Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Năng lực giáo viên thời đại mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.77 KB, 17 trang )

NĂNG LỰC CƠ BẢN CỦA GIÁO VIÊN THỜI ĐẠI MỚI
1. Nhóm năng lực dạy học
a. Năng lực hiểu trình độ học sinh trong dạy học và giáo dục
– Năng lực hiểu trình độ học sinh trong dạy học và giáo dục là khả năng thâm
nhập vào thế giới bên trong của trẻ, sự hiểu biết tường tận về nhân cách của
chúng, cũng như năng lực quan sát tinh tế những biểu hiện tâm lý của học sinh
trong quá trình dạy học và giáo dục.
– Năng lực hiểu học sinh được biểu hiện:
o

Xác định được khối lượng kiến thức đã có và mức độ, phạm vi lĩnh hội của
học sinh. Từ đó xác định mức độ và khối lượng kiên thức mới cần trình bày trong
công tác dạy học và giáo dục.

o

Dựa vào sự quan sát tinh tế, thầy giáo có thể nhận biết được những học sinh
khác nhau đã lĩnh hội lời giảng giải của mình như thế nào, hoặc chỉ căn cứ vào
những dấu hiệu dường không đáng kể mà có thể hiểu được những biến đổi nhỏ
nhất trong tâm hồn học sinh, dự đoán được mức độ hiểu bài và có khi còn phát
hiện được cả mức độ hiểu sai lệch của chúng.

o

Dự đoán được những thuận lợi và khó khăn, xác định đúng đắn mức độ căng
thẳng cần thiết khi học sinh phải thực hiện những nhiệm vụ nhận thức. Năng lực
hiểu học sinh là kết quả của một quá trình lao động đầy trách nhiệm, thương yêu
học sinh và sâu sát học sinh, nắm vững môn mình dạy, am hiểu đầy đủ về tâm lý
học trẻ em và tâm lý học sư phạm cùng với một số phẩm chất tâm lí khác như năng
lực quan sát, óc tưởng tượng, khả năng phân tích và tổng hợp,…
b. Tri thức và năng lực hiểu biết của thầy giáo


– Đây là môït năng lực cơ bản của năng lực sư phạm, một trong những năng lực
trụ cột của nghề dạy học. Vì :


o

Do tiến bộ của khoa học, kỹ thuật, nên xã hội đề ra những yêu cầu ngày càng
cao đối với trình độ văn hóa chung của thế hệ trẻ, mặt khác cũng làm cho hứng thú
và nguyện vọng của thế hệ trẻ ngày càng phát triển.

o

Thầy giáo có nhiệm vụ phát triển nhân cách học sinh nhờ môït phương tiện
đặc biệt là tri thức, quan điểm, kỹ năng, thái độ, nhất là những tri thức khoa học
thuộc lĩnh vực giảng dạy của mình.

o

Tạo ra uy tín cho người thầy giáo.
– Người thầy giáo có tri thức và tầm hiểu biết rộng thể hiện ở chỗ:

o

Nắm vững và hiểu biết rộng môn mình phụ trách.

o

Thường xuyên theo dõi những thành tựụ mới trong lĩnh vực khoa học thuộc
môn mình phụ trách.


o

Có năng lực tự học, tự bồi dưỡng để bổ túc và hoàn thiện tri thức của mình.
– Để có năng lực này, đòi hỏi người thầy giáo cần có:

o

Có nhu cầu mở rộng tri thức và tầm hiểu biết.

o

Có những kỹ năng để làm thỏa mãn nhu cầu đó (phương pháp tự học).
c. Năng lực chế biến tài liệu học tập
– Năng lực chế biến tài liệu học tập là năng lực gia công về mặt sư phạm của
thầy giáo đối với tài liệu học tập nhằm làm cho nó phù hợp tối đa với trình độ,
với đặc điểm nhân cách học sinh và đảm bảo lôgic sư phạm.
– Năng lực chế biến tài liệu học tập được thể hiện:

o

Đánh giá đúng đắn tài liệu, xác lập được mối quan hệ giữa yêu cầu kiến thức
của chương trình với trình độ nhận thức của học sinh .

o

Biết xây dựng lại tài liệu để hình thành cấu trúc bài giảng vừa phù hợp với
lôgic nhận thức, vừa phù hợp với lôgic sư phạm, lại thích hợp với trình độ nhận
thức của trẻ.
– Muốn làm được điều đó, thầy giáo cần phải đảm bảo những yêu cầu sau:


o

Có khả năng phân tích, tổng hợp và hệ thống hóa kiến thức.


