Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Kiểm sát điều tra tội giết người từ thực tiễn tỉnh hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 76 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

N U

N MINH TI N

KI M S T I U TRA TỘI I T N
IT
THỰC TI N TỈNH H N
ÊN
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số

: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: P S TS Ho n T ị M n S n

HÀ NỘI - 2017


L I CAM OAN

tr
s

tr t



M

ơ

C

trí

tr

v

t
t

u

t

v


u

uậ vă
t

u số ệu kết quả v
ả bả t




bố Nếu p

t

u tr

ệ tr

í


tru
bất k




Hà Nội, ngày 30 tháng 8 ă 2017
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

N U

N MINH TI N

t




DANH MỤC C C CHỮ VI T TẮT

ADPL

:

Áp dụng pháp luật

BLHS

:

Bộ luật hình sự

BLTTHS

:

Bộ luật Tố tụng Hình sự

CQĐT

:

Cơ quan điều tra

ĐC

Đình chỉ


ĐCĐT

:

Đình chỉ điều tra

ĐTV

:

Điều tra viên

KTBC

:

Khởi tố bị can

KTVA

:

Khởi tố vụ án

KTVA,BC

:

Khởi tố vụ án, bị can


KSV

:

Kiểm sát viên

QCT

:

Quyền công tố

TAND

:

Toà án nhân dân

TĐCĐT

:

Tạm đình chỉ điều tra

THQCT

:

Thực hành quyền công tố


TTHS

:

Tố tụng hình sự

VKS

:

Viện kiểm sát

VKSND

:

Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa

1


MỤC LỤC
MỞ ẦU..............................................................................................

C ư n 1: NHỮN
TRA TỘI

I TN

VẤN

LÝ LUẬN V

KI M S T

1

I U

I.......................................................................

7

1.1.

Khái niệm, đặc điểm kiểm sát điều tra tội Giết người..............................

7

1.2.

Nội dung kiểm sát điều tra tội giết người.................................................

13


1.3.

Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra với Viện kiểm sát trong kiểm sát tư pháp
hoạt động điều tra tội giết người

14

Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN
HÀNH VỀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA TỘI GIẾT NGƯỜI.........................
2.1.

Quy định về kiểm sát các hành vi, quyết định của cơ quan có thẩm
quyền điều tra .........................................................................................

2.2.

32

Quy định về kiểm sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của những
người tham gia tố tụng và thực hiện nhiệm vụ quyền hạn khác………...

2.4.

19

Quy định về kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn
chặn ........................................................................................................

2.3.


19

35

Quy định về trách nhiệm của cơ quan điều tra trong việc thực hiện yêu
cầu và quyết định của viện kiểm sát.........................................................
C ư n

3: THỰC TI N THỰC HIỆN VÀ C C

NÂN

CAO CHẤT L ỢN

N

I TẠI TỈNH H N

KI M S T

37

IẢI PH P

I U TRA TỘI

I T

ÊN..........................................................


40

3.1.

Thực tiễn kiểm sát điều tra tội Giết người tại tỉnh Hưng Yên..................

40

3.2.

Các giải pháp nâng cao chất lượng kiểm sát điều tra tội Giết người tại
tỉnh Hưng Yên.........................................................................................

61

K T LUẬN............................................................................................

68

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………..

69

2


MỞ ẦU
1 Tín cấp t ết của đề t
Cải cách tư pháp là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước

hiện nay để tiến tới xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh,
bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa. Chủ trương này đã được thể hiện cụ thể trong các Nghị quyết của
Đảng. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định:
“ r
t

ắt V ệ k ể
qu ề

tổ
kể

s tt

p ù
vệ

s t

tố v k ể
pv

ệt ố
tố tă


s t


ạt ộ

tổ


u
t p


tr

ă
p Vệ Kể
N




uvệ
tố tr

s t
u ể vệ
ạt ộ

ều tr ”[4].
Thực tiễn kiểm sát điều tra vụ án hình sự cho thấy, cùng với những vấn đề lý
luận về kiểm sát điều tra vụ án hình sự chưa có sự thống nhất trong nhận thức thì
quy định của Pháp luật tố tụng hình sự về vấn đề này cũng còn nhiều nội dung cần

được làm rõ.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, công cuộc đổi mới của đất nước trong những
năm qua đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên nhiều mặt về kinh tế, chính trị, văn
hóa xã hội, đời sống của nhân dân ngày càng nâng cao, đất nước ta ngày càng vững
bước đi trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cùng với những thành tựu
đã đạt được, nhiều vấn đề tiêu cực trong xã hội cũng nảy sinh, trong đó tình hình tội
phạm nói chung, tội phạm giết người nói riêng cũng có nhiều diễn biến phức tạp và
có chiều hướng gia tăng. Trong bối cảnh chung đó, tình hình tội phạm giết người
xảy ra trên địa bàn tỉnh Hưng Yên cũng có nhiều diễn biến khó lường. Số vụ giết
người xảy ra ở hầu hết các địa phương trên địa bàn tỉnh, các vụ có xu hướng gia
tăng với tính chất ngày càng nghiêm trọng với thủ đoạn ngày càng tinh vi, kỹ xảo
hơn trước. Trước tình hình trên, các cơ quan pháp luật tỉnh Hưng Yên đã tập trung

1


thực hiện tốt công tác đấu tranh và phòng ngừa, nên tình hình tội phạm này đã từng
bước được ổn định.
Sức khỏe, tính mạng là những giá trị cao nhất của con người, được pháp luật
tôn trọng và bảo vệ. Những tội phạm xâm phạm về sức khỏe và tính mạng con
người được quy định ở nhiều tội danh khác nhau trong Bộ luật hình sự (BLHS).
Trong số những tội danh được quy định thì giết người là một loại tội phạm rất
nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm trực tiếp đến tính mạng con
người khác, những hành vi nhằm tước đoạt tính mạng của người khác luôn luôn bị
xã hội kịch liệt lên án.
Do đặc điểm của loại tội phạm giết người mang tính bạo lực, xâm phạm
trực tiếp đến khách thể quan trọng là quyền bất khả xâm phạm về thân thể của
công dân. Mục đích của loại tội phạm này là nhằm chấm dứt, tước đoạt đi sự sống
còn của một con người nên hậu quả của nó để lại vô cùng nhiều hệ lụy đau thương
cho gia đình nói riêng và cho toàn thể xã hội nói chung, bên cạnh đó còn làm ảnh

hưởng đến tình hình an ninh, chính trị, trật tự ở địa phương, gây bất bình, hoang
mang, phẫn nộ trong quần chúng nhân dân.
Do đó, để loại tội phạm này được xử lý đúng người, đúng tội, nghiêm minh,
nhằm góp phần tạo sự răn đe, hạn chế tối đa và phòng ngừa chung trong cộng đồng
về loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh Hưng Yên thì hoạt động kiểm sát điều tra của
Viện kiểm sát đối với loại tội phạm giết người là vô cùng cần thiết. Với lý do đó, tôi
chọn đề tài: “Kiểm sát điều tra tội giết người từ thực tiễn tỉnh Hưng Yên” làm
luận văn thạc sĩ của mình.
2 Tìn

