Khủng hoảng tài chính kinh tế Mỹ và châu Âu
Cuộc khủng kinh tế ở Mỹ hiện nay thực ra đã bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng tài chính của nước này cách đây
khoảng 20 năm. Trong cuộc khủng khoảng chứng khoán Nữu Ước (NYSE) tháng 10 năm 1987 (lúc ấy người
viết bài này có mặt tại chỗ), Mỹ phải thừa nhận đã nợ nước ngoài quá nhiều, mà người Mỹ đã hưởng lợi và tiêu
dùng vượt quá khả năng trả nợ của mình. Tại thời điểm đó, giới chức Mỹ đã đề ra một số biện pháp để tránh
một cuộc khủng hoảng tương tự cho thị trường chứng khoán NYSE. Tuy nhiên, chúng chỉ có hiệu quả trong
khoảng 10 năm, và đến những năm 1995-1997, thị trường chứng khoán (TTCK) Mỹ lại một lần nữa bị khủng
hoảng (nhẹ hơn khủng hoảng năm 1987 và hiện nay), nhưng đã có những tác động xấu và gây ra cuộc khủng
hoảng tài chính nghiêm trọng tại Đông Nam Á năm 1998-1999.
Sau đó, Chính phủ Mỹ đã không đề ra biện pháp gì mới để tránh khủng hoảng. Các chuyên gia đã bắt đầu nói
và chờ đợi về một cuộc khủng hoảng tín dụng(credit crunch), và 10 năm sau (2008) nổ ra cuộc khủng hoảng tín
dụng nhà đất tại Mỹ hiện nay.
Vậy nguyên nhân trực tiếp của cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay là do khủng hoảng tín dụng nhà đất. Các
ngân hàng tại Mỹ trước đây đã quá dễ dãi trong việc cho vay tín dụng để mua nhà đất, họ đã cho khách hàng
vay mua nhà vượt quá khả năng tài chính của người mua. Có những ngân hàng Mỹ còn cho khách hàng vay tới
110-120% giá trị của căn hộ họ cần mua. Vào thời điểm cách đây 10 năm, khi lãi suất cho vay còn thấp, những
người có thu nhập trung bình tại Mỹ cũng có thể mua được nhà và trả lãi ngân hàng được. Tuy nhiên, sau đó lãi
suất ngân hàng bắt đầu tăng, nhưng người vay tiền ngân hàng để mua nhà bắt đầu không thể trả nổi lãi ngân
hàng, các ngân hàng bắt đầu phải siết nợ, lấy lại ngôi nhà của người mua. Theo luật Mỹ, chỉ một vài tháng mà
người vay không trả nổi nợ, ngân hàng sẽ siết nợ. Điều này dẫn đến kết quả là bong bóng nhà đất bị nổ, giá
nhà đất sụt giảm, dẫn tới khủng hoảng tín dụng nhà đất.
Vấn đề không chỉ dừng lại ở đây. Người Mỹ đã nghĩ ra ra một hình thức đầu tư mới đó là cổ phần hóa các
khoản nợ tín dụng nhà đất và đưa vào các quỹ đầu tư rủi ro. Theo đó, các ngân hàng nước ngoài cũng mua cổ
phần có chứa các khoản nợ tín dụng nhà đất này mà không biết tới hậu quả của nó. Và kết quả là khi các khoản
nợ không đòi được, các cổ phiếu này cũng bị mất giá theo. Tình hình này đã khiến một loại các ngân hàng tại
Mỹ bị phá sản, trong đó lớn nhất phải kể đến là ngân hàng đầu tư Lehman Brothers. Người Mỹ đã sai lầm khi
không nhanh chóng cứu Lehman Brothers mà để cho ngân hàng này bị phá sản. Hành động đó tạo nên tâm lý
rất xấu đối với TTCK Mỹ và thế giới. Tuy rằng, Mỹ cũng đã ra tay cứu trợ các ngân hàng và công ty tài chính lớn
khác, nhưng vẫn không thể xóa đi tâm lý sợ hãi đang lan tràn trên khắp TTCK Mỹ và thế giới.