Phải có óc sáng tạo.

o

Óc sáng tạo của thầy giáo khi chế biến tài liệu thể hiện ở chỗ:
Trình bày tài liệu theo suy nghĩ và lập luận của mình, cung cấp cho học sinh

o

những kiến thức sâu sắc và chính xác, có liên hệ vận dụng vào thực tiễn cuộc sống.
Tìm ra những phương pháp mới, hiệu nghiệm để làm cho bài giảng đầy sức

o

lôi cuốn và giàu cảm xúc tích cực
Nhạy cảm với cái mới và giàu cảm hứng sáng tạo.

o

d. Năng lực truyền đạt tài liệu (Nắm vững kỹ thuật dạy học).
Kết quả lĩnh hội tri thức phụ thuộc vào ba yếu tố: trình độ nhận thức của
học sinh, nội dung bài giảng và cách dạy của thầy.
– Chuẩn bị bài tốt nhưng muốn dạy học đạt kết quả cao, người thầy giáo phải
có năng lực truyền đạt tài liệu. Năng lực truyền đạt tài liệu là năng lực tổ
chức và điều khiển hoạt động nhận thức cho học sinh qua bài giảng.

– Năng lực này được thể hiện ở chỗ:
Nắm vững kỹ thuật dạy học mới, tạo cho học sinh ở vị trí “người phát minh”

o

trong quá trình dạy học.
Truyền đạt tài liệu rõ ràng, dễ hiểu và làm cho nó trở nên vừa sức với học

o

sinh.
o

Gây hứng thú và kích thích học sinh suy nghĩ tích cực và độc lập.

o

Tạo ra tâm thế có lợi cho sự lĩnh hội, học tập.
– Việc hình thành một năng lực như vậy, nắm vững được kỹ thuật dạy học mới
nêu trên quả là không dễ dàng mà nó là kết quả của một quá trình học tập nghiêm
túc và rèn luyện tay nghề công phu.
e. Năng lực ngôn ngữ
– Năng lực ngôn ngữ là năng lực biểu đạt rõ ràng và mạch lạc ý nghĩ, tình
cảm của mình bằng lời nói cũng như nét mặt và điệu bộ.


– Năng lực ngôn ngữ là một trong những năng lực quan trọng của người thầy
giáo. Nó là công cụ sống còn đảm bảo cho người thầy giáo thực hiện chức năng
dạy học và giáo dục của mình.
– Năng lực ngôn ngữ của thầy giáo cần đảm bảo các yêu cầu sau :

o

Nội dung ngôn ngữ phải sâu sắc :

o

Từ mỗi đơn vị biểu đạt đến toàn bài giảng, ngôn ngữ phải chứa đựng mật độ
thông tin lớn, diễn tả, trình bày phải chính xác, cô đọng.
Lời nói, cách trình bày, diễn giảng phải đảm bảo tính luận chứng, tính kế tục

o

tức là từ ý nghĩa này dẫn đến ý nghĩa khác một cách lôgic.
Nhân cách của thầy giáo là hậu thuẫn vững chắc và duy nhất cho lời nói của

o

mình.
o

Hình thức ngôn ngữ của người thầy giáo phải giản dị, sinh động :

o

Lời nói giàu hình ảnh, biểu cảm với cách phát âm mạch lạc.

o

Lời nói không cầu kỳ, hoa mỹ, nhưng cũng không khô khan, tẻ nhạt, đừng
dài dòng nhưng cũng đừng quá ngắn, khi cần có thể điểm qua một vài sự pha trò

nhẹ nhàng và sự khôi hài đúng chỗ.

o

Phải có kỹ năng và kỹ xảo sử dụng khả năng truyền cảm của mình trước học
sinh bằng cách tận dụng và phối hợp giữa lời nói với ngôn ngữ phụ và những
phương tiện của ngôn ngữ.
2.2. Nhóm năng lực giáo dục
Năng lực giáo dục bao gồm :
a. Năng lực vạch dự án phát triển nhân cách học sinh
– Đó là năng lực biết dựa vào mục đích giáo dục, yêu cầu đào tạo, hình dung
trước cần phải giáo dục cho từng học sinh những phẩm chất nhân cách nào và
hướng hoạt động của mình để đạt tới hình mẫu trọn vẹn của con người mới.
– Năng lực này thường được biểu hiện ở chỗ :


Vừa có kỹ năng tiên đoán sự phát triển, vừa nắm được nguyên nhân và mức

o

độ phát triển của học sinh.
Hình dung được hiệu quả của các tác động giáo dục nhằm hình thành nhân

o

cách theo dự án.
– Để vạch dự án phát triển nhân cách học sinh, thầy giáo cần phải có :
o

Óc tưởng tượng sư phạm.


o

Tính lạc quan sư phạm, niềm tin vào sức mạnh giáo dục, tin vào con người.