ìn n

ên cứu đề t

Do tính chất đặc biệt nghiêm trọng của tội phạm giết người trong nhóm tội
phạm xâm phạm tính mạng sức khỏe của con người và điều tra có vai trò quan trọng
trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án nhằm xác định đúng tội phạm và
người thực hiện hành vi phạm tội nên Hoạt động kiểm sát điều tra nói chung cũng
như tội giết người và một số nội dung liên quan đã được một số tác giả nghiên cứu.
Trong đó có thể liệt kê một số công trình khoa học sau:

2


- Lê Hữu Thể (chủ biên), Đỗ Văn Đương, Nông Xuân Trường (2005),
qu ề

tố v k ể s t

ạt ộ


t p p tr



c

ều tr , Sách

chuyên khảo, NXB Tư pháp, Hà Nội [32]. Nội dung cuốn sách chỉ đề cập đến
những vấn đề lý luận chung về thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp; mối quan hệ giữa hai chức năng này trong tố tụng hình sự cũng như quyền
công tố trong pháp luật của một số nước trên thế giới mà không nghiên cứu thực
tiễn hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng
hình sự
- Mai Văn Thùy (2011), C

ă

Vệ kể

s t tr

tố tụ

s

Luậ vă t ạ sĩ [34]. Luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ một số lý luận về chức
năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự. Tổng kết, phân tích, đánh giá, nhận xét thực tiễn thực hoạt động thực hành

quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ
án hình sự của VKSNDTP Hải Phòng từ năm 2004 - 2011. Đề xuất các phương
hướng, xây dựng các giải pháp để khắc phục những hạn chế của Viện kiểm sát trong
quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình để nâng cao chất lượng của hoạt
động này trong thời gian tới đồng thời cũng nhằm nâng cao vị thế của ngành kiểm
sát trong hoạt động bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền và tự do của công dân.
- Nguyễn Anh Thương (2017), K ể s t
tụ

s V ệt N

t t

tễ t

p ố

ều tr tộ
ồC íM

ết

ờ t e p p uật tố

, Luận văn Thạc sĩ [35].

Luận văn đã làm rõ một số vấn đề chung và đặc điểm, nội dung của công tác kiểm sát
điều tra tội giết người; làm rõ thực trạng công tác kiểm sát điều tra tội giết người trên
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và chỉ ra một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt
động kiểm sát điều tra tội giết người trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.

- Viện khoa học kiểm sát – Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006), ổ t
Kể

s tv

s , Nxb. Văn hoá dân tộc, tập 1 [43]. Cuốn sách đã phân tích,

làm rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
THQCT và kiểm sát tuân theo pháp luật trong TTHS nói chung và trong giai đoạn
điều tra theo quy định của pháp luật.

3


- Nguyễn Hoà Bình (chủ biên) (2016), N ữ
tụ

s

ă



u

tr

Bộ uật ố

2015, Nxb. Chính trị quốc gia [1]. Cuốn sách chuyên khảo này


bao gồm nhiều bài viết của các nhà luật học, đi sâu phân tích những điểm mới của
BLTTHS năm 2015 so với BLTTHS năm 2003 về thủ tục tố tụng hình sự. Đặc biệt,
trong cuốn sách chuyên khảo này đã có những bài viết tập trung phân tích, làm rõ
những điểm mới của BLTTHS năm 2015 so với BLTTHS năm 2003 về nhiệm vụ,
quyền hạn của VKS khi kiểm sát xét xử vụ án hình sự.
Ngoài ra còn có một số các công trình khác cũng có nội dung liên quan đến luận
văn như: Nguyễn Tiến Sơn (2009),
ạt ộ

t p

sỹ Luật học: "Qu
tr

vụ

p tr


ết

tố tụ

qu ề

s t

v Cơ qu


s t

ều tr tr

ều

ờ " (2006), tác giả Phạm Quang Định, Học viện Cảnh sát

vụ

ọ rút r t

t

kể

tố v k ể

s tk



s " (1998), tác giả Dương Thanh Biểu - Tiến sỹ Luật,

Phó Viện trưởng Viện KSND tối cao. Chuyên đề: "Một số k
qu ề C

tố v k ể

s , Tạp chí kiểm sát, (09); Luận văn thạc


ữ Vệ kể

nhân dân; Chuyên đề: "Một số b
ệ tr ò

b ệt t

s t

ều tr

vụ

ết



tr

t

ờ " (2010), tác giả Vũ

Việt Hùng - Phó Vụ trưởng Vụ 1A - Viện KSND tối cao.
Ngoài ra còn các luận án, luận văn; nhiều bài viết có liên quan đến lĩnh vực này
của nhiều tác giả đăng trên các tạp chí chuyên ngành như Tạp chí kiểm sát, Tạp chí Toà
án, Tạp chí luật học của Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Tạp chí Công an
nhân dân… Qua nghiên cứu những công trình trên (trong đó có tác giả đã nghiên cứu
về vấn đề thực hành quyền công tố ở địa phương) cho thấy có nhiều quan điểm lý luận

học viên có thể kế thừa và phát triển khi nghiên cứu và hoàn thành luận văn nhưng
chưa có bất kỳ công trình khoa học nào trùng lặp với đề tài của luận văn này.
3 Mục đíc và n ệm vụ n

ên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý
luận, pháp luật về hoạt động KSĐT nói chung và thực tiễn áp dụng đối với tội giết
người trên địa bàn tỉnh Hưng Yên nói riêng, luận văn đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng hoạt động KSĐT các vụ án giết người.

