Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Quản lý hoạt động tự học tại trường của sinh viên học viện âm nhạc quốc gia việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (771.33 KB, 93 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THOA

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC TẠI TRƯỜNG CỦA SINH VIÊN
HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM

Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60.14.01.14

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN THỊ MAI LAN

HÀ NỘI – 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng: Số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này
là hoàn toàn trung thực và chưa từng được sử dụng hoặc công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được
cám ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc.

Hà Nội, tháng 10 năm 2017
Tác giả luận văn

NGUYỄN THỊ THOA



LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin chân thành cảm ơn: Học viện Khoa học xã hội, Khoa Tâm lý –
Giáo dục, các thầy giáo, cô giáo đã tận tình giảng dạy và hướng dẫn trong quá
trình học tập và nghiên cứu. Xin cảm ơn Ban Giám đốc Học viện Âm nhạc Quốc
gia Việt Nam và các phòng, ban liên quan đã tận tình giúp đỡ, cung cấp tài liệu,
tạo điều kiện, đóng góp nhiều ý kiến cho nội dung nghiên cứu của đề tài.
Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Nguyễn Thị
Mai Lan, người đã tận tình bồi dưỡng kiến thức, năng lực tư duy, phương pháp
nghiên cứu và trực tiếp hướng dẫn giúp đỡ tác giả hoàn thành luận văn này. Mặc
dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện, song luận văn không thể tránh
khỏi những thiếu sót, tác giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp, trao
đổi của thầy cô, các bạn đồng nghiệp và độc giả để luận văn được hoàn thiện và
đề tài có giá trị thực tiễn cao hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 10 năm 2017
Tác giả luận văn


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC
TẠI TRƯỜNG CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC..................................................... 10
1.1. Hoạt động tự học tại trường của sinh viên đại học .......................................... 10
1.2. Quản lý hoạt động tự học tại trường của sinh viên đại học ............................. 17
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý hoạt động tự học của sinh viên đại học .........25
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC TẠI
TRƯỜNG CỦA SINH VIÊN HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT
NAM ....................................................................................................................... 30
2.1. Khái quát về Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam...................................... 30

2.2. Địa bàn, khách thể và phương pháp nghiên cứu thực tiễn............................... 33
2.3. Kết quả nghiên cứu thực trạng quản lý hoạt động tự học tại trường của sinh
viên đại học chính quy Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam............................. 35
2.4. Đánh giá chung thực trạng quản lý hoạt động tự học tại trường của sinh viên
đại học chính quy Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam..................................... 51
Chương 3: BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC TẠI
TRƯỜNG CỦA SINH VIÊN HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT
NAM ....................................................................................................................... 56
3.1. Các nguyên tắc đề xuất biện pháp.................................................................... 56
3.2. Một số biện pháp quản lý hoạt động tự học tại trường của sinh viên đại học
chính quy tại Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam ............................................ 57
3.3. Khảo sát sự cần thiết và tính khả thi của các biện pháp đề xuất...................... 67
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ....................................................................... 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................. 74


DANH MỤC BẢNG
Trang
Bảng 2.1. Phân bổ lao động của Học viện theo các đơn vị .................................31
Bảng 2.2. Kết quả hoạt động nghiên cứu khoa học của Học viện.......................32
Bảng 2.3. Kết quả khảo sát về vai trò của HĐTH tại trường của sinh viên đại
học Học viện Âm nhạc quốc gia Việt Nam .........................................................36
Bảng 2.4. Mức độ thực hiện các hình thức tự học của sinh viên.........................37
Bảng 2.5. Mức độ thực hiện các phương pháp tự học tại trường của sinh viên..39
Bảng 2.6. Mức độ thực hiện nội dung tự học tại trường của sinh viên đại học ..40
Bảng 2.7. Mức độ thực hiện nội dung quản lý lập kế hoạch cho HĐTH trên lớp41
Bảng 2.8. Mức độ thực hiện nội dung quản lý việc tổ chức HĐTH tại trường của
sinh viên đại học...................................................................................................43
Bảng 2.9. Mức độ thực hiện nội dung quản lý việc chỉ đạo HĐTH tại trường của
sinh viên đại học...................................................................................................46

Bảng 2.10. Mức độ thực hiện nội dung kiểm tra, đánh giá HĐTH tại trường của
sinh viên ...............................................................................................................47
Bảng 2.11. Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố tới quản lý HĐTH tại trường của
sinh viên đại học...................................................................................................49
Bảng 3.1. Kết quả khảo sát tính cần thiết của các biện pháp đề xuất..................68
Bảng 3.2. Kết quả khảo sát tính khả thi của các biện pháp đề xuất ....................69
Bảng 3.3. Điểm trung bình chung đánh giá tính cần thiết và khả thi của các biện
pháp đề xuất..........................................................................................................70


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định “cách học tập, phải lấy tự học làm cốt, phải biết tự động học tập… ” [21].
Tự học là phương thức cơ bản để người học tiếp cận và chiếm lĩnh hệ thống tri
thức phong phú và thiết thực. Chỉ có tự học thì giáo dục đào tạo mới thành công,
đó chính là tính khách quan, vấn đề có tính nguyên tắc của quá trình giáo dục
đào tạo. Nhận thức rõ vai trò của giáo dục trong quá trình hội nhập quốc tế,
Đảng và Nhà nước ta đã xác định giáo dục là quốc sách hàng đầu, là gốc rễ của
sự phát triển xã hội, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển. Để đáp ứng
yêu cầu của giáo dục trong xu thế phát triển của nền kinh tế tri thức, Đảng và
Nhà nước ta đã chủ trương đổi mới giáo dục toàn diện, trong đó đổi mới phương
pháp dạy học, đặc biệt chú trọng đến hướng dẫn cho người học phương pháp tự
học, tự nghiên cứu, để họ có thể “học tập suốt đời”.
Hoạt động tự học (HĐTH) có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với người
học, là một trong những yếu tố quyết định chất lượng và hiệu quả của hoạt động
học tập ở người học. Nếu người học chủ động, tích cực và sáng tạo và tự xây
dựng kế hoạch học tập về tự học một cách nghiêm túc thì hiệu quả, chất lượng
học tập sẽ được nâng cao rõ rệt. Ngược lại, nếu người học ỷ lại tham gia HĐTH

có tính chất đối phó, hình thức thì không thể có chất lượng và hiệu quả cao
được. Bên cạnh vai trò chủ thể là người học, thì công tác quản lý HĐTH cũng có
vai trò rất quan trọng để nâng cao thành tích học tập và rèn luyện cho sinh viên.
Nếu công tác quản lý được tổ chức, thực hiện một cách có kế hoạch, hệ thống,
có tổ chức và được kiểm tra, giám sát với các giải pháp có tính khả thi và hiệu
quả thì HĐTH của sinh viên sẽ có những chuyển biến tích cực và rõ rệt; góp
phần cùng nâng cao kết quả học tập cho sinh viên.