Khủng hoảng tài chính Mỹ đã nhanh chóng lan sang châu Âu qua trung gian là các quỹ đầu tư rủi ro chuyên
buôn bán các cổ phiếu nợ tín dụng nhà đất. Rút kinh nghiệm từ Mỹ, Chính phủ các nước châu Âu đã nhanh
chóng bỏ tiền cứu các ngân hàng hoặc công ty tài chính gặp khó khăn ngay từ đầu.
Phần lớn các nước châu Âu, trong đó có Anh, Pháp Bỉ, đã rót thẳng tiền vào các ngân hàng hoặc công ty tài
chính để trở thành cổ đông. Riêng tại Thụy Sĩ lại có cách cứu trợ rất riêng và tỏ ra khá hiệu quả. Ngân hàng
Trung ương Thụy Sĩ (NSB) đã cho Ngân hàng UBS vay 60 tỷ franc trong vòng 3 năm với lãi suất 12,5%/tháng
để xóa những nợ xấu từ các cổ phiếu chứa các khoản nợ tín dụng nhà đất, bằng cách mở một 1 công ty để đưa
những khoản nợ xấu vào đó. UBS cũng đóng góp 10% số tiền được vay vào công ty này. Đây là hình thức cứu
trợ khác các nước châu Âu khác, có thể gọi là "trách nhiệm hóa" ngân hàng UBS. Theo thời gian, cổ phiếu có
chứa các khoản nợ tín dụng nhà đất nêu trên nếu lên giá trở lại, UBS có thể bán và vẫn có thể sinh lời. Hình
thức cứu trợ trên của NSB có thể làm các ngân hàng đang gặp khó khăn có trách nhiệm hơn.
Nhìn chung, cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay đã có những tác động tới nền kinh tế thực. Khi mà tâm lý lo
sợ trong dân chúng lan tràn, người dân đã ra ngân hàng để rút tiền, hoặc chuyển tiền từ ngân hàng này sang
ngân hàng khác. Chi tiêu tiêu dùng đã giảm rõ rệt, ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất, thất nghiệp gia tăng, dịch
vụ và du lịch cũng bị thất thu nhiều. Trong kinh tế học, dấu hiệu để phát hiện ra khủng hoảng kinh tế của một
quốc gia là dựa vào chỉ số tăng trưởng kinh tế âm liên tiếp trong 2 quý. Thực tế, Mỹ đã có tốc độ tăng trưởng
kinh tế âm liên tiếp trong 2 quý. Trong khi đó, tại Anh, Thủ tướng Anh Gordon Brown cũng đã tuyên bố nước
Anh đang bắt đầu bước vào giai đoạn khủng hoảng kinh tế.
Những kế hoạch cứu trợ thị trường tài chính của Chính phủ Mỹ và châu Âu về cơ bản đã có hiệu quả về ngắn
hạn. Tuy nhiên, về trung hạn và dài hạn, cần phải cải tổ lại hệ thống tài chính thế giới như đề xuất của Tổng
thống Pháp Nicolas Sarkozy. Lý do là hệ thống tài chính thế giới hiện nay đã được hình thành sau Chiến tranh
thế giới lần thứ II, năm 1945, tại Bretton Woods, Mỹ, các nước thắng trận mà đứng đầu là Mỹ đã lập ra 2 thể
chế tài chính là Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Hai thể chế này chỉ có nhiệm vụ hỗ trợ
các nước chậm phát triển hoặc phát triển trong trường hợp bị khủng hoảng kinh tế. Tuy nhiên, 2 thể chế này
không có các chế tài xử phạt những nước vi phạm các quy luật của hệ thống tài chính quốc tế. Do vậy, Liên
minh châu Âu (EU) và Chủ tịch luân phiên EU, Sarkozy, đang đàm phán với Mỹ, nhất là Tổng thống tương lai
của Mỹ để lập ra Tổ chức Tài chính thế giới (WFO).
Về triển vọng tình hình tài chính thế giới, sẽ có 2 “kịch bản”:
Kịch bản 1 là lạc quan. Theo đó, kinh tế Mỹ và thế giới sẽ chỉ bị suy thoái ở 1 hoặc 2 quý đầu năm 2009 với điều
kiện tâm lý của người tiêu dùng ổn định, không còn ngân hàng bị phá sản nữa. Hơn nữa, hoạt động sản xuất tại
Mỹ vẫn còn nguyên vẹn và còn khả năng sản xuất cung ứng cho người tiêu dùng.
