Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

BÀI GIẢNG bài học LỊCH sử ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG và THỰC HÀNH dạy học LỊCH sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (711.86 KB, 63 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI

TÀI LIỆU BÀI GIẢNG
(Lưu hành nội bộ)

BÀI HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG PHỔ
THÔNG VÀ THỰC HÀNH DẠY HỌC LỊCH SỬ
(DÀNH CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM LỊCH SỬ HỆ CHÍNH QUY)

Tác giả: ThS. Dương Vũ Thái

Quảng Bình, năm 2017


MỤC LỤC
STT
TÊN MỤC
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BÀI HỌC LỊCH
SỬ Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG...........................................................................
1.1. Khái niệm bài học lịch sử..............................................................................
1.2. Những yêu cầu đối với bài học lịch sử..........................................................
1.3. Cấu trúc bài học lịch sử.................................................................................
1.4. Mục tiêu (Mục đích – yêu cầu) của bài học lịch sử.......................................
1.5. Các loại bài học lịch sử.................................................................................

1
1
2
3
4


5

1.5.1. Bài học lịch sử nội khóa......................................................................
1.5.2. Bài học lịch sử tại thực địa và trong bảo tàng.....................................
1.5.3. Bài học lịch sử ngoại khóa..................................................................
1.5.4. Bài học lịch sử địa phương.................................................................
CHƯƠNG 2: CHUẨN BỊ BÀI HỌC LỊCH SỬ.................................................
2.1. Quan niệm về giáo án một bài học lịch sử....................................................
2.2. Thiết kế giáo án một bài học lịch sử theo tinh thần đổi mới.........................
2.3. Cấu trúc và nội dung của giáo án..................................................................
2.4. Nguyên tắc soạn giáo án................................................................................
2.5 Thiết kế bài giảng điện tử..............................................................................
CHƯƠNG 3: TIẾN HÀNH BÀI HỌC LỊCH SỬ..............................................
3.1. Các yếu tố của tiến trình thực hiện bài học...................................................
3.2. Cách thức tiến hành bài học..........................................................................
3.4. Phương pháp và phương tiện tiến hành bài học............................................
3.5. Các yếu tố tác động đến việc tiến hành bài học............................................
3.6. Hiệu quả của bài học.....................................................................................
PHẦN THỰC HÀNH DẠY HỌC LỊCH SỬ....................................................

7
14
16
18
19
19
20
21
24
25

26
26
26
29
30
30
31

trang


LỜI NÓI ĐẦU
Phần lý thuyết của học phần này trang bị cho sinh viên kiến thức lý thuyết
về bài học lịch sử ở trường phổ thông; các loại bài học lịch sử; cách chuẩn bị và
tiến hành bài học lịch sử nội khóa; Vận dụng các phương pháp dạy học trong bài
nội khóa. Bài học lịch sử địa phương. Học phần góp phần giúp ngưòi học có được
tinh thần khách quan trong trình bày, đánh giá, nhận định lịch sử; khách quan trong
đánh giá học sinh. Mặt khác học phần còn giúp sinh viên có tình cảm lịch sử trong
sáng; có lòng say mê nghề nghiệp và thương yêu, tôn trọng học sinh. Hình thành
cho sinh viên các ký năng: Vận dụng sáng tạo các phương pháp dạy học lịch sử
trong tiến hành bài học. Biết xác định kiến thức cơ bản của bài học để hình thành tri
thức lịch sử cho học sinh. mặt khác học phần còn giúp sinh viên biết cách tổ chức,
thực hiện bài học lịch sử theo chương trình quy định và vận dụng lịch sử địa phương
trong dạy học lịch sử dân tộc. Phần thực hành dạy học lịch sử nhằm hướng dẫn sinh
viên thực hành tập giảng các khóa trình lịch sử ở THPT.
Bài giảng sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự góp ý, bổ
sung để chúng tôi hoàn thiện hơn nữa. Xin trân trọng cảm ơn!
Người biên soạn!



BẢNG KÍ HIỆU CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

CHỨ CÁI VIẾT TẮT

NGHĨA LÀ

DHLS

Dạy học lịch sử

GV

Giáo viên

HS

Học sinh

HTKN
KN

Hình thành khái niệm
Khái niệm

KNLS

Khái niệm lịch sử

NXB


Nhà xuất bản

PPDH

Phương pháp dạy học

PPDHLS

Phương pháp dạy học
lịch sử

QCND

Quần chúng nhân dân

SGK
SK
TBCN

Sách giáo khoa
Sự kiện
Tư bản chủ nghĩa

TCN

Trước công nguyên

THCS

Trung học cơ sở


THPT

Trung học phổ thông

TLLS

Tài liệu lịch sử

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


4


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BÀI HỌC LỊCH SỬ Ở
TRƯỜNG PHỔ THÔNG
1.1. Khái niệm bài học lịch sử
Bài học lịch sử là một khâu của quá trình dạy học, nhiệm vụ của nó là thực hiện
một phần của chương trình, sách giáo khoa, góp phần từng bước hoàn thành mục tiêu
môn học, cấp học và khóa trình. Đồng thời là một hình thức dạy học chủ yếu bắt buộc
ở trường phổ thông nhưng không phải là duy nhất.
Bài học lịch sử có một vị trí quan trọng trong dạy học lịch sử ở trường phổ
thông. Vì vậy, cần phải có quan niệm đúng về bài học, các loại bài học, phương pháp
tiến hành bài học để đạt hiệu quả cao trong quá trình học tập của HS.
Bài học lịch sử là hình thức cơ bản của việc tổ chức thống nhất giữa giảng dạy
và học tập: GV tiến hành công việc truyền đạt kiến thức, giáo dục, phát triển HS, tổ

chức hướng dẫn HS tích cực hoạt động nhận thức để lĩnh hội kiến thức, bồi dưỡng tư
tưởng đạo đức, rèn luyện kỹ năng… (Nhiệm vụ là ông thầy phải tiến hành giảng dạy,
giáo dục phát triển toàn diện cho HS, rèn kỹ năng và tự giác trong giáo dục).
Thực hiện nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển HS qua từng bài học.
Kiến thức cung cấp cho HS có hai loại:
Thứ nhất, kiến thức của bài học trước chưa hoàn thiện thì bài sau phải giúp HS
hoàn thiện qua kiểm tra bài cũ. Qua đó giáo dục tư tưởng tình cảm, thái độ cho HS
(Củng cố bổ sung những kiến thức đã được tiếp nhận. Đó là cơ sở để các em lĩnh hội
kiến thức mới, song kiến thức đã học chưa toàn diện, chưa sâu, nên trong bài học mới
cần giúp HS hiểu sâu sắc, phong phú hơn.
Thứ hai, kiến thức bài mới (GV trình bày trên lớp hoặc hướng dẫn HS tự tìm
(chủ yếu là trong SGK và TLTK cần thiết, phù hợp với trình độ, yêu cầu học tập)).
Bài học và việc nâng cao hiệu quả bài học thể hiện nội dung nghề nghiệp của
mỗi GV lịch sử, phân biệt bài học lịch sử với một bài nói chuyện, kể chuyện lịch sử,
phân biệt một GV lịch sử với một người am hiểu lịch sử, song không được đào tạo để
trở thành một người thầy giáo lịch sử.
Bài học lịch sử chứng minh rằng, không phải ai biết sử đều có thể dạy sử.
1