1


Thực tế hiện nay cho thấy, HĐTH của sinh viên nói chung trong các nhà
trường ở Việt Nam chưa nhận được sự quan tâm đúng mức. Các nhà trường
chưa có biện pháp quản lý thực sự hiệu quả đối với hoạt động này. Những biện
pháp quản lý HĐTH sinh viên hiện nay đang tiến hành trong các nhà trường
phần lớn chỉ đạt tới mục đích là quản lý về mặt thời gian và con người. Tác động
quản lý của nhà trường tới việc tự học của sinh viên còn ở mức độ tuyên truyền
kêu gọi, nhắc nhở. HĐTH của người học hầu như vẫn diễn ra một cách tự phát,
ít có sự quản lý, giám sát của cán bộ, giảng viên nên hiệu quả chưa cao.
Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam được thành lập năm 1956 tại Hà
Nội với mục tiêu là đào tạo cán bộ, sinh viên viên âm nhạc chất lượng cao cho
xã hội. Ngày nay, khi công tác giáo dục và đào tạo âm nhạc đã được nâng cấp
trên phạm vi toàn quốc, Học viện Âm nhạc quốc gia Việt Nam mở rộng đào tạo
nhằm cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho các trường. Ngoài đội ngũ
cán bộ giảng dạy, Học viện Âm nhạc quốc gia Việt Nam còn đặc biệt quan tâm
tới công tác nâng cao chất lượng đào tạo của Học viện nhằm phát huy tốt vai trò
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước trong giai đoạn mới và luôn xứng đáng là “con chim đầu đàn’’
của nền giáo dục âm nhạc Việt Nam về đào tạo ngành âm nhạc. Hiện nay, Học
viện đang thực hiện quyết định phê duyệt đề án phát triển Học viện Âm nhạc

quốc gia Việt Nam giai đoạn 2014 - 2020 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao
và Du lịch theo quyết định số 80/QĐ – BVHTTDL ngày 9/1/2014. Trong đó
mục tiêu năm 2015 là xây dựng bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ quản lý, đội ngũ
giảng viên đáp ứng nhu cầu đào tạo, nghiên cứu khoa học và biểu diễn giai đoạn
mới; lộ trình phát triển giai đoạn 2016 - 2020 là tiếp tục kiện toàn đội ngũ cán
bộ, giảng viên, nâng cao chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng các yêu cầu
của nhiệm vụ và thực tiễn xã hội; cung cấp nguồn nhân lực trình độ cao, mục
tiêu đến năm 2020 tiếp tục chuẩn hóa đội ngũ đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế,
xây dựng Học viện Âm nhạc quốc gia Việt Nam thành Trường Đại học Âm nhạc
2


trọng điểm quốc gia. Chính vì thế, bên cạnh viêc nâng cao chất lượng đào tạo
chuyên môn cho sinh viên trên giảng đường thì việc tăng cường quản lý HĐTH
cho sinh viên sẽ giúp các em có định hướng tốt về việc học tập và định hướng
nghề nghiệp sau này. Đối với ngành Âm nhạc, việc học nhóm là rất cần thiết đối
với sinh viên. Đặc thù đào tạo lĩnh vực nghệ thuật nói cung và lĩnh vưc Âm nhạc
nói riêng đa phần là các môn học là thực hành (bao gồm cả thực hành cá nhân và
tập thể) và việc sinh viên phải tổ chức tự học chiếm một lượng thời gian rất lớn
(Chỉ huy dàn dựng hát tập thể, môn Dàn dựng chương trình âm nhạc tổng hợp,
các môn Thanh nhạc…). Vì vậy kết quả của HĐTH sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
kết quả học tập của sinh viên Học viện. Việc triển khai các nội dung quản lý
HĐTH nhằm thúc đẩy động cơ, kỹ năng và thói quen tự học cho sinh viên trong
Học viện cần được triển khai, nhân rộng và phát huy một cách tối đa để đạt được
hiệu quả cao nhất.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Quản lý HĐTH tại
trường của sinh viên Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam” để nghiên cứu
với mong muốn đề tài hoàn thành sẽ có những đóng góp nhất định cho Học viện
và các cơ sở giáo dục, các nhà trường trong việc đổi mới quản lý, nâng cao chất
lượng dạy và học cho sinh viên đại học nói chung tại Việt Nam.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
HĐTH và quản lý HĐTH nói chung và tại trường nói riêng của sinh viên
đại học có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình đào tạo tại các trường đại
học. Hiện nay, vấn đề này là đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong
và ngoài nước ở các phạm vi và mức độ khác nhau:
Các hướng nghiên cứu ở nước ngoài về quản lý HĐTH tại trường của
sinh viên đại học
A.A.Goroxepxki-M.I Lubixowra (1971), “Tổ chức công việc tự học của
sinh viên đại học”, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội. Trên cơ sở tổng kết kinh
nghiệm công tác cá nhân của mình trong các trường đại học đối với việc tổ chức
3