Kịch bản 2 là bi quan. Kịch bản này xảy ra khi mà một cơ quan như WFO chưa được thiết lập. Bởi để lập ra
WFO cần phải có thời gian. Hơn nữa, quá trình tiến tới thiết lập WFO sẽ gặp phải rào cản có lẽ từ phía Mỹ,
nước được hưởng lợi từ trước cuộc khủng hoảng tài chính này. Nếu WFO chưa sớm được thành lập, tài chính
thế giới theo chiều hướng bi quan dẫn tới khủng hoảng kinh tế, kéo theo một loạt các ngân hàng bị phá sản,
cũng như có các nước bị kiệt quệ như trường hợp của Iceland phải cầu cứu sự cứu trợ từ WB và IMF.
Khủng hoảng tài chính bùng phát tại Mỹ và lan rộng toàn cầu, kéo theo sự sụp đổ đồng loạt của nhiều định chế
tài chính khổng lồ, thị trường chứng khoán khuynh đảo. Năm 2008 cũng chứng kiến nỗ lực chưa từng có của
các nền kinh tế để chống chọi với "bão".
Cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ "hàng trăm năm mới có một lần", theo lời ông Alan Greenspan, cựu
Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang (FED), đã được dự báo từ năm 2006. Tuy nhiên, dự đoán cũng như phân
tích của nhiều nhà kinh tế đã không đủ sức thuyết phục để các cơ quan tài chính quyền lực nhất tại Mỹ và
châu Âu có biện pháp đề phòng.
Nguyên nhân sâu xa của cơn địa chấn tài chính bắt nguồn từ khủng hoảng tín dụng và nhà đất tại Mỹ.
Bong bóng bất động sản càng lúc càng phình to đã đặt thị trường nhà đất và tiếp đó là tín dụng tại Mỹ
cũng như nhiều quốc gia châu Âu vào thế nguy hiểm.
Cho vay dưới chuẩn tăng mạnh là khởi điểm cho quả bong bóng tại thị trường nhà đất. Các ngân hàng cho
vay cầm cố bất động sản mà không quan tâm tới khả năng chi trả của khách. Dư nợ trong mảng này nhảy
từ 160 tỷ USD của năm 2001 lên 540 tỷ vào năm 2004 và bùng nổ thành 1.300 tỷ vào năm 2007. Theo
ước tính vào cuối quý III năm 2008, hơn một nửa giá trị thị trường nhà đất Mỹ là tiền đi vay với một phần
ba các khoản này là nợ khó đòi. Trước đó, để đối phó với lạm phát, FED đã liên tiếp tăng lãi suất từ 1%
vào giữa năm 2004 lên 5,25% vào giữa năm 2006 khiến lãi vay phải trả trở thành áp lực quá lớn với người
mua nhà. Thị trường bất động sản thời điểm này bắt đầu có dấu hiệu đóng băng và sụt giảm.
Trước tình hình trên, các ngân hàng, công ty bảo hiểm, tổ chức tài chính... đã mua lại các hợp đồng thế
chấp và biến chúng thành tài sản đảm bảo để phát hành trái phiếu ra thị trường. Loại sản phẩm phái sinh
này được đánh giá cao bởi các tổ chức định giá tín dụng, nên thanh khoản tốt. Không chỉ dừng lại ở đó,
nhiều công ty bảo hiểm, trong đó có AIG, còn sẵn sàng bảo lãnh cho những hợp đồng hoán đổi này.
Chiến lược trên được đưa ra với mục đích giảm rủi ro cho những khoản vay bất động sản. Tuy
nhiên, trái lại nó tạo ra hiệu ứng sụp đổ dây chuyền và khiến rủi ro bị đẩy lên cao hơn. Những bất ổn
từ hoạt động cho vay dưới chuẩn khiến giá nhà sụt giảm mạnh, thị trường nhà đất đóng băng. Cuộc khủng
hoảng từ đó lan từ thị trường bất động sản sang thị trường tín dụng và cuối cùng dẫn đến khủng hoảng tài
chính tại Mỹ và tràn sang nhiều nước châu Âu, khiến nhiều công ty lớn phá sản.