Bài học lịch sử và việc nâng cao hiệu quả bài học lịch sử đòi hỏi việc dạy học
lịch sử phải được đào tạo về sử học và nghiệp vụ sư phạm, phải kết hợp chặt chẽ giữa
khoa học lịch sử với khoa học giáo dục.
Cho đến nay quan niệm chưa chính xác về bài học còn khá phổ biến. Không ít
người cho rằng bài học lịch sử chỉ là một hình thức tổ chức để GV cung cấp kiến thức
cho HS để các em làm được bài kiểm tra thi, bằng cách nói lại những điều đã được
học -> Không phát huy tác dụng của các loại bài học khác nhau, không phát huy được
tính tích cực chủ động của HS trong giờ học. Bài học trở nên buồn tẻ, kém chất lượng.

1.2. Những yêu cầu đối với bài học lịch sử

Thứ nhất, nội dung bài học phản ánh trình độ phát triển của sử học hiện nay,
nhiệm vụ giáo dục thế hệ trẻ, quan điểm chủ chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối của Đảng và Nhà nước có liên quan. Yêu cầu này thể hiện sự thống
nhất giữa tính khoa học và tính đảng trong dạy học lịch sử.
Thứ hai, xác định nội dung cơ bản của bài học, theo mức độ chung mà chương
trình quy định cho tất cả các HS, để các em có thể nắm vững các kiến thức cơ bản
ngay tại lớp. Điều này đảm bảo tính vừa sức cho các HS.
Thứ ba, đảm bảo tính toàn diện của nội dung bài học, điều này được thể hiện
khi thông báo trình bày những sự kiện lịch sử một cách chính xác, cụ thể rõ ràng có
hình ảnh nhằm tái tạo lại quá khứ như nó đã tồn tại, đẻ tạo biểu tượng, khơi dậy cảm
xúc sâu sắc về lịch sử, giúp HS nhận thức đúng đắn bản chất sự kiện, hình thành khái
niệm và biểu hiện tính quy luật của sự phát triển xã hội loài người, hiểu rõ mối quan
hệ giữa quá khứ, hiện tại và tương lai.
Thứ tư, đảm bảo tính toàn diện của kế hoạch sư phạm.
+ Xác định chính xác rõ ràng mục đích bài học trong sự thống nhất giữa các
nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển. Cần chỉ rõ ý nghĩa của bài học trong hệ
thống chương trình, khóa trình lịch sử, vị trí của nó trong việc hình thành kiến thức,
thế giới quan khoa học, giáo dục đạo đức, thẩm mỹ và sự phát triển toàn diện của HS
trong học tập và hoạt động thực tiễn.
+ Kế hoạch sư phạm thể hiện việc nắm vững và sử dụng có hiệu quả các quy
luật của quá trình giáo dưỡng, giáo dục, định hướng khả năng phát triển của đa số HS
và đánh giá trình độ nhận thức của các em.
2


Thứ năm, tổ chức tốt hoạt động hoạt động nhận thức tự giác, tích cực, độc lập
của HS trong quá trình học tập nhằm thu hút sự chú ý có định hướng, phát huy cao
hoạt động độc lập , sử dụng kiến thức đã học để tiếp thu kiến thức mới và vận dụng
vào cuộc sống.
Thứ sáu, lựa chọn đúng, hợp lý các nguồn kiến thức, các phương tiện và

phương pháp dạy học đối với từng phần của bài học.
Thứ bảy, thực hiện có hiệu quả việc giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức (lòng
yêu nước, sự chuyên cần, tính tập thể, hứng thú học bộ môn, mong muốn hiểu biết và
kỹ năng tự mở rộng kiến thức của HS).
Những yêu cầu đối với bài học nêu trên thể hiện quan điểm tổng hợp trong dạy
học, tức là phối hợp mọi nhân tố, mọi điều kiện cụ thể, sủ dụng mọi phương tiện,
phương thức để tác động vào bài học đạt được hiệu quả tối ưu.
Tính tối ưu là mức cao nhất có thể đạt được về kết quả giáo dưỡng, giáo dục và
phát triển đối với HS mà không nhồi nhét, tiết kiệm thời gian và công sức HS.
Điều này đòi hỏi phải xây dựng kế hoạch dạy học toàn diện, trình độ kiến thức,
kỹ năng, thói quen học tập của HS, ở việc xác định mục tiêu bài học, phương pháp
dạy học và việc sử dụng các phương tiện, phương thức giáo dục.

1.3. Cấu trúc của bài học lịch sử ở trường phổ thông
Ngoài một số điểm chung của bài học, mỗi bài học lịch sử có cấu trúc riêng,
phụ thuộc vào nội dung, nhiệm vụ, mục đích và loại hình của nó.
Cấu trúc của một bài học lịch sử thông thường có các yếu tố sau:
Kiểm tra bài cũ.
Dẫn dắt vào bài mới.
Trình bày bài mới.
Kiểm tra, củng cố kiến thức và hướng dẫn HS về nhà tự học.
Cấu trúc của một bài học như vậy đảm bảo trình tự giáo dục, GV dễ thực hiện.
Xuất phát từ vấn đề tổ chức hoạt động tư duy tích cực, độc lập của HS thì các
nhà giáo dục lịch sử và nhiều nhà giáo dục khác đã khẳng định cấu trúc bài học có thể
và cần phải đa dạng, phong phú.
Yêu cầu:
Phải vận dụng sáng tạo quy luật dạy học vào điều kiện cụ thể cảu quá trình giáo
dục ở từng lớp.
3



Bài học cần linh hoạt để tránh rập khuôn, công thức, máy móc khi soạn giảng bài.

