khai còn nhiều lúng túng, chậm
trễ,... thì những hạn chế nêu trên còn do một số nguyên nhân chủ quan, cụ
thể như sau:
Nguyên nhân thứ nhất: Là do thực tế hiện nay đội ngũ cán bộ ngành
tài chính kế toán ở một số đơn vị trực thuộc Bộ vẫn còn thiếu cả về số
lượng và chất lượng. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ còn nhiều bất cập,
chưa được chuẩn hóa kịp thời, chưa đáp ứng được yêu cầu trong tình hình
mới.
Nguyên nhân thứ hai: Là do công tác quản lý tài chính tại các đơn
vị sử dụng ngân sách còn lỏng lẻo, chưa có cơ chế giám sát đối với việc chi
tiêu của chủ tài khoản và kế toán. Bên cạnh đó việc sử dụng NSNN chưa
chấp hành tốt các quy định của Luật, chưa nâng cao ý thức quản lý sử dụng
kinh phí tiết kiệm, có hiệu quả nên gây ra lãng phí ở một số khâu, một số
khoản chi.
Nguyên nhân thứ ba: Là do trình độ quản lý tài chính của chủ tài
khoản ở các đơn vị sử dụng ngân sách còn có những hạn chế nhất định,
nhiều khi không nắm bắt được đầy đủ những thay đổi của chế độ chính
sách.
Nguyên nhân thứ tư: Là do việc triển khai tin học hóa công tác kế
toán theo dự án của Bộ Tài chính còn chậm và dồn công việc vào cơ quan
KBNN dẫn tới ách tắc trong khâu thanh toán, giảm chất lượng kiểm soát chi
của KBNN.

15



CHƢƠNG 3
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC
TẠI BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
3.1. Chiến lƣợc phát triển ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới, Đảng và Nhà nước ta
nhận thức ngày càng rõ hơn vị trí, vai trò của lĩnh vực văn hoá thể thao, du
lịch và gia đình đối với sự nghiệp phát triển đất nước. Đó chính là cơ sở
tăng qui mô chi NSNN cho Bộ VHTTDL, đồng thời là tiền đề, điều kiện,
yêu cầu đối với quản lý NSNN tại Bộ.
3.1.1. Đối với lĩnh vực văn hóa
Chính sách kinh tế trong văn hóa nhằm gắn văn hóa với các hoạt
động kinh tế, khai thác tiềm năng kinh tế, tài chính hỗ trợ cho phát triển văn
hóa, đồng thời đảm bảo yêu cầu chính trị, tư tưởng của hoạt động văn hóa,
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
+ Thực hiện cơ chế mở rộng hoạt động kinh đoanh dịch vụ (hoạt
động thể thao, dịch vụ văn hóa…), tạo nguồn thu hỗ trợ cho hoạt động sự
nghiệp của các đơn vị văn hóa, nghệ thuật.
3.1.2. Đối với lĩnh vực thể thao
+ Tiếp tục thực hiện lộ trình chuyển đổi hoạt động của các cơ sở thể
dục, thể thao công lập sang phương thức cung ứng dịch vụ công.
+ Đẩy mạnh thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động thể dục, thể
thao; tăng cường huy động và tạo điều kiện thuận lợi để mọi tổ chức, cá
nhân tham gia đầu tư phát triển thể dục, thể thao quần chúng, thể thao thành
tích cao và thể thao chuyên nghiệp.
3.1.3. Đối với lĩnh vực du lịch
Du lịch Việt Nam ngày càng khẳng định vai trò là một ngành kinh
tế năng động, đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương đường lối có tác dụng
định hướng, thúc đẩy ngành Du lịch phát triển. Từ Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ IX (2001) đã xác định chủ trương phát triển du lịch thật sự trở thành