tự học cho sinh viên. Tác giả đã đưa ra đề nghị về phương pháp học tập của sinh
viên đại học trên một số vấn đề cơ bản: Nghe và ghi bài giảng; đọc và ghi tài liệu;
chuẩn bị Seminar (là một dạng hội thảo, nghiên cứu chuyên đề, có thể hiểu đơn
giản là một hình thức học tập mà trong đó người học chủ động hoàn toàn từ khâu
chuẩn bị tài liệu, trình bày nội dung đưa dẫn chứng, trao đổi, thảo luận với các thành
viên khác và cuối cùng tự rút ra nội dung bài học hay vấn đề khoa học cũng như đề
xuất các ý kiến để mở rộng nội dung); làm bài tập nghiên cứu và luận văn tốt nghiệp;
chuẩn bị kiểm tra và thi; tổ chức lao động trí óc và kế hoạch làm việc [9].
G.Retzke chủ biên (Đầu nhưng năm 80, thế kỷ XIX), “Học tập học lý”,
Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp Hà Nội. Trong tác phẩm này, tác giả
đề cập đến vấn đề bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên đại
học mới được tuyển vào hệ tập trung của các trường đại học. Cuốn sách gợi
hướng giải quyết cho sinh viên từ các vấn đề khúc mắc trong tâm tư của mình
đối với nhiệm vụ học tập đến những điểm có tính chất quyết định đối với việc
học tập ở đại học trên con đường dẫn đến thành công [27].
G.D.Sharma, Shakti R.Ahmed (2005), “Phương pháp dạy học ở đại học”.
Tác giả đã nghiên cứu HĐTH như là một phương pháp dạy học hiệu quảphương pháp tự học. Theo các tác giả, trước tiên người giáo viên phải lồng ghép

phương pháp này vào công việc của chính mình, sau đó phải tìm ra một phương
thức hoạt động nhằm khuyến khích sinh viên của mình tự học [29].
Các hướng nghiên cứu ở trong nước về quản lý HĐTH tại trường của
sinh viên đại học
Hồ Chí Minh (1947), “Sửa đổi lề lối làm việc”. Trong tác phẩm này, khi
nói về công tác huấn luyện cán bộ, Người đã chỉ dẫn như sau: “Lấy tự học làm
cốt, do thảo luận và chỉ đạo giúp vào”. Qua đây, Người muốn khuyên mỗi
người phải có động lực cho sự tiến bộ của bản thân qua tự học. Đặc biệt, môi
trường thảo luận sẽ tạo nên trạng thái “Học thầy không tày học bạn” giúp học

4


sinh dễ dàng trao đổi và chia sẻ tự tin hơn. “Chỉ đạo thêm vào” nghĩa là phải có
nhân tố quản lý để gắn nội lực với ngoại lực [21].
Trần Bá Khiêm (2007), “Các biện pháp quản lý HĐTH của học viên
trường sĩ quan lục quân 2”, Luận văn thạc sĩ giáo dục học, Trường Đại học Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Theo tác giả, việc nâng cao chất lượng công tác
giáo dục - đào tạo ở Trường Sĩ quan Lục quân 2 cốt lõi là nâng cao chất lượng
quá trình dạy học. Một trong các yếu tố quyết định chất lượng của quá trình dạy
học là chất lượng HĐTH của học viên. HĐTH là hoạt động tổ chức nhận thức
nhằm đạt tới mục đích nhất định, do chính người học tiến hành trong quá trình
học tập, tự học giúp người học nâng cao trí thức, kỹ năng và biến quá trình đào
tạo thành quá trình tự đào tạo. Vì vậy, phẩm chất và năng lực của người cán bộ
tương lai phụ thuộc rất nhiều vào việc tự học của họ trong nhà trường [15].
Quản Thương Lý (2012), “Một số biện pháp quản lý HĐTH của sinh viên
nội trú Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Tây”, Luận văn thạc sĩ, Đại học Vinh. Tác
giả đã nghiên cứu công tác quản lý HĐTH dưới góc độ các chức năng quản lý giáo
dục và tập trung nghiên cứu công tác tổ chức HĐTH của sinh viên nội trú. Tác giả
cũng đã phân tích và tìm ra các nguyên nhân của hạn chế trong công tác quản lý

HĐTH và đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện công tác này [19].
Hoàng Văn Quang (2010), Các biện pháp quản lý HĐTH của sinh viên
nội trú Trường Cao đẳng Sơn La, Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục, Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội. Tác giả luận văn đã hệ thống hóa các lý luận, các khái
niệm về hoạt động tự học, quản lý hoạt động tự học và biện pháp quản lý hoạt
động tự học. Phân tích thực trạng quản lý và các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý
hoạt động tự học, các biện pháp quản lý đã được triển khai. Trên cơ sở đó đề
xuất các định hướng, biện pháp quản lý HĐTH của sinh viên nội trú Trường Cao
đẳng Sơn La [25].
Ngoài ra, tác giả còn tìm đọc một số luận văn, đề tài nghiên cứu khoa học
liên quan như: Nguyễn Khắc Thanh (2015), Nâng cao biện pháp quản lý hoạt
5


động tự học của sinh viên Trường Đại học Hùng Vương, Luận văn Thác sĩ Quản
lý giáo dục, Trường Đại học Tổng hợp Southern Luzon, Philippines. Nguyễn
Thị Thanh Vân (2007), Biện pháp quản lý HĐTH của sinh viên khoa Ngôn ngữ
và văn hóa Pháp Trường Đại học Ngoại ngữ, ĐH Quốc gia Hà Nội trong giai
đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Sư phạm, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Phạm Văn Tuân (2013), Một số vấn đề lý luận và hoạt động về dạy tự học tại
Trường Đại học Trà Vinh, Tạp chí Khoa học số 01, năm 2013, Trường Đại học
An Giang.
Nhận xét chung, các tác giả nêu trên đã tập trung nghiên cứu những vấn
đề, những mặt, những nội dung khác nhau của công tác quản lý HĐTH trên đối
tượng sinh viên đại học. Mỗi công trình, đề tài hoặc là trực tiếp hoặc là gián tiếp
đã đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quản lý HĐTH của sinh
viên trên cơ sở khảo sát và đánh giá thực trạng, hiệu quả công tác này tại một số
trường đại học. Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu nêu trên chưa tập trung
nghiên cứu công tác quản lý HĐTH tại trường của sinh viên Học viện Âm nhạc
Quốc gia Việt Nam.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng về quản lý HĐTH tại trường đối
với sinh viên Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam, đề xuất các biện pháp quản lý
HĐTH tại trường đối với sinh viên nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động học tập của
sinh viên đại học chính quy tại Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý HĐTH tại trường của sinh viên đại học.
- Khảo sát thực trạng quản lý HĐTH tại trường của sinh viên đại học
chính quy Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam.
- Đề xuất các biện pháp quản lý HĐTH tại trường của sinh viên đại học
chính quy Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam.
6