Kết hợp cải tiến nâng cao nội dung và phương pháp dạy học.
Trình tự các bước lên lớp có thể xen kẽ nhau: Kiểm trâ bài cũ không nhất thiết
tổ chức vào đầu giờ học, có thẻ kết hợp dẫn dắt bài mới, giảng bài mới, hoặc kết thúc
bài học. Việc củng cố kiến thức đang học không nhất thiết vào cuối giờ học, có thể
tiến hành trong khi dạy bài nghiên cứu kiến thức mới.
VD: trong bài Xã hội nguyên thủy ở lớp 10, sau mỗi mục cần củng cố ngay
kiến thức: Người tối cổ, Bầy người nguyên thủy, Người tinh khôn, Thị tộc…
Vì vậy, vận dụng lý luận dạy học chung, bài học lịch sử ở trường phổ thông có
cấu trúc gồm các yếu tố sau:
Xác định mục đích bài học dưới dạng nhiệm vụ nhận thức để HS theo dõi giờ
học.
Trình bày bài mới (phần chủ yếu của bài học). Chú ý đến việc hướng dẫn hoạt
động nhận thức của HS trong khi trình bày bài mới, xen vào đấy là việc kiểm tra kiến
thức cũ.
Củng cố kết quả học tập (Trong giờ hoặc sau giờ học).
Hướng dẫn tự học ở nhà.
Trình tự các công việc trên được thực hiện tùy thuộc theo nội dung, điều kiện
cụ thể của việc dạy học, sự sáng tạo của GV, nhiệm vụ giáo dục, mục đích, loại bài.
Giúp GV rất dễ thực hiện nhưng rườm rà và không phù hợp với điều kiện và
hoàn cảnh; phát huy tính tích cực sáng tạo của người thầy.
Quan niệm dạy học lấy HS làm trung tâm khi tiến hành Bài học lịch sử.
VD: Bài nghiên cứu kiến thức mới, vai trò trung tâm của HS được thể hiện như
thế nào?
Khi nghiên cứu kiến thức mới HS phải làm gì? (Nghe; Ghi chép; Suy nghĩ …)…
Bài học sơ kết tổng kết: Hệ thống hóa, khái quát hóa kiến thức đã học cho HS.
Điều kiện là HS phải chuẩn bị bài ở nhà.
Phải huy động kiến thức để trao đổi, thảo luận.

Bài kiểm tra đánh giá: Phải nhận thức được yêu cầu câu hỏi đặt ra.

1.4. Mục tiêu (mục đích - yêu cầu) của bài học lịch sử
Mục tiêu của bài học lịch sủ chính là cái đích cần đạt đến mức độ được quy
định, là sự cam kết của thầy và trò trong dạy học.
4


Mục tiêu được xác định là cơ sở để GV chọn lựa - trên cơ sở khoa học vững
chắc - tài liệu lịch sử của bài - những sự kiện lịch sử cụ thể, những biểu tượng, khái
niệm - xác định mức độ trình bày các sự kiện, hiện tượng hợp lý, có hiệu quả, tiến
hành việc giáo dục tư tưởng, đạo đức, rèn luyện kỹ năng cho HS.
Mục tiêu được xác định chính xác rõ ràng giúp GV lựa chọn một cách đúng đắn,
hợp lý các hình thức, phương pháp, phương tiện dạy học để đạt hiệu quả cao nhất.
Mục tiêu từng bài góp phần thực hiện mục tiêu chung của cả chương hay cả
khóa trình bởi mỗi bài là một bộ phận của toàn chương, toàn khóa trình.
Mục tiêu đào tạo của từng bài học phải bao gồm ba mặt: Giáo đưỡng (bồi
dưỡng về nhận thức, kiến thức), giáo dục (tư tưởng, tình cảm) và phát triển (năng lực
nhận thức: tư duy, kỹ năng, kỹ xảo…) cho HS. Đối với nhiều người mục tiêu bài học
gồm: kiến thức, tư tưởng tình cảm, kỹ năng).
Việc xác định mục tiêu bài học gắn với việc kiểm tra, đánh giá kết quả nhận
thức của HS. Đây là công việc quan trọng, định hướng cho việc dạy học, đảm bảo sự
thành công của bài học.

1.5. Các loại bài học lịch sử
Bài học là một trong những hình thức quan trọng trong quá trình giáo dục, nó
phong phú, linh hoạt về nội dung khoa học, và những yêu cầu cụ thể của thực tiễn
giáo dục. Cho nên không chỉ có một hình thức duy nhất, đơn điệu trong quá trình dạy
học.
Có nhiều quan niệm khác nhau:

Có quan niệm cho rằng chỉ có một loại bài học lịch sử: Thuyết trình bài mới.
Quan niệm như vậy có ổn không? (Sẽ hạn chế tư duy tích cực của HS vì GV
chỉ độc thoại).
Có một số nhà giáo dục chia 05 loại bài học:
Bài lĩnh hội kiến thức mới.
Bài ôn tập kỹ năng, kỹ xảo.
Bài khái quát hóa, hệ thống hóa (ôn tập, củng cố).
Bài kiểm tra tri thức, kỹ năng, kỹ xảo.
Bài hỗn hợp.
Có một số ý kiến khác chia theo nhiệm vụ dạy học có 06 loại bài:
Bài nghiên cứu kiến thức mới.
5


Bài hình thành kỹ năng, kỹ xảo.
Bài vận dụng tri thức, kỹ năng, kỹ xảo.
Bài khái quát hóa và hệ thống hóa.
Bài kiểm tra và điều chỉnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo.
Bài hỗn hợp (Theo Thái Duy Tuyên).
Cách phân chia này có cơ sở hợp lý, về cơ bản gần nhau, là cơ sở quan trọng để
phân loại bài học lịch sử.
Các nhà nghiên cứu phương pháp dạy học lịch sử Việt Nam trước đây cũng
chai ra 05 loại bài học:
Bài cung cấp kiến thức mới.
Bài sơ kết, tổng kết.
Bài ôn tập.
Bài kiểm tra.
Bài thực hành.
Các nhà giáo dục lịch sử nước ngoài chia ra 06 loại bài học lịch sử:
Bài nghiên cứu kiến thức mới (Do GV trình bày).

Bài thảo luận tài liệu (Do HS chuẩn bị ở nhà).
Bài tổng hợp những kiến thức cơ bản mà HS cần nắm.
Bài vận dụng kiến thức đã học để hình thành kỹ năng, thói quen.
Bài ôn tập - Khái quát.
Bài kiểm tra, đánh giá.
Quan điểm của một số nhà nghiên cứu PPDHLS phương Tây phân loại trên cơ
sở nắm vững và kiểm tra kiến thức:
Bài trình bày tài liệu mới.
Bài ổn tập, kiểm tra kiến thức cũ (trên lớp).
Quan niệm của các nhà PPDHLS Việt Nam hiện nay (GS. Nguyễn Thị Côi,
PGS.TS Trịnh Đình Tùng, PGS.TS Trần Viết Thụ, PGS.TS Đặng Văn Hồ, PGS.TS
Trần Vĩnh Tường… ) căn cứ trên cơ sở vị trí, cấu trúc, yêu cầu của bài học phân chia
thành 05 loại cơ bản sau:
Bài nghiên cứu kiến thức mới.
Bài ôn tập, sơ kết, tổng kết.
Bài kiểm tra kiến thức.
6


Bài học hỗn hợp.
Bài học tại thực địa, trong nhà bảo tàng lịch sử - cách mạng.
Các loại bài học được đan xen vào nhau, hỗ trợ cho nhau. Trong đó bài nghiên
cứu kiến thức mới giữ vai trò chủ đạo. Điều này là do tính chất, nội dung quá trình
dạy học quy định.
Yêu cầu phải đảm bảo mối quan hê giữa hoạt động dạy của GV và hoạt động
học của HS.
1.5.1. Bài học lịch sử nội khóa
1.5.1.1. Bài nghiên cứu kiến thức mới
Yếu tố chủ yếu của quá trình dạy học ở trường PT.
Nội dung: kiến thức cơ bản mà HS cần nắm vững về LSTG và LSDT trên tất cả các

lĩnh vực của đời sống xã hội (đấu tranh giai cấp, hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa…).