16


một ngành kinh tế mũi nhọn, đáp ứng nhu cầu du lịch trong nước và phát
triển nhanh du lịch quốc tế, sớm đạt trình độ phát triển du lịch của khu vực.
3.2. Quan điểm, phƣơng hƣớng hoàn thiện quản lý NSNN tại Bộ
VHTTDL
Dựa trên những định hướng như thế, phương hướng chung đối với
quản lý NSNN được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xác định trong giai
đoạn hiện nay là: công tác QLNN nói chung và quản lý NSNN nói riêng
cần hoàn thiện hơn nữa theo hướng không chỉ có “phát triển” mà phải “phát
triển bền vững” đảm bảo các nội dung chi đúng mục tiêu, đúng kế hoạch,
đúng chế độ chính sách, đảm bảo tiết kiệm và hiệu quả. Vì vậy, phương
hướng, định hướng chi NSNN của Bộ thời gian tới phải thực hiện được các
nội dung sau:
(1) phải dựa trên cơ sở quán triệt đường lối, chính sách phát triển
KT-XH của Chính phủ nói chung và Bộ nói riêng. Với quan điểm này, việc
hoàn thiện quản lý ngân sách phải được xác định đồng bộ từ việc đổi mới
cơ chế chính sách và kiện toàn hệ thống tài chính phù hợp với quy luật kinh
tế thị trường và điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Đặc biệt là các
cấp quản lý đơn vị hành chính và sự nghiệp thuộc Bộ cần quán triệt tinh
thần thực hiện Luật NSNN, Luật thực hành tiết kiệm, các văn bản pháp lý;
các chủ trương cải cách hành chính nhà nước tới các đơn vị sử dụng ngân
sách. Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động chỉ đạo, điều hành của
các cấp quản lý đảm bảo hiệu lực, hiệu quả. Đề cao tính quyết đáp kịp thời,
dám chịu trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ của người đứng đầu cơ
quan đơn vị.
(2) trong khuôn khổ phân cấp nhiệm vụ chi phải luôn bám sát các
chính sách, định mức, tỉ lệ điều tiết, văn bản của TW và tình hình phát triển

KT-XH từng năm của ngành. Nếu thấy cần thiết nên điều chỉnh tỉ lệ giữa
các đơn vị trực thuộc, giữa các nhiệm vụ, ưu tiên cho những lĩnh vực, đơn
vị tạo sự công bằng trong chi NSNN. Tuy nhiên, việc điều chỉnh phải có cơ
sở, tránh việc điều chỉnh tùy tiện gây cản trở trong lãnh đạo, chỉ đạo. Bên

17


cạnh đó cần phải tăng cường vai trò và trách nhiệm của các cấp quản lý
trong việc sử dụng ngân sách.
(3) quản lý NSNN tại Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phải theo
hướng tiết kiệm, hiệu quả, bố trí chi thường xuyên ở mức độ hợp lý, tăng
chi đầu tư phát triển để thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển đã đề ra.
Nâng cao hiệu quả các khoản chi ngân sách, xác định các nội dung trọng
tâm cần đầu tư, đồng thời thực hiện tốt các khâu xây dựng, chấp hành dự
toán, quyết toán ngân sách.
3.3. Giải pháp hoàn thiện quản lý ngân sách nhà nƣớctại Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch
3.2.1 Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý ngân sách
Quy trình thu – chi NSNN hiện đã được quy định rất cụ thể trong
luật NSNN và các văn bản hướng dẫn. Tuy nhiên, đối với Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch trong quá trình tổ chức thực hiện vẫn còn có những hạn chế,
chưa đúng quy định.
3.2.2. Hoàn thiện nội dung nghiệp vụ quản lý NSNN tại Bộ VHTTDL
3.2.2.1. Hoàn thiện phân cấp quản lý NSNN
Việc phân cấp các quyết định đầu tư thuộc NSNN của Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịchcần chú trọng đến nhóm dự án và quy mô dự án. Nên
tập trung những nhóm dự án có tổng mức đầu tư từ 5 tỉ đồng trở nên, có
thiết kế kỹ thuật phức tạp phân cấp cho các vụ cục làm chủ đầu tư, còn
những nhóm dự án dưới 5 tỉ đồng, thiết kế kỹ thuật đơn giản giao cho các