4


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát nhân dân như
khái niệm, đặc điểm, nội dung và phạm vi kiểm sát điều tra tội giết người;
- Làm rõ quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về kiểm sát điều tra tội
giết người của Viện kiểm sát nhân dân.
- Làm rõ thực trạng kiểm sát điều tra, những vướng mắc, hạn chế, thiếu sót trong
công tác kiểm sát điều tra tội giết người ở tỉnh Hưng Yên.
4

ố tượn v p ạm v n

- Đố t

ên cứu


u

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, quy định của
pháp luật và thực tiễn KSĐT tội giết người.
-

ạ v

u

Đề tài xác định phạm vi nghiên cứu là hoạt động KSĐT các vụ án giết người
trong thời gian từ năm 2011 đến năm 2016 trên địa bàn tỉnh Hưng Yên. Luận văn
chỉ nghiên cứu hoạt động kiểm sát điều tra tội giết người từ khi có quyết định khởi
tố vụ án hình sự đến khi kết thúc điều tra.
5 P ư n p áp luận v các p ư n p áp n

ên cứu

- Phương pháp luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp chủ nghĩa
duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước
pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong
các Văn kiện Đại hội Đảng VIII, IX, X, XI và các Nghị quyết số 08/NQTW ngày
02/01/2002, Nghị quyết số 49/NQTW ngày 26/5/2005 về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
- Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử
dụng các phương pháp cụ thể như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương
pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương
pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng

các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.

5


6 Ýn

ĩa lý luận v t ực t ễn của luận văn

Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hoạt động của
VKSND khi KSĐT các vụ án giết người, góp phần xây dựng, hoàn thiện các tri
thức của khoa học Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự và khoa học điều tra hình sự.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành
cho không chỉ các nhà lập pháp mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng
dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên
ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn
phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang
công tác tại các CQĐT, VKS, Tòa án và cơ quan thi hành án trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật.
7 Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
C

ơ

C ơ

1: Những vấn đề lý luận về kiểm sát điều tra tội giết người
2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về kiểm sát điều tra


tội giết người
C

ơ

3: Thực tiễn thực hiện và giải pháp nâng cao chất lượng kiểm sát điều

tra tội giết người ở tỉnh Hưng Yên.

6


C ư n 1
NHỮN

VẤN

LÝ LUẬN V KI M S T I U TRA
TỘI

I TN

I

1 1 K á n ệm, đặc đ ểm k ểm sát đ ều tra tộ

ết n ườ

1.1.1. Khái niệm kiểm sát điều tra tội giết người

K

ệ tộ

ết



Tội phạm, theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam là những hành vi
nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến các khách thể được pháp luật hình sự Việt Nam
bảo vệ. Đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người
có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích
hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài
sản, các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật
tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Mỗi một tội phạm đều cấu tạo bởi 4 yếu tố cấu thành bao gồm: Khách thể của
tội phạm, mặt khách quan của tội phạm; mặt chủ quan của tội phạm và chủ thể của
tội phạm. Nếu một hành vi nguy hiểm cho xã hội không thoả mãn 4 yếu tố cấu
thành tội phạm thì không bị coi là tội phạm và người thực hiện hành vi này không
phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, mỗi một tội phạm đều có những dấu hiệu
đặc trưng riêng, đây chính là cơ sở để phân biệt tội phạm này với tội phạm khác.
Tội giết người được quy định tại Điều 93 của BLHS năm 1999 và Điều 123
BLHS năm 2015 về cơ bản không có gì khác nhau. Theo đó, tộ
v

ốý
tr


r

ết


-K

s v

ờ k
ã ế tuổ

ột
u tr

tr

p


ết

ờ là hành

p uật
s t



ă




ệ k ể s t ều tr

Theo Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học thuộc Viện ngôn ngữ
Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia xuất bản năm 2000 thì kiểm sát có
nghĩa là kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật của Nhà nước [52]. Theo Từ
điển bách khoa Việt Nam xuất bản năm 2002 do Hội đồng Quốc gia biên soạn thì

7


kiểm sát là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nhằm kiểm tra, giám sát việc tuân
thủ pháp luật của cơ quan nhà nước [12].
Với các hiểu trên thì kiểm sát gồm hai loại hoạt động cơ bản là giám sát và kiểm
tra. Hoạt động giám sát là hoạt động theo dõi các hoạt động của các đối tượng bị giám
sát và khi cần thiết thì sử dụng các biện pháp tác động phù hợp để yêu cầu người, cơ
quan bị giám sát có hành vi vi phạm pháp luật sửa chữa vi phạm đó. Hoạt động kiểm
tra là hoạt động xem xét, đánh giá hoạt động của người, cơ quan bị kiểm tra.
Khoa học luật TTHS Việt Nam hiện nay chưa có một định nghĩa thống nhất về
khái niệm “k ể

s t

ều tr ”. Theo đó, nội dung của khái niệm “k ể s t” là hoạt

động kiểm tra, giám sát, với đối tượng kiểm tra, giám sát là việc chấp hành pháp
luật. Nhưng khái niệm nêu trên còn chung chung, chưa chỉ ra được chủ thể của hoạt
động kiểm sát.

Theo quy định của pháp luật hiện hành: “V ệ k ể
t

qu ề
ĩ V ệt N

tố k ể

s t

ạt ộ

t p

s t

ơ qu

p

Cộ

ò

ã ộ

” (Khoản 1 Điều 2 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm

2014). Pháp luật TTHS hiện hành nước ta quy định VKS là cơ quan thực hiện chức
năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng

hình sự nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời; việc khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không
để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội (Khoản 3 Điều 23
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003).
Như vậy, “k ể

s t” là một loại quyền lực của Nhà nước, do Viện kiểm sát

thực hiện với đối tượng kiểm tra, giám sát là việc chấp hành pháp luật của Nhà
nước nói chung và của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người
tham gia tố tụng trong lĩnh vực TTHS nói riêng [8, tr.12, 13].
Tuy nhiên, hoạt động “k ể

tr

s tvệ

ấp

p

p uật

N

” trong TTHS không chỉ có VKS, mà còn có các chủ thể khác như: người tham
gia tố tụng, các cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử, cá nhân công dân và toàn thể xã
hội nói chung. Quyền “k ể tr