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Quản lý HĐTH tại trường của sinh viên Học
viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
HĐTH của sinh viên đại học bao gồm HĐTH trên lớp (tại trường), HĐTH
ở nhà. Trong phạm vi luận văn, tác giả nghiên cứu HĐTH tại trường của sinh
viên đại học. Đề tài nghiên cứu các lý luận, tổ chức khảo sát thực trạng và đề
xuất các giải pháp quản lý HĐTH tại trường của sinh viên đại học chính quy tại
Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam dưới góc độ quản lý giáo dục với chủ thể
quản lý là hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, trưởng các phòng ban, cán bộ quản lý,
giáo viên giảng dạy; Khách thể nghiên cứu là sinh viên đại học chính quy của
Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam.
Phạm vi không gian: Đề tài nghiên cứu quản lý HĐTH tại trường của sinh
viên đang học đại học chính quy tại Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam.
Phạm vi thời gian: Đề tài sử dụng các dữ liệu từ năm 2012 - 2016 và đề

xuất các biện pháp đến năm 2020.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Nghiên cứu được tiến hành dựa trên cơ sở một số nguyên tắc phương pháp
luận của quản lý giáo dục. Cụ thể như sau:
Nguyên tắc hoạt động: Khi nghiên cứu quản lý HĐTH tại trường của sinh
viên Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam cần nghiên cứu các HĐTH tại trường
của sinh viên, các hoạt động hỗ trợ của giảng viên và cán bộ Học viên, các hoạt
động chỉ đạo quản lý của Ban Giám đốc Học viện về công tác này. Trên cơ sở đó
đề xuất các biện pháp quản lý HĐTH tại trường của sinh viên.
Nguyên tắc tiếp cận hệ thống: Quản lý HĐTH tại trường của sinh viên bị
ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Đề tài nghiên cứu quản lý
HĐTH tại trường của sinh viên đại học là xem xét các mối quan hệ biện chứng của
7


các thành tố: kế hoạch; tổ chức, kiểm tra, đánh giá và các điều kiện đảm bảo cho
HĐTH tại trường của sinh viên đại học tại Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam.
Nguyên tắc phát triển: Khi nghiên cứu về quản lý HĐTH tại trường của
sinh viên phải nghiên cứu trong sự vận động, biến đổi, tương tác qua lại giữa toàn
bộ các hoạt động trong quá trình quản lý và quá trình tự học tại trường của sinh
viên. Thấy được sự vận động, phát triển, biến đổi của quản lý HĐTH tại trường của
sinh viên ở thời gian hiện tại, quá khứ và dự báo tương lai phát triển.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu
- Phương pháp điều tra bảng hỏi
- Phương pháp phỏng vấn sâu
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
- Phương pháp xin ý kiến chuyên gia
- Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học

6. Ý nghĩa lý luận và thưc tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài đã hệ thống hóa và làm sáng tỏ những lý luận cơ bản về quản lý
hoạt động tự học tại trường của sinh viên, qua đó bổ sung một số lý luận về vấn
đề này vào khoa học quản lý giáo dục. Đồng thời, kết quả nghiên cứu này có thể
làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy những vấn đề có
liên quan đến đề tài.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn đã chỉ ra thực trạng quản lý hoạt động tự học tại trường của sinh
viên ở Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam. Trên cơ sở đó, đánh giá thành
công, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong quản lý hoạt động tự
học tại trường của sinh viên Học viện, đề xuất được các biện pháp khả thi nhằm
nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động tự học tại trường của sinh viên Học viện
Âm nhạc quốc gia Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của luận văn là tài liệu tham
8


khảo cho những nhà quản lý đào tạo đại học, cho những sinh viên đại học đang
tìm tòi phương pháp và hình thức tự học hiệu quả, nhất là đối với sinh viên lĩnh
vực nghệ thuật.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động tự học tại trường của sinh
viên đại học
Chương 2. Thực trạng quản lý hoạt động tự học tại trường của sinh viên
Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam
Chương 3. Các biện pháp quản lý HĐTH tại trường của sinh Học viện
Âm nhạc Quốc gia Việt Nam


9


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC
TẠI TRƯỜNG CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC

1.1. Hoạt động tự học tại trường của sinh viên đại học
1.1.1. Khái niệm Hoạt động tự học tại trường của sinh viên đại học
1.1.1.1. Khái niệm tự học
Vấn đề tự học được nhiều nhà khoa học nghiên cứu và đưa ra quan điểm
của mình như:
Theo tác giả Nguyễn Cảnh Toàn: “Tự học là tự mình động não, sử dụng
các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp…) và có khi cả cơ
bắp (khi phải sử dụng công cụ), cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ,
tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (trung thực, khách quan, có chí tiến
thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý muốn
thi đỗ, biết biến khó khăn thành thuận lợi) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết
nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình” [35].
Theo tác giả Võ Quang Phúc: “Tự học là một bộ phận của học, nó được
tạo thành bởi những thao tác, cử chỉ, ngôn ngữ, hành động của người học trong
hệ thống tương tác của hoạt động dạy học. Tự học phản ánh rõ nhu cầu bức xúc
về học tập của người học, phản ánh tính tự giác và nỗ lực của người học, phản
ánh năng lực tổ chức và tự điều khiển của người học nhằm đạt được kết quả nhất
định trong hoàn cảnh nhất định với nội dung học tập nhất định” [23, tr.37].
Theo tác giả Vũ Văn Tảo: “Học cốt lõi là tự học, là quá trình phát triển
nội tại, trong đó chủ thể tự thể hiện và biến đổi mình, tự làm phong phú giá trị
con người bằng cách thu nhận, xử lý và điều chỉnh thông tin từ môi trường sống
của chủ thể” [30, tr.53]
Tác giả Nguyễn Văn Đạo định nghĩa: “Tự học là công cụ tự giác của mỗi

người do nhận thức được đúng đắn vai trò quyết định của nó đến sự tích lũy kiến
10