đơn vị khác làm chủ đầu tư.
3.2.2.2. Hoàn thiện lập dự toán NSNN
Từ những phân tích, đánh giá nói trên, để hoàn thiện và nâng cấp
chất lượng lập dự toán của các đơn vị, xã và bảo đảm cho công tác tổng hợp
dự toán của Vụ Kế hoạch - Tài chính được chính xác, nhanh gọn, hiệu quả
thì yếu tố về chất lượng cán bộ được đặt lên hàng đầu. Do đó để nâng cao
trình độ nghiệp vụ, khả năng phân tích, dự báo cho các cán bộ làm công tác
kế hoạch, thì Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần phải có kế hoạch tổ chức
tập huấn, hướng dẫn phương pháp, quy trình, biểu mẫu, thời gian lập, thời

18


gian gửi dự toán về Vụ Kế hoạch - Tài chính hoặc gửi công văn hướng dẫn
trực tiếp về các đơn vị trực thuộc và kèm theo các biểu mẫu để thống nhất
được thực hiện trên địa bàn (làm được điều này sẽ tạo được sự thống nhất
giữa các đơn vị trong quá trình lập và gửi dự toán, tạo thuận lợi trong quá
trình tổng hợp của Vụ Kế hoạch - Tài chính). Bên cạnh đó cần có chế tài cụ
thể để kiên quyết xử phạt đối với các trường hợp thực hiện không đúng quy
định.
3.2.2.3. Hoàn thiện phân bổ, giao và chấp hành dự toán NSNN của
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Để hoàn thiện và nâng cao hiệu quả phân bổ, giao và chấp hành dự
toán chi NSNN, trước tiên Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần phải có kế
hoạch rà soát lại tất cả các đơn vị, để phân loại chính xác các loại hình đơn
vị dự toán của các đơn vị sử dụng ngân sách trực thuộc, tuyệt đối tuân thủ
quy định về phân bổ, giao dự toán đối với từng loại hình đơn vị. Việc rà
soát này, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch nên giao cho các cơ quan nội vụ,
Vụ Kế hoạch - Tài chính thực hiện.
3.2.2.4. Hoàn thiện chế độ kiểm soát, thanh toán các khoản chi

NSNN qua Kho bạc nhà nước
Trong kiểm soát chi thường xuyên, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch cần xem xét khả năng đảm bảo kinh phí cho nhu cầu chi thường xuyên
của toàn ngành từ nguồn NSNN và nhu cầu sử dụng ngân sách tại các đơn
vị trực thuộc một cách thường xuyên để có những điều chỉnh kịp thời nhằm
thiết lập một cơ cấu chi mới đảm bảo các khoản chi có hiệu quả nhất.
3.2.3. Nâng cao năng lực và trình độ chuyên môn của cán bộ quản lý
NSNN
Ngân sách là nguồn tài chính chủ yếu đảm bảo cho cơ quan nhà nước
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình, thực hiện các nhiệm vụ KT-XH.
Chính vì vậy, để công tác quản lý ngân sách của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch, đặc biệt là quản lý chi được nâng cao thì vai trò của đội ngũ cán bộ, chuyên
viên, những người trực tiếp tham gia vào công tác quản lý ngân sách là rất quan