Sự kết hợp giữa trình bày của GV, hỏi + trả lời của HS, HS + HS và hoạt động
độc lập của HS khi tiếp nhận các nguồn kiến thức.
Phương pháp sử dụng đa dạng, phong phú -> hình thành kiến thức, giáo dục tư
tưởng, tình cảm đạo đức, phát triển tư duy và kỹ năng HS…
Các công việc cụ thể của bài nghiên cứu kiến thức mới như sau:
a/ Kiểm tra kiến thức đã học có liên quan đến bài mới
Yêu cầu: căn cứ vào loại bài dể tiến hành.
Kiến thức bài cũ được tiếp tục thực hiện ở bài mới với mức cao hơn theo
nguyên tắc đồng tâm kết hợp đường thẳng.
Kiểm tra đầu giờ học phải nhanh, gọn.
Nhiệm vụ: Hoàn thiện kiến thức đã học và chuẩn bị nghiên cứu bài mới, đánh
giá được trình độ HS đặt cơ sở chuyển sang bài mới.
Nếu kiến thức bài mới và cũ không đồng tâm thì phải giải quyết riêng biệt,
không lồng ghép (dành thời gian kiểm tra bài cũ riêng).
Tác dụng: Giúp GV hiểu rõ trình độ nắm vững kiến thức của HS để điều chỉnh
quá trình sư phạm của mình khi nghiên cứu bài mới.
b/ Chuẩn bị cho HS nghiên cứu kiến thức mới
Nêu rõ mục tiêu bài học cần đạt được ở đầu bài:

7


Biện pháp hiệu quả là đặt câu hỏi dưới dạng (bài tập nhận thức): Nguyên nhân,
ý nghĩa của hiện tượng lịch sử, nội dung, diễn biến, các đặc điểm sự kiện, kết luận,
đánh giá sự kiện hay nhân vật lịch sử…
VD: Trước khi học bài cuộc vận động dân chủ 1936 - 1939 ở THPT, GV đặt
câu hỏi nhận thức như sau: “Các em theo dõi bài học để trả lời giải thích vì sao cuộc
vận đông dân chủ 1936 - 1939 được coi là cuộc diễn tập thứ hai co CM tháng Tám

1945?” -> HS phải ôn lại kiến thức của bài nào được gọi là cuộc diễn tập thứ nhất.
Hay như bài “Trung Quốc thời phong kiến” trong Lịch sử lớp 10 THPT
(chương trình Chuẩn), GV đặt bài tập nhận thức như sau:
Các em tìm hiểu bài học để trả lời câu hỏi chế độ phong kiến ra đời ở Trung
Quốc là bước phát triển cao hơn so với các chế độ xã hội trước đó? …
Bắt buộc HS phải vận dụng lại kiến thức của tất cả các chế độ xã hội trong các
bài học trước.
Trước khi tiến hành bài mới cần giải thích tầm quan trọng, ý nghĩa của bài,
hình thành những vấn đề mà HS sẽ phải tự giải quyết trong giờ học. Nêu nguyên
nhân, kết quả sự kiện, hiện tượng LS, phân tích bản chất, ý nghĩa của chúng…
Các hình thức chuẩn bị cho HS nghiên cứu kiến thức mới:
Khái quát các kiến thức đã học liên quan tới bài mới, khi kiểm tra bài cũ, nhất
là trong trường hợp câu hỏi kiểm tra có liên quan tới bài mới.
VD: Khi học bài 12 SGK lớp 12 (chương trình Chuẩn) GV khái quát: “ Tại sao
đến cuối những năm 1929 các tổ chức Cộng sản lại nảy sinh sự không thống nhất về
việc thành lập một chính Đảng Cộng sản ở Việt Nam?”
Hay khi học bài 10 SGK Lịch sử lớp 10 (chương trình Chuẩn) GV khái quát:
Cũng là chế độ phong kiến nhưng ở phương Tây có những điểm khác so với chế độ
phong kiến ở phương Đông. Tại sao lại có điều đó?”
Hay bài CMTS Pháp cuối thế kỷ XVIII, GV khái quát: “Tại sao nói CMTS
được coi là một cuộc đại cách mạng? Các em chú ý theo dõi bài giảng để trả lời.
VD: Đến bài Chiến tranh giành độc lập của 13 thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ và sự
thành lập Hợp chúng quốc châu Mỹ” ở SGK Lịch sử lớp 10 (chương trình Chuẩn),
GV nêu lên các vấn đề của các cuộc CMTS trước như: Mục tiêu đấu tranh, lực lượng
lãnh đạo, lực lượng tham gia, kết quả, tính chất … Tiếp đó GV đặt vấn đề “Các em
theo dõi bài “Chiến tranh giành độc lập của 13 thuộc địa…” dể xem có gì giống và
8


khác so với các cuộc CMTS trước đó hay không? Cuộc chiến tranh giành độc lập của

13 thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ có được xem là một cuộc CMTS không? Điều này buộc
các em ôn lại kiến thức cũ để định hướng tư duy trước khi đi vào bài mới.
Trường hợp bài học chỉ trình bày kiến thức mới, GV chuẩn bị cho HS xây dựng
tình huống có vấn đề, bằng cách nêu 1 hoặc 2 câu hỏi (bài tập nhận thức):
VD: Sự thành lập chế độ phong kiến ở phương Tây có gì khác so với chế độ
phong kiến ở phương Đông? Tại sao ở phương Tây lại hình thành nên chế độ phong
kiến phân quyền?
Bài 13 SGK Lịch sử lớp 12: Luận cương chính trị tháng 10 năm 1930 có điểm
gì khác so với cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng? Tại sao Cương lĩnh chính trị
tháng 10/1930 mang nặng tinh thần đấu tranh giai cấp?
Giúp HS nhắc lại kiến thức đã học vừa gợi mở để HS suy nghĩ.
c/ Nghiên cứu kiến thức mới
Phục thuộc và khả năng của GV giải quyết hai nhiệm vụ song song - thông báo
kiến thức khoa học phong phú và khéo léo tổ chức hoạt động nhận thức của HS, trên
cơ sở mục tiêu đã đề ra.
Hoạt động tư duy HS và tiến hành giáo dục một cách tự nhiên, có hiệu quả ->
hiệu quả bài học.
Bài nghiên cứu kiến thức mới được tiến hành qua nhiều công việc: kiểm tra
kiến thức đã học, chuẩn bị cho HS trước khi nghiên cứu kiến thức mới, kiểm tra hoạt
động nhận thức của HS trước khi nghiên cứu kiến thức mới, nghiên cứu kiến thức
mới, kiểm tra hoạt động nhận thức của HS trước khi kết thúc bài học và ra bài tập về
nhà.
- Để thực hiện nghiên cứu kiến thức mới đạt hiệu quả cần chú ý:
Đảm bảo mối tương quan giữa kiến thức truyền thụ trong bài học với nội dung
chương trình, cấu trúc của bài viết SGK. Điều này tránh tình trạng GV đọc lại SGK
hoặc thoát ly SGK. Gây khó khăn cho HS trong việc đối chiếu SGK với bài học để
nắm kiến thức).
Bài giảng phải trình bày những kiến thức cơ bản của SGK (Sk, KN…), xác
định kỹ năng cần rèn luyện cho HS
GV có thể bổ sung các kiến thức khác có liên quan (lịch sử và các môn học