s tvệ


ấp

p

p uật

N



trong tố tụng hình sự của các chủ thể khác xuất phát từ những nguyên tắc cơ bản

8


của Hiến pháp và pháp luật về tổ chức bộ máy Nhà nước và quyền công dân. Đối
với những chủ thể này, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng không phải là chức năng hoạt động giống như Viện kiểm
sát, mà là các quyền, nghĩa vụ phái sinh từ chức năng hoạt động hay các quyền, các
hoạt động mang tính tự nguyện nhằm hướng tới việc phát hiện kịp thời vi phạm
pháp luật và loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân trong
tố tụng hình sự. Tuy nhiên, các hoạt động trên không thể coi là hoạt động kiểm sát
việc tuân theo pháp luật (hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước) trong tố tụng
hình sự, mà chỉ là các hoạt động giám sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình
sự. Sự khác nhau giữa hoạt động kiểm sát của VKS và hoạt động giám sát của các
chủ thể khác chính là hình thức thực hiện các quyền năng mà pháp luật TTHS cho
phép (tính được đảm bảo bằng quyền lực Nhà nước). Chính điều này làm cho hoạt
động giám sát của các chủ thể khác không thể hiện được tính ưu việt giống như hoạt
động “k ể s t” của Viện kiểm sát.

- Về ố t

ạt ộ

kể s t

ều tr vụ

s

Hiện nay, trong các văn bản pháp luật hiện hành xuất hiện hai thuật ngữ “k ể
s t

ạt ộ

t p p” (theo Hiến pháp và Luật tổ chức VKSND hiện hành) và

“k ể s t v ệ tu

t e p p uật” (theo BLTTHS hiện hành) để cùng nói về chức

năng kiểm sát của VKSND trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Việc này gây khó hiểu
cho người nghiên cứu.
Theo Từ điển luật học do Viện khoa học pháp lý – Bộ tư pháp xuất bản năm
2006, thì “k ể

s t

ạt ộ


t p

tuân theo ph p uật ố v
ữ ả tạ
k ệ tụ


ơ qu
tr

v t ố

p

kể

ạt ộ
tế


ều tr
tố tụ

bả

tr



s t e

tru tố

v

ét t e

ét ử t

ả qu ết
p

p uật

õ vệ

v p ạ p

p

ấp

ất [5]. Theo khái niệm này thì đối tượng của kiểm sát hoạt động

tư pháp trong lĩnh vực TTHS là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong
lĩnh vực tố tụng hình sự.
Nhưng theo quy định của pháp luật TTHS hiện hành thì hoạt động kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong TTHS của VKS nhằm kịp thời phát hiện vi phạm

9



pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham
gia tố tụng, áp dụng những biện pháp theo quy định của BLTTHS hiện hành để loại
trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này (Khoản 2 Điều 23
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003). Theo quy định này, đối tượng của hoạt động
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS không chỉ là hoạt động của các cơ
quan tiến hành tố tụng, mà còn bao gồm hoạt động của người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng.
Do đó, khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS rộng hơn khái
niệm kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự [17, tr.10]. Theo quy định
của pháp luật TTHS hiện nay, khái niệm “kiểm sát điều tra vụ án hình sự” cần được
hiểu là “kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong điều tra vụ án hình sự”.
Về thuật ngữ “tuân theo pháp luật” trong “kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong điều tra vụ án hình sự” cũng cần được hiểu thống nhất. “Tuân theo pháp luật”
cần được hiểu là một thuật ngữ pháp lý thống nhất mang tính chỉnh thể để chỉ một
trong bốn hình thức thực hiện pháp luật. Theo lý luận chung về pháp luật, bốn hình
thức thực hiện pháp luật gồm: Tuân thủ pháp luật (tuân theo pháp luật) là hình thức
thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế, không tiến hành
những hoạt động mà pháp luật cấm. Các quy phạm pháp luật cấm được thực hiện ở
hình thức này; thi hành (chấp hành) pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong
đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lí của mình bằng hành động tích
cực; sử dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp
luật thực hiện quyền, tự do pháp lí của mình (những hành vi mà pháp luật cho phép
chủ thể tiến hành); áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà
nước thông qua các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền tổ chức
cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật hoặc tự mình căn
cứ vào các quy định của pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi,
đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể [37, tr.183, 184].
Như vậy, “tuân theo pháp luật” chỉ là một hình thức thực hiện pháp luật ở mức
độ tự giác thấp. Nếu hiểu “tuân theo pháp luật” trong khái niệm “kiểm sát việc tuân

theo pháp luật trong điều tra vụ án hình sự” như trên thì nội hàm của thuật ngữ

10


“kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong điều tra vụ án hình sự” sẽ bị thu hẹp lại đáng
kể. Trong khi đó, pháp luật thực định cho thấy đối tượng của “kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong giai đoạn điều tra” không chỉ có hoạt động tuân theo pháp luật ở mức
độ tự giác thấp mà còn có những hoạt động thực hiện pháp luật ở mức độ cao hơn và
những hoạt động này chiếm tỉ lệ đa số. Đó là những hoạt động áp dụng pháp luật, sử
dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong
giai đoạn điều tra. Việc “tuân theo pháp luật trong điều tra vụ án hình sự” ở góc độ
thực tế phải bao hàm tất cả các hình thức thực hiện pháp luật nêu trên.
Bởi vậy, đối tượng của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai
đoạn điều tra VAHS là hoạt động thực hiện pháp luật của cơ quan điều tra, cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; người tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án tại giai đoạn điều tra vụ án
hình sự.
Nội dung của hoạt động kiểm sát điều tra vụ án hình sự là tổng hợp những
hoạt động mà pháp luật TTHS quy định mà VKS phải thực hiện khi kiểm sát điều
tra vụ án hình sự.
Như đã phân tích trên, theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 thì, VKSND thực hiện chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến
pháp và pháp luật. Đồng thời BLTTHS năm 2003 quy định, VKSND kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong TTHS có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật
của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng,
áp dụng những biện pháp do bộ luật này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật
của những cơ quan hoặc cá nhân này.
Gắn liền với hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra là các công tác kiểm sát việc

tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của Cơ quan điều tra. Kiểm sát
điều tra là một bộ phận cấu thành của kiểm sát các hoạt động tư pháp - chức năng hiến
định thứ hai của VKSND trong lĩnh vực tố tụng hình sự, cùng với chức năng thực hành
quyền công tố.