19


trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả và hiệu lực trong việc quản lý ngân
sách.
3.2.4. Đổi mới cơ cấu chi NSNN tại Bộ VHTTDL
Thứ nhất, xác định chi đầu tư phát triển là khoản chi quan trọng đối
với sự nghiệp phát triển KT-XH của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Song không vì thế mà cơ cấu khoản chi này quá mức. Phải làm sao đảm bảo
mức độ chi hợp lý phù hợp với các nguồn thu. Bảo đảm tăng chi hợp lý bên
cạnh đó tranh thủ khai thác được các nguồn lực trong xã hội thông qua hình
thức hợp tác đầu tư công tư PPP.
Thứ hai, khoản chi thường xuyên là khoản chi có rất nhiều nội dung
khác nhau. Vì vậy, việc sắp xếp, cơ cấu lại cần được rà soát đánh giá thận
trọng. Loại bỏ những khoản chi bất hợp lý ra khỏi cơ cấu chi. Cần ưu tiên
chi cho sự nghiệp giáo dục đào tạo nhằm phát triển nguồn nhân lực có chất

lượng cao. Ưu tiên chi cho hoạt động khoa học công nghệ, tạo động lực thu
hút người có tài, có trí tuệ sáng tạo phục vụ trong lĩnh vực này.
3.2.5. Giải pháp khác
3.2.5.1. Tăng cường thanh tra, kiểm tra việc sử dụng ngân sách tại
các đơn vị sử dụng ngân sách
3.2.5.2. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa Vụ Kế hoạch - Tài
chính, KBNN và các cơ quan liên quan trong quản lý chi NSNN
3.3. Kiến nghị
Mặc dù đã sử dụng nhiều biện pháp tổng hợp trên nhưng nếu không
có sự hỗ trợ từ sự thay đổi về Luật NSNN và các văn bản hướng dẫn thi
hành quản lý thu - chi NSNN trong thời gian tới thì việc tăng cường quản lý
NSNN ở Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịchnói riêng và các cơ quan trung
ương không có nguồn thu trực tiếp khác khó có thể thực hiện được. Vì vậy,
các cơ quan chức năng của Chính phủ cần tiếp tục nghiên cứu lý thuyết và
thực tiễn để đưa ra các phương pháp quản lý chi NSNN hiệu quả nhất. Đặc
biệt là thay đổi hệ thống Luật pháp và các quy định pháp lý có liên quan để
có thể tăng cường hơn nữa quản lý NSNN.

20


Thứ nhất, Quốc hội và Chính phủ cần nghiên cứu hoàn thiện các
văn bản quy phạm pháp luật về quản lý chi NSNN. Có nhiều văn bản pháp
luật đang hướng dẫn thi hành và quản lý chi NSNN như Luật Ngân sách số
83/2015/QH13, Luật Xây dựng số 50/2014/QH13, Luật Đấu thầu số
43/2013/QH13, Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13,… dẫn đến tình trạng
chồng chéo, áp dụng không thống nhất với nhau. Mặc dù các văn bản đã
được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với thực tế nhưng vẫn còn một số bất
cập trong việc vận dụng các văn bản pháp luật trên trong quản lý, điều hành
chi NSNN, nhiều nội dung vẫn chưa được sửa đổi, bổ sung, một số văn bản

chưa phù hợp thực tế, cứng nhắc, chưa được quy định cụ thể. Vì vậy, các cơ
quan chức năng của Chính phủ cần rà soát lại các văn bản pháp luật về quản
lý chi NSNN để tham mưu cho Quốc hội sửa đổi, bổ sung cho hoàn thiện.
Thứ hai, nghiên cứu đổi mới phương pháp lập dự toán NSNN theo
đầu vào như hiện nay sang lập dự toán NSNN theo kết quả đầu ra. Quản lý
NSNN theo kết quả đầu ra sẽ là công cụ để Nhà nước tập trung nguồn lực
công phục vụ các hoạt động mang lại lợi ích cao nhất cho xã hội, giúp cải
thiện chính sách tài chính công và góp phần tăng cường hiệu quả quản lý
chi NSNN.
Thứ ba nghiên cứu hoàn thiện định mức phân bổ ngân sách đảm
bảo tính công bằng, hợp lý, công khai giữa các vùng, miền, có tính đến yếu
tố ưu tiên cho các địa phương miền núi, hải đảo, các địa phương nằm trong
vùng kinh tế trọng điểm, các tiêu chí xây dựng định mức phải đảm bảo tính
khoa học, dễ tính toán, dễ kiểm tra.