khác) với mức độ và khối lượng phù hợp với yêu cầu và trình độ HS.
9


Phải gây hứng thú học tập cho HS.
Xác định đúng và sử dụng hợp lý các nguồn kiến thức lịch sử, các PPDH, các
kiểu hoạt động nhận thức cho bài giảng nặng nề.
Khi trình bày kiến thức mới, GV kết hợp lời nói với PT trực quan và các nguồn
kiến thức khá -> HS nhớ nhanh và lâu kiến thức.
Đặt câu hỏi và hướng dẫn HS trả lời (gợi mở), thảo luận (chú ý trọng tâm của
bài học đặt ra ở đầu giờ).
Sử dụng nhiều loại câu hỏi để rèn luyện cho HS phương pháp nhận thức LS.
Kiểm tra hoạt động nhận thức của HS thường được tiến hành cuối giờ học ->
Củng cố và kiểm tra hoạt động tư duy độc lập của HS.
Các câu hỏi kiểm tra có thể đặt ra ở mức khái quát hơn hoặc có thể sử dụng các
câu hỏi đã nêu ở đầu giờ.
Giúp HS lĩnh hội vững chắc các kiến thức kiến thức cơ bản, để có cơ sở hiểu
những kiến thức khác.
VD, khi dạy bài Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong CM tháng Tám
1945, GV nêu nhiệm vụ nhận thức: “CM tháng tám có phải là ăn may như nhiều sử
gia tư sản từng đánh giá không? Hay CM tháng tám chính là sự chuẩn bị chu đáo về
mọi mặt của Đảng ta và sự đổi lấy bằng xương máu của dân tộc Việt Nam” như các
sử gia Mác xít đánh giá.
d/ Hướng dẫn HS tự học
* Kiểm tra hoạt động nhận thức của HS
Khi kiểm tra hoạt động nhận thức ở cuối bài, GV có thể sử dụng hai câu hỏi đã
nêu ở đầu bài học. Hoặc có thể đặt câu hỏi khác nhưng trọng tâm bài học vẫn không
thay đổi.
“Nêu những bằng chứng chứng tỏ CM tháng tám 1945 không phải là sự ăn may
mà chính là sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt của Đảng ta và sự hy sinh xương máu

của dân tộc ta để đổi lấy?”.
Củng cố phải đồng thời khắc sâu một số SK cơ bản.
* Bài tập về nhà
- Thường nêu vào cuối giờ học, hướng vào những vấn đề quan trọng của nội
dung bài học để biết HS lĩnh hội kiến thức như thế nào, tránh bắt các em chỉ học
thuộc bài viết trong SGK, lặp lại những việc làm ở trên lớp.
10


Bài tập phải giúp HS hiểu rõ những vấn đề, những sự kiện cơ bản của SGK, tìm đọc
các tài liệu tham khảo để hiểu sâu hơn SGK và bài giảng của GV, rút ra những gì cần nhớ,
cần suy nghĩ độc lập, rèn luyện kỹ năng thực hành (vẽ bản đồ, lập niên biểu…).

Bài tập về nhà chỉ có hiệu quả khi GV tiếp tục bồi dưỡng, củng cố kiến thức mà
HS đã học, tiếp tục hoàn thiện nhiệm vụ giáo dục, tư tưởng đạo đức và phát triển cho
các em.
Có thể đưa ra nhiều dạng bài tập về nhà trong dạy học LS để phát triển hoạt
động nhận thức độc lập của HS, nhằm nâng cao hiệu quả bài học.
Trong phạm vi bài học nội khóa có các dạng bài tập sau đây:
Bài tập dưới dạng một câu hỏi tổng hợp:
Yêu cầu không lặp lại kiến thức đã tiếp nhận trên lớp mà trên những cơ sở sự
kiện đã học giải quyết một vấn đề đặt ra. Cần tìm hiểu những khía cạnh mới của vấn
đề để làm cho hiểu biết thêm sâu sắc.
Sử dụng khi HS nghiên cứu xong một số bài hoặc chương.
VD: Nghiên cứu xong một số bài về hoạt động của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc để
yêu cầu HS về nhà hoàn thành bài tập: Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với sự
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam?
Bài tập rèn kỹ năng thực hành, hệ thống khái quát hóa kiến thức và vận dụng
kiến thức:
Bài tập lập niên biểu (giúp HS hệ thống hóa kiến thức, so sánh các sự kiện, để

rút ra những dấu hiệu bản chất, sự khác biệt giữa chúng.
VD: lập bảng niên biểu so sánh những vấn đè cơ bản của CMTS Pháp và
CMTS Anh, hay lập bảng niên biểu so sánh các vấn đề cơ bản của CMDCTS và
CMXHCN tháng Mười Nga 1917.
Niên biểu về những sự kiện quan trọng trong hoạt động của lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc từ 1919 - 1929.
Bài tập vẽ lược đồ, bản đồ (giúp HS khắc sâu kiến thức, xác định không gian,
thời gian của các sự kiện):
VD: Sau khi học xong CM tháng Tám 1945, GV hướng dẫn HS vẽ bản đồ Việt
Nam với những lá cờ đỏ ở các địa phương giành được chính quyền sớm.
Hoặc sau CM Tân Hợi, GV hướng dẫn HS vẽ lược đồ các vùng khởi nghĩa…
Bài tập vẽ sơ đồ, đồ thị (phát triển trình độ tư duy HS):
11


Sau bài CMTS Pháp cuối thế kỷ XVIII, GV yêu cầu HS vẽ sơ đồ tiến trình phát
triển của CM…
Hoặc sau bài Các nước đế quốc Anh, Mỹ, Đức, Nhật trong SGK Lịch sử thế
giới 10 (chương trình Chuẩn), GV cung cấp cho HS các số liệu về sản xuất công
nghiệp của các nước và yêu cầu vẽ biểu đồ so sánh sản lượng. Sau đó rút ra nhận xét.
Bài tập dưới dạng câu hỏi trắc nghiệm khách quan (Học kỹ hơn ở phần Đánh
giá kiểm tra).
1.5.1.2. Bài sơ kết, tổng kết
Sử dụng khi hoàn thiện một giai đoạn, một thời kỳ, một khóa trình hay các vấn
đề lịch sử của chương trình. GV không trình bày kiến thức mới mà hướng dẫn HS nhớ
lại những điều đã học, uốn nắn những hiểu biết sai, bổ sung khái quát hóa, rút ra
những kết luận để nhận thức sâu sắc, toàn diện hơn.
Ôn tập, sơ kết, tổng kết không làm tăng lượng kiến thức mà chủ yếu nâng cao
chất lượng học tập lịch sử ở hai mặt: Củng cố kiến thức + nắm vững kiến thức lịch sử
một cách có thệ thống trong mối quan hệ hữu cơ của chúng.