Những nạn nhân đáng kể đầu tiên "dính trấu" đều liên quan trực tiếp tới hoạt động cho vay dưới chuẩn
như Northern Rock và Countrywide Financial vào hai tháng 8 và 9/2007.
Northern Rock, ngân hàng lớn thứ năm tại Anh, vào tháng 9/2007, sau khi mất thanh khoản nghiêm trọng
do thua lỗ từ cho vay thế chấp bất động sản, đã phải cầu cứu Ngân hàng Trung ương Anh. Nhà đầu tư ùn
ùn kéo đến rút tiền khiến Chính phủ buộc phải tiếp quản tập đoàn ngân hàng này.
Trước đó, Country Financial, tập đoàn tài chính chuyên cho vay thế chấp địa ốc của Mỹ cũng bị phá sản
do nợ khó đòi vào tháng 8/2007. Đến tháng 1/2008, ngân hàng lớn nhất nước Mỹ về giá trị vốn hóa và tiền
gửi, Bank of America, đã mua lại Country Financial với giá 4 tỷ đôla.
Tiếp đến, vào ngày 17/2, Nothern Rock chính thức bị quốc hữu hóa. Sự kiện Nothern Rock và Country
Financial là dấu hiệu báo trước cơn bão sắp đổ xuống thị trường tài chính toàn cầu cũng như làn sóng sáp
nhập, phá sản, và bị Chính phủ tiếp quản của các định chế tài chính.
Cơn địa chấn tài chính thực sự nổ ra vào ngày 7/9 khi hai nhà cho vay cầm cố khổng lồ của Mỹ là
Freddie Mac và Fannie Mae buộc phải được Chính phủ tiếp quản để tránh khỏi nguy cơ phá sản. Sự
kiện này tiếp tục châm ngòi cho vụ đổ vỡ với những tên tuổi lớn khác. Vào ngày 15/9, Ngân hàng Đầu tư
lớn thứ 4 nước Mỹ Lehman Brothers sau 158 năm tồn tại đã tuyên bố phá sản. Đúng 10 ngày sau,
Washington Mutual tạo nên vụ phá sản ngân hàng lớn nhất trong lịch sử với tổng tài sản thiệt hại lên tới
307 tỷ đôla. Ngoài ra, do khủng hoảng tài chính, ngân hàng đầu tư số một nước Mỹ, Merill Lynch cũng bị
thâu tóm bởi Bank of America. Chính phủ đã buộc phải bơm 85 tỷ đôla vào AIG, tập đoàn bảo hiểm lớn
nhất thế giới, để tránh cho thị trường tài chính nước này một kết cục tồi tệ hơn.
Tháng 9 và 10 cũng trở thành giai đoạn đen tối với phố Wall khi chỉ số Dow Jones sụt tới 25% giá trị chỉ
sau một tháng kể từ ngày 15/9. Kể từ sau giai đoạn này, biến động tại phố Wall trở nên khó lường hơn với
nhiều kỷ lục cả tăng và giảm tồn tại trong hàng chục năm đã bị phá.
Xen giữa những sự kiện trên, 9 tháng đầu năm cũng chứng kiến các cơn sốt dầu, lương thực, và lạm
phát làm khuynh đảo nền kinh tế toàn cầu. Đặc biệt là giá dầu, từ mức 90 đôla một thùng vào đầu năm
đã leo lên trên 100 đôla vào 20/2 và lập kỷ lục trên 147 đôla một thùng vào 11/7.
Dầu leo thang kéo giá hàng hóa cơ bản và lương thực lên theo. Trong đó, vàng lập kỷ lục trên 1.000 đôla
một ounce vào 17/3. Còn giá lương thực đắt đỏ lại tạo ra căng thẳng thực sự tại nhiều nơi, thậm chí cả các
quốc gia xuất khẩu lương thực. Nạn lạm phát từ đó cũng xảy ra tràn lan tại nhiều quốc gia.