21


KẾT LUẬN
Quản lý chi ngân sách tại các cơ quan trung ương là một lĩnh vực
quản lý rất khó khăn, vì nó phụ thuộc vào nhiều nhân tố tác động, không chỉ
là cơ chế chính sách, con người mà còn phụ thuộc mạnh mẽ về các điều
kiện khách quan khác. Vì vậy, để đổi mới quản lý chi ngân sách tại các cơ
quan trung ương cần một thời gian và các điều kiện nhất định. Tuy nhiên,
chúng ta cần phải đẩy nhanh quá trình này, điều này có thể làm được nếu có
sự chỉ đạo thống nhất từ Trung ương xuống và sự quyết tâm của bộ máy
quản lý các cấp.
Hoàn thiện quản lý NSNN của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch là
một việc cần thiết, nó sẽ giúp cho NSNN Bộ thực sự trở thành công cụ quản
lý vĩ mô của Nhà nước. Bởi vì, thực tế trong những năm qua, công tác quản

lý ngân sách của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tuy đã đi vào nề nếp, cơ
bản đúng Luật NSNN, tuy nhiên vẫn còn tồn tại những vấn đề bất cập như
hiệu quả chi ngân sách ở một số lĩnh vực cụ thể chưa cao, vẫn còn tình
trạng chi vượt dự toán, thực hiện chi khi chưa có đầy đủ căn cứ, chi sai chế
độ, v.v. Vì vậy, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần phải có giải pháp cho
quản lý chi NSNN để tăng hiệu quả quản lý.
Trong chương 1, Luận văn đã hệ thống hóa và làm rõ thêm các vấn
đề lý luận quản lý NSNN tại các cơ quan trung ương, gần như không có
nguồn thu trực tiếp; đặc điểm, yêu cầu, nội dung, các nhân tố ảnh hưởng
quản lý NSNN tại các cơ quan trung ương.
Trong chương 2, trên cơ sở lý luận, các chỉ tiêu, yếu tố ảnh hưởng
được nêu ra tại Chương một, đã phân tích, đánh giá một cách tổng quan, có
hệ thống thực trạng quản lý NSNN của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch từ
năm 2007 đến năm 2016; những đánh giá chung quản lý NSNN của Bộ, tìm
ra nguyên nhân của những hạn chế.
Trong Chương 3, trên cơ sở phân tích những tồn tại, hạn chế và
nguyên nhân đã nêu ra, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý
NSNN của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong giai đoạn tiếp theo.

22


Qua tìm hiểu, nghiên cứu về quản lý NSNN tại Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch có thể thấy việc quản lý NSNN xét về phương diện lý luận
cũng như thực tiễn cơ bản đã thực hiện trên cơ sở Luật định và các văn bản
hướng dẫn thực hiện của Nhà nước. Song vấn đề giữa lý luận và thực tiễn,
giữa quy định và thực hiện về quản lý NSNN không chỉ riêng Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch mà còn rất nhiều các cơ quan trung ương khác vẫn luôn
tồn tại những sự bất cập, bất hợp lý ở một số điểm, một số khâu trong quản
lý NSNN, điều này ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả quản lý và hiệu quả chi

NSNN.
Thông qua nghiên cứu những cơ sở lý luận, phân tích, đánh giá
thực trạng quản lý NSNN của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, tác giả hy
vọng rằng nội dung nghiên cứu và những giải pháp trình bày trong Luận
văn sẽ góp phần hoàn thiện công tác quản lý NSNN tại Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch, đồng thời góp phần đẩy nhanh hiểu biết của người dân về
dân trí, về các mặt thuộc văn hóa xã hội cũng như đời sống tinh thần và các
lĩnh vực khác mà Bộ được giao quản lý./.

23


×