Nhiệm vụ (quy định nội dung, cấu trúc, phương pháp tiến hành khác với loại
bài nghiên cứu kiến thức mới):
Củng cố kiến thức (niên đại, tên người, địa danh, các quá trình lịch sử quan
trọng), rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo.
Cung cấp cho HS một bức tranh toàn diện về các hiện tượng hoặc quá trình lịch
sử đã học và hệ thống hóa, khái quát hóa kiến thức đã tiếp thu.
VD: Khi ôn tập cho HS về lịch sử thế giới cổ đại và trung đại lớp 10 THPT,
GV phải làm cho HS hiểu toàn diện sâu sắc về xã hội có giai cấp đầu tiên trong lịch
sử xã hội loài người, thời kỳ Chiếm hữu nô lệ, vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp,
về mô hình nhà nước, kinh tế… Nắm vững các vấn đề có tính quy luật của lịch sử ở
giai đoạn này.
Dựa vào kiến thức cơ bản về các mặt hoạt động chính của từng giai đoạn hay
quá trình lịch sử đã biết, GV hướng dẫn HS phân tích bản chất, những mối quan hệ,
những khái niệm phức tạp để nâng cao trình độ lý thuyết khi hiểu các hiện tượng của
đời sống xã hội.

12


VD: Tổng kết lịch sử thế giới cận đại dựa vào kiến thức các cuộc CMTS, Công
xã Pari, CM tháng Nga 1905 - 1907…, GV hướng dẫn HS tìm hiểu sâu hơn về chuyên
chính giai cấp (tư sản, vô sản) sự khác biệt về nguyên tắc giữa CMTS và CMVS...
Phát triển tư duy, rèn luyện kỹ năng thực hành bộ môn của HS.
Tổ chức tốt bài ôn tập, sơ kết tổng kết là điều kiện quan trọng nâng cao chất
lượng kiến thức của HS, hình thành cho các em nhưng hiểu biết khoa học về lịch sử,
về tính quy luật của sự phát triển xã hội, bồi dưỡng và rèn luyện các kỹ năng được
quy định trong chương trình lịch sử ở trường phổ thông.
Điều kiện để tiến hành bài sơ kết, tổng kết đạt hiệu quả cao:
HS chuẩn bị bài trước ở nhà.
Tổ chức hoạt động nhận thức tích cực, độc lập của HS ở trên lớp.

Lựa chọn đúng vấn đề, xác định nội dung, khối lượng tài liệu ôn tập, tính logic và
phương pháp tiến hành ôn tập, tổng kết của GV với vai trò người hướng dẫn HS phát huy
tính tích cực, độc lập tư duy. Giúp HS nhận thức lịch sử thêm sâu sắc, vững chắc.
Bài ôn tập, sơ kết,tổng kết có thể được tiến hành trên lớp, nhà truyền thống,
viện bảo tàng, thực địa.
1.5.1.3. Bài kiểm tra kiến thức
Mục đích nhằm hoàn thiện, đánh giá sự tiếp thu của HS, hoàn thiện tri thức,
hình thành thế giới quan, phát triển ngôn ngữ, tư duy, khuyến khích lao động, học tập,
và các hoạt động thực hành khác (Kiểm tra viết hoặc miệng)…
Đối với GV là dịp để xem xét lại việc giảng dạy của mình (trình độ và phương
pháp) và tình hình học tập của HS.
Không chỉ kiểm tra mức độ biết (nhớ), mà còn phải kiểm tra mức độ hiểu.
Đối với bài lịch sử nội khóa có hai hình thức kiểm tra:
Kiểm tra miệng.
Kiểm tra viết (15’, 1 tiết, học kỳ).
Đọc thêm tài liệu giáo dục học và Sách tham khảo.
1.5.1.4. Bài học hỗn hợp
Mục đích: Gồm hai khâu của quá trình dạy học để kiểm tra kiến thức mới, củng
cố ôn tập kiến thức đã học.
Bao gồm các yếu tố:
Kiểm tra bài cũ.
13


Nêu mục đích nhiệm vụ bài học.
Nghiên cứu kiến thức mới.
Bài tập về nhà.
Phối hợp với nhau trong một bài học hỗn hợp.
1.5.2. Bài học tại thực địa, nhà bảo tàng, lịch sử cách mạng
Loại bài học này khác hẳn với bài học ngoại khóa.

Nó được thực hiện trong theo nội dung được quy định trong chương trình học,
nó có thể là nghiên cứu kiến thức mới, sơ kết, tổng kết.
Hình thức học tập có thể thay đổi -> Đều là bài học nội khóa, một mắt xích
trong toàn bộ khóa trình, liên quan tới các bài học lịch sử khác. Bắt buộc đối với toàn
bộ HS.
Ý nghĩa:
Phát triển trí tưởng tượng, đa dạng hóa hoạt động nhận thức, gây hứng thú học
tập LS.
Gắn bài học với đời sống, góp phần nâng cao hiểu biết về kiến thức LS, văn
hóa giáo dục, lòng yêu quê hương đất nước, óc thẩm mỹ cho HS.
Chú ý:
Chọn vấn đề và địa điểm phù hợp với nội dung, số tiết học, điều kiện tiến hành.
Nếu ở địa phương hoặc các vùng lân cận có di tích liên quan đến các sự kiện lớn được
ghi trong lịch sử dân tộc: Bảo tàng lịch sử, Cổng Bình quan, di tích ở Đèo Ngang, Cự
Nẫm, làng chiến đấu Cảnh Dương,… thì nên tổ chức cho HS học tại thực địa, nhà bảo
tàng. Nếu không có các di tích liên quan đến lịch sử dân tộc thì tổ chức dạy tại thực
địa về lịch sử địa phương.
Bổ sung các tài liệu lịch sử địa phương sau bài học:
Giảng dạy xong nội dung bài học, GV tổ chức cho HS xem những hiện vật có
liên quan tới bài.
Vừa giảng vừa kết hợp cho HS xem hiện vật.
GV phải đến tận nơi tìm hiểu tình hình và nắm thực địa.
Việc biên soạn bài giảng tại thực địa nhà bảo tàng… phải tuân thủ các nguyên
tắc sau:
Chọn các sự kiện cơ bản, tiêu biểu của LSĐP, tương ứng với một SK quan
trọng của LSDT trong thời kỳ ấy làm nội dung cho các tiết LSĐP.
14