11


Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn của quá trình TTHS do Cơ quan có
thẩm quyền điều tra vụ án hình sự tiến hành nhằm thu thập đầy đủ chứng cứ chứng
minh về tội phạm. Giai đoạn điều tra là giai đoạn tiếp theo sau của giai đoạn khởi tố
được tiến hành trên cơ sở quyết định khởi tố của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Giai đoạn điều tra được bắt đầu từ khi có QĐKT và kết thúc khi CQĐT hoàn thành
bản kết luận điều tra và quyết định đề nghị truy tố người phạm tội ra trước Tòa án
hoặc ra quyết định đình chỉ điều tra [36, tr.96].
Từ sự phân tích trên có thể đưa ra khái niệm kiểm sát điều tra tội giết người
như sau: K ể
ể kể

s t

s t tí

ều tr tộ


tố tụ

ết
ơ qu

p



ạt ộ

pp p

qu
r

ết

tổ

v qu ết

vụ t ế
ờ k

Vệ kể

ột số
ột
k

tr
k

ạt ộ

p

ều tr

p uật;

tr

s t

ơ qu

ều tr

ơ

ố v

v

ốý



ều tr vụ

ờ t
s t e qu

p uật


1.1.2. Đặc điểm kiểm sát điều tra tội giết người
Từ việc nhận thức về hoạt động KSĐT tội giết người nói chung cho thấy, hoạt
động kiểm sát điều tra tội giết người có một số đặc điểm cụ thể như sau:
ất, kiểm sát điều tra tội giết người là một trong những chức năng của
Viện kiểm sát nhân dân có mối quan hệ chặt chẽ với chức năng hoạt động thực hành
quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra tội giết người.
, hoạt động kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử
thi, kiểm sát việc giám định để xác định nguyên nhân chết người...là những hoạt
động đặc trưng của kiểm sát điều tra tội giết người trong giai đoạn điều tra.
b

hoạt động kiểm sát điều tra tội giết người chỉ do VKSND tiến hành

theo quy định của pháp luật. Chủ thể thực hiện hoạt động KSĐT chỉ có thể là Kiểm
sát viên và Viện trưởng, Phó viện trưởng VKSND có thẩm quyền và có sự phối hợp
với các chủ thể khác có liên quan theo quy định của BLTTHS, Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân.Thông qua việc thực hiện chức năng này, VKSND góp phần bảo
vệ chế độ XHCN, bảo đảm mọi hành vi xâm phạm tới lợi ích nhà nước, của tập thể
và lợi ích hợp pháp của công dân phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

12


t

quá trình kiểm sát điều tra tội giết người, Kiểm sát viên chỉ được áp

dụng các biện pháp và phương tiện theo quy định của pháp luật và theo chức năng,
quyền hạn của ngành Kiểm sát nhân dân và của Kiểm sát viên trong giai đoạn điều

tra vụ án. Hoạt động KSĐT của VKSND trong giai đoạn điều tra các vụ án giết
người được diễn ra trực tiếp, đồng thời và đề cập một cách toàn diện mọi hành vi tố
tụng của giai đoạn điều tra; Hoạt động này chịu sự chi phối bởi đặc điểm của hoạt
động điều tra của CQĐT, nhằm mục đích bảo đảm tuân thủ pháp luật trong giai
đoạn điều tra, tạo điều kiện cho giai đoạn truy tố, xét xử.
ă

hoạt động kiểm sát điều tra được tiến hành từ khi có quyết định khởi

tố vụ án hình sự và kết thúc khi vụ án được chuyển sang giai đoạn truy tố. Hoạt
động KSĐT của VKSND được tiến hành công khai theo đúng trình tự, thủ tục do
BLTTHS và các văn bản hướng dẫn thực hiện bộ luật tố tụng hình sự.
s u, đối tượng của hoạt động kiểm sát điều tra tội giết người chủ yếu là các
hành vi và quyết định của cơ quan cơ quan cảnh sát điều tra cấp tỉnh. Theo quy định
của pháp luật TTHS thì tội giết người thuộc thẩm quyền điều tra của cơ quan điều tra
cấp tỉnh. Cơ quan điều tra cấp huyện không có thẩm quyền điều tra tội giết người.
1.2 Nộ dun k ểm sát đ ều tra tộ
ết

ất k ể

ết n ườ

v qu ết

sát

ơ qu

tế


ều tr tộ

ờ : kiểm sát việc khởi tố bị can; kiểm sát các hoạt động điều tra trong vụ án

giết người như kiểm sát khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi; kiểm sát
hoạt động hỏi cung bị can; kiểm sát hoạt động lấy lời khai người làm chứng; kiểm
sát hoạt động khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản của Cơ quan điều tra...;
kiểm sát quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra tội giết người của Cơ quan Cảnh
sát điều tra; kiểm sát hoạt động lập hồ sơ vụ án giết người; kiểm sát việc áp dụng,
thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn trong vụ án giết người.
tr

kể
ều tr vụ

s t v ệ tu
ết

t e p

p uật

ờ t

tố tụ

tr




Theo quy định của pháp luật thì, Viện kiểm sát kiểm sát hoạt động tố tụng
hình sự của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật. Kiến

13


nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm
pháp luật. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát hoạt động tư pháp
theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Thực hiện quyền năng này KSV chủ
động yêu cầu Điều tra viên giải thích và đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của
người bị bắt, bị tạm giữ, bị can và những người tham gia tố tụng khác trong hoạt
động điều tra theo quy định của pháp luật. Việc giải thích quyền và nghĩa vụ của
người tham gia tố tụng phải được ghi vào biên bản và đưa vào hồ sơ vụ án theo quy
định BLTTHS. Mọi vi phạm pháp luật liên quan đến việc thực hiện quyền và nghĩa
vụ của người tham gia tố tụng phải được phát hiện và khắc phục kịp thời.
b t



ệ vụ qu ề

ạ k

tr

kể s t

ều tr vụ


ết

ờ . Đó là các hoạt động như, giải quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra; Yêu
cầu Cơ quan điều tra cung cấp tài liệu liên quan để kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc khởi tố, điều tra khi cần thiết; Kiến nghị, yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khắc phục vi phạm
trong việc khởi tố, điều tra; Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra, cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thay đổi Điều tra viên, cán bộ
điều tra; xử lý nghiêm minh Điều tra viên, cán bộ điều tra vi phạm pháp luật trong
hoạt động tố tụng; Kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp phòng
ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật; Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong
kiểm sát điều tra vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
1 3 Mố quan ệ

ữa C quan đ ều tra vớ V ện k ểm sát tron k ểm sát

tư p áp oạt độn đ ều tra tộ

ết n ười.

Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và
Luật Tổ chức VKSND năm 2014, THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật là
hai chức năng của VKS trong tố tụng hình sự. Theo đó, thực hành quyền công tố là
hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc
tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử vụ án hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố
nhằm bảo đảm: Mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố,


14


điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội; Không
để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con người,
quyền công dân trái luật.
Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm
sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, đây cũng chính là kiểm sát
các hoạt động tư pháp hình sự. Hoạt động tư pháp hình sự là hoạt động của các chủ
thể trong các giai đoạn tố tụng hình sự, là hoạt động chỉ do các cơ quan tư pháp và
các cơ quan được giao thực hiện một số thẩm quyền về tư pháp thực hiện. Mục đích
của kiểm sát hoạt động tư pháp hình sự nhằm bảo đảm cho pháp luật được chấp
hành nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án hình sự. Viện kiểm sát có trách nhiệm áp dụng những biện pháp do BLTTHS
quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan tư pháp hoặc cán bộ
tư pháp nào. Để bảo đảm thực hiện quyền công tố trong đấu tranh chống tội phạm,
Nhà nước phải ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, trong đó quy định các
quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố. Các quyền năng pháp lý đó Nhà
nước giao cho cơ quan nhà nước nào thực hiện để phát hiện tội phạm và truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, thì cơ quan ấy được gọi là cơ quan có
trách nhiệm THQCT [15, tr.38].
Trong lĩnh vực tư pháp hình sự, VKS có hai chức năng là thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Đây là hai chức năng độc lập, nhưng có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Việc thực hiện đồng thời hai hoạt động THQCT và
kiểm sát hoạt động tư pháp trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự là mang tính
khách quan; do vậy, giữa hai hoạt động này luôn có mối quan hệ với nhau. Mối

quan hệ đó được thể hiện ở các phương diện sau:
- Để thực hiện tốt quyền công tố, có nghĩa là bảo đảm việc phê chuẩn hoặc
không phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn; phê

15


chuẩn hoặc không phê chuẩn các quyết định tố tụng khác của CQĐT đuợc chính
xác, đúng pháp luật, đòi hỏi phải kiểm tra chặt chẽ tính có căn cứ và tính hợp pháp
của các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự mà CQĐT quyết định áp dụng, hoạt
động kiểm tra này chính là thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Trên cơ sở kết quả của hoạt động kiểm sát thấy rằng, quyết định áp dụng các biện
pháp cưỡng chế tố tụng hình sự có căn cứ và hợp pháp thì VKS sẽ quyết định phê
chuẩn để thi hành, ngược lại nếu xét thấy quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế
về tố tụng hình sự của CQĐT không có căn cứ và không hợp pháp, VKS sẽ quyết
định không phê chuẩn hoặc quyết định huỷ bỏ quyết định tố tụng trái pháp luật của
CQĐT, đồng thời yêu cầu CQĐT chấm dứt ngay các hoạt động tố tụng. Theo quy
định của BLTTHS năm 2003 quyết định khởi tố bị can của CQĐT và các cơ quan
khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải được VKS cùng
cấp phê chuẩn. Do vậy, để phê chuẩn hay huỷ bỏ quyết định khởi tố bị can của
CQĐT thì VKS phải tiến hành hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
việc khởi tố bị can của CQĐT nhằm bảo đảm quyết định khởi tố bị can có căn cứ và
hợp pháp, nếu qua hoạt động kiểm sát xét thấy quyết định khởi tố bị can có căn cứ
và hợp pháp thì VKS quyết định phê chuẩn để CQĐT tiến hành hoạt động điều tra,
ngược lại quyết định khởi tố bị can không có căn cứ thì VKS quyết định huỷ bỏ
quyết định khởi tố bị can của CQĐT.
- Việc thực hiện công tác kiểm sát các hoạt động tư pháp sẽ làm tiền đề cho
hoạt động THQCT được thực hiện một cách chính xác, nếu có sai sót, vi phạm
trong việc thực hiện kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra sẽ kéo
theo sự vi phạm pháp luật của hoạt động THQCT. Tuy nhiên, trong giai đoạn điều

tra khi hoạt động THQCT của VKS được thực hiện cũng sẽ làm tiền đề phát sinh
hoạt động kiểm sát. Ví dụ, khi VKS phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp của CQĐT thì làm
phát sinh hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tạm giữ người bị bắt của
CQĐT nhằm bảo đảm việc tạm giữ người phải có lệnh và quyết định phê chuẩn của
VKS, đồng thời bảo đảm thời hạn tạm giữ đúng theo quy định của pháp luật.
Khi truy tố bị can ra Toà án để xét xử, tức là VKS đã THQCT, hoạt động đó
thể hiện qua việc ban hành quyết định truy tố. Quyết định truy tố của VKS phải bảo

16


đảm tính có căn cứ và tính hợp pháp, điều đó có nghĩa là VKS trong giai đoạn truy
tố cũng phải đặt trong sự tuân thủ pháp luật. Muốn bảo đảm quyết định truy tố có
căn cứ phải dựa trên cơ sở của kết quả hoạt động KSĐT vụ án của VKS, nếu thực
hiện tốt hoạt động KSĐT, VKS sẽ nắm được nội dung của vụ án, những tình tiết
buộc tội, tình tiết gỡ tội của bị can và những tình tiết liên quan khác của vụ án, đó
chính là căn cứ vững chắc cho việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
ngược lại, nếu VKS thực hiện không tốt hoạt động KSĐT có thể dẫn đến việc truy
tố oan, sai. Do đó, hoạt động KSĐT là cơ sở vững chắc cho hoạt động THQCT
trong giai đoạn truy tố, xét xử và hoạt động THQCT trong giai đoạn truy tố là tiền
đề làm phát sinh hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS tại phiên toà
xét xử.
- Kiểm sát các hoạt động tư pháp và THQCT trong điều tra vụ án hình sự luôn
có mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó hữu cơ và biện chứng với nhau, nhiệm vụ của hoạt
động này làm tiền đề cho nhiệm vụ của hoạt động kia và ngược lại, kết quả của hoạt
động này là cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động kia và ngược lại. Mối quan hệ
biện chứng giữa hai hoạt động THQCT và kiểm sát điều tra chỉ song song tồn tại
trong phạm vi bắt đầu từ khi khởi tố vụ án hình sự cho đến kết thúc điều tra.
- Trong hoạt động điều tra vụ án hình sự, THQCT là việc VKS thực hiện các
biện pháp pháp luật và trực tiếp quyết định các vấn đề về tố tụng trong hoạt động