o

Có óc quan sát sư phạm tinh tế.
Nhờ có năng lực này, công việc của giáo viên trở nên có kế hoạch và chủ động
hơn.
b. Năng lực giao tiếp sư phạm
– Năng lực giao tiếp sư phạm là năng lực nhận thức nhanh chóng những biểu
hiện bên ngoài và những diễn biến tâm lý bên trong của học sinh và bản thân,
đồng thời biết sử dụng hợp lí các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, biết
cách tổ chức điều khiển và điều chỉnh quá trình giao tiếp nhằm đạt mục đích
giáo dục.
– Năng lực giao tiếp sư phạm được biểu hiện ở các kỹ năng chính như:

o

Kỹ năng định hướng giao tiếp : thể hiện ở khả năng dựa vào sự biểu lộ bên
ngoài như: sắc thái biểu cảm, ngữ điệu thanh điệu của ngôn ngữ, cử chỉ, đông tác,
thời điểm và không gian giao tiếp mà phán đoán chính xác về nhân cách cũng như
mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh.

o

Kỹ năng định vị: đó là khả năng biết xác định vị trí trong giao tiếp, biết đặt
vị trí của mình vào vị trí của đối tượng và biết tạo ra điều kiện để đối tượng chủ
động, thoải mái giao tiếp với mình.


o

Kỹ năng điều khiển quá trình giao tiếp thể hiện ở: kỹ năng điều khiển đối
tượng giao tiếp, kỹ năng làm chủ trạng thái cảm xúc của bản thân và kỹ năng sử
dụng phương tiện giao tiếp.


*) Kỹ năng làm chủ trạng thái xúc cảm của bản thân : biết kiềm chế trạng
thái xúc cảm mạnh, khắc phụ những tâm trạng có hại, khi cần thiết có thể bộc lộ
những tình cảm mà lúc này không có hoặc có nhưng yếu ớt. Đó chính là biết điều
chỉnh và điều khiển các diễn biến tâm lí của mình cho phù hợp với hoàn cảnh
giao tiếp.
*) Kỹ năng sử dụng phương tiện giao tiếp. Phương tiện giao tiếp đặc trưng
của con người là lời nói. Kỹ năng này biểu hiện ở chỗ : giáo viên biết lựa chọn
những từ “đắt”, thông minh, hiền hòa, lịch sự…trong giao tiếp ; mặt khác biết
sử dụng những phương tiện phi ngôn ngữ như cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, nụ cười…
– Ngoài ra, thầy giáo còn có sự tiếp xúc với đồng nghiệp, với phụ huynh học
sinh, với các tổ chức xã hội khác. Thông qua sự giao tiếp này, thầy giáo đóng
góp công sức của mình vào việc thống nhất tác động giữa các lực lượng giáo dục,
tạo nên sức mạnh tổng hợp trong sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ.
Việc rèn luyện năng lực giao tiếp không tách rời với việc rèn luyện các phẩm
chất của nhân cách.
c. Năng lực cảm hóa học sinh
– Năng lực cảm hóa học sinh là năng lực gây được ảnh hưởng trực tiếp của
mình bằng tình cảm và ý chí đối với học sinh. Nói cách khác đó là khả năng làm
cho học sinh nghe, tin và làm theo mình bằng tình cảm và niềm tin.
– Năng lực cảm hóa học sinh phụ thuộc vào một tổ hợp các phẩm chất nhân cách
người thầy giáo như:
o


Tinh thần trách nhiệm và nhiệt tình trong công tác.

o

Niềm tin vào sự nghiệp chính nghĩa cũng như kỹ năng truyền đạt niềm tin đó

o

Lòng tôn trọng học sinh , phong cách dân chủ nhưng trên cơ sở yêu cầu cao
đối với học sinh (cần tránh sự khoan dung vô nguyên tắc, sự cả tin một cách ngây
thơ, sự thiếu kiên quyết của người thầy giáo…)

o

Sự chu đáo và khéo léo đối xử của giáo viên.


o

Lòng vị tha và các phẩm chất của ý chí.
– Để có năng lực này, thầy giáo cần:

o

Phải phấn đấu và tu dưỡng để có nếp sống văn hóa cao, phong cách sống
mẫu mực nhằm tạo ra một uy tín chân chính và thực sự.

o


Xây dựng một quan hệ thầy trò tốt đẹp : vừa nghiêm túc, vừa thân mật; có
thái độ yêu thương và tin tưởng học sinh; biết đối xử dân chủ và công bằng, chân
thành và giản dị; biết phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh.

o

Có tư thế, tác phong mẫu mực trước học sinh .
d. Năng lực đối xử khéo léo sư phạm
Trong quá trình giáo dục, thầy giáo thường đứng trước nhiều tình huống sư
phạm khác nhau đòi hỏi người thầy giáo phải giải quyết linh hoạt, đúng đắn và
có tính giáo dục cao. Sự khéo léo đối xử sư phạm là một thành phần quan trọng
của “tài nghệ sư phạm”.
– Sự khéo léo đối xử sư phạm là kỹ năng tìm ra những phương thức tác động
đến học sinh một cách hiệu quả nhất, là sự cân nhắc đúng đắn những nhiệm vụ sư
phạm cụ thể phù hợp với những đặc điểm và khả năng của cá nhân cũng như tập
thể học sinh trong từng tình huống sư phạm cụ thể .
– Năng lực này được biểu hiện:

o

Sự nhạy bén về mức độ sử dụng bất cứ một tác động sư phạm nào: khuyến
khích, trách phạt…

o

Nhanh chóng xác định được vấn đề xảy ra và kịp thời áp dụng những biện
pháp thích hợp.