Giảng dạy tiết LSĐP trong khuôn khổ chương trình ở PT mang tính chất thông

sư, chứ không phải chuyên sử.
Do đó phải thể hiện tính toàn diện, hệ thống của sự việc. GV không biến giờ
dạy LSĐP thành giờ dạy về LS Đảng bộ địa phương, hay bài nói chuyện, kể chuyện
về truyền thống CM…
Tài liệu biên soạn ngoài sưu tầm cần dựa vào lịch sử đảng bộ, lịch sử làng xã,
các bài viết của các cơ quan có trách nhiệm… để xác minh.
Bài học tại thực địa, nhà truyền thống bảo tàng là nơi trưng bày hiện vât, nên
phương pháp là sử dụng đồ dùng trực quan kết hợp trình bày miệng. Gây ấn tượng sâu
sắc đối với HS vì HS trực quan sinh động các hiện vật lịch sử, đồ phục chế…
Tác dụng giáo dưỡng, giáo dục và phát triển rất sâu sắc.
GV phải chuẩn bị công phu.
Các điều kiện để dạy học tại thực địa, nhà truyền thống bảo tàng có hiệu quả:
Chuẩn bị trước cho HS về tư tưởng, kiến thức chuyên môn, như nêu mục đích,
yêu cầu bài học, thông báo sơ qua về địa điểm và nội dung xảy ra sự kiện, chuẩn bị đồ
dùng trực quan, phương tiện dạy học cần thiết và nội quy bài học.
Nếu bài học do người phụ trách bào tàng hay hướng dân tham quan thực hiện
thì GV cần đặt yêu cầu bài học để học chuẩn bị.
Nếu GV giảng thì chuẩn bị các vấn đề liên quan đến thực địa kỹ càng.
Xác định mối quan hệ giữa nội dung bài giảng và các di tích, hiện vật được
trình bày. Di tích tại thực địa, tại bảo tàng có thể là nguồn kiến thức chủ yếu trong bài
học, hoặc có tác dụng minh họa dẫn chứng.
Phát triển óc quan sát, trình độ tư duy của HS trong bài học.
Tổ chức cho HS tự học trong và sau bài học.
Bài học tại thực địa, nhà truyền thống, bảo tàng không thể được thực hiện nhiều
lần trong một năm học, vì phải chuẩn bị công phu, song GV cần có gắng tổ chức thực
hiện trong điều kiện cho phép. Đây là hình thức có hiệu quả giáo dục trong DHLS ở
trường PT. Nhưng cho đến nay do khó khăn về nhận thức, tổ chức, công việc này
chưa được chú ý. -> Làm cho việc DHLS không gây được hứng thú cho HS, không
nâng cao được hiệu quả bài học.


15


1.5.3. Bài học lịch sử ngoại khóa
Bài học nội khóa càng được phát huy tác dụng khi được hỗ trợ bằng các hoạt
động ngoại khóa lịch sử - một hình thức DHLS ở trường PT.
Được tiến hành ngoài giờ học nhưng phải sát với nội dung học chính khóa.
Hoạt động ngoại khóa phải đạt được các mục tiêu giáo dưỡng, giáo dục, phát
triển như bài học nội khóa, nhưng được tiến hành trên cơ sở và phương tiện khác.
Hoạt động ngoại khóa mang hai đặc điểm cơ bản:
Tính tự nguyện.
Sự phát triển nhận thức tích cực, độc lập, năng khiếu của HS trong nhận thức
lịch sử.
Ý nghĩa:
GV và HS được rèn luyện khả năng độc lập làm việc với SGK và các tài liệu
học tập khác, Hs có thể thu thập, lựa chọn, xử lý các nguồn tài liệu, rút ra những vấn
đề khái quát, những kết luận nhận định.
HS nắm vững kiến thức.
Tính tự nguyện học tập trong khuôn khổ chương trình quy định và không bị
ràng buộc nhiều về nội dung chương trình quy định mà có thể lựa chọn một trong
những điểm được gợi ý, phù hợp điều kiện cụ thể của việc dạy học ở địa phương,
song không xa rời, hạ thấp chương trình.
Hoạt động ngoại khóa có tác dụng lớn đối với HS:
Tạo ý thức tìm tòi, nghiên cứu.
Bộc lộ cá tính, phẩm chất, ý thức khuynh hướng của HS.
Phù hợp với đặc điểm tâm lý lứa tuổi, trình độ HS, với nhiều hình thức phong
phú, bổ ích.
Trang bị thêm kiến thức về đời sống lao động và đấu tranh CM, về sinh hoạt
tinh thần.
Gắn việc học tập lịch sử với ý thức trách nhiệm trong phục vụ xã hội, như sưu

tầm di tích lịch sử.
Hiểu rõ lịch sử địa phương và lịch sử dân tộc.
Giúp HS hình thành và phát triển thế giới quan khoa học, đạo đức, tư tưởng
chính trị.
16


Góp phần phát triển HS: Giúp HS hình thành các thói quen, kỹ năng về trí tuệ
và thực hành cho HS trong học tập lịch sử.
Phát huy năng lực nhận thức độ lập, làm nảy sinh và hứng thú học tập của các em.
Giúp HS liên hệ kiến thức quá khứ với hiện tại, hoàn thành những công tác
công ích xã hội.
Hoạt động dạy học ngoại khóa và nội khóa có quan hệ chặt chẽ với nhau. Cùng
nhau giải quyết một nhiệm vụ chung của bài học, một khóa trình, chương trình của
lớp học hay cấp học.
- Nội dung của hoạt động ngoại khóa lịch sử
Xuất phát từ nhiệm vụ chung của trường phổ thông.
Các nước tư bản xem hình thức dạy học nội khóa là duy nhất.
Ở Liên Xô cũ rất coi trọng công tác ngoại khóa.
Khuyến nghị số 1283 của hội đồng châu Âu đề cao hoạt động ngoại khóa.
Nội dung và hình thức tiến hành hoạt động ngoại khóa theo hai hướng chính:
Làm phong phú sâu sắc kiến thức lịch sử mà HS đã thu nhận trong nội khóa.
Những vấn đề lịch sử địa phương và công tác công ích xã hội.
- Các hình thức tổ chức ngoại khóa và các tiến hành:
Nguyên tắc tổ chức:
Tổ chức phải nhằm vào thực hiện mục tiêu đào tạo của cấp học, thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông.
Phải phù hợp với lứa tuổi, trình độ HS mỗi lớp, phải xây dựng chương trình, kế
hoạch tiến hành ngoại khóa với các hình thức thích hợp.
Phương pháp sử dụng trong bài học phải chú ý đến sử dụng lời nói, các loại tài

liệu thành văn.
Tổ chức phải gọn nhẹ, tránh phổ trương hình thức. Nên phối hợp với bộ môn
khác để tránh mất thời gian, công sức và nâng cao chất lượng giáo dục.
Hình thức ngoại khóa:
Các tổ nhóm yêu thích tìm hiểu lịch sử bao gồm nhiều lớp khác nhau, hoạt
động trong thời gian dài.
Những hoạt động ngoại khóa được tổ chức thường xuyên ở một lớp, một tổ.
Những công việc của cá nhân hay của từng nhóm nhỏ được tổ chức ở nhà, ở tổ
học tập.
17


* Các hình thức tổ chức hoạt động ngoại khóa cơ bản:
Đọc sách.
Kể chuyện lịch sử.
Nói chuyện lịch sử.
Trao đổi thảo luận.
Dạ hội lịch sử.
Tham quan lịch sử.
Các hình thức hoạt động ngoại khóa khác:
Trò chơi.
Gặp gỡ các chiến sĩ cách mạng, những người có thành tích trong sản xuất và
chiến đấu.
Công tác công ích xã hội...
1.5.4. Bài học lịch sử địa phương
Phần này sinh viên đã được học đầy đủ trong học phần “phương pháp nghiên
cứu và giảng dạy lịch sử địa phương”, nên giảng viên chỉ nêu lại khái quát cho sinh
viên.
- Khái niệm, đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu lịch sử địa phương .
- Trình bày công tác sưu tầm tư liệu.

- Chuẩn bị và trình bày biên soạn một bài giảng lịch sử địa phương ở trường THPT.

CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
1. Nêu, phân tích những quan niệm không đúng và trình bày nhận thức của
mình về bài học lịch sử ở trường phổ thông?
2. Các cách phân loại bài học lịch sử: cơ sở, căn cứ của việc phân loại, các loại
bài học lịch sử (nêu vai trò, nội dung, ý nghĩa từng loại bài)?
Thực hành (sản phẩm là bản kế hoạch sư phạm về một bài học lịch sử nghiên
cứu kiến thức mới):
Vận dụng những điều đã học trong bài để trình bày cấu tạo một bài học lịch sử
(tự chọn một bài cụ thể)?

18


CHƯƠNG 2
CHUẨN BỊ BÀI HỌC LỊCH SỬ
2.1. Quan niệm về giáo án một bài học lịch sử
Khi soạn giáo án, GV cần tránh những quan niệm không đúng:
Không biến giáo án thành bảng tóm tắt nội dung sách giáo khoa. Điều này làm
cho HS không hứng thú học tập và không thu nhận được gì bổ ích trong học tập và
mất uy tín của GV.
Tránh tình trạng thoát ly nội dung SGK, dễ làm cháy giáo án. Đó là hiện tượng
GV trình bày những vấn đề không phù hợp với trình độ, yêu cầu học tập của HS, sa
vào những chi tiết không cơ bản, khêu gợi sự tò mò, hiếu kỳ không cần thiết làm
loãng nội dung, trọng tâm bài giảng, nhất là đối với những phần quan trọng.
Biến giáo án thành một chuỗi câu hỏi và trả lời...
Xem giáo án là một bài không thay đổi, soạn một lần dùng cho nhiều năm học,
không kịp thời điều chỉnh, bổ sung về phương pháp. Làm bài học lạc hậu.
Làm giảm sút chất lượng dạy học lịch sử.

Như vậy, “Giáo án là bản kế hoạch của một tiết lên lớp trong đó nêu rõ các
bước chủ yếu trong công việc của thầy giáo và HS ở trên lớp đồng thời cũng nêu được
một cách vắn tắt nội dung và phương pháp của công việc đó nhằm đạt được mục đích
cụ thể và rõ ràng mà thầy giáo xác định trước theo yêu cầu của chương trình học”.
“Giáo án không chỉ bao gồm các phần xác định mục tiêu, nội dung, phương
pháp giảng dạy, mà còn có cách tổ chức hoạt động của GV và HS, (nhấn mạnh việc
phát huy tính tích cực của HS, việc kiểm tra, đánh giá)”.
Giáo án là bản thiết kế của GV về một bài giảng.
Nội dung bài soạn cần tránh nhồi nhét kiến thức, tranh việc giáo dục tư tưởng
một cách công thức, máy móc bằng những khẩu hiệu chính trị, tránh kiểu độc thoại
của GV và tình trạng thụ động của HS khi tiếp thu kiến thức mà không xuất phát từ sự
kiện lịch sử cụ thể, không phát huy tính tích cực của HS trong việc tự nhận thức.
Xác định cách tổ chức công việc của GV và HS phải kết hợp với việc truyền
thụ kiến thức và phát triển năng lực nhận thức của HS, là hai mặt khăng khít với nhau
trong quá trình dạy học.
19


Giáo án có thể viết 1 cột hoặc chia hai cột: Một bên là kiến thức cơ bản cần ghi,
một bên là công việc của thầy trò.
VD: Soạn bài “Cuộc vận động thống nhất Đức và Italia” ở cấp THPT. Đây là
bài trình bày và tiếp nhận kiến thức mới. GV cần nêu rõ vị trí quan trọng của nó trong
việc giúp HS hiểu thêm nội dung khái niệm “CMTS” ở khía cạnh mới. Cuộc vận động
thống nhất đất nước ở Đức và Italia về thực chất là một cuộc CMTS. Quan điểm này
giúp các em thấy rõ mặt hạn chế và tiến bộ của các SK này từ đó có thái độ đúng đắn
khi đánh giá việc thống nhất Đức và Italia vào thế kỷ XIX.

2.2. Thiết kế giáo án của một bài học lịch sử theo tinh thần đổi mới
Bao gồm các bước sau:
Bước 1: Xác định loại bài, vị trí của bài trong khóa trình, chương trình môn

Lịch sử để có nội dung và phương pháp dạy học phù hợp. Công việc này nhằm tìm ra
phần đóng góp cụ thể của bài học về các mặt truyền thụ kiến thức, giáo dục và phát
triển HS, giúp HS hiểu lịch sử một cách có hệ thống.
Bước 2: Xác định mục tiêu bài học. Nội dung mục tiêu bài học bao gồm các
yếu tố: giáo dưỡng (kiến thức), giáo dục (tư tưởng, đạo đức), phát triển (các năng lực
nhận thức, thực hành, trong đó quan trọng là tư duy).
Giáo dưỡng (về kiến thức).
GV phải tìm ra nội dung chính của bài học, xác định những sự kiện cơ bản,
mức độ trình bày các sự kiện chủ yếu, làm sáng tỏ nội dung chính của những khái
niệm cơ bản, hình thành nhận thức các quy luật, rút bài học cần thiết (nếu có), tiến
hành thực hành, kiểm tra, đánh giá HS.
Giáo dục (tư tưởng, đạo đức).
VD: khi HS học học phần lịch sử Việt Nam từ nguyên thủy đến đầu thế kỷ XX”
ở lớp 11, GV giáo dục cho HS lòng yêu nước.
Phải xuất phát từ nội dung cụ thể của bài, tránh nêu chung chung.
Bài về các cuộc kháng chiến, GV giáo dục cho HS lòng yêu nước, căm thù
giặc... (cụ thể).
Phát triển (các năng lực nhận thức, thực hành, trong đó quan trọng là tư duy).
Cần căn cứ vào danh mục những kỹ năng quy định trong chương trình lịch sử
mỗi lớp, đặc điểm trình độ HS, khả năng của nội dung bài học mà xác định cụ thế.
20


×