thức cho bản thân cho chất lượng công việc mình đảm nhiệm, cho sự tiến bộ xã
hội” [8].
Tiếp thu và kế thừa những quan niệm trên, chúng tôi đưa ra khái niệm tự học
như sau: Tự học là quá trình tự giác, tích cực, độc lập chiếm lĩnh tri thức, hình thành
kỹ năng, kỹ xảo của chính bản thân người học. Trong quá trình đó, người học thực
sự là chủ thể của quá trình nhận thức, nỗ lực huy động các chức năng tâm lý, tiến
hành hoạt động nhận thức nhằm đạt được mục tiêu đã định. Tự học là “nội lực”
quyết định chất lượng học tập, sáng tạo cho hôm nay và mai sau.
1.1.1.2. Khái niệm hoạt động tự học
HĐTH được coi là hoạt động tự tổ chức để chiếm lĩnh tri thức, hình thành
kỹ năng, kỹ xảo diễn ra dưới nhiều hình thức, mức độ khác nhau.
Theo tác giả Nguyễn Cảnh Toàn, tự học được diễn ra theo 3 hình thức:
Hình thức 1: Tự học có điều khiển (tự học giáp mặt)
Hình thức 2: Tự học không có sự điều khiển (tự học không giáp mặt)
Hình thức 3: Người học tự tìm kiếm tri thức để thoả mãn nhu cầu hiểu
biết của mình bằng cách tự tìm tài liệu, tự rút kinh nghiệm về tư duy, tự phân
tích, tự đánh giá… coi đó là tự học ở mức độ cao.
Trong tác phẩm “Luận bàn về kinh nghiệm tự học”, tác giả Nguyễn Cảnh
Toàn đã viết: “Hệ phương pháp dạy-học tích cực lấy người học làm trung tâm
gọi tắt theo đúng thực chất của nó là hệ phương pháp dạy-tự học đã được xem
như là một hệ thống phương pháp có thể đáp ứng được các yêu cầu cơ bản của
mục tiêu giáo dục thời kỳ đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa và có khả
năng định hướng cho việc tổ chức quá trình dạy-học kết hợp với quá trình tự
học, quá trình kết hợp cá nhân hóa và xã hội hóa việc học” [34, tr.183]. Đó cũng
là định hướng hiện nay trong việc quản lý HĐTH, đặc biệt là quản lý HĐTH
trong nội trú: ở đó diễn ra quá trình lao động tập thể, trao đổi học tập, đối thoại

và hợp tác, giao tiếp… trong tập thể lớp học, trong nhà trường, trên cơ sở phát
huy được nội lực-năng lực tự học, tính tự lực chủ động của sinh viên Lào.
11


Theo tác giả Nguyễn Hiến Lê, “Tự học là không ai bắt buộc mà tự mình
tìm tòi, học hỏi để hiểu biết thêm. Có thầy hay không, ta không cần biết. Người
tự học hoàn toàn làm chủ mình, muốn học môn nào tùy ý, muốn học lúc nào
cũng được, đó mới là điều kiện quan trọng” [18, tr.12].
Theo tác giả Lưu Xuân Mới: “Tự học là hình thức hoạt động nhận thức
của cá nhân nhằm nắm vững hệ thống tri thức và kỹ năng do chính sinh viên tiến
hành ở trên lớp hoặc ở ngoài lớp theo hoặc không ttheo chương trình và sách
giáo khoa đã quy định” [22, tr.276].
Kế thừa quan điểm của các tác giả nêu trên, chúng tôi đưa ra khái niệm
hoạt động tự học (HĐTH) như sau: HĐTH là hoạt động mang tính độc lập, cá
nhân, đòi hỏi có ý thức tự giác cao, có thái độ đúng, có tính mục đích, có mục
tiêu rõ ràng, có hệ thống kỹ năng tự học. HĐTH thể hiện sự điều khiển, tự thiết
kế kế hoạch, thực hiện kế hoạch học tập, tự điều chỉnh, tự kiểm tra đánh giá việc
học của chính mình theo hướng sáng tạo, nhằm củng cố, mở rộng và phát triển
tri thức, kỹ năng, kỹ xảo.
HĐTH là một bộ phận của tự học, lúc này tự học đã trở thành những mục
tiêu và hành động rõ ràng. Chính vì thế, nghiên cứu của luận văn xác định tự học
là một hoạt động.
1.1.1.3. Khái niệm hoạt động tự học tại trường của sinh viên
Theo từ điển Tiếng Việt của nhóm tác giả Viện ngôn ngữ học thuộc ủy
ban Khoa học - xã hội Việt Nam: “Học viên là người lớn tuổi học ở những
trường lớp không thuộc hệ thống giáo dục phổ thông hay đại học” [39, tr.477].
Trong trường đại học, sinh viên hoặc học viên là danh từ chung chỉ những người
tiếp thu sự giáo dục của giảng viên, không phân biệt người này với người khác.
Sinh viên có nghĩa vụ tham gia vào hoạt động học tập, rèn luyện mà nhà trường

tổ chức. Học là hoạt động chủ yếu và là nhiệm vụ của sinh viên.