điều tra nhằm mục đích chứng minh tội phạm và người phạm tội cũng như hành vi
phạm tội. Kiểm sát điều tra là việc VKS thực hiện các biện pháp giám sát, mục đích
nhằm bảo đảm các hoạt động điều tra được tiến hành một cách đúng đắn, đầy đủ,
khách quan theo đúng trình tự, thủ tục, nội dung của pháp luật quy định, không trực
tiếp ra quyết định, chỉ ra kiến nghị khi có vi phạm pháp luật tố tụng xảy ra hoặc
kiến nghị yêu cầu khắc phục các nguyên nhân, điều kiện dẫn đến tội phạm. Hai lĩnh
vực này song song tồn tại, giữa chúng tuy độc lập về chức năng, nhưng có tác động
qua lại lẫn nhau. Nếu làm tốt nhiệm vụ THQCT sẽ hỗ trợ đắc lực cho KSĐT thực
hiện vai trò của mình, như tạo điều kiện cho KSĐT tiếp cận các biện pháp điều tra
nhằm duy trì pháp luật, phát hiện, khắc phục vi phạm pháp luật về tố tụng; làm tốt
nhiệm vụ KSĐT sẽ giúp cho công tác THQCT phát huy khả năng quyết định quá

17


trình tố tụng, như bảo đảm việc khởi tố, yêu cầu khởi tố, quyết định áp dụng, thay
đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, huỷ các quyết định trái pháp luật của CQĐT
một cách có căn cứ, đúng pháp luật. Như vậy, hoạt động THQCT và KSĐT được
tiến hành song song và hỗ trợ lẫn nhau nhằm không để bất kỳ người nào bị bắt giữ,
khởi tố trái pháp luật, không để lọt tội và không làm oan người vô tội, đảm bảo cho
việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội phải đúng pháp luật và có
căn cứ, việc điều tra được tiến hành một cách khách quan, toàn diện, chính xác và
đúng pháp luật; những vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra được phát hiện và
khắc phục kịp thời [15, tr.40]
Thực hành quyền công tố là những biện pháp do Viện kiểm sát trực tiếp ra
quyết định còn kiểm sát hoạt động tư pháp là những biện pháp do Viện kiểm sát
không trực tiếp quyết định mà kiến nghị, kháng nghị và yêu cầu các cơ quan hữu
quan khắc phục (trừ một số trường hợp).
Kết luận c ư n 1
Kiểm sát điều tra tội giết người là một trong những nội dung của kiểm sát hoạt

động tư pháp trong tố tụng hình sự. Trên cơ sở phân tích làm rõ khái niệm tội giết
người cũng như kiểm sát hoạt động tư pháp, luận văn đã xây dựng khái niệm kiểm
sát điều tra tội giết người theo quan điểm các nhân. Theo đó, kiểm sát điều tra tội
giết người là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của
các hành vi, quyết định của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra đối với hành vi cố ý gây ra cái chết của người khác một
cách trái pháp luật; của những người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân
khác khác trong điều tra vụ án hình sự theo quy định của pháp luật;
Tại chương một, luận văn cũng đã chỉ rõ các đặc điểm của hoạt động kiểm sát
điều tra tội giết người trong mối quan hệ với hoạt động thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra các tội phạm khác;
Ngoài ra, tại chương một, luận văn cũng khái quát những nội dung kiểm sát
điều tra tội giết người làm cơ sở cho việc nhận xét, đánh giá quy định của pháp luật
tố tụng hình sự hiện hành.

18


C ư n 2
QU

ỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤN

HÌNH SỰ HIỆN HÀNH

V KI M S T I U TRA TỘI
2 1 Quy địn về k ểm sát các

I TN


I

n v , quyết địn tố tụn của c quan có

t ẩm quyền đ ều tra
2.1.1. Quy định về kiểm sát việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can
Khởi tố vụ án giết người là giai đoạn đầu tiên của quá trình TTHS, sau khi kết
thúc việc giải quyết nguồn tố giác, tin báo về tội phạm này.
Theo quy định tại Điều 126 BLTTHS thì khi có đủ căn cứ để xác định một
người đã thực hiện hành vi phạm tội thì CQĐT ra quyết định khởi tố bị can. Việc
quy định trên thể hiện căn cứ ra quyết định khởi tố bị can chặt chẽ hơn căn cứ ra
quyết định khởi tố vụ án. Nếu quyết định khởi tố bị can không chính xác, không
đúng luật sẽ gây khó khăn cho quá trình điều tra, xác định sự thật của vụ án, xâm
phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, gây tác hại xấu về mặt
chính trị xã hội, giảm sút lòng tin của công dân đối với các cơ quan tố tụng, với
Nhà nước… Xác định được tính chất quan trọng của việc ra quyết định khởi tố bị
can nên khoản 4, Điều 126 BLTTHS đã quy định mới so với trước đây là VKS có
trách nhiệm phải phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của CQĐT.
Trong các vụ án hình sự nói chung và các vụ án giết người người nói riêng,
quyết định khởi tố bị can và quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can ảnh
hưởng trực tiếp đến cuộc sống của một con người, ảnh hưởng đến những người thân
của người bị khởi tố, và VKS phải chịu trách nhiệm khi bắt đầu một tiến trình tố
tụng đối với một người. Do đó, sau khi vụ án giết người được khởi tố, VKS phải
kiểm tra kỹ càng và cẩn thận hồ sơ, nghiên cứu, trích cứu hồ sơ, tổng hợp và đánh
giá các chứng cứ, tài liệu về dấu vết tại hiện trường thể hiện ở Biên bản khám
nghiệm hiện trường, Biên bản khám nghiệm tử thi (nếu người bị hại chết); dấu vết
trên thân thể người bị hại; nghiên cứu các bản ghi lời khai của bị can, bị hại, người
làm chứng, người liên quan, xem xét kỹ các vật chứng thu được; xem xét, đánh giá
các tài liệu phản ánh mức độ lỗi của các bên, mức độ thiệt hại, mối quan hệ nhân
quả giữ hành vi và kết quả... để xác định có hay không có các căn cứ để khởi tố vụ