o


Quan tâm đầy đủ,chu đáo, có lòng tốt, tế nhị, vị tha, có tính đến đặc điểm cá
nhân từng học sinh .

o

Biết phát hiện kịp thời và giải quyết khéo léo những vấn đề xảy ra bất ngờ,
không nóng vội, không thô bạo.


Biết biến cái bị động thành cái chủ động, giải quyết một cách mau lẹ những

o

vấn đề phức tạp đặt ra trong công tác dạy học và giáo dục.
2.3. Nhóm năng lực tổ chức hoạt động sư phạm
– Năng lực tổ chức hoạt động sư phạm là khả năng tổ chức và cổ vũ học sinh
thực hiện các nhiệm vụ khác của công tác dạy học và giáo dục trong mọi hoạt
động của học sinh; Biết tổ chức lớp thành một tập thể đoàn kết, thân ái và có
kỹ luật chặt chẽ, đồng thời còn biết tổ chức và vận động nhân dân, cha mẹ học
sinh và các tổ chức xã hội tham gia vào sự nghiệp giáo dục theo một mục tiêu
xác định.
– Để có được năng lực này, đòi hỏi người thầy giáo:
Biết vạch kế hoạch hoạt động cho tập thể học sinh, kết hợp yêu cầu trước

o

mắt và lâu dài, đảm bảo tính nguyên tắc và tính linh hoạt của kế hoạch, biết vạch
kế hoạch đi đôi với kiểm tra để đánh giá hiệu quả và sẵn sàng bổ sung kế hoạch.
Biết sử dụng đúng đắn các hình thức và phương pháp dạy học và giáo dục


o

khác nhau nhằm tác động sâu sắc đến tư tưởng và tình cảm của học sinh.
Biết định mức độ và giới hạn của từng biện pháp dạy học và giáo dục khác

o

nhau.
o

Có nghị lực và dũng cảm tin vào sự đúng đắn của kế hoạch và các biện pháp
giáo dục.


Giải pháp đào tạo giáo viên theo định hướng năng lực
Những vần đề được đặt ra và xu hướng giải quyết những vấn đề về kiến thức
hiểu biết của giáo viên cũng chư đạo đức trong nghành.
1. Đặt vấn đề
Theo tổng kết của UNESCO, vai trò của người giáo viên đã có sự thay đổi theo các
hướng sau đây: đảm nhận nhiều chức năng khác hơn so với trước, có trách nhiệm
nặng hơn trong việc lựa chọn nội dung dạy học và giáo dục; chuyển mạnh từ chỗ
truyền thụ kiến thức sang tổ chức việc học của học sinh, sử dụng tối đa những
nguồn tri thức trong xã hội; coi trọng hơn việc cá biệt hóa học tập, thay đổi tính
chất trong quan hệ thầy trò; yêu cầu sử dụng rộng rãi hơn những phương tiện dạy
học hiện đại do đó có yêu cầu trang bị thêm các kiến thức, kĩ năng cần thiết; yêu
cầu hợp tác rộng rãi và chặt chẽ hơn với các giáo viên cùng trường, thay đổi cấu
trúc trong mối quan hệ giữa các giáo viên với nhau; yêu cầu thắt chặt hơn mối
quan hệ với cha mẹ học sinh và cộng đồng góp phần nâng cao chất lượng cuộc
sống; yêu cầu giáo viên tham gia hoạt động rộng rãi trong và ngoài nhà trường;
giảm bớt và thay đổi kiểu uy tín truyền thống trong quan hệ với học sinh nhất là

đối với học sinh lớn và với cha mẹ học sinh.
Nhìn tổng quát có thể thấy chức năng của giáo viên rộng hơn, trong đó năng lực tổ
chức dạy học, năng lực phát triển chương trình là cơ bản, mở rộng các quan hệ
trong điều kiện phân hóa sâu, phạm vi quan hệ rộng- nhìn chung đó là sự thay đổi.
Do vậy, phải đổi mới cách đào tạo giáo viên, cách bồi dưỡng giáo viên và điều
chỉnh, phát triển chuẩn đào tạo giáo viên theo các yêu cầu trên. Ở góc độ năng lực
sư phạm, cần chú ý đến khuyến cáo 21 điểm của UNESCO “thầy giáo phải được
đào tạo để trở thành những nhà giáo dục nhiều hơn là những chuyên gia truyền đạt
kiến thức” (điểm 18). Tư liệu của Hội nghị Paris về Giáo dục đại học có nêu tóm
tắt yêu cầu đối với một "nhà giáo mới" ở đại học: "Phải làm chủ được môi trường
công nghệ thông tin và truyền thông mới, đồng thời phải chuẩn bị về mặt tâm lý