12


HĐTH của sinh viên đại học có nhiều hình thức như: Tự học tại trường;
tự học ở nhà và trong phạm vị luận văn, tác giả nghiên cứu HĐTH tại trường của
sinh viên đại học.
Trên cơ sở nghiên cứu khái niệm tự học, hoạt động tự học (HĐTH), sinh
viên đại học, tác giả đưa ra khái niệm HĐTH tại trường của sinh viên đại học
như sau: HĐTH tại trường của sinh viên đại học là hoạt động học tập mang tính
độc lập, cá nhân (ngoài giờ học chính khóa) tại trường của sinh viên và đòi hỏi
có ý thức tự giác cao, có thái độ đúng, có tính mục đích, có mục tiêu rõ ràng, có
hệ thống kỹ năng tự học phù hợp với môi trường tự học tại trường của sinh viên.
HĐTH tai trường của sinh viên đại học thể hiện sự điều khiển, tự thiết kế kế
hoạch, thực hiện kế hoạch tự học, tự điều chỉnh, tự kiểm tra đánh giá việc học
của chính mình theo hướng sáng tạo, nhằm củng cố, mở rộng và phát triển tri
thức đã được học trước đó của sinh viên.
1.1.2. Hoạt động tự học tại trường của sinh viên đại học
1.1.2.1. Vai trò của hoạt động tự học tại trường của sinh viên đại học
Thứ nhất, HĐTH ở trường giúp sinh viên chiếm lĩnh và nắm vững tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo trong nghề nghiệp tương lai một cách nhanh chóng và bền
vững ngay sau khi học tập ở trên lớp. Trong dạy học sinh viên đóng vai trò là
chủ thể nhận thức và mối quan hệ giữa việc dạy và tự học là quan hệ ngoại lực nội lực. Chính vì vậy, cho dù giảng viên có giỏi đến đâu cũng chỉ là người
hướng dẫn, là chất xúc tác để sinh viên tự nhận thức, tự chiếm lĩnh tri thức, tự
học mới là yếu tố nội lực quyết định đến tính chất và tốc độ của quá trình chiếm
lĩnh tri thức của người học. Ở đây, sinh viên đã thể hiện ở mức độ cao vai trò
của chủ thể nhận thức và kết hợp thống nhất, hài hòa giữa vai trò là chủ thể nhận
thức với vai trò là đối tượng điều khiển trong dạy học. Hoạt động học tại trường
gắn chặt với HĐTH nói chung, tự học là cốt lõi của việc học. Qua tự học sẽ giúp

sinh viên tự kiểm tra mức độ kết quả lĩnh hội kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo để
người học tự điều chỉnh hoạt động học tập của mình.
13


Thứ hai, tự học còn giúp sinh viên hình thành niềm tin khoa học và rèn
luyện ý chí phấn đấu, đức tính kiên trì, óc phê phán, bồi dưỡng hứng thú học tập,
lòng say mê nghiên cứu khoa học. Qua HĐTH tại trường mới tìm ra những vấn
đề cần nghiên cứu sâu, có những chính kiến của bản thân và tìm những luận cứ
để chứng minh hay phản biện các vấn đề khoa học, từ đó hình thành những đức
tính tốt đối với một nhà khoa học thực thụ. Những đức tính đó không thể được
truyền từ giảng viên qua sinh viên mà chính sinh viên phải tích cực lao động
bằng trí óc mới có thể hình thành.
Thứ ba, HĐTH tại trường không những giúp sinh viên không ngừng nâng
cao chất lượng và hiệu quả học tập từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường mà còn
có thể hình thành phương pháp, niềm tin, thái độ tự học, tự nghiên cứu suốt đời
để thích ứng với sự biến đổi nhanh chóng, toàn diện, tốc độ cao của xã hội.
Thứ tư, HĐTH tại trường giúp nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo của
nhà trường. Mục tiêu của giáo dục đào tạo là biến quá trình đào tạo thành quá
trình tự đào tạo. Quá trình đào tạo phải tạo ra những người biết tự học, có
phương pháp tự học và tự học một cách có hiệu quả chứ không phải dạy học một
cách nhồi nhét, thụ động, áp đặt. Nhất là trong dạy học ở bậc đại học thì mục
tiêu đó càng trở nên quan trọng và có ý nghĩa, vì thực chất học ở đại học là học
phương pháp và chỉ học những kiến cơ bản mang tính chất nền tảng. Tự học một
cách sáng tạo sẽ giúp nâng cao chất lượng và hiệu quả học tập của sinh viên, từ
đó sẽ nâng cao chất lượng của quá trình giáp dục đào tạo.
Thứ năm, HĐTH ở trường sẽ giúp sinh viên ghi nhớ ngay những kiến
thức trên lớp vừa được tiếp thu, bên cạnh đó, HĐTH tại trường, sinh viên được
tạo điều kiện về cơ sở vật chất và phương tiên tự học, qua đó tăng cao hiệu quả
tiếp thu và chiếm lĩnh tri thức.

Như vậy, HĐTH tại trường đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá
trình nhận thức của sinh viên, góp phần nâng cao chất lượn đào tạo của nhà trường.

14


1.1.2.2. Hình thức tự học tại trường của sinh viên đại học
Hình thức tự học có thể diễn ra ở các mức:
Thứ nhất, tự học theo sách mà không có sự hướng dẫn của giảng viên:
Trường hợp này người học tự học để hiểu, để thẩm thấu các kiến thức trong
sách, qua đó sẽ phát triển về tư duy, tự học hoàn toàn với sách là cái đích mà
mọi người phải đạt đến để xây dựng một xã hội học tập suốt đời.
Thứ hai, tự học có giảng viên ở xa hướng dẫn: Mặc dù giảng viên ở xa
nhưng vẫn có các mối quan hệ trao đổi thông tin giữa giảng viên và sinh viên
bằng các phương tiện trao đổi thông tin thô sơ hay hiện đại dưới dạng phản ánh
và giải đáp các thắc mắc, làm bài, kiểm tra, đánh giá,...
Thứ ba, tự học có sách, có giảng viên giáp mặt một số tiết trong ngày, sau
đó sinh viên tự học dưới sự hướng dẫn gián tiếp của giảng viên.
Trong quá trình học tập trên lớp, người giảng viên có vai trò là nhân tố hỗ
trợ, chất xúc tác thúc đẩy và tạo điều kiện để sinh viên tự chiếm lĩnh tri thức.
Trong quá trình tự học ở tại trường, tuy sinh viên không trực tiếp trao đổi
với giảng viên, nhưng dưới sự hướng dẫn gián tiếp của giảng viên, sinh viên
phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động tự sắp xếp kế hoạch huy động mọi
trí tuệ và kỹ năng của bản thân để hoàn những yêu cầu do giảng viên đề ra.
1.1.2.3. Phương pháp tự học tại trường của sinh viên đại học
Phương pháp tự học là những cách thức, con đường mà sinh viên lựa
chọn, thực hiện để giải quyết và chiếm lĩnh các nội dung tự học để hoàn thành
mục đích và nhiệm vụ tự học của mình. Việc lựa chọn phương pháp tự học được
sinh viên đưa ra trên cơ sở tính đến năng lực thực tế của bản thân; sở thích và sở
trường của sinh viên; quỹ thời gian của sinh viên; mối quan hệ bạn bè (nếu tự

học cùng bạn); đặc thù của môn học; bài học và các căn cứ khác. Tuy nhiên, vai
trò của giảng viên vẫn được xác định là rất quan trọng. Họ là người cố vấn, định
hướng, giám sát, kiểm tra, đánh giá việc lựa chọn phương pháp tự học của sinh
viên dựa trên kết quả tự học và kết quả học tập cuối cùng của bản thân.
15


Phương pháp tự học là yếu tố trực tiếp tác động đến kết quả hoat động tự
học tại trường của sinh viên đại học. Nó sẽ chỉ ra, quy định cụ thể cách thức, con
đường mà chủ thể của nó (sinh viên) sẽ giải quyết và chiếm lĩnh các nội dung tự
học đã được xác định. Thông thường, với mỗi cấp học khác nhau, việc lựa chọn
phương pháp tự học cũng có sự khác biệt. Càng lên những bậc học cao hơn, tính
chất tự học càng chiếm vị trí, vai trò quan trọng hơn, mục đích và nhiệm vụ tự
học khó khăn và phức tạp hơn; nội dung tự học đa dạng, phong phú hơn thì việc
lựa chọn phương pháp tự học sẽ rất khác biệt so với các bậc học thấp hơn. Tức
là tính chủ động, tích cực và sáng tạo cũng thể hiện đậm nét hơn.
Một số phương pháp tự học của sinh viên hiện nay: Học nguyên văn lại
bài giảng; Ghi chép lại theo cách hiểu của mình về bài giảng; Học theo ý cơ bản,
trọng tâm; Lập dàn bài đề cương ngay sau khi nghe giảng; Thực hành với các
phương tiện hỗ trợ ngay sau khi học trên lớp; Tìm hiểu các tài liệu trước khi
bước vào giờ học. Sinh viên có thể kết hợp nhiều phương pháp khác nhau để tạo
ra phương pháp tự học phù hợp nhất đối với bản thân.
1.1.2.4. Nội dung tự học tại trường của sinh viên đại học
Nội dung tự học, về bản chất là những vấn đề mà người học tự lập kế
hoạch học tập, tự tổ chức triển khai hoạt động học tập đối với những vấn đề đó.
Cụ thể hơn, nội dung tự học bao gồm hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và thái
độ mà người tự học tự chiếm lĩnh (tự học) có sự hướng dẫn, tư vấn, quản lý gián
tiếp từ phía giảng viên.
Nội dung tự học được xây dựng qua hai giai đoạn.
Giai đoạn 1: sinh viên cần lĩnh hội được những kiến thức mới, những bài

học trên lớp cũng như trong cuộc sống (Tích lũy lý thuyết, lý luận…)
Giai đoạn 2: sinh viên cần vận dụng được các kiến thức đã học, đã tích
lũy... thông qua việc hoàn thành tốt các bài tập về nhà để có cơ sở tiếp thu các
kiến thức mới.

16


Hai giai đoạn này sẽ tạo thành một vòng tuần hoàn khép kín, giúp sinh
viên không ngừng tiếp thu và vận dụng các kiến thức được học.
Nội dung tự học của sinh viên đại học có thể được xây dựng dựa trên sự
hướng dẫn của giảng viên hoặc sinh viên tự xây dựng.
Thứ nhất, sau khi các giảng viên giảng dạy cho sinh viên những bài học
trên lớp, giảng viên sẽ đưa ra các nội dung tự học và yêu cầu sinh viên tự học để
hoàn thành các nội dung tự học dưới dạng bài tập về nhà là phổ biến nhất. Nội
dung tự học thường là các bài tập có tính chất minh họa phần học lý thuyết trên
lớp hoặc thực hành các kỹ năng, kỹ xảo mà trên lớp không có đủ thời gian để
thực hiện. Thông thường, nội dung tự học do giảng viên đưa ra có tính phổ biến
(phù hợp với đa số sinh viên) và sẽ được giảng viên kiểm tra, đánh giá trong
buổi học tiếp theo.
Thứ hai, sau khi lĩnh hội được kiến thức và bài học mới ở trên lớp, sinh
viên chủ động tự xác định các nội dung tự học của mình. Nội dung tự học này
thể hiện tính chủ động, tích cực và sáng tạo của sinh viên. Đặc biệt, nó thể hiện
ý thức, thái độ và trách nhiệm của sinh viên trong quá trình học tập. Việc tự xác
định nội dung tự học sẽ làm thỏa mãn nhu cầu cần học tập, khám phá, tìm tòi
của sinh viên. Tuy nhiên, đối với sinh viên chưa có năng lực học tập tốt, thái độ
học tập chưa nghiêm túc thì cần được giảng viên khuyến khích, động viên và hỗ
trợ kịp thời.
1.2. Quản lý hoạt động tự học tại trường của sinh viên đại học
1.2.1. Khái niệm quản lý hoạt động tự học tại trường của sinh viên đại học

1.2.1.1. Quản lý
Hiện nay, có nhiều cách định ngĩa khác nhau về quản lý:
Theo H.Koontz: “Quản lý là một hoạt động thiết yếu nhằm đảm bảo sự
phối hợp những nỗ lực của các cá nhân để đạt được mục đích của nhóm (tổ
chức). Mục tiêu của quản lý là hình thành một môi trường, trong đó con người

17


có thể đạt được mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất
mãn cá nhân ít nhất” [16].
Theo Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là tác động có mục đích, có kế
hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động (nói chung là khách
thể quản lý) nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến” [24].
Theo Hà Sĩ Hồ: “Quản lý là một quá trình tác động có định hướng có chủ
đích), có tổ chức, lựa chọn trong số các tác động có thể có, dựa trên các thông
tin về tình trạng của đối tượng và môi trường, nhằm giữ cho sự vận hành của đối
tượng được ổn định và làm cho nó phát triển tới mục đích đã định” [13].
Từ những phân tích trên và kế thừa định nghĩa của nhiều tác giả, căn cứ
mục tiêu, tính chất của chuyên đề, luận án, tác giả đưa ra cách định nghĩa sau
đây: “Quản lý là quá trình tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản
lý lên khách thể quản lý bằng việc vận dụng các chức năng của quản lý, nhằm
sử dụng, phát huy có hiệu quả nhất các tiềm năng và cơ hội của tổ chức để đạt
được mục tiêu đề ra”.
1.2.1.2. Quản lý hoạt động tự học tại trường của sinh viên đại học
Quản lý HĐTH có tổ chức trong các nhà trường là hoạt động thống nhất
của hội đồng sư phạm nhà trường, mọi thành viên đều tham gia vào quá trình
quản lý ở từng vị trí tương ứng với các vai trò được quy định về nhiệm vụ và
trách nhiệm quản lý hoặc tham gia tác động đến HĐTH. Trong đó, hiệu trưởng
là tổng chỉ huy, có vai trò quyết định đến hiệu quả của HĐTH; cùng với vai trò

của các chủ thể tham gia quản lý: Cố vấn học tập, giáo viên chủ nhiệm, giảng
viên, cán bộ quản lý, các phòng, khoa, nhân viên… tạo nên một quá trình đồng
bộ và liên tục trong mọi khâu quản lý tự học.
Trên cơ sở các nghiên cứu về HĐTH, quản lý giáo dục, quản lý dạy học
và yêu cầu nâng cao năng lực tự học tại trường của sinh viên trong phương pháp
dạy học tích cực, kế thừa quan điểm của các tác giả đi trước, chúng tôi đưa ra
khái niệm quản lý HĐTH như sau: “Quản lý HĐTH tại trường của sinh viên đại
18


học là những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản
lý đến các khâu của quá trình tự học tại trường của sinh viên đại học trong các
cơ sở giáo dục đại học nhằm hình thành tính độc lập, chủ động, của sinh viên,
để giúp sinh viên có phương pháp học tập hiệu quả và hoàn thành nhiệm vụ học
tập của chính bản thân mình”.
1.2.2. Mục tiêu quản lý hoạt động tự học tại trường của sinh viên đại học
Mục tiêu cao nhất của quản lý HĐTH tại trường của sinh viên đại học là
đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường. Mục tiêu quản lý
HĐTH tại trường của sinh viên đại học bao gồm các mục tiêu cụ thể sau đây:
(1) Mục tiêu đối với sinh viên: Việc quản lý HĐTH tại trường của sinh
viên đại học phải đảm bảo sinh viên hình thành động cơ tự học; kỹ năng tự học
và thói quen tự học tại trường. Tức là, sinh viên phải có nhận thức đúng đắn về
mục đích, ý nghĩa của tự học tại trường đối với bản thân; có thái độ tích cực đối
với việc học tập và rèn luyện; có ý thức tự học, tự nghiên cứu chủ động và sáng
tạo, biết khắc phục khó khăn trong học tập; có phương pháp, kỹ năng tự học,
biết vận dụng sáng tạo lý thuyết vào cuộc sống; từng bước giáo dục và hình
thành ở các sinh viên thói quen tự học bền vững và hiệu quả.
(2) Mục tiêu về điều kiện tự học: Nhà trường đảm bảo điều kiện về cơ sở
vật chất, các trang thiết bị về trang thiết bị về tự học tại trường cho sinh viên
đại học.

(3) Mục tiêu kiểm soát: Nhà trường thực hiện việc kiểm tra, đánh giá
HĐTH tại trường của sinh viên đại học, đảm bảo tính công bằng, khách quan,
tạo động lực cho quá trình tự học tại trường của sinh viên.
1.2.3. Nội dung quản lý hoạt động tự học tại trường của sinh viên đại học
Quản lý HĐTH tại trường của sinh viên đại học có rất nhiều cách tiếp cận
để nghiên cứu và chỉ ra các nội dung quản lý như tiếp cân theo các nội dung
quản lý cụ thể, tiếp cận theo quá trình, tiếp cận theo chức năng quản lý… Trong
phạm vi luận văn, tác giả sẽ dựa vào cách tiếp cận chức năng quản lý để nghiên
19


cứu quản lý HĐTH tại trường của sinh viên đại học. Từ việc tiếp cận chức năng
quản lý trong nghiên cứu quản lý hoạt động tự học tại trường của sinh viên đại
học, xác định được 4 nội dung quản lý hoạt động này. Các nội dung này được
trình bầy cụ thể dưới đây.
1.2.3.1. Lập kế hoạch hoạt động tự học tại trường của sinh viên đại học
Kế hoạch tự học tại trường của sinh viên đại học là bảng phân chia thời
gian tự học một cách hợp lý dựa trên yêu cầu, nhiệm vụ tự học, khả năng của
bản thân và các điều kiện được đảm bảo nhằm hướng tới mục tiêu học tập, mục
tiêu môn học và mục tiêu đào tạo của nhà trường. Kế hoạch tự học tại trường
giúp cho sinh viên thực hiện được nhiệm vụ tự học một cách khoa học và hiệu
quả tại trường của mình.
Với chức năng quản lý HĐTH tại trường của sinh viên đại học, việc quản
lý lập kế hoạch cho HĐTH tại trường của sinh viên đại học là việc đầu tiên,
quan trọng cần phải thực hiện để tính toán, xác định phương hướng hoạt động,
quy trình, bước đi, thời gian, phân công trách nhiệm, huy động nguồn lực cho
HĐTH tại trường của sinh viên đại học.
Nội dung lập kế hoạch tự học tại trường của sinh viên đại học
Thứ nhất, quản lý công tác xây dựng kế hoạch cho HĐTH của sinh viên
đại học cần phải phải xác định được mục tiêu, chương trình, nội dung của

HĐTH tai trường; vai trò của các chủ thể, khách thể trong HĐTH tại trường
của sinh viên; quá trình tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra, đánh giá HĐTH tại trường
của sinh viên.
Thứ hai, quản lý lập kế hoạch cho HĐTH tại trường của sinh viên đại học
phải được sự thống nhất của các đơn vị liên quan, phù hợp với những định
hướng về phát triển giáo dục và đào tạo của nhà trường;
Thứ ba, quản lý việc lập kế hoạch cho HĐTH của sinh viên phải đảm bảo
tính khả thi; kịp thời; khoa học.

20


×