19


án, khởi tố bị can về tội giết người, hành vi có đủ yếu tố cấu thành tội phạm giết
người hay không? có đủ các căn cứ để phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, nếu
không đủ thì còn yêu cầu cần bổ sung chứng cứ, tài liệu nào...
Việc nghiên cứu, xem xét này phải dựa trên các tiêu chí cả về mặt nội dung và
hình thức: Phải xem xét Quyết định khởi tố được ban hành đúng văn bản hay
không? thẩm quyền ký văn bản, căn cứ ra quyết định khởi tố. Về nội dung phải xác
định có hay không có sự kiện phạm tội giết người, để đánh giá được mức độ vi
phạm thì cần phải nghiên cứu các quy định của BLHS hiện hành, các văn bản
hướng dẫn thi hành BLHS liên quan đến tội phạm giết người, đánh giá về tính liên
quan hay mối quan hệ nhân quả giữa hành vi với hậu quả thiệt hại xảy ra. VKS phải
xem xét quyết định khởi tố của CQĐT có dựa trên các căn cứ theo quy định của
pháp luật không, có đúng với hành vi phạm tội mà bị can đã thực hiện hay không,
ngoài hành vi giết người đã bị khởi tố, có còn hành vi nào chưa được khởi tố hay
không… Chỉ khi xác định chắc chắn việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can là có căn cứ
thì VKS mới ra quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can; trường hợp nếu xét
chưa đầy đủ căn cứ vững chắc thì VKS phải yêu cầu CQĐT bổ sung hoặc tự mình
bổ sung đầy đủ mới quyết định phê chuẩn; kiên quyết không phê chuẩn nếu thấy
chưa đủ các căn cứ xác định tội phạm và người phạm tội.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định bổ sung căn cứ khởi tố vụ án
khi kiến nghị khởi tố, cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị bằng văn bản và
gửi kèm theo tài liệu chứng cứ có liên quan Điều 143. Và việc khởi tố phải có căn
cứ Điều 154. Việc khởi tố bị can phải có căn cứ xác định người đó đã thực hiện
hành vi mà bộ luật hình sự quy định là tội phạm Điều 179. Viện kiểm sát có quyền
yêu cầu bổ sung chứng cứ tài liệu hoặc Viện kiểm sát có quyền khởi tố bị can khi đã
yêu cầu nhưng cơ quan điều tra không thực hiện…
2.1.2. Quy định về kiểm sát các hoạt động điều tra khác

2.1 2 1 K ể
ều tr v tr
-Kể s tk

s tk



ệ tr ờ

k



tử t

t



ầu


ệ tr ờ

Hiện trường vụ án nói chung và hiện trường vụ án giết người nói riêng là nơi

20



xảy ra tội phạm hoặc là nơi phát hiện tội phạm. Nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng
trong việc làm sáng tỏ các tình tiết có liên quan đến vụ án bởi bất cứ một tác động
nào của tội phạm cũng để lại dấu vết trên hiện trường vụ án, dấu vết phản ánh sự tác
động của tội phạm để lại trên hiện trường. Khám nghiệm hiện trường là một hoạt
động điều tra nhằm phát hiện, xem xét, ghi nhận dấu vết tội phạm, vật chứng, và
làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án. Vì vậy nếu làm tốt công tác khám nghiệm hiện
trường sẽ giúp CQĐT xác định đúng hướng trong quá trình điều tra vụ án; giúp
Điều tra viên xây dựng đúng giả thuyết điều tra về đối tượng phạm tội, phương
thức, thủ đoạn phạm tội, phương tiện phạm tội; hướng đi vào; đi ra hiện trường của
đối tượng phạm tội...nhằm chứng minh tội phạm và người phạm tội. Do vậy muốn
làm tốt công tác khám nghiệm hiện trường Kiểm sát viên phải chủ động phối hợp
với ĐTV ngay từ khi nhận được nhiệm vụ tham gia cuộc khám nghiệm; hỏi ĐTV để
nắm được tình tiết, nội dung vụ việc, khẩn trương nghiên cứu kế hoạch khám
nghiệm để chủ động khi tham gia khám nghiệm.
Trong quá trình kiểm sát khám nghiệm, KSV phải bám sát các bước khám
nghiệm, các nguyên tắc, quy trình và các yêu cầu cần đạt được của một cuộc khám
nghiệm, kịp thời đề ra các yêu cầu để ĐTV và kỹ thuật viên kỹ thuật hình sự làm rõ.
Cần quán triệt nguyên tắc cơ bản của một cuộc khám nghiệm hiện trường là đảm
bảo, khách quan, tỷ mỉ, đồng thời chú ý các trường hợp cụ thể sau đây:
Đối với các trường hợp không quả tang thì phải chú ý truy tìm các hung khí ở
hiện trường, xem xét cẩn thận, tỉ mỉ để phát hiện, thu lượm các dấu vết máu, vân
tay, lông tóc sợ của thủ phạm và của nạn nhân, các chứng cứ khác giúp cho công tác
truy nguyên hình sự và truy tìm đối tượng gây án. Cần lưu ý một số trường hợp đặc
biệt như: Trường hợp giết người bằng súng cần phải chú ý tìm vỏ đạn và đầu đạn
thông qua việc xác định được hướng bắn, khoảng cách bắn để xác định loại súng;
trường hợp giết người bằng lựu đạn, thuốc nổ phải xác định điểm nổ, thu giữ các
mảnh nổ, mỏ vịt, đoạn dây cháy chậm còn sót lại để phục vụ công tác giám định;
trường hợp chết treo cổ phải chú ý tư thế của xác chết, cách thức buộc dây treo và
khả năng treo, xem xét đặc điểm các vết hằn của dây treo trên cổ nạn nhân, chiều
hướng và độ sâu của vết hằn của dây treo cổ nạn nhân, để xác định vết hằn này có


21


×