cho một sự thay đổi cơ bản về vai trò của họ" [2]. Về mặt giáo dục, yêu cầu này
cũng hoàn toàn phù hợp đối với giáo viên phổ thông các cấp trong bối cảnh toàn
cầu hóa hiện nay.
2. Năng lực giáo viên - yếu tố cơ bản quyết định chất lượng giáo dục
Khái niệm năng lực (Competency) nói đến khả năng thực hiện thành công một hoạt
động nào đó hay năng lực thực hiện. Năng lực mang tính cá nhân hóa, năng lực có
thể được hình thành và phát triển thông qua đào tạo, bồi dưỡng và tự trải nghiệm
qua thực tiễn. Năng lực hoạt động là khả năng thực hiện những nhiệm vụ công việc
và giải quyết các tình huống nảy sinh trong hoạt động bảo đảm cho một tổ chức (ở
đây là nhà trường) đạt mục tiêu đề ra. Là một tổ hợp thuộc tính tâm lí phức hợp
gồm kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm và nghệ thuật cũng như thái độ của chủ thể
đối với đối tượng trong quá trình hoạt động. Bao gồm năng lực chung: i) Năng lực
chuyên môn; ii) Năng lực quan hệ con người; iii) Năng lực khái quát.
Năng lực sư phạm là một năng lực chuyên biệt đặc trưng của nghề dạy học nói
chung “năng lực sư phạm là tổ hợp những đặc điểm tâm lí của nhân cách nhằm
đáp ứng các yêu cầu của hoạt động sư phạm và quyết định sự thành công của hoạt
động ấy”(Quan điểm của GS Phạm Minh Hạc). Năng lực và kĩ năng có mối quan

hệ chặt chẽ, năng lực sư phạm là thuộc tính là đặc điểm của nhân cách còn kĩ năng
sư phạm là những thao tác riêng của hoạt động sư phạm trong các dạng hoạt động
cụ thể. Mặt biểu hiện của năng lực là hệ thống các kĩ năng, nhưng có các kĩ năng
chưa chắc đã hình thành năng lực bởi nếu thiếu hệ thống cũng như độ bền chắc của
hệ thống kĩ năng cơ bản. Hoạt động của giáo viên, với tư cách là nhà giáo dục gồm
2 dạng hoạt động cơ bản: dạy học và giáo dục. Do vậy, khi nghiên cứu năng lực sư
phạm của giáo viên, cần nghiên cứu hệ thống các kĩ năng tương ứng với 2 dạng
hoạt động đó, mặc dù sự phân chia chỉ là tương đối.
Năng lực dạy học gồm các năng lực thành phần cơ bản sau đây:


Năng lực chuẩn bị gồm các thao tác: chọn lựa tài liệu tham khảo để chuẩn bị cho
hoạt động giảng dạy, xác định mục tiêu bài giảng (xuất phát từ mục tiêu môn học,
mục tiêu chương trình bậc học…); các yêu cầu về kiến thức và kĩ năng dạy học;
chọn các phương pháp, hình thức giảng dạy và kĩ thuật giảng dạy cũng như thiết bị
tương ứng; dự kiến các khả năng xảy ra và các phương án xử lí. Tất cả các kĩ năng
cụ thể này phải được chuẩn bị đầy đủ và được viết ra dưới dạng bản kế hoạch (kế
hoạch giảng dạy cụ thể).
Năng lực thực hiện được thể hiện trong quá trình thực hành giảng dạy và giáo dục,
gồm các kĩ năng: ổn định lớp, kiểm tra bài cũ, định hướng nội dung mới, luyện tập
kĩ năng, phát triển kiến thức, kiểm tra và khuyến khích học sinh…Trong quá trình
thể hiện năng lực thực hiện, có 3 yếu tố sau đây cần quan tâm:
- Năng lực sử dụng ngôn ngữ của giáo viên có ý nghĩa quan trọng. Khi đánh giá
một giáo viên có năng lực giảng dạy tốt, chắc chắn người ta phải xem xét chủ yếu
đến năng lực diễn đạt, trình bầy của giảng viên. Khả năng diễn đạt trong sáng,
khúc triết, lời nói hấp dẫn, truyền cảm và giàu hình ảnh…của giáo viên sẽ là yếu tố
quan trọng đảm bảo cho giờ dạy thành công. Ngôn ngữ của con người thể hiện
dưới dạng nói, viết và là biểu hiện của trình độ tư duy, do vậy không thể chấp nhận
cách biện hộ cho những giáo viên diễn đạt kém là do “chuyên môn giỏi nhưng yếu
về năng lực sư phạm”, hoặc khó có thể chấp nhận giáo viên nói ngọng hoặc nói

