Tải bản đầy đủ (.pdf) (49 trang)

BÀI GIẢNG HÌNH THÀNH TRI THỨC LỊCH sử CHO học SINH TRUNG học PHỔ THÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (636.98 KB, 49 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI

TÀI LIỆU BÀI GIẢNG
(Lưu hành nội bộ)

HÌNH THÀNH TRI THỨC LỊCH SỬ CHO HỌC
SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
(DÀNH CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM LỊCH SỬ HỆ CHÍNH QUY)

Tác giả: ThS. Dương Vũ Thái

Quảng Bình, năm 2017


MỤC LỤC
STT

TÊN MỤC

trang

CHƯƠNG 1: SỰ KIỆN - CƠ SỞ CỦA NHẬN THỨC LỊCH SỬ……………………….

1

1.1.

Cơ sở của việc nhận thức lịch sử............................................................................

1



1.2.

Đặc điểm của việc nhận thức lịch sử.......................................................................

3

1.3.

Ý nghĩa của việc nhận thức lịch sử.........................................................................

8

CHƯƠNG 2: TẠO BIỂU TƯỢNG LỊCH SỬ …………………………………….………

17

2.1.

Định nghĩa biểu tượng lịch sử ……………………………………….…………..

17

2.2.

Phân loại biểu tượng lịch sử ……………………………………………………..

17

2.3.


Ý nghĩa của việc tạo biểu tượng lịch sử………………………………………….

18

2.4.

Các biện pháp tạo biểu tượng lịch sử ………………………………………….....

19

CHƯƠNG 3: HÌNH THÀNH KHÁI NIỆM LỊCH SỬ ……………………………….

23

3.1.

Định nghĩa khái niệm lịch sử……………………………………..........................

23

3.2.

Cấu trúc của khái niệm lịch sử…………………………………............................

30

3.3.

Phân loại khái niệm lịch sử…………………………………….............................


32

3.4.

Ý nghĩa của việc hình thành khái niệm lịch sử………….......................................

36

3.5.

Con đường hình thành khái niệm lịch sử................................................................

39

CHƯƠNG 4: NÊU QUY LUẬT VÀ RÚT BÀI HỌC LỊCH SỬ....................................

42

4.1.

Quy luật lịch sử……...............................................................................................

42

4..2.

Bài học lịch sử…….................................................................................................

43


1


LỜI NÓI ĐẦU

Nội dung học phần giới thiệu cho sinh viên vị trí và ý nghĩa của việc hình thành tri
thức lịch sử trên cơ sở nắm vững các yêu cầu và một số biện pháp để hình thành tri thức lịch
sử cho học sinh trong quá trình dạy học một cách có hiệu quả. Trên cơ sở đó giúp các em
nắm được những vấn đề cơ bản của việc hình thành tri thức lịch sử cũng như các biện pháp
thực hiện hình thành tri thức lịch sử cho học sinh một cách có hiệu quả. Ngoài ra còn giúp
học sinh nắm được các nguyên tắc của việc hình thành các khái niệm lịch sử, tạo biểu tượng
lịch sử trong quá trình thực hiện các thao tác về giảng dạy bộ môn lịch sử ở trường phổ
thông. Đồng thời sau khi học xong học phần sinh viên phải biết vận dụng các kiến thức đã
học trong quá trình nghiên cứu, thực tế giảng dạy ở trường phổ thông và trong quá trình rèn
luyện nghiệp vụ sư phạm ở trường đại học. Qua học phần, sinh viên cần có thái độ trung
thực, cẩn thận trong học tập trên lớp, bài tập ở nhà, thảo luận nhóm, có tinh thần cầu thị
trong việc lĩnh hội kiến thức cơ sở khoa học chuyên ngành.
Bài giảng sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự góp ý, bổ sung để
chúng tôi hoàn thiện hơn nữa. Xin trân trọng cảm ơn!
Người biên soạn!

2


BẢNG KÍ HIỆU CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

CHỨ CÁI VIẾT TẮT

NGHĨA LÀ


DHLS

Dạy học lịch sử

GV

Giáo viên

HS

Học sinh
Hình thành khái niệm

HTKN

Khái niệm

KN
KNLS

Khái niệm lịch sử

NXB

Nhà xuất bản

PPDH

Phương pháp dạy học


PPDHLS

Phương pháp dạy học
lịch sử

QCND

Quần chúng nhân dân

SGK

Sách giáo khoa
Sự kiện

SK
TBCN

Tư bản chủ nghĩa

TCN

Trước công nguyên

THCS

Trung học cơ sở

THPT


Trung học phổ thông

TLLS

Tài liệu lịch sử

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

3


CHƯƠNG 1
SỰ KIỆN - CƠ SỞ CỦA NHẬN THỨC LỊCH SỬ
Bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông cung cấp cho HS những kiến thức cơ sở
của KHLS đạt yêu cầu trình độ chuẩn cho mỗi lớp, mỗi cấp.
Vì vậy, DHLS ở trường phổ thông phải thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
sử học thông qua việc dạy học các khóa trình lịch sử để hoàn thành mục tiêu giáo
dục bộ môn.
DHLS ở trường phổ thông phải cung cấp cho HS những kiến thức của KHLS
với những thành tựu mới, tiên tiến. Điều này nhằm tránh sai lầm phổ biến: chỉ học
thuộc SK hoặc giải thích lịch sử không dựa trên biểu biết SK, hoặc không dựa vào
SK mà phân tích, nhận định. Hai sai lầm này dẫn tới bệnh “giai thoại dật sử”,
khuynh hướng “đóng màu”, “chủ quan”, “công thức”, “hiện đại hóa lịch sử”…
Vì vậy, việc DHLS phải cung cấp cho HS những kiến thức khoa học (giáo
dưỡng), giáo dục tư tưởng, đạo đức (giáo dục), bồi dưỡng khả năng nhận thức và
hành động cho HS(phát triển).

1.1. Cơ sở của việc nhận thức lịch sử

Tri thức là tổng thể những sự kiện, hiện tượng, quá trình lịch sử thuộc hiện
thực khách quan mà nó đã và đang tồn tại bên ngoài bộ não con người.
Tri thức có hai loại:
Tri thức thông thường hay là những tri thức kinh nghiệm, là kết quả của quá
trình nhận thức nhưng chỉ dừng lại ở vẻ bề ngoài. Cho nên chúng mang tính riêng
rẽ, rời rạc và không bản chất.
Tri thức khoa học là sự phản ánh bản chất bên trong của sự vật hiện tượng.
Nó đảm bảo tính hệ thống, chính xác.
Còn khi nói về kiến thức, nhiều người thật sự lúng trong việc xác định bản
chất vấn đề. Giữa tri thức và kiến thứ đều có điểm giống là kết quả của quá trình
nhận thức của con người (tri - biết, kiến - nhìn thấy, nhìn nhận). Nhưng tri thức là
sự hiểu biết nói chung. Còn kiến thức là sự hiểu biết chuyên ngành được thu nhận
vào trong bộ não con người, đã được sắp xếp và hệ thống hóa.

1


Vì vậy kiến thức được hiểu là sản phẩm của quá trình nhận thức của con
người được thể hiện trong tư tưởng và được biểu hiện bằng khái niệm, các công
thức, những định luật hay là các hệ thống ký hiệu khác.
Vậy tri thức lịch sử là gì?
Đó chính là kết quả của quá trình nhận thức của con người, nó phản ánh về
toàn bộ sinh hoạt của xã hội loài người trong quá khứ một cách chính xác và có hệ
thống. Kết quả của quá trình tự nhận thức của con người (tự thân). Cho nên nó sẽ
phát triển theo trình độ nhận thức của con người.
Chúng ta có thể thấy sự phát triển của quá trình tự nhận thức này qua sự
đánh giá, nhận định của Khoa học lịch sử qua các thời điểm lịch sử:
Đánh giá cũ:
Nhà Hồ như một bóng ma lướt qua Lịch sử dân tộc.
Nhà Mạc hèn hạ dâng đất tự trói mình.

Nhà Nguyễn cõng rắn cắn gà nhà.
Phan Lâm mãi quốc triều đình khi dân”.
Đánh giá mới: Nhà Hồ được ngày nay đánh giá là tiến bộ; Nhà Mạc thần
phục giả vờ, tổ chức nhiều khoa thi; Nhà Nguyễn được đánh giá lại là có cả phần
tích cực và hạn chế; Trương Định theo tư liệu mới, một mặt triều đình cử ông về
giao đất cho Pháp, một mặt bí mật ở lại đàm phán, đấu tranh đòi giành đất; Phan
Thanh Giản được đánh giá lại không còn là Phan Lâm Mãi Quốc nữa… mà ông là
con người có tinh thần yêu nước, không thể nói sợ dân hơn sợ giặc. Hay như cải
cách ruộng đất - dù có sai lầm nhưng đã giải quyết được ước mơ ngàn đời của nhân
dân, lần đầu tiên làm được nhiệm vụ đề ra từ cương lĩnh Chính trị đầu tiên của
Đảng.
Như vậy, quá trình nhận thức đi liền với quá trình khen - chê; đánh giá nhận
xét để đi dần đến sự thật cốt lõi lịch sử.
Tri thức lịch sử luôn là khách quan, khoa học, chính xác không phụ thuộc
vào ý thức của con người.
Đối tượng của sử học Mác xít là hiện thực quá khứ khách quan. Nên luôn
luôn phản ánh đúng. Từ đó tri thức chúng ta phản ánh cũng chính xác khách quan.
Quá khứ: Đã xảy ra, có thật nên con người phải nhận ra.
2


Tri thức lịch sử nhằm mục đích nhận thức và cải tạo thế giới từ đó nhận thức
xã hội và cải tạo xã hội. -> Thông qua giáo dục con người. Con người chính là lực
lượng cải tạo thế giới bằng việc rút ra những quy luật của Khoa học Lịch sử.

1.2 Đặc điểm của việc nhận thức lịch sử
1.2.1. Đặc điểm của tri thức lịch sử
a. Tính quá khứ
Lịch sử là quá trình phát triển hợp quy luật của của xã hội loài người từ lúc
con người và xã hội sinh ra đến nay. Tất cả những SK và hiện tượng lịch sử được

chúng ta nhắc đến đều là những chuyện đã xảy ra, nó mang tính quá khứ.
Đây là điều khác biệt giữa hiện tượng lịch sử với hiện tượng tự nhiên.
Bởi vậy người ta không thể trực tiếp quan sát được lịch sử quá khứ và chỉ
nhận thức được chúng một cách gián tiếp thông qua các tài liệu lưu lại dựa vào các
hiện tượng lịch sử tương tự của cái mới, của các dân tộc khác để phân tích, suy
nghĩ những vấn đề lịch sử chúng ta đang nghiên cứu, dùng các loại tài liệu này để
tham khảo chứ không thể không thể thay thế hiện tượng lịch sử mà chúng ta đang
nghiên cứu.
Điều đó vừa tạo ra khó khăn vừa là ưu thế riêng của bộ môn Lịch sử: giúp bồ
dưỡng và phát triển trí tưởng tượng của HS (tuy cả hai đều xuất phát từ hiện thực
khách quan và phản ánh sự chân thực của quá khứ với những hình thức, phương
tiện phù hợp với bộ môn, như sự tưởng tượng của HS trong học tập lịch sử là tái
tạo quá khứ như nó tồn tại điều này khác với trí tưởng tượng trong văn học nghệ
thuật. Sự tái tạo này phải dựa trên cơ sở vững chắc là từ tài liệu SK và biểu tượng
lịch sử.).
b. Tính không lặp lại
Tri thức lịch sử không lặp lại cả về thời gian lẫn không gian. Mỗi SK, hiện
tượng lịch sử chỉ xảy ra trong một khoảng thời gian và không gian nhất định và
khác nhau. Không có một SK, hiện tượng lịch sử nào xảy ra cùng thời điểm, trong
các thời kỳ khác nhau là hoàn toàn giống nhau, dù có điểm giống nhau. Dù có điểm
giống nhau, lặp lại nhưng có sự kế thừa và phát triển nên đó là sự lặp lại trên cơ sở
không lặp lại.
Đời sống xã hội loài người đã hoàn toàn thay đổi và biến hóa không ngừng,
từ công cụ lao động, trình độ sản xuất, chế độ chính trị, quan hệ xã hội, đến ăn, ở đi
3


lại, tư tưởng triết lý, đạo đức… Điều này buộc các nhà giáo dục lịch sử khi trình
bày một SK, hiện tượng nào đó trong lịch sử phải xem xét tính cụ thể cả về thời
gian và không gian nảy sinh sự kiện, hiện tượng đó.

Các SKLS cụ thể, riêng biệt, nhưng có quan hệ kế thừa.
c. Tính cụ thể
Lịch sử là khoa học nghiên cứu tiến trình lịch sử của các nước, các dân tộc
khác nhau và quy luật của nó. Lịch sử của mỗi nước, mỗi dân tộc đều có diện mạo
riêng do những điều kiện riêng quy định. Mặt khác các dân tộc khác nhau sống trên
những khu vực khác nhau, tuy bị tác động của những quy luật chung, trải qua quá
trình phát triển, trình độ sản xuất không ngừng nâng cao, đời sống văn hóa tinh
thần của con người ngày càng phong phú, đa dạng nhưng tiến trình phát triển của
mỗi quốc gia, dân tộc không hoàn toàn giống nhau.
Ví như phần lớn các quốc gia ở khu vực châu Âu đều trải qua tiến trình lịch
sử từ CXNT -> CHNL -> CĐPK -> TBCN -> XHCN, song ở nhiều quốc gia Á,
Phi, Mỹ - Latinh thì không diễn ra tuần tự như vậy, có thể bỏ qua hoặc thực hiện
bước nhảy vọt lên một hình thái kinh tế - xã hội nào đó để phát triển cao hơn.
Thậm chí cùng một hình thái kinh tế - xã hội, các dân tộc, quốc gia khác
nhau cũng có những mặt kinh tế thể chế Nhà nước, hình thái ý thức khác nhau,
mang sắc thái riêng.
Ví như CĐPK Anh khác CĐPK Pháp và càng khác CĐPK Trung Quốc.
Chính đặc điểm này đòi hỏi việc trình bày các SK, hiện tượng lịch sử càng cụ thể
bao nhiêu càng sinh động bấy nhiêu.
Lịch sử các dân tộc đều tuân thủ những quy luật chung của sự phát triển của
xã hội loài người.
d. Tính hệ thống (Logic lịch sử)
Tri thức của khoa học lịch sử rất đa dạng, phong phú đề cập đến tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội loài người: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, nghệ
thuật và khoa học kỹ thuật… bao gồm các SK, hiện tượng về cơ sở kinh tế, đấu
tranh xã hội, vừa bao gồm cả nội dung của kiến trúc thượng tầng, tình hình sản xuất
và quan hệ sản xuất…

4



SGK lịch sử ở trường phổ thông tuy giản lược song cũng phải bao quát được
các mặt đó.
Các nội dung tri thức lịch sử có mối liên hệ chằng chịt, phức tạp.
Do đó đòi hỏi người GV lịch sử phải luôn chú ý đến mối quan hệ ngang dọc,
trước sau của các vấn đề lịch sử cũng như mối quan hệ nội tại giữa các mặt chính
trị, kinh tế, văn hóa để cung cấp cho HS những tri thức lịch sử khoa học mang tính
hệ thống và hoàn chỉnh, nêu được cái khoa học (cái bản chất cốt lõi của lịch sử) và
cái logic (dể hiểu của hệ thống lịch sử).
Quan điểm này được Hồ Chí Minh diễn tả:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
.........
e. Tính thống nhất giữa sử và luận
Sử học xuất hiện sớm. Nhiều nhà sử học đã ghi chép, đánh giá và để lại
nhiều tác phẩm có giá trị. Những ghi chép đó được thực hiện dưới những góc độ
khác nhau. Nhưng lý luận và quan điểm của họ đều xuất phát từ lợi ích giai cấp,
bảo vệ lợi ích giai cấp bóc lột.
Đến Các Mác và Ănghen mới xây dựng nên chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử để vạch ra quy luật phổ biến của sự phát triển xã hội loài người là
tuần tự theo các hình thái kinh tế - xã hội và các ông chứng minh: lao động sản xuất
và đấu tranh giai cấp là động lực chủ yếu của sự phát triển xã hội, còn quần chúng
nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử.
Việc nghiên cứu và DHLS phải đấu tranh chống sự xuyên tạc lịch sử của các
giai cấp bóc lột và cần dựa vững chắc vào các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử để quan sát, nghiên cứu quá trình phát triển của
xã hội loài người thì những nhận định, kết luận đó mới đảm bảo tính khoa học, vận
dụng có hiệu quả vào cuộc sống.
Trong DHLS người GV phải đảm bảo sự thống nhất giữa trình bày sự kiện
với giải thích bình luận. Còn mọi giải thích, bình luận đều phải xuất phát từ SKLS

cụ thể, chính xác, đáng tin cậy để làm sáng tỏ bản chất lịch sử.

5


Đó là sự thống nhất giữa tính đảng và tính khoa học trong nghiên cứu và
giảng dạy lịch sử.
g. Quan hệ biện chứng giữa các đặc điểm của tri thức lịch sử
Giữa các đặc điểm của tri thức lịch sử có mối quan hệ nội tại thống nhất và
biện chứng với nhau.
Chỉ có dựa trên nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử, vận dụng phương
pháp nghiên cứu lịch sử đúng đắn để nghiên cứu các tài liệu lịch sử phong phú, cụ
thể mới rút ra được kết luận mới, có tri thức lịch sử khoa học. Trên cơ sở đó mới
rút ra được kết luận lịch sử hoàn chỉnh về một giai đoạn nào đó của lịch sử dân tộc,
quốc gia.
Chỉ có nắm vững TLLS về các mặt trong mối liên hệ nội tại và dưới sự chỉ
đạo lý luận và phương pháp khoa học, mới có thể khắc phục được khó khăn do tính
quá khứ gây ra và xuất hiện trong đầu óc HS những biểu tượng phù hợp với thực tế
lịch sử, qua đó tư duy HTKN đạt tới tầm cao của nhận thức lý tính.
Tuy nhiên, nếu xử lý không thỏa đáng các vấn đề trên, nói suông các nguyên
lý của chủ nghĩa Mác, chọn một vài sử liệu để chứng minh những nguyên lý của
chủ nghĩa Mác, nắm lấy một vài tài liệu rồi đưa ra những kết luận siêu hình thì đó
chỉ là những giả thuyết vô căn cứ không giúp gì được cho việc hình thành tri thức
lịch sử cho HS, không giáo dưỡng, giáo dục và phát triển được cho HS…
Xác định được những đặc điểm của tri thức lịch sử giúp chúng ta tìm ra
phương pháp, con đường phù hợp cho việc DHLS ở trường phổ thông1.
1.2.2. Cơ sở quá trình hình thành tri thức lịch sử cho học sinh
Các đặc điểm của nhận thức lịch sử được trình bày dựa trên quy định về việc
hình thành tri thức lịch sử
Trong học tập lịch sử, học sinh không thể trực tiếp quan sát (trực quan sinh

động) đối tượng nghiên cứu như trong học tập các môn khoa học tự nhiên. Trong
việc học tập lịch sử, không thể tiến hành các thí nghiệm để tái hiện lịch sử quá khứ
khách quan...
Nhận thức lịch sử bao giờ cũng phức tạp vì con người là một bộ phận không
tách rời được của đối tượng nghiên cứu - xã hội loài người. Chương trình lịch sử
1

Phan Ngọc Liên (cb) (2010), Phương pháp dạy học lịch sử, tập 1, NXB ĐHSP, Hà Nội, tr138-143.

6


cấu tạo các sự kiện từ quá khứ đến hiện tại, mà nhận thức phù hợp với trình độ học
sinh phải từ gần đến xa....
a. Dựa trên quy luật nhận thức của con người nói chung và của học
sinh nói riêng
V.I. Lê nin trong “Bút ký triết học” có nói: “Từ trực quan sinh động đến tư
duy trừu tượng - từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn … đó là con đường nhận thức
chân lý, nhận thức hiện thực khách quan”.
Bảng 1: Còn đường nhận thức chung và nhận thức lịch sử:
Trực quan sinh động

Tư duy trừu tượng

Nhận thức cảm tính.

Nhận thức lý tính

Cảm giác


Tri giác

Tài liệu SK

Biểu tượng

Khái niệm

BTLS

KNLS

Phán đoán

Thực tiễn
(Hiện thực
Suy lý

Quy luật LS Bài học LS

khách
quan)

Cảm giác (tác động của đối tượng nhận thức vào giác quan…).
Tri giác (Nhận thức bên trong sự vật hiện tượng).
Biểu tượng (cơ sở của nhận thức bản chất sự vật hiện tượng).
Khái niệm tuy xa sự vật nhưng gần sự vật hơn.
Phán đoán từ khái niệm thứ nhất sang khái niệm thứ hai.
Suy lý.
Đối với việc nhận thức lịch sử thì hình thức cảm giác và tri giác không có

nhưng thông qua biểu tượng và thực tiễn (từ tài liệu sự kiện) để xây dựng lại hình
ảnh chính xác cho học sinh bằng cảm giác và tri giác.
Lịch sử là những cái đã xảy ra và đã qua, nên phải nhận thức đúng như nó đã
xảy ra một cách chính xác cho nên không thể phán đoán và suy lý. Để rút ra quy
luật và bài học, đồng thời để cải tạo thực tiễn phải thông qua sự kiện hiện thực.
b. Công tác nghiên cứu của nhà sử học
Theo quy trình nghiên cứu của các nhà khoa học.
Theo Eva.Pheep trong cuốn Lịch sử là gì? Ông chỉ ra các công đoạn nghiên
cứu của nhà sử học:
Sửu tầm và xử lý tư liệu.
Khôi phục lại quá khứ.
Vạch rõ bản chất của lịch sử.
Quy luật và bài học lịch sử.
7


Đối với học sinh:
Hoạt động học tập của học sinh thực chất là quá trình nhận thức lại cái mà sử
học đã nhận thức.
Trong khi đó, nghiên cứu của nhà khoa học là cái mới của khoa học và nhân
loại - đó là sáng tạo ra - đóng góp qua phát hiện nghiên cứu.
VD: Phát hiện ra một sự kiện mới, một tư liệu mới, những cách đánh giá,
nhận xét, giải thích mới, phương pháp nghiên cứu mới (địa, chính trị, lịch sử).
Nhà khoa học làm việc một cách độc lập từ xác định đề tài đến nghiên cứu,
công lao.
Bảng 2: So sánh quá trình nhận thức lịch sử của học sinh và nhà khoa học:
Học sinh

Nhà khoa học


Sự kiện: Bắt đầu từ tài liệu sự kiện Phải tự tìm ra qua nghiên cứu
nhưng tài liệu này đã có trong SGK và
do thầy cô cung cấp.
Biểu tượng: Giáo viên dùng các biện Tự hình dung biểu tượng.
pháp sư phạm để tạo biểu tượng.
Khái niệm: Xây dựng những khái niệm Tự xác định và xây dựng khái niệm
đã có.
Quy luật: Giáo viên giúp học sinh rút Qua nghiên cứu để rút ra
ra.
Bài học: Giáo viên giúp học sinh rút ra. Qua nghiên cứu để rút ra
VD: Về KN “Đồng khởi”: Bài học lịch sử rút ra cho học sinh là phải dùng
bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng.

1.3. Tài liệu sự kiện - cơ sở của hình thành tri thức lịch sử
trong DHLS ở trường PT
1.3.1. Mục tiêu của giáo dục lịch sử và học tập lịch sử
Việc học tập lịch sử, cũng như học tập bất cứ bộ môn nào ở trường phổ
thông đều nhằm cung cấp kiến thức khoa học, hình thành thế giới quan khoa học,
phẩm chất đạo đức chính trị cho học sinh.
Điều này giúp cho học sinh khôi phục lại hình ảnh của quá khứ để hiểu được
sự phát triển hợp quy luật của xã hội, vận dụng sáng tạo những hiểu biết vào hoạt
8


động thực tiễn. Vì vậy, điều cần thiết trước tiên là hướng dẫn cho học sinh nắm
được những kiến thức của môn học, kiến thức lịch sử cũng như kiến thức xã hội.
Nắm vững sự kịên lịch sử là tiền đề để có kiến thức lịch sử nhằm hiểu đúng hiện
thực lịch sử một cách khoa học, biết rút từ quá khứ những bài học kinh nghiệm cho
hiện tại và tương lai. Không có kiến thức về lịch sử khong thể hiểu sự phát triển
tương lai của xã hội, mà không có tài liệu - sự kiện thì cũng không thể hình thành

kiến thức lịch sử cho học sinh.
Khái niệm “kiến thức lịch sử” không hoàn toàn đồng nhất với khái niệm
“khoa học lịch sử”. Kiến thức lịch sử phát triển theo trình độ nhận thức của con
người. Lúc đầu chưa phải là tri thức khoa học, mà chỉ là những hiểu biết, quan
niệm sơ khai về lịch sử, còn có các yếu tố thần bí trong các câu chuyện dân gian,
truyền thuyết của các dân tộc. Khoa học lịch sử ra đời và phát triển trên cơ sở khái
quát hóa, trừu tượng hóa những tri thức lịch sử để có nhũng hiểu biết chính xác,
khoa học hơn và từ đó rút ra quy luật phát triển xã hội, vận dụng vào thực tiễn.
Kiến thức lịch sử - nội dung chủ yếu của việc học tập lịch sử, là yếu tố quan
trọng nhất để giáo dục tư tưởng chính trị, hình thành thế giới quan khoa học, là một
công cụ có hiệu quả trong hoạt động thực tiễn. Nó không chỉ là phương tiện nhận
thức xã hội mà còn là vũ khí đấu tranh để cải tạo xã hội. Trong DHLS, không thể
cung cấp và tiếp thu mọi kiến thức của khoa học lịch sử mà chỉ có thể làm cho học
sinh nắm vững những kiến thức cơ bản.
Mục đích nhận thức của việc học tập lịch sử là:
Nhận thức cái đã qua (Dựa trên thành tựu và kết quả của nghiên cứu khoa
học). Qua đó nhằm cải tạo xã hội.
Muốn nhận thức phải hình dung ra lịch sử một cách chính xác thông qua biểu
tượng. Nhưng phải nhận thức cho được bản chất. Từ đó rút ra quy luật và bài học
lịch sử.
Thế nào là “kiến thức cơ bản” trong môn Lịch sử? Vấn đề này là nội dung
của nhiều cuộc thảo luận khoa học và các nhà khoa học cũng đi đến nhất trí với
nhau về một số điểm chủ yếu. Kiến thức cơ bản là kiến thức tối ưu, cần thiết cho
việc hiểu biết của học sinh về lịch sử (thế giới và dân tộc). Nó gồm nhiều yếu tố:
SKLS, các niên đại, địa danh lịch sử, nhân vật lịch sử, các biểu tượng, KNLS, các
9


quy luật, nguyên lí, phương pháp học tập, vận dụng kiến thức. Nói đến lịch sử
trước hết phải nói đến SKLS, những sự kiện đó lại vô cùng phong phú, diễn ra

trong một thời gian và không gian nhất định. Trong mỗi tiết học, mỗi chương hay
một khóa trình lịch sử, chúng ta bắt gặp rất nhiều SKLS. Người giáo viên phải biết
chọn lọc sự kiện cơ bản để khắc sâu cho học sinh. Những sự kiện đó đủ phác học
nên bức tranh quá khứ một cách chân thật, làm cho học sinh phân biệt được lịch sử
cụ thể các thời kì cũng như các quốc gia khác nhau, phản ánh được quy luật phát
triển của xã hội. Mặt khác trong học tập lịch sử, cũng như đối với các môn học
khác, nếu không trang bị cho học sinh kiến thức về phương pháp, cách học tập thì
cũng không phát huuy tính tích cực của các em để nhận thức lịch sử một cách
thông minh., độc lập, sáng tạo. Cho nên, trong kiến thức lịch sử nên có kiến thức về
phương pháp học tập lịch sử. Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng của người dạy lịch sử là
phải cung cấp cho học sinh những sự kiện cụ thể, sinh động, có hình ảnh, đủ để
khôi phục lại bức tranh quá khứ, đúng như nó tồn tại. Trên cơ sở cung cấp những
SKLS, chúng ta nâng sự hiểu biết học sinh lên trình độ khái quát lí luận...
Trong DHLS, ngoài việc coi trọng tính cơ bản, phải chú ý đến tính hệ thống,
tính toàn diện, tính hiện đại của ác SKLS. Về tính toàn diện của lịch sử, phải cung
cấp cho học sinh những sự kiện về mọi lĩnh vực của đời sống xã hội loài người
(kinh tế, chính trị, quân sự, văn học, khoa học kĩ thuật, tư tưởng ...), làm cho các
em nắm được sự thống nhất và tác động qua lại giữa các lĩnh vực của đời sống xã
hội loài người. Tính hiện đại của kiến thức thể hiện sự nhận thức đúng và vận dụng
sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, của Đảng và Tư tưởng Hồ
Chí Minh vào giảng dạy, học tập.
1.3.2. Tài liệu - SKLS - cơ sở khôi phục lại hình ảnh quá khứ
Tài liệu - SKLS là cơ sở khôi phục lại hình ảnh quá khứ để tiến hành việc
khái quát lí luận
Việc lựa chọn sự kiện trong DHLS phải dựa vào những tiêu chuẩn nhất định.
Đó là những sự kiện chính xác. Nó phản ánh đúng hiện thực quá khứ, những thành
tựu mới nhất của khoa học lịch sử. Chính vì vậy mà việc biên soạn SGK, tài liệu
tham khảo và nội dung bài giảng của giáo viên phải phản ánh kịp thời những thành
tựu của sử học.
10



Đó là những sự kiện có tác dụng phát triển. Nó gợi lên hình ảnh của quá khứ,
tạo được cảm xúc mạnh mẽ của học sinh đối với lịch sử, kích thích hoạt động tư
duy của các em.
Đó là những sự kiện vừa sức tiếp thu của học sinh, giúp các em nắm vững
diễn biến của lịch sử, hiểu rõ bản chất của sự kiện, những sự kiện đó phù hợp với
khả năng nhận thức của học sinh ở mỗi lớp, mỗi cấp. Đây là yêu cầu về mặt sư
phạm cần đặc biệt lưu ý khi nghiên cứu SGK và chọn lựa kiến thức cung cấp cho
học sinh. Sự khác biệt về mức đọ kiến thức cung cấp cho học sinh giữa các cấp
không phải chỉ ở khối lượng các sự kiện chi tiết của nó nhiều hay ít mà chính là ở
trình độ hiểu biết của học sinh về sự kiện.
Tóm lại, tài liệu - sự kiện là cơ sở để hình thành tri thức lịch sử, song phải
hướng dẫn học sinh nắm vững các thành tố cấu thành hệ thống kiến thức toàn diện
cho học sinh. Chỉ dừng ở chỗ biết SKLS mà không hiểu, không biết cách học sẽ
không đem lại kết quả tốt trong học tập lịch sử. Bởi vì, khái quát hóa, hệ thống hóa
kiến thức phải tiến hành trên cơ sở hiểu bản chất các SKLS, là công cụ của việc
nhận thức lịch sử. Sự hình thành kiến thức lịch sử là một quá trình vận động nhận
thức, từ không biết đến biết, biết không đầy đủ, hời hợt đến hiểu biết đầy đủ, sâu
sắc, có ý nghĩa2.
1.4.3. Định nghĩa, phân loại, ý nghĩa và phương pháp dạy SKLS
a. Định nghĩa SKLS
Bao hàm hai nghĩa khác nhau.
Thứ nhất, đó là việc đã xảy ra trong quá trình phát triển xã hội (quá khứ của
xã hội) loài người. Bản thân hiện thực quá khứ khách quan tức là cái được đánh
giá. Sự phản ánh hay hiểu biết của con người về việc đã xảy ra trong quá khứ gọi
đó là sự phản ánh, cái phản ánh.
Đó còn là những hiểu biết và ghi chép của con người về một việc đã xảy ra
trong lịch sử. Theo bản thân nó có tính độc lập khách quan với ý muốn của con
người, nên hiểu biết, ghi chép của con người về SK phải khoa học, khách quan mới

chân xác.

2

Phan Ngọc Liên (cb) (2010), Phương pháp dạy học lịch sử, tập 1, NXB ĐHSP, Hà Nội, tr143-148.

11


Thông qua sử liệu để phản ánh quá khứ khách quan này (sử liệu là cái để ta
nắm sự kiện đã qua; tài liệu là cái phản ánh sự kiện - cái được phản ánh). Các dạng
vật chất khác nhau lưu giữ những thông tin lịch sử, qua đó con người có được biểu
tượng lịch sử.
Thứ hai, một SKLS có nội dung bao gồm: Thời gian xảy ra sự kiện; Không
gian xảy ra sự kiện; Nhân vật tham gia vào sự kiện đó (1 nhóm xã hội, hoặc quần
chúng nhân dân, bao gồm cả nhân vật chính và phản diện); Nguyên nhân dẫn đến
sự kiện là gì?
b. Các loại SKLS
Các nhà khoa học dựa trên các tiêu chí khác nhau để phân loại sự kiện:
- Dựa vào dạng thức có hai loại:
Biến cố lịch sử là 1 SKLS cụ thể, là một việc đã xảy ra trong quá khứ nhưng
trong một không gian nhất định và thời gian xác định cụ thể (tức xảy ra vào một
thời điểm, địa điểm cụ thể), có liên quan đến những nhân vật được xác định và có
tính không lặp lại. Biến cố lịch sử chỉ xảy ra một lần, không lặp lại.
VD: Hội nghị ba đẳng cấp đêm trước 14/7/1789. Cuộc tấn công ngục Baxti
14/7/1789… xảy ra 01 lần duy nhất trong quá khứ và không lặp lại bao giờ.
VD: CM tháng Tám 1945 là biến cố vĩ đại của lịch sử dân tộc Việt Nam.
Khởi nghĩa Tây Sơn do Nguyễn Nhạc đứng đầu nổ ra ở ấp Tây Sơn (Bình
Định) năm 1771 là một biến cố lịch sử quan trọng.
Hiện tượng lịch sử là sự kiện phản ánh những nét đặc trưng, tiêu biểu cho

một thời kỳ hay một giai đoạn lịch sử nhất định như phong trào đấu tranh của nhân
dân, chế độ tô thuế, cách mạng công nghiệp… Hiện tượng lịch sử có thể lặp lại
nhiều lần, kéo dài về thời gian, lan rộng trong không gian lịch sử. Hiện tượng lịch
sử mang tính chất điển hình, còn biến cố lịch sử là một sự kiện cụ thể không lặp lại
(Theo từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông).
Giữa hiện tượng lịch sử và biến cố lịch sử có sự khác nhau, song cũng có
mối liên quan; nghiên cứu những biến cố riêng lẻ giúp cho hiểu biết sâu sắc hiện
tượng lịch sử.

12


Như vậy, biến cố lịch sử cũng là một SKLS xảy ra trong quá khứ nhưng
không xác định một cách cụ thể không gian và thời gian xảy ra sự kiện ấy nên nó
có thể lặp lại.
VD: Khởi nghĩa nông dân - Có thể lặp lại qua các thời kỳ, không xác định rõ
thời gian và không gian.
Hay như Cách mạng công nghiệp; Chiến tranh thế giới - ít nhất cũng phải
xảy ra hai lần.
- Dựa vào ý nghĩa của SKLS có hai loại:
SKLS cơ bản, điển hình là những sự kiện có ảnh hưởng, có tác động to lớn
đến tiến trình lịch sử, thì phải đo mức độ ảnh hưởng.
SKLS không cơ bản, không điển hình.
Khi dạy học chủ yếu ta tập trung vào các sự kiện cơ bản điển hình.
- Dựa vào cấu tạo có hai loại:
SKLS đơn giản là chỉ một vài nội dung.
SKLS phức tạp là sự kiện bao hàm nhiều biến cố, nhiều nội dung.
VD: Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản 1930 là sự kiện cơ bản điển hình
có ảnh hưởng đến lịch sử Việt Nam về sau xét về mặt ý nghĩa. Nhưng về cấu tạo lại
là một SKLS đơn giản.

VD: Quá trình đi tìm đường cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ 1911 1920 là một sự kiện phức tạp xét về cấu tạo, và có ý nghĩa lớn vào năm 1920 khi
Người tìm ra con đường GPDT (Nguyễn Ái Quốc truyền bá lý luận giải phóng dân
tộc về nước chứ không phải là chủ nghĩa Mác - Lênin).
- Dựa vào nội dung mà sự kiện đó phản ánh có bốn loại:
Những sự kiện về kinh tế.
Những sự kiện về chính trị.
Những sự kiện về chiến tranh cách mạng và đấu tranh vũ trang.
Những sự kiện về văn hóa - tư tưởng.
-> Đó là 4 loại sự kiện tiêu biểu nhất.
Nhưng sự phân loại SKLS theo nội dung chỉ mang tính tương đối.
Tính phức tạp của SKLS vì sự kiện đó được nhìn ở góc độ này là nội dung
này nhưng nhìn ở góc độ khác là nội dung khác.
13


Do vậy việc phân loại SKLS theo nội dung chỉ mang tính tương đối vì tính
phức tạp, muôn hình, muôn vẻ của nó.
VD: Phong trào văn hóa phục hưng thời Tây Âu trung đại. Khi nhìn ở góc độ
văn hóa thì đó là sự kiện văn hóa tư tưởng, nhưng nhìn ở góc độ chính trị thì đó là
sự kiện chính trị bởi vì đó là cuộc đấu tranh đầu tiên của giai cấp tư sản đang lên
đánh vào thành trì của CĐPK, dẫn tới cải cách tôn giáo, chiến tranh nông dân
Đức…
VD: Cải cách ruộng đất vừa là một SKLS mang tính kinh tế nhưng đồng thời
cũng là một SKLS mang tính chính trị: Nội dung cách mạng dân tộc dân chủ, cuộc
nổi dậy long trời lở đất của nông dân, lần đầu tiên giải quyết được vấn đề ruộng đất
cho nông dân.
c. Ý nghĩa và phương pháp giảng dạy SKLS
- Ý nghĩa
Mục tiêu về kiến thức, thái độ, kỹ năng.
+ Về kiến thức:

Việc học sinh nắm kiến thức là khâu đầu tiên của việc nhận thức lịch sử của
học sinh, cho nên có ý nghĩa rất quan trọng. Vì vậy, người ta nói “Sự kiện là không
khí của nhà sử học”.
Từ SKLS và trên cơ sở sự kiện mới giúp cho học sinh hình thành biểu tượng
và HTKN cho học sinh.
+ Về thái độ:
Tác động rất mạnh mẽ tới thái độ, tư tưởng, tình cảm của học sinh do đặc
điểm của SKLS.
SKLS là những sự việc có thật trong quá khứ nên có tính thuyết phục cao.
SKLS rất phong phú sinh động, tác động mạnh mẽ cho học sinh.
+ Về kỹ năng:
Rèn luyện cho HS một số kỹ năng bộ môn mà trước hết là kỹ năng nhận
thức lịch sử.
Bắt đầu giúp các em làm quen với công tác nghiên cứu của nhà Khoa học
Lịch sử.
- Phương pháp giảng dạy SKLS
14


+ Một số yêu cầu có tính nguyên tắc
SKLS đảm bảo tính chính xác.
Đảm bảo tính vừa sức cho học sinh. Mức độ hiểu SK như thế nào?
Tính sinh động khi trình bày sự kiện, sử dụng đồ dùng trực quan, hiện vật…
+ Phương pháp giảng dạy
BIẾT: Là sự tái hiện, sự ghi nhớ. Ở cấp độ này có hai hình thức.
Ghi nhớ ngẫu nhiên không chủ định (tức ghi nhớ mà không hiểu sự kiện).
Để ghi nhớ được sự kiện, có các cách sau:
Căn cứ vào trình tự sự kiện (nếu nhớ được logic thì dựa vào trình tự sự kiện
này để nhớ sự kiện kia).
Căn cứ vào đặc điểm của thời gian xảy ra sự kiện.

Ghi nhớ một cách có ý thức có chủ định (ghi nhớ bao gồm hiểu SK).
Bằng cách nắm vững các bộ phận cấu thành của SK (Không gian, thời gian,
địa điểm, nhân vật…).
HIỂU:
Từ biết đến thông hiểu sự kiện có các phương pháp sau:
Nắm rõ bản chất sự kiện.
VD: Về phong trào công nhân thế giới: Khởi nghĩa của công nhân Lion;
Khởi nghĩa của thợ dệt Xelide (Đức), phong trào hiến chương Anh. Nếu hiểu đơn
giản là các phong trào ấy diễn ra như thế nào? Thắng lợi hay thất bại? Hiểu sâu
thêm một bước là sự phát triển của phong trào công nhân thế giới. Hiểu sâu về bản
chất là giai cấp công nhân đang từng bước tiến lên vũ đài chính trị thế giới.
VD: Chiến dịch Biên giới 1950: Hiểu đơn giản là chiến dịch diễn ra từ ngày
nào đến ngày nào? Diễn ra như thế nào?
Hiểu sâu về bản chất là cuộc tiến công quy mô lớn về quân sự của ta, đồng
thời đánh dấu bước chuyển biến từ thế phòng ngự sang thế chủ động chiến lược,
đánh dấu bước phát triển mới của cuộc kháng chiến.
Phân tích của mối quan hệ tác động lẫn nhau giữa các SKLS.
VD: Tác động của tình hình thế giới đối với phong trào 1936 - 1939 ở Việt
Nam. Đó là sự tác động lẫn nhau của các sự kiện trên thế giới với trong nước.

15


Sự phát xít hóa bộ máy nhà nước của một số nước dẫn đến sự ra đời của chủ
nghĩa Phát xít. Ở Việt Nam bọn phát xít tay sai ngóc đầu dậy. Mặt trận nhân dân
Pháp lên cầm quyền ban hành nhiều chính sách tự do cho thuộc địa… Trên cơ sở
đó Đại hội VII của Quốc tế cộng sản họp và quyết định những vấn đề quan trọng
của cách mạng thế giới. Nó tác động đến nội dung, hình thức, khẩu hiệu và phương
pháp đấu tranh…
So sánh để thấy được nét giống nhau, sự tương đồng dị biệt giữa các sự kiện.

VD: Tại sao 12 ngày đêm đánh B52 ở Hà Nội - Hải Phòng … cuối năm 1972
được gọi là Điện Biên phủ trên không” được ví như một Bạch Đằng, Chi Lăng,
Đống Đa của thế kỷ XX.
VD: Theo giáo sư Trần Bá Đệ, để đến cách mạng tháng Tám 1945, trải qua
ba cuộc diễn tập và một cuộc tổng diễn tập. Diễn tập: 1930 - 1931; 1932 - 1935;
1936 - 1939. Tồng diễn tập: 1939 - 1945: Vì có đường lối; Có lực lượng vũ trang;
Có lực lượng chính trị; Có căn cứ địa; Tập dượt khởi nghĩa; Tổ chức Việt Minh và
UBGPDT; Quan hệ quốc tế; Tuyên bố nền độc lập.
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
1. Từ đặc điểm của việc nhận thức lịch sử (và hiện thực lịch sử), xác định các
phương pháp thích hợp cho việc tiếp nhận kiến thức về quá khứ?
2. Tìm SKLS cơ bản điển hình trong SGK Lịch sử lớp (GV tùy chọn cho SV)
và định ra phương pháp giảng dạy các sự kiện đó?

16


CHƯƠNG 2
TẠO BIỂU TƯỢNG LỊCH SỬ
2.1. Định nghĩa biểu tượng lịch sử
Biểu tượng là sự cụ thể hóa bằng hình thức ký hiệu để nói lên một sự vật
hiện tượng trừu tượng. Biểu tượng là một trong những hình thức nhận thức thuộc
giai đoạn nhận thức cảm tính, là hình ảnh của đối tượng nhận thức được lưu lại
trong đầu óc của con người với những nét chung nhất, tiêu biểu nhất.
Biểu tượng trước hết là hình ảnh về đối tượng nhận thức.
Con người nhận thức đối tượng thông qua biểu tượng, nhưng sự nhận thức
này thông qua hình thức không trực tiếp đối tượng mà hình thành trên cơ sở những
tài liệu mà cảm giác và tri giác cung cấp.
Biểu tượng bắt đầu có tính khái quát, nó lưu giữ những nét chung điển hình
của đối tượng.

Theo đó có thể nói, Biểu tượng lịch sử là một khâu trong quá trình nhận thức
lịch sử của học sinh, là hình ảnh về các sự kiện, nhân vật lịch sử được lưu giữ lại
trong đầu học sinh với những nét tiêu biểu chung nhất. Qua đó chúng ta có thể hiểu
“biểu tượng lịch sử là hình ảnh về một sự kiện quá khứ khách quan được tạo nên
bằng nhận thức cảm tính trên cơ sở tài liệu chính xác, bằng các phương tiện nghe
nhìn (trình bày miệng, đồ dùng trực quan…). Có biểu tượng lịch sử về nhân vật, về
các sự kiện xảy ra trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, biểu tượng về thời gian,
biểu tượng về không gian. Biểu tượng làm cơ sở cho việc KNLS lịch sử.

2.2. Các loại biểu tượng lịch sử
Biểu tượng lịch sử có bốn loại cơ bản sau:
Biểu tượng về không gian xảy ra SKLS (Biểu tượng về hoàn cảnh địa lí).
Một SKLS bao giờ cũng diễn ra trong một không gian nhất định. Không gian
của sự kiện cũng có thể là một khu vực rộng lớn, như chiến trường chân Âu trong
Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945), hoặc diễn ra ở phạm vi hẹp như địa
điểm của một trân đánh hay một cuộc khởi nghĩa. Vì vậy, tạo biểu tượng về hoàn
cảnh địa lí nơi xảy ra sự kiện là yêu cầu trong DHLS để xác định không gian lịch
sử.
Biểu tượng về nền văn hóa vật chất
17


Đó là những hình ảnh về những thành tựu của loài người trong việc chế ngự
thiên nhiên, trong lao động sáng tạo sản xuất ra của cải vật chất cũng như văn hóa
tinh thần của xã hội loài người.
VD: công trình kiến trúc, thành quách, lăng tẩm, đền đài, công cụ lao động,
vũ khí, trang phục…
Biểu tượng về nhân vật lịch sử: cá nhân, quần chúng nhân dân, (nhân vật bao
gồm cả chính diện và phản diện)… những đại biểu điển hình của một giai cấp, một
tập đoàn xã hội, những nhân vật kiệt xuất.

Biểu tượng về thời gian và các mối quan hệ xã hội (Biểu tượng về thời gian,
về những quan hệ xã hội của con người).
Những biểu tượng lịch sử nêu trên không tách rời nhau mà có mối quan hệ
mật thiết với nhau, tạo thành hệ thống trọn vẹn về một bức tranh lịch sử. Ví như,
khi nói về phong trào nông dân Yên Thế, học sinh phải có đầy đủ biểu tượng về
thời gian tồn tại phong trào, về núi rừng Yên Thế với những địa danh Phồn Xương,
Hồ Chuối, về “con hùm xám” Hoàng Hoa Thám...

2.3. Ý nghĩa của việc tạo biểu tượng trong DHLS
- Về kiến thức
Biểu tượng là hình thức duy nhất trong nhận thức cảm tính cho nên có vai trò
quan trọng.
Biểu tượng là cơ sở để hình thành KNLS.
Trong một số trường hợp, biểu tượng được xem như cầu nối giữa hai hoạt
động nhận thức cảm tính và lý tính. Tái tạo hình ảnh của những sự kiện xảy ra trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: về đời sống vật chất (công cụ lao động,
nghề nghiệp, hoạt động sản xuất của con người...), về đời sống xã hội (cơ cấu hoạt
động của Nhà nước, đấu tranh giai cấp...), về các nhân vật lịch sử, về đời sống tinh
thần văn hóa...
Tạo nên sự nhận thức cụ thể về thời gian, trong đó diễn ra các SKLS, về sự
phát triển đi lên hợp lô gic của lịch sử xã hội loài người cũng như của dân tộc.
Xác định được không gian diễn ra các SKLS, qua đó học sinh nhận thức
đúng về vai trò của hoàn cảnh địa lí, mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội qua các
giai đoạn khác nhau của sự phát triển xã hội loài người.
18


Trong biểu tượng, có những biểu tượng phức tạp lại có quan hệ gần gũi với
những khái niệm đơn giản.
VD: Biểu tượng về quan hệ Vua - Tôi trong CĐPK: Vua - Quan; Vua - Thần

dân; (Vua nắm cả vương quyền lẫn thần quyền; Vua có quyền quyết định vận mệnh
của bề Tôi, bề Tôi chỉ có nghĩa vụ trung với Vua). Trong biểu tượng này gần với
khái niệm Vua - Tôi.
- Về thái độ
Biểu tượng tác động lên tư tưởng, tình cảm học sinh, vì biểu tượng lịch sử là
những hình ảnh có thật về những sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử trong lịch sử.
- Về kỹ năng
Thông qua việc tạo biểu tượng trong dạy học, hình thành và rèn luyện cho
học sinh kỹ năng tưởng tưởng, hình dung.

2.4. Phương pháp tạo biểu tượng
- Những yêu cầu có tính nguyên tắc khi tạo biểu tượng
Đảm bảo tính chính xác khi tạo biểu tượng lịch sử.
Kết hợp nhiều phương pháp dạy học khi tạo biểu tượng. Trong đó chú trọng
phương pháp miêu tả, tường thuật, kết hợp với đồ dùng trực quan.
Việc tạo biểu tượng trong DHLS phải có tính định hình.
Các biện pháp tạo biểu tượng phải căn cứ vào từng loại để có những biện
pháp sư phạm khác nhau, nên phải lựa chọn cho phù hợp.
- Biện pháp tạo biểu tượng cụ thể
Thứ nhất, cụ thể hóa thời điểm xảy ra SKLS. Xác định về thời gian là một
đặc điểm của việc nhận thức một SKLS. Điều này giúp cho học sinh hiểu chính xác
hơn tính chất và ý nghĩa của sự kiện. Có nhiều cách xác định thời gian của sự kiện
như xác định khoảng thời gian xảy ra sự kiện, hiện tượng lịch sử mà không cần
phải chính xác cụ thể ngày, tháng, năm nào...
Để ghi nhớ niên đại dễ dàng, chúng ta có thể sử dụng nhiều biện pháp sư
phạm. Ví như, nêu đặc trưng của thời điểm xảy ra sự kiện thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam thì nhấn mạnh đó là ngày sau Tết Nguyên đán 1930... Nắm được lôgic
của thời gian xảy ra các sự kiện, khi nhớ được một sự kiện, học sinh sẽ nhớ lại
được niên đại của nhiều sự kiện khác...
19



Đối với học sinh phổ thông, việc xác định thời gian của sự kiện còn có ý
nghĩa quan trong đối với việc nhận thức về phân kì lịch sử, với việc nhận thức
những sự kiện đương đại và đồng đại. Điều này góp phần hình thành ở học sinh tư
duy lịch sử và quan điểm khoa học về sự phát triển lịch sử theo các hình thái kinh
tế - xã hội khác nhau.
Thứ hai, xác định địa điểm xảy ra SKLS (biểu tượng về hoàn cảnh địa lý).
Bất cứ biến cố lịch sử nào cũng xảy ra trong thời gian và không gian nhất
định. Không xác định thời gian, không gian, sự kiện sẽ trở nên trừu tượng, thiếu nội
dung thực tế, không phản ánh được hiện thực khách quan trong nhận thức của
chúng ta. Không gian có tác dụng nhất định đến diễn biến cụ thể của sự kiện xảy ra.
Thông thường khi tạo biểu tượng về không gian trong DHLS, giáo viên sử dụng
các biện pháp:
Miêu tả toàn cảnh có phân tích.
Các hình tượng hóa không gian lịch sử ấy - nêu đặc điểm nổi bật của không
gian (Biểu tượng về Điện Biên Phủ - “Con Nhím khổng lồ giữa núi rừng Tây Bắc”;
Ba Đình là “Pháo đài trên đồng nước”)…
VD: Khi dạy về “Kim tự tháp” - Giáo viên miêu tả toàn bộ hoặc bộ phận của
nó: Kim tự tháp có hình chữ Kim; Hoặc miêu tả sự bí ẩn của Kim tự tháp.
Sử dụng đồ dùng trực quan quy ước (bản đồ, lược đồ...), tranh ảnh minh họa,
hiện vật khảo cổ, kèm theo lời nói của giáo viên và học sinh...
Thứ ba, sử dụng tài liệu hiện vật để tạo cho học sinh biểu tượng cụ thể về
đời sống của con người qua các thời đại khác nhau. Điều này tránh cho học sinh rơi
vào việc hình dung lịch sử một cách công thức. VD, học sinh không thể chỉ nói
chung chung rằng “đời sống nhan dân lao động rất khổ cực”, còn “giai cấp thông trị
tàn ác, xa xỉ, ăn chơi vô độ...” mà phải tạo biểu tượng cụ thể về quá khứ của các
thời đại, chế độ xã hội khác nhau, biểu hiện ở tổ chức bộ máy nhà nước, quan hệ xã
hội, công cụ lao động, dụng cụ sinh hoạt, kĩ thuật sản xuất... Những tài liệu cụ thể
và những dấu vết quá khứ giúp cho học sinh có biểu tượng sâu sắc về từng thời đại,

chế độ xã hội...

20


Thứ tư, sử dụng số liệu để tạo biểu tượng cụ thể về một sự kiện hay hiện
tượng lịch sử. Ở đây, số liệu không làm cho bài học lịch sử trở thành khô khan
năng nề mà trái lại làm cho nó sinh động và dễ hiểu hơn...
Số liệu dùng trong DHLS phải đảm bảo tính chính xác và chọn lọc cho phù
hợp với từng đối tượng, có tính tiêu biểu và gợi cảm.
Trong DHLS, số liệu cụ thể được sử dung ở hầu hết các dạng bài. Đối với
các bài về chiến tranh, khởi nghĩa, chiến dịch, số liệu thường được sử dụng để so
sánh lực lượng kết quả và ý nghĩa các sự kiện. Đối với các bài học về kinh tế, số
liệu dùng để so sánh hay khẳng định tốc độ phát triển kinh tế trong một giai đoạn
lịch sử.
Thứ năm, sử dụng tài liệu văn học là biện pháp có hiệu quả cao trong việc
cụ thể hóa sự kiện để tạo biểu tượng lịch sử. VD, hình tượng chị Dậu trong “Tắt
đèn” giúp cho học sinh có biểu tượng chân thực về đời sống người nông dân Việt
Nam thời Pháp thuộc. Ở đây, cần chú ý đến hình tượng văn học được nhà văn sáng
tạo, hư cấu trên cơ sở chất lượng cuộc sống, phản ánh được hiện thực, giúp cho học
sinh cụ thể hóa trong việc tạo biểu tượng. Nhân vật trong văn học không phải là
nhân vật có thật trong lịch sử mà hư cấu, được tác giả tạo nên. Song nhân vật, hiện
tượng, chi tiết được miêu tả trong tác phẩm văn học đều dựa trên cơ sở hiện thực,
phản ánh sự thật, mang tính điển hình. Hiểu đúng đắn việc sử dụng tác phẩm văn
học trong DHLS tránh cho học sinh có những nhận thức không chính xác về lịch
sử, dễ đi đến chỗ xuyên tạc, làm sai lệch tính khách quan khoa học lịch sử. Cần
hướng dẫn học sinh phân tích nội dung hiện thực của tài liệu văn học, để tìm thấy
giá trị thực, nhằm phục vụ cho nhận thức lịch sử khách quan được tốt hơn.
Thứ sáu, sử dụng tài liệu lịch sử địa phương là biện pháp quan trọng của
việc cụ thể hóa những kiến thức chung về lịch sử dân tộc, làm cho các em lĩnh hội

được dễ dàng những khái niệm phức tạp, những kết luận, những khái quát khoa
học, tạo được những biểu tượng rõ ràng, có hình ảnh. Việc sử dụng tài liệu lịch sử
địa phương giúp cho học sinh “trực quan sinh động” quá khứ lịch sử dân tộc. Nó
làm cho quá khứ lịch sử xích gần lại với nhận thức của học sinh, dường như biến
những kiến thức sách vở thành những hiểu biết cụ thể, sâu sắc về cuộc sống hiện
thực ngày nay, gắn các em vào đời sống xã hội. Thông thường có hai loại tài liệu
21


×