Tuy nhiên, sau khi đạt đỉnh vào tháng 7, giá dầu bất ngờ lao dốc không phanh. Nguyên nhân cho hiện
tượng trên là nhu cầu sử dụng dầu tại nhiều quốc gia, đặc biệt Trung Quốc và Ấn Độ, sụt giảm mạnh do
khó khăn kinh tế. Hiện giá loại nhiên liệu này chỉ còn khoảng 40 đôla một thùng, mất hơn 100 đôla, tương
ứng gần 70%, so với giá trị ban đầu, bất chấp những nỗ lực cắt giảm sản lượng của OPEC.
Quay trở lại với diễn biến của khủng hoảng tài chính, tình trạng thị trường tài chính đóng băng ngày càng
tồi tệ đã khiến Ngân hàng Trung ương Mỹ, Anh, Nhật, EU và nhiều quốc gia khác phải cắt giảm lãi
suất hàng loạt để khơi thông dòng vốn. Mỹ kể từ đầu năm đến nay đã 8 lần cắt giảm lãi suất, từ đó lãi
suất cơ bản từ 5% đã xuống chỉ còn 0,25%.
Không dừng lại ở các điều chỉnh tài khóa, các quốc gia trên cũng tích cực bơm tiền nhằm hỗ trợ thanh
khoản cho các tập đoàn tài chính, cũng như kích thích hoạt động tiêu dùng và cho vay. Trong đó, FED
quyết định dùng 700 tỷ đôla để mua lại nợ xấu của các Ngân hàng. Trước khi được thông qua vào ngày
1/10, kế hoạch hỗ trợ lớn chưa từng có trong lịch sử đã vấp phải không it phản đối tại Quốc hội Mỹ. Đặc
biệt tại vòng bỏ phiếu vào ngày 29/9, Hạ viện bất ngờ không thông qua kế hoạch trên tạo ra một cú sốc
thực sự với phố Wall, khiến chỉ số Dow Jones trải qua ngày giảm điểm tồi tệ nhất trong lịch sử.
Không lâu sau khi kế hoạch trên được thông qua, vào ngày 13-14/10, các quốc gia châu Âu đã công bố gói
giải pháp hỗ trợ kinh tế khổng lồ có trị giá lên tới 2.300 tỷ đôla.
Bước vào quý IV, cuộc khủng hoảng kinh tế được đẩy lên một nấc thang mới khi nền tài chính và
kinh tế của nhiều quốc gia bị đe dọa nghiêm trọng.
Iceland là nước đầu tiên có nguy cơ phá sản trên quy mô quốc gia. Cơn bão khủng hoảng tài chính do cho
vay bất động sản dưới chuẩn tràn lan đã nhấn chìm hệ thống ngân hàng của quốc gia từng có thu nhập đầu
người cao nhất thế giới. Chính phủ Iceland đã phải đóng cửa thị trường chứng khoán, và quốc hữu hóa
những ngân hàng hàng đầu. Từ đó, đồng nội tệ krona của nước này mất giá trầm trọng và gần như bị xóa
sổ.
Tại châu Á, kinh tế Hàn Quốc cũng báo động đỏ khi đồng won mất giá hơn 40% kể từ đầu năm và hiện ở
mức thấp nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997. Chính phủ Hàn Quốc đã phải thực hiện một số
biện pháp khẩn cấp như cắt giảm lãi suất và bơm tiền vào hệ thống tài chính.
Trước tình hình trên, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã phải can thiệp bằng cách bơm tiền vào Iceland,
Hungary, và Ukraine để ngăn chặn những kết cục tồi tệ hơn có thể xảy ra.
Nhiều nền kinh tế lớn, bắt đầu từ Nhật, và EU tuyên bố rơi vào suy thoái. Mỹ, lần đầu tiên sau 8 năm,
chính thức thừa nhận đã lâm vào tình trạng trên từ tháng 12/2007. Điều tương tự cũng xảy ra với Nga,
cường quốc kinh tế lớn thứ 4 thế giới. Giá dầu sụt giảm mạnh cùng với đó là nhu cầu xây dựng đi xuống
ảnh hưởng nghiêm trọng tới hai mặt hàng xuất khẩu chiến lược của Nga là dầu mỏ và kim loại, góp phần
khiến quốc gia này rơi vào suy thoái.
Tình trạng đóng băng của hệ thống tài chính tiếp tục dẫn đến sự giảm sút trong các hoạt động sản xuất của
doanh nghiệp cũng như chi tiêu của người dân. Hệ quả của tình trạng trên là nhiều doanh nghiệp phá sản
và đẩy tỷ lệ thất nghiệp tại nhiều quốc gia tăng cao, chi tiêu và chỉ số lòng tin của người tiêu dùng rơi
xuống mức thấp nhất trong nhiều năm.
Trong ba tháng, tính tới cuối tháng 9, đã có hơn 30.000 doanh nghiệp Mỹ phá sản. Theo đó, tỷ lệ thất
nghiệp tại quốc gia này tính tới 6/12 đã lên tới 6,7%, mức cao nhất trong vòng 15 năm qua. Ngoài ra, một
số kỷ lục buồn tồn tại hàng chục năm về số người mới thất nghiệp theo tuần và tháng cũng đã bị phá trong
quý IV.
Chưa dừng lại ở đó, mọi chuyện còn có thể tồi tệ hơn nữa nếu ba nhà sản xuất xe hơi hàng đầu là Ford,
General Motors (GM), và Chrysler phá sản. Kể từ đầu năm đến nay, ngành công nghiệp xe hơi của Mỹ
đã bị khủng hoảng tài chính "quật" cho tơi tả. Với việc doanh số bán xe trong tháng 10 của Mỹ tụt
xuống mức thấp nhất trong vòng 25 năm qua, và dự đoán sẽ tồi hơn do khủng hoảng tài chính, ba đại gia
trên đang phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, mà trước mắt là cạn kiệt tiền mặt.
Chrysler từ ngày 18/12 đã ngừng hoàn toàn hoạt động sản xuất tại khu vực Bắc Mỹ. Chính phủ Mỹ đang
cân nhắc kế hoạch cho GM và Chrysler, hai tập đoàn nguy ngập nhất, "vay nóng" 14 tỷ đôla, được trích từ
nguồn hỗ trợ 700 tỷ đôla dành cho việc mua nợ xấu nhà băng.
Tuy nhiên, khoản tiền trên có lẽ chỉ như một liều thuốc tạm thời, đủ để hai hãng "sống sót" đến hết quý
I/2009. Các kế hoạch dài hơi hơn nhằm giải quyết khó khăn của ngành công nghiệp xe hơi khi đó sẽ được
chuyển giao cho Chính phủ mới của Tổng thống Barack Obama.
Theo ước tính của các nhà kinh tế, nếu các công ty được coi là biểu tưởng của nền công nghiệp xe hơi Mỹ
phá sản, sẽ có thêm khoảng 2,5 triệu lao động mất việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ từ đó cũng sẽ leo
thang với tốc độ chóng mặt.
Lãnh đạo kinh tế Mỹ và châu Âu chưa hết khốn đốn vì khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế, Mỹ và
EU lại một lần nữa rung chuyển khi vào giữa tháng 12 vụ lừa đảo lớn chưa từng có do Benard
Madoff thực hiện bị phanh phui.
Lợi dụng ảnh hưởng và uy tín của Madoff tại phố Wall, quỹ đầu tư của Madoff, hoạt động theo mô hình
Ponzi, đã thu hút được hơn 50 tỷ đôla từ các nhà đầu tư, trong đó có nhiều ngân hàng lớn tại châu Âu.
Nhiều khách hàng của Madoff đang đối mặt với nguy cơ mất trắng tiền đầu tư. Vụ scandal trên hiện vẫn
chưa có hồi kết với những câu hỏi lớn xoay quanh vai trò của hệ thống giám sát tài chính Mỹ cũng như sự
dính líu của quan chức tại Washington tới Madoff.
Trong một năm mà bức tranh kinh tế thế giới bị che phủ bởi những mảng tối do khủng hoảng và suy thoái
kinh tế toàn cầu, sự kiện ông Barack Obama trở thành tổng thống da màu đầu tiên của nước Mỹ trở thành
một điểm sáng hiếm hoi.