lắp. Trước đây, khi thiếu các phương tiện hiện đại, thì ngôn ngữ của giáo viên là
yếu tố chủ đạo trong quá trình giáo dục. Ngày nay, các phương tiện đa dạng và
phong phú có trợ giúp đắc lực cho giáo viên nhưng cũng không thể thay thế được
hoàn toàn lời thầy giảng bài.
- Năng lực sử dụng các thiết bị và phương tiện dạy học. Đây là năng lực không thể
thiếu được của giáo viên ở bất cứ cấp học nào trong giai đoạn hiện nay. Thiết bị và
phương tiện vừa là yếu tố điều kiện tốt để phục vụ cho giảng dạy và học tập, đồng
thời cũng là yếu tố kích thích tư duy sáng tạo –nghiên cứu cho giáo viên và học


sinh. Trong xu hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, có hiện tượng quá lệ
thuộc vào các thiết bị và phương tiện dạy học. Sự lạm dụng này dẫn đến việc biến
đổi các mô hình dạy học cổ điển, coi thường hình thức thuyết trình lí thuyết của
giảng viên, xem nhẹ hoạt động trao đổi trực tiếp giữa người dạy và người
học…Trong điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn thì vấn đề không phải là trang bị
các thiết bị đắt tiền mà điều quan trọng hơn là phải dạy cho người học có ý tưởng
mới, phải có sự sáng tạo “suy nghĩ mới trên các vật liệu đã cũ”.
- Năng lực hoạt động xã hội trong và ngoài trường. Trọng tâm của quan hệ giao
tiếp là giữa người dạy và người học. Mối quan hệ này đòi hỏi người giáo viên
không chỉ huy động mọi khả năng của mình để thiết lập các quan hệ dạy học có
hiệu quả mà điều quan trọng là trong và bằng quá trình giao tiếp, tác động giáo dục
đến người học. Giao tiếp giữa giáo viên với học sinh không chỉ đảm bảo tính chất
mô phạm của nhà giáo trong các hoạt động chuyên môn mà còn thông qua đó thể
hiện sự quan tâm đến người học với thái độ ân cần, lịch thiệp trong các phạm vi
trong và ngoài giờ học. Ngoài ra, hoạt động giao tiếp của giáo viên trong xã hội
hiện nay còn đòi hỏi phạm vi đối tượng rộng mở, đó là gia đình học sinh, các lực
lượng xã hội khác, đặc biệt là những thành phần liên quan đến sản phẩm giáo dục
(người sử dụng, doanh nghiệp, các cơ quan, công ti…).
- Năng lực đánh giá. Năng lực đánh giá giúp cho giáo viên nắm được trình độ và
khả năng tiếp thu bài của học sinh để xác nhận kết quả của một hoạt động để bổ

sung điều chỉnh trong dạy học. Để tạo được uy tín trước học sinh, người giáo viên
phải có quan điểm đánh giá khách quan, chính xác và công bằng. Thái độ và hành
vi trung thực, khách quan của nhà giáo dục một mặt đảm bảo các yêu cầu của
nhiệm vụ giáo dục mặt khác tạo ra sức cảm hóa lớn đối với người học kể cả đánh
giá thành công hay hạn chế của học sinh. Khả năng đánh giá đúng của giáo viên
đối với người học sẽ tác động mạnh mẽ đến kết quả tự học và kết quả rèn luyện
đạo đức cho học sinh và bản thân giáo viên.


- Năng lực tổ chức các hoạt động giáo dục bao gồm các năng lực thành phần:
Năng lực thiết kế mục tiêu, kế hoạch các hoạt động giáo dục; Năng lực cảm hóa
thuyết phục người học; Năng lực hiểu biết đặc điểm học sinh để có các phương án
giáo dục có hiệu quả; Năng lực phối hợp với các lực lượng giáo dục trong trường
và ngoài trường.
- Năng lực tổ chức gồm các năng lực thành phần: Năng lực phối hợp các hoạt động
dạy học và giáo dục giữa thầy và trò, giữa các trò với nhau, giữa các giáo viên với
nhau trong các hoạt động giảng dạy (lí thuyết, thực hành, chính khóa, ngoại
khóa…); Năng lực nắm vững các bước tổ chức các hoạt động dạy học và giáo dục
theo một algorit hoặc sáng tạo, biết nêu các nhiệm vụ dạy học và giáo dục, đánh
giá sản phẩm và kiểm tra, điều chỉnh các hoạt động của học sinh; Năng lực tập
hợp, phối hợp nguồn lực (học sinh và những người khác) xung quanh mình để giải
quyết các vấn đề của học tập và cuộc sống [3].
Trong xã hội hiện đại cần bổ sung những năng lực mới hoặc phải nhấn mạnh các
yếu tố như: năng lực quan hệ cộng đồng, năng lực quản lí, năng lực hoạt động với
tư cách là một chuyên gia giáo dục, năng lực phát triển môi trường xung quanh...
Đào tạo giáo viên dựa vào năng lực và định hướng trách nhiệm
[Nguồn: Hướng tới hiệu quả trong đào tạo giáo viên, của GS. R.H.Dave, nguyên
Tổng giám đốc Viện giáo dục UNESCO, CHLB Đức, Tài liệu 5]
Năm lĩnh vực hoạt động:
1) Hoạt động trên lớp (gồm các quá trình giảng dạy và học tập, các kĩ năng đánh

giá và quản lí lớp học)
2) Hoạt động cấp trường (gồm việc tổ chức các cuộc họp giao ban buổi sáng, phân
tích các sự kiện quốc gia, xã hội và văn hóa, tham gia vào quản lí cấp trường)
3) Hoạt động ngoại khóa (gồm các hoạt động giáo dục như tổ chức cho học sinh
tham quan tìm hiểu thực tế, các chuyến đi khảo sát…)


4) Các hoạt động liên quan đến việc tiếp xúc và hợp tác với các phụ huynh học
sinh (gồm các vấn đề tuyển sinh và duy trì số lượng học sinh, đi học đều đặn, thảo
luận các báo cáo về mức độ tiến bộ của học sinh, nâng cao chất lượng và thành tích
học tập của học sinh)
5) Các hoạt động liên quan đến việc tiếp xúc và hợp tác với cộng đồng (gồm liên
kết với cộng đồng để tổ chức các buổi kỉ niệm, động viên sự hỗ trợ của cộng đồng
vào việc phát triển môi trường…).
Mười lĩnh vực năng lực:
1) Các năng lực xác định bối cảnh (tạo ra một cách nhìn bao quát hơn về sự phát
triển giáo dục trong xã hội và vai trò của giáo viên trong sự phát triển đó)
2) Các năng lực về khái niệm (bao gồm các khái niệm về giáo dục và học tập, các
khía cạnh tâm lí học, xã hội học và tâm thần học trong giáo dục)
3) Các năng lực về chương trình và nội dung (tùy theo các giai đoạn giáo dục có
thể như giáo dục tiểu học, trung học cơ sở hoặc trung học phổ thông)
4) Các năng lực giải quyết (năng lực chung, năng lực môn học và theo giai đoạn)
5) Các năng lực trong các hoạt động giáo dục (như lập kế hoạch và tổ chức các
cuộc họp giao ban buổi sáng…)
6) Các năng lực có liên quan đến tài liệu học tập và giảng dạy (các tài liệu giảng
dạy và học tập kinh điển, công nghệ giáo dục mới, các nguồn địa phương, việc
chuẩn bị và chọn lựa…)
7) Các năng lực đánh giá
8) Các năng lực quản lí
9) Các năng lực có liên quan đến việc tiếp xúc và hợp tác với các bậc phụ huynh

học sinh
10) Các năng lực liên quan đến việc tiếp xúc và hợp tác cộng đồng
Năm lĩnh vực trách nhiệm:


1) Trách nhiệm với học sinh (Có tình yêu thương đối với học sinh, sẵn sàng quan
tâm và hỗ trợ sự phát triển toàn diện của học sinh)
2) Trách nhiệm với xã hội (Nhận thức và quan tâm đến hiệu quả công việc của giáo
viên đối với sự tiến bộ của gia đình, cộng đồng và đất nước)
3) Trách nhiệm với nghề nghiệp (Tự thừa nhận về vai trò và trách nhiệm nghề
nghiệp của người giáo viên cho dù làm việc đó trong hoàn cảnh nào)
4) Trách nhiệm đối với việc hoàn thành tốt công việc (Quan tâm chú ý đến việc
thực hiện mọi công việc trên lớp, trong nhà trường và trong cộng đồng với một thái
độ tích cực nhất có thể, “Dù bạn làm gì hãy cố làm tốt điều đó” (thái độ thực hiện
tốt công việc)
5) Trách nhiệm đối với các giá trị cơ bản của con người (Thực hành các giá trị
nghề nghiệp một cách nhất quan, thái độ công bằng, vô tư, khách quan, chân thật,
trung thành với tổ quốc…khía cạnh về vai trò của người thầy).
3. Giải pháp đào tạo – bồi dưỡng giáo viên
Quán triệt quan điểm mới của UNESCO: “thầy giáo phải được đào tạo để trở thành
những nhà giáo dục nhiều hơn là những chuyên gia truyền đạt kiến thức” (điểm
18). Quan điểm chung là quan tâm đến sự thay đổi có tính chất bản chất trong
phương án đào tạo giáo viên: i) Thay đổi việc đào tạo giáo viên dạy 1 môn sang
đào tạo giáo viên dạy những môn tích hợp; ii) Thay đổi việc đào tạo trang bị kiến
thức sang trọng tâm đào tạo năng lực sư phạm, trong đó chú ý: các năng lực chẩn
đoán, thiết kế, tổ chức, thực hiện và giám sát đánh giá và giải quyết vấn đề nẩy
sinh trong thực tiễn dạy học và giáo dục; iv) Thay đổi phương pháp dạy sang đào
tạo cách dạy phương pháp học.
3.1. Đổi mới chương trình đào tạo giáo viên: Đào tạo giáo viên tại các trường/khoa
sư phạm phải được quan tâm song song với nhiệm vụ xây dựng chương trình giáo

dục phổ thông mới. Ở khâu đào tạo, vấn đề chương trình là quyết định đến việc
hình thành năng lực cơ bản, nền tảng cho người giáo viên. Do vậy, khâu thiết kế


xây dựng chương trình đào tạo giáo viên phải được chuẩn bị trước. Trong giai đoạn
tới (2009-2020) chương trình đào tạo giáo viên cần tập trung vào mục tiêu: i) Hình
thành năng lực chuyển hoá tri thức khoa học thành tri thức dạy học, phương pháp
khoa học thành phương pháp dạy học cho người tốt nghiệp. Mục tiêu đào tạo
chuyên gia giáo dục phải được coi trọng hàng đầu, đào tạo năng lực giáo viên
giảng dạy các nội dung tích hợp là chiến lược trong giai đoạn tới; ii) Tại các cơ sở
đào tạo giáo viên cho các vùng miền, cần xây dựng chương trình đào tạo giáo viên
riêng; chương trình bồi dưỡng giáo viên dựa trên kết quả nghiên cứu nhu cầu của
địa phương và theo định hướng của trường đại học, viện nghiên cứu. Nội dung coi
trọng yếu tố văn hoá vùng miền, đặc điểm con người và phong tục tập quán, hiệu
quả và giá trị của giáo dục đem lại cho cộng đồng phải thiết thực, có ý nghĩa và cụ
thể đối với đời sống hàng ngày cũng như đảm bảo cho sự phát triển bền vững bởi
sự cân bằng và tương thích với giáo dục phổ thông của các nước.
3.2. Tăng cường yếu tố cạnh tranh chất lượng giáo viên: Cạnh tranh bên trong
bằng các chính sách về lương, khen thưởng, đánh giá (có sự hỗ trợ về tài chính và
chính sách), Cạnh tranh ngoài bằng các biện pháp rà soát, đánh giá lại năng lực
giáo viên, chuyển đổi vị trí công tác và tạo lập môi trường cạnh tranh tốt (sử dụng
đánh giá ngoài) để giáo viên giỏi có thu nhập cao và được khuyến khích.
3.3. Đào tạo giáo viên là trách nhiệm của nhà nước và phải bằng chính sách đầu
tư nguồn vốn chủ yếu từ nhà nước. Trước cơn lốc của thị trường và xu hướng hạch
toán kinh tế trong mọi lĩnh vực, công tác đào tạo giáo viên chịu cả tác động xấu và
dẫn đến hậu quả rất nặng nề. Do vậy, cần có quan điểm đầu tư chiến lược đối với
công tác đào tạo giáo viên, đặc biệt là giáo dục vùng khó khăn, chậm phát triển
trong giai đoạn hiện nay. Nhiệm vụ đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội của trường đại
học phải được đặt sau nhiệm vụ khai sáng và dẫn đường cho xã hội.
3.4. Tổ chức các hội nghị giữa các trường sư phạm với các địa phương: Hàng

năm, tổ chức Hội nghị với các giáo viên THPT để xác định các vấn đề cụ thể về


phương pháp giảng dạy, đánh giá và các kĩ năng khác; 2-3 năm một lần, tổ chức
Hội nghị các Hiệu trưởng THPT để xác định các vấn đề quản lí, chương trình và
các nhu cầu cấp cơ sở; 3-5 năm một lần tổ chức Hội nghị Giám đốc Sở GD &ĐT
để xác định nhu cầu nguồn lực đào tạo, năng lực giáo viên và các điều kiện khác.
Kết quả thu được là các văn bản nghiên cứu về nhu cầu, văn bản hợp tác, đề xuất
và các thông tin thực tiễn giúp các trường sư phạm phát triển chương trình và điều
chỉnh các mô hình đào tạo-bồi dưỡng giáo viên.
"Trích từ bài viết của PGS.TS Phạm Hồng Quan Trường Đại học Sư phạm - Đại
học Thái Nguyên trên Tạp chí Giáo dục - Bộ GD&ĐT số 216"



×