Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Thực hiện chính sách Dân số - Kế hoạch hóa gia đình ở tỉnh Lào Cai giai đoạn năm 2010 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC VÀ XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
DÂN SỐ - KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH
Ở TỈNH LÀO CAI GIAI ĐOẠN NĂM 2010 ĐẾN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI – 2017


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT

Chữ viết tắt

Nguyên nghĩa

1

BPTT

Biện pháp tránh thai

2


CLB

Câu lạc bộ

3

DS

Dân số

4

KHHGĐ

Kế hoạch hóa gia đình

5

PLDS

Pháp lệnh dân số

6

SKSS

Sức khỏe sinh sản

7


UBND

Ủy ban nhân dân

8

BYT

Bộ Y tế

9

KT – XH

Kinh tế - Xã hội

10

CTV

Cộng tác viên


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1:

Các chỉ số cơ bản dân số tỉnh Lào Cai từ năm 2011 – 2015 và dự
báo đến năm 2020 ........................................................................ 48


Bảng 2.2:

Tỷ lệ trẻ nam nữ sơ sinh và số con sinh là con thứ ba trở lên từ
năm 2011 đến năm 2016 ............................................................. 49

Bảng 2.3:

Cơ cấu dân số chia theo khu vực tỉnh Lào Cai ............................ 51

Bảng 2.4:

Tổng hợp kinh phí địa phương hỗ trợ công tác DS – KHHGĐ .. 52

Bảng 2.5:

Kết quả hỗ trợ chăm sóc SKSS bà mẹ mang thai và trẻ em........ 53

Bảng 2.6:

Kết quả công tác phòng chống nhiễm khuẩn sinh sản, phòng
ngừa có thai ngoài ý muốn .......................................................... 53

Bảng 2.7:

Kết quả thực hiện truyền thông, vận động, giáo dục................... 54

Bảng 2.8:

Thống kê số người sử dụng BPTT .............................................. 55


Bảng 2.9:

Thống kê số cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ đang sử dụng BPTT.... 55

Bảng 2.10: Kết quả công tác giáo dục giới tính và SKSS vị thành niên năm 2016.. 56


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU VỀ CHÍNH SÁCH ......... 11
DÂN SỐ - KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM ......................... 11
1.1. Một số khái niệm................................................................................... 11
1.2. Quan điểm và quá trình ban hành chính sách Dân số - Kế hoạch hóa gia
đình ở Việt Nam ....................................................................................... 14
Chương 2: THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN SỐ - KẾ HOẠCH HÓA
GIA ĐÌNH Ở TỈNH LÀO CAI ................................................................... 25
2.1. Vài nét về tỉnh Lào Cai ......................................................................... 25
2.2. Chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình của tỉnh Lào Cai ................. 27
2.3. Một số văn bản cụ thể triển khai chính sách dân số kế hoạch hóa gia
đình .......................................................................................................... 34
2.4. Các chủ thể thực hiện chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình của tỉnh
Lào Cai .................................................................................................... 43
2.5. Đánh giá hiệu quả thực hiện chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình ở tỉnh
Lào Cai..................................................................................................... 47
Chương 3: CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
TRONG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN SỐ – KẾ HOẠCH HÓA
GIA ĐÌNH Ở TỈNH LÀO CAI .................................................................... 60
3.1. Các yếu tố tác động tới quá trình thực hiện chính sách dân số kế hoạch hóa
gia đình .................................................................................................... 60
3.2. Những vấn đề đặt ra trong thực hiện chính sách Dân số - Kế hoạch hóa

gia đình .................................................................................................... 66
3.3. Các giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách
Dân số - Kế hoạch hoá gia đình .............................................................. 67
KẾT LUẬN .................................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công tác Dân số - Kế hoạch hóa gia đình là một trong những hoạt động
quan trọng trong triển khai thực hiện chính sách nâng cao chất lượng cuộc
sống của từng người dân, từng gia đình và toàn xã hội, là một bộ phận quan
trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành rất nhiều chủ
trương, chính sách nhằm lãnh đạo và tổ chức thực hiện một cách toàn diện công
tác DS - KHHGĐ. Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình và các Bộ, ban
ngành liên quan đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn cụ thể để thực hiện các
chủ trương chính sách của Đảng và luật pháp của Nhà nước về công tác này.
Trong quá trình thực hiện chính sách DS - KHHGĐ, Việt Nam đã thu
được một số kết quả khả quan. Việt Nam đã nhanh chóng đạt được mức sinh
thay thế vào năm 2006 (2,09 con/phụ nữ), mức sinh giảm từ 2,28 con năm
2002 xuống còn 2,05 con năm 2012. Về cơ cấu dân số, nhờ những thành công
của chương trình DS - KHHGĐ trước đó, chúng ta đã bước vào “kỷ nguyên
vàng” là thời kỳ cơ cấu “dân số vàng” thời kỳ chỉ có duy nhất một lần trong
lịch sử phát triển nhân khẩu học của bất cứ một quốc gia nào trên thế giới.
Bên cạnh những kết quả đạt được trong quá trình thực hiện chính sách
DS - KHHGĐ, vẫn còn bộc lộ những điểm hạn chế nhất định về cơ cấu dân số
và chất lượng dân số, cụ thể:
Tính đến năm 2014 quy mô dân số của Việt Nam đạt 90,7 triệu người
tăng trung bình mỗi năm 940 nghìn người (kể từ năm 2003). Giai đoạn 2009 2014, tỷ lệ gia tăng dân số bình quân đạt 1,06%/năm là thời kì có tỷ lệ tăng

dân số bình quân thấp nhất trong vòng 35 năm qua. Năm 2014 tổng tỷ suất
sinh là 2,09 con với trên một người phụ nữ, tiếp tục duy trì mức sinh dưới

1


mức sinh thay thế. Tuổi thọ trung bình tính từ lúc sinh của Việt Nam tăng từ
68 tuổi năm 1999 lên 73,2 tuổi năm 2014. Tình hình phân bố dân cư: dân số
thành thị chiếm 30,6% dân số nông thôn chiếm 69,4%; nam có 43.347.731
người (chiếm 49,5%) nữ có 4.263.216 người (chiếm 50,5%).
Trung bình mỗi năm, dân số Việt Nam tăng gần 1 triệu người và cũng có
khoảng 1 triệu người gia nhập lực lượng lao động, điều này tạo ra áp lực khá
lớn cho vấn đề tạo việc làm mới cho người lao động. Cơ cấu dân số Việt Nam
thuộc nhóm “cơ cấu dân số trẻ”, số người thuộc nhóm dưới tuổi lao động
chiếm 31,8%, trong đó nhóm tuổi dưới 15 tuổi chiếm 24,1% [1].
Theo báo cáo của Tổng cục DS - KHHGĐ, chất lượng dân số về thể chất
của người Việt Nam đã được cải thiện song vẫn còn rất thấp. Kết quả Tổng
điều tra dân số và nhà ở năm 2009 cho thấy có 1,5% dân số Việt Nam bị thiểu
năng về thể lực và trí tuệ. Trong đó, số trẻ mới sinh bị dị tật bẩm sinh do di
truyền chiếm khoảng từ 1,5% đến 3% và có xu hướng tiếp tục gia tăng do
điều kiện sống, môi trường độc hại mà chưa được phát hiện và điều trị sớm.
Bên cạnh đó, số lượng người bị tàn tật, khuyết tật trong cả nước rất lớn,
khoảng 5,3 triệu người (chiếm 6,3% dân số)…Tầm vóc, thể lực cân nặng, sức
bền của người Việt Nam so với nhiều nước trong khu vực vẫn còn hạn chế.
Vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh vẫn tiếp tục gia tăng; làm thế nào
để tận dụng cơ hội cơ cấu “dân số vàng”, chăm sóc và phát huy người cao
tuổi khi Việt Nam đang “già hóa dân số” rất nhanh; phân bố, quản lý dân cư;
di cư và đô thị hóa diễn ra ngày càng mạnh như một quy luật tất yếu trong quá
trình phát triển; nâng cao chất lượng dân số, hôn nhân đồng tính, mang thai
hộ...là những vấn đề rất mới, cần được điều chỉnh.

Tỉnh Lào Cai là một tỉnh miền núi, vùng cao, biên giới phía Bắc của Việt
Nam có diện tích tự nhiên 6283,9 km2, có trên 203km đường biên giới giáp
với tỉnh Vân Nam- Trung Quốc. Dân số toàn tỉnh là 674,530 người mật độ

2


dân số bình quân 106 người/km2 trong đó số người trong độ tuổi lao động
chiếm 52%. Tỉnh Lào Cai có 1 thành phố 8 huyện với 164 xã, thị trấn trong
đó có 95 xã vùng sâu vùng xa thuộc diện đặc biệt khó khăn. Tỉnh có 35 dân
tộc anh em chung sống trong đó người Kinh chiếm 34,58%, dân tộc Mông
chiếm 23,78%, dân tộc Dao chiếm 14,38%, dân tộc Tày chiếm 15,33% còn lại
là các dân tộc khác. Tỷ lệ gia tăng dân số năm 2010 là 16,9%, số con trung
bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ là 2,7 con, tỷ lệ các cặp vợ chồng
áp dụng BPTT hiện đại là 72%. Ngoài những vấn đề chung về công tác DS KHHGĐ của cả nước, tỉnh Lào Cai còn phải đối mặt với nhiều vấn đề quan
trọng trong thực hiện chính sách DS - KHHGĐ như làm thế nào để nâng cao
chất lượng dân số, cân đối mức sinh hài hoà giữa các khu vực vùng sâu vùng
xa trong tỉnh, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ sinh sản cho phụ nữ và
trẻ em, nhất là đối với đồng bào các dân tộc thiểu số.
Việc thực hiện chính sách DS - KHHGD ở tỉnh Lào Cai cũng đã đạt được
những kết quả khả quan và tồn tại một số khó khăn nhất định. Để tìm hiểu những
vấn đề về chính sách DS - KHHGĐ và quá trình thực hiện chính sách DS KHHGĐ trong thực tiễn giai đoạn từ năm 2010 đến nay, em chọn đề tài “Thực
hiện chính sách Dân số - Kế hoạch hoá gia đình ở tỉnh Lào Cai giai đoạn từ
năm 2010 đến nay” làm luận văn để hoàn thành khoá học thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Dân số là vấn đề nền tảng trong phát triển bền vững của mỗi quốc gia,
công tác DS - KHHGĐ có vai trò vô cùng quan trọng đối với tương lai đất
nước. Trong những năm qua, việc thực hiện chính sách dân số ở Việt Nam và
công tác DS - KHHGĐ được nhiều học giả, nhà nghiên cứu quan tâm. Đã có
khá nhiều công trình nghiên cứu, luận văn, bài viết nhằm đánh giá, tổng kết

quá trình thực hiện chính sách DS - KHHGĐ và những bài học kinh nghiệm
nhằm nâng cao chất lượng dân số. Có thể khái quát ở một số lĩnh vực sau:

3


- Nhóm các công trình nghiên cứu về chính sách DS - KHHGĐ các dân
tộc thiểu số và miền núi. Trong nhóm các công trình nghiên cứu này, nổi bật
là một số công trình nghiên cứu về chính sách DS - KHHGĐ do Uỷ ban Quốc
gia DS - KHHGD, nay là Tổng cục DS - KHHGĐ thực hiện. Nhiều đề tài cấp
Bộ, cấp tỉnh đã được triển khai nhằm đánh giá thực trạng quá trình triển khai
thực hiện chính sách DS - KHHGĐ ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Đề
tài Nghiên cứu một số vấn đề về chính sách Dân số - Kế hoạch hóa gia đình
với các dân tộc ít người ở vùng cao, vùng sâu tỉnh Cao Bằng do Dương Thị
Minh Hiền và cộng sự thực hiện từ năm 1994 đến 1996. Năm 1998, Viện Dân
tộc học thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia thực hiện
nghiên cứu về Dân số - Kế hoạch hóa gia đình người Mông ở Hoà Bình [13].
Tiếp đó, năm 2001, Viện Dân tộc học tiếp tục công bố công trình nghiên cứu
về Dân số - Kế hoạch hóa gia đình các dân tộc ở tỉnh Hoà Bình…. Các công
trình nghiên cứu này đã làm rõ được thực trạng của công tác DS - KHHGĐ ở
vùng dân tộc thiểu số và nêu lên những khó khăn, trở ngại trong quá trình
thực hiện chính sách tại vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa.[25]
- Nhóm các công trình nghiên cứu đánh giá chính sách DS - KHHGĐ và
chăm sóc sức khoẻ sinh sản cho người dân tộc thiểu số. Nhóm các công trình
này đề cập đến khá nhiều vấn đề nhằm nâng cao chất lượng dân số và bảo vệ
sức khoẻ cho bà mẹ và trẻ em vùng dân tộc thiểu số. Năm 2012, Viện Dân số
và các vấn đề xã hội, Trường đại học Kinh tế Quốc dân đã thực hiện đề
tài “Đánh giá chính sách và thực hiện chính sách Chăm sóc Sức khỏe sinh
sản cho đồng bào dân tộc”. Nghiên cứu này đã đánh giá một cách cụ thể văn
bản Chiến lược Dân số Việt Nam 2001 - 2010; Đánh giá kết quả thực hiện

mục tiêu và tất cả chỉ báo kiểm định mục tiêu của Chiến lược. Từ những báo
cáo xác thực đó ta ước lượng được mức độ hoàn thành mục tiêu và các chỉ
báo này vào năm 2010 và xác định những điểm mạnh, điểm yếu trong quá

4


trình xây dựng và thực hiện chính sách chăm sóc SKSS cho đồng bào dân tộc.
Từ đó đưa ra khuyến nghị cho việc xây dựng Chiến lược DS - SKSS, giai
đoạn 2011 - 2020. Viện Khoa học Dân số, Gia đình và Trẻ em đã có công
trình “Nghiên cứu về phong tục tập quán của một số dân tộc ảnh hưởng đến
hành vi sinh sản”. Công trình đã đi sâu làm rõ những ảnh hưởng của phong
tục tập quán tới hành vi sinh sản của các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh sản
ở một số dân tộc, đưa ra các khuyến nghị chính sách nhằm nâng cao chất
lượng dân số và ổn định quy mô dân số ở một số dân tộc thiểu số ở tỉnh Sơn
La, Lai Châu và Sóc Trăng [26].
Năm 2013, Viện Dân số và các Vấn đề Xã hội thực hiện đề tài “Đánh
giá 10 năm thi hành Pháp lệnh Dân số tại thành phố Hà Nội”. Thực hiện
tuyên truyền giáo dục nhằm ngăn chặn tình trