Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

CÁCH MỞ BÀI DẠNG ĐỀ SO SÁNH VĂN HỌC.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.3 KB, 4 trang )

CÁCH MỞ BÀI DẠNG ĐỀ SO SÁNH VĂN HỌC
1. Các cách mở bài
Có 2 cách làm mở bài cơ bản:
- Mở bài trực tiếp: đi thẳng vào vấn đề cần nghị luận, không câu nệ câu chữ, ý tưởng.
Ưu điểm: thường nêu ra được vấn đề một cách trực tiếp nhất và rõ ràng nhất.
Hạn chế: không có cảm xúc, ít khi có được sự mềm mại, uyển chuyển, linh hoạt, khơi gợi mà
một mở bài cần có và nên có. Mở bài như một lời chào đầu nếu không hấp dẫn người đọc thì sẽ
không có hứng khởi để đọc tiếp phần tiếp theo.
- Mở bài gián tiếp: bắt đầu từ một khía cạnh liên quan đến vấn đề cần nghị luận. Từ đó người
viết dẫn dắt một cách khéo léo và có liên kết đến vấn đề chính mà đề bài yêu cầu.
Có 4 cách mở bài theo lối gián tiếp: Diễn dịch, quy nạp, tương liên, đối lập.
- Diễn dịch: Nêu những ý kiến khái quát hơn vấn đề đặt ra trong đề bài rồi mới bắt đầu vào vấn
đề ấy.
- Quy nạp: Nêu những ý nhỏ hơn vấn đề đặt ra trong đề bài rồi mới tổng hợp lại vấn đề cần nghị
luận
- Tương liên: Nêu lên một ý giống như ý trong đề rồi bắt sang vấn đề cần nghị luận. Ý được nêu
ra có thể là một câu tục ngữ, ca dao, danh ngôn, một nhận định hoặc chân lí phổ biến…
- Đối lập: Nêu những ý trái ngược với ý trong đề bài rồi lấy đó làm cớ chuyển sang vấn đề cần
nghị luận
2. Nguyên tắc làm mở bài
Cần nêu đúng vấn đề đặt ra trong đề bài: nếu đề bài yêu cầu giải thích, chứng minh, phân tích
hay bình luận một ý kiến thì phải dẫn lại nguyên văn ý kiến đó trong phần mở bài.
Chỉ được phép nêu những ý khái quát, tuyệt đối không lấn sang phần thân bài, giảng giải minh
họa hay nhận xét ý kiến trong phần thân bài.
Để không tốn thời gian cho cách phần mở bài trong các kì thi, cần chuẩn bị sẵn một số hướng
mở bài cho từng dạng đề.
3. Bài tập ứng dụng
Ví dụ 1: so sánh 2 nhân vật
đề bài Vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài và người vợ nhặt
Ai đó đã từng nói “ Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh con người qua
những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Phải chăng vì vậy mà ta có thể bắt gặp nhiều nghệ sĩ có


phong cách hoàn toàn khác nhau trên cùng một giao lộ của hành trình kiếm tìm và khám phá vẻ
đẹp tâm hồn con người. Kim Lân với truyện ngắn “Vợ nhặt” và Nguyễn Minh Châu với tác phẩm
“Chiếc thuyền ngoài xa” là một trường hợp như vậy. Nếu như với khả năng viết rất hay về nông
thôn và cuộc sống của người dân quê, Kim Lân xây dựng thành công nhân vật người vợ nhặt
qua tình huống truyện độc đáo thì với phong cách truyện đậm chất tự sự-triết lí, Nguyễn Minh
Châu đã khám phá ra những nghịch lí trong cuộc sống của người đàn bà hang chài. Qua cả hai
tác phẩm, các tác giả đều cho ta thấy được vẻ đẹp khuất lấp của người phụ nữ Việt Nam trong
những hoàn cảnh khó khăn.
Giới thiệu 2 nhà văn, 2 tác phẩm:
Kim Lân là cây bút truyện ngắn chuyên viết về nông thôn và người nông dân. Truyện ngắn Vợ
nhặt là 1 tác phẩm xuất sắc của Kim Lân viết về tình huống nhặt vợ độc đáo, thể hiện 1 niềm tin
mãnh liệt về phẩm chất tốt đẹp của người lao động trong nạn đói.
Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu cho văn học chống Mỹ cứu nước, là cây bút tiên phong
trong thời kỳ đổi mới.
Chiếc thuyền ngoài xa là truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Minh Châu ở thời kỳ sau 1975, phản
ánh tình huống nhận thức của người nghệ sĩ trước cuộc sống đầy nghịch lý của gia đình người
hàng chài từ đó thể hiện những trăn trở âu lo về trách nhiệm của người nghệ sĩ.
Hai nhân vật người phụ nữ của hai tác phẩm này đều có một nét chung đó là những vẻ đẹp tiềm
tàng, khuất lấp về tính cách, tâm hồn, cùng thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của hai nhà văn.
Ví dụ 2:


Đại thi hào Nga M. Goocki cho rằng “ Văn học là nhân học” Còn Nam Cao nhà văn hiện thực
xuất sắc của chúng ta quan niệm: “ một tác phẩm văn học có giá trị phải vượt lên mọi bờ cõi và
giới hạn ca ngợi tình thương bác ái, sự công bình… làm cho người gần người hơn do tác phẩm
văn học là sản phẩm tinh thần của con người do con người tạo ra để phục vụ con người. Vì thế
nhà văn chân chính đồng thời phải là nhà nhân đạt “ từ trong cốt tủy”. Vợ chồng A Phủ của Tô
Hoài và Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu là những tác phẩm thành công với tinh
thần vì con người, đặc biệt là người phụ nữ.
Tô Hoài là cây bút văn xuôi tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Vợ chồng A Phủ in trong “

truyên Tây Bắc” là kết quả của chuyến đi Tô Hoài cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc 1952. Tác
phẩm viết về cuộc sống tăm tối và khát vọng sống mãnh liệt của người dân miền núi dưới ách
thống trị của thực dân phong kiến .
Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu thời chống Mĩ cũng là cây bút tiên phong thời kì đổi mới.
Nếu ở giai đoạn kháng chiến chống Mĩ sáng tác của ông mang cảm hứng sử thi. Lãng mạn thì
từ những năm 80 của thế kỉ XX, ông chuyển dần sang cảm hứng triết luận về những giá trị nhân
bản đời thường. Chiếc thuyền ngoài xa là truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn Minh Châu ở
thời kì sau, viết về một lần giáp mặt của một người nghệ sĩ với đầy nghịch lý của một gia đình
làng chài qua đó thể hiện nỗi lòng xót thương nỗi âu lo với người và những trăn trở
Vợ chồng A Phủ và Chiếc thuyền ngoài xa, Tô Hoài và Nguyễn Minh Châu những tác phẩm
khác nhau về đề tài, về phong cách nghệ thuật xuất hiện trên văn đàn cách nhau tới 30 năm có
lẽ, song đã gặp nhau trong mối quan tâm về người, đặc biệt là thân phận người phụ nữ.
Ví dụ 3:
Phân tích nhân vật A sử trong “vợ chồng A Phủ” và lão đàn ông làng chài trong “chiếc thuyền
ngoài xa”
Phê phán cái ác cái xấu là mối quan tâm hàng đầu của nhà văn chân chính”. Hãy làm sáng tỏ ý
kiến trên qua việc tìm hiểu nhân vật A Sử trong Vợ chồng A Phủ và lão đàn ông làng chài trong
Chiếc thuyền ngoài xa.
1. Mở bài
Trong truyện Nguyễn Du viết: “ Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Nỗi niềm ấy đâu phải chỉ riêng
Nguyễn Du, đâu chỉ riêng Truyện Kiều mà là mối quan tâm thường trực của những người nghệ
sĩ chân chính của những tác phẩm văn chương chân chính. Bởi văn học sẽ không là cái gì cả
nếu như nó không vì con người. Người nghệ sĩ đích thực bao giờ cũng là nhà nhân đạo từ trong
cốt truyện. Họ mang mối quan tâm thường trực vì người cho nên họ xem việc lên án cái xấu cái
ác là nghĩa vụ của người cầm bút. Tô Hoài với Vợ chồng A Phủ, Nguyễn Minh Châu với Chiếc
thuyền ngoài xa đã đạt tới điều đó
2. Thân bài
Văn chương chân chính là văn chương vì người, phục vụ người, văn chương ấy: “ra đời trong
những buồn vui của loài người và sẽ ở lại với loài người cho đến ngày tận thế” Nói như Hoài
Thanh trong thi nhân Việt Nam. Văn chương ấy phải mang giá trị nhân đạo sâu sắc bởi nhà văn

cũng chính là nhà nhân đạo. Những cây bút chân chính bao giờ cũng sáng tác dưới ánh sáng
của tình cảm nhân đạo ấy. Thạch Lam từng giãi bày: “Đối với tôi, văn chương không phải là
mang đến sự thoát ly hay sự quên. Nó là thứ khí giới thanh cao và đắc lực để tố cáo một xã hội
giả dối và tàn ác làm cho lòng người thêm xanh sạch”. Còn Nam Cao lại đưa ra quan điểm một
tác phẩm văn học có giá trị: “phải vượt lên mọi bờ cõi và giới hạn, nó ca ngợi tình thương, bác
ái, sự công bình. Nó làm cho người gần người hơn”
Bên cạnh việc phát hiện khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của người, văn chương cần phải
chỉ ra, lên án cái ác, cái xấu. Bởi vì trong sự muôn mặt của đời sống cái ác cái xấu là điều mà
dẫu chúng ta không thích nó vẫn luôn tồn tại.
Hành trình rộng dài của văn học cũng chính là hành trình miệt mài của người nghệ sĩ đấu tranh
với cái xấu cái ác. Tô Hoài với Vợ chồng A Phủ, Nguyễn Minh Châu với Chiếc thuyền ngoài xa
là những nhà văn chân chính đã nói lên tiếng nhân đạo của mình trong việc lên án cái ác cái xấu
qua những hình tượng nghệ thuật sống động: A Sử và lão đàn ông.


Ví dụ 4:
So sánh gương mặt đất nước trong hai bài thơ cùng mang tên Đất nước của Nguyễn Đình Thi
và Nguyễn Khoa Điềm.
Đất nước luôn luôn là hành trang tinh thần trên bước đường đi tới của thế hệ trẻ, và hai bài thơ
sẽ khơi dậy trong họ tình yêu Tổ quốc và những dự định tốt đẹp để góp phần dựng xây Đất
nước. Hai bài thơ đã đem đến cho họ hai gương mặt đẹp về Tố quốc: Đất nước của Nguyễn
Đình Thi mang nhiều sắc thái hiện đại, còn Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm lại đậm đà phong
vị dân gian. Vì thế cả hai gương mặt này gộp lại, có thể làm cho thế hệ trẻ cảm nhận đầy đủ,
trọn vẹn hơn mà cũng phong phú, sâu sắc hơn về Tổ quốc.
Ví dụ 5:
So sánh Nỗi nhớ trong thơ Quang Dũng, Tố Hữu và Xuân Quỳnh
Ta bắt gặp một nỗi nhớ “bổi hổi bồi hồi” trong ca dao xưa, một nỗi nhớ “chín nhớ mười mong”
trong thơ Nguyễn Bính. Đến với thơ Xuân Diệu ta lại cảm nhận được nỗi nhớ tha thiết trong “
Tương tư chiều”:
“Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh.

Anh nhớ em. Anh nhớ lắm! Em ơi!”
Quả thật, theo dòng chảy của văn học Việt Nam, nỗi nhớ luôn được các nhà thơ cảm nhận và
thể hiện vô cùng phong phú, sinh động và hấp dẫn. Nhớ về đoàn quân Tây Tiến cùng núi rừng
Tây Bắc, Quang Dũng đã có cách thể hiện rất đặc sắc:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi,”
(Trích “Tây Tiến”, Quang Dũng)
Còn đây là nỗi nhớ trong thơ Tố Hữu:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”
(Trích “Việt Bắc”, Tố Hữu)
Khác với hai nam thi sĩ trên, Xuân Quỳnh, một nữ sĩ trẻ tuổi lại có những cảm nhận về nỗi nhớ
rất nữ tính và độc đáo:
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
(Trích “Sóng”, Xuân Quỳnh)
Mỗi người một cá tính, một thời đại thế nên cùng viết về nỗi nhớ ấy nhưng ta vẫn thấy được sự
khác biệt, nét cá tính mà mỗi nghệ sĩ đã thổi vào từng câu thơ.
Ví dụ 6:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
(Tây Tiến – Quang Dũng)
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương



Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”
(Việt Bắc – Tố Hữu)
Macxim Gorki từng khẳng định “ Nghệ sĩ là người biết khai thác những ấn tượng riêng của mình,
tìm thấy những ấn tượng có các giá trị khái quát và biết làm cho những ấn tượng ấy có hình
thức riêng”. Có thể nói, một người nghệ sĩ chân chính và có tài năng thật sự phải biết nhìn cuộc
sống bằng con mắt của chính mình, bằng một cảm quan riêng để tạo ra được tiếng nói riêng,
phong cách riêng. Đúng như Lê Đạt từng viết trong bài thơ “Vân Chữ”
“Mỗi công dân đều có một dạng vân tay
Mỗi người nghệ sĩ thứ thiệt đều có một dạng vân chữ
Không trộn lẫn”
Tố Hữu và Quang Dũng là những người nghệ sĩ thứ thiệt với mỗi “dạng vân chữ” độc tồn,
“không trộn lẫn” của riêng mình.
Ví dụ 7: mở bài 2 ý kiến
Với Sông Đà Nguyễn Tuân đã để thơ vào sông núi Tây Bắc. Từ Vang bóng một thời đến Sông
Đà, một hành trình 20 năm có lẻ, cụ Nguyễn đã “xê địch’’ để đi tìm thứ “vàng mười” còn tiềm ẩn
trong lòng người đó đây.. ta bắt gặp một Sông Đà như một sinh thể có linh hồn, có tâm trạng
phức tạp để từ đó nhà văn nâng người lái đò Sông Đà lên bậc nghệ sĩ tài hoa, anh hùng trên
sông nước . Nhưng bao trùm lên tất thảy vẫn là văn phong độc đáo và một tình yêu tha thiết với
thiên nhiên đất nước và sự tôn kính công sức lao động của con người .
Ví dụ 8: Khi trao đổi về nghệ thuật truyện ngắn “Vợ nhặt”, Kim Lân đã nói với nhà nghiên cứu –
phê bình Văn học Hà Minh Đức: “Tôi quan niệm: truyện ngắn cũng là tiểu thuyết và điều quan
trọng là nhân vật. Nhân vật phải có tính cách và phải hành động theo tính cách nhân vật một
cách tự nhiên, không giả tạo, sáo rỗng”. Mỗi nhân vật trong truyện được Kim Lân dựng mỗi cách
khác nhau, dù thiên về tính cách hay nội tâm đều rất chân thực, sống động. Dung lượng viết về
nhân vật “thị” – người đàn bà không tên – vợ Tràng, không nhiều nhưng để lại ấn tượng sâu sắc

trong lòng người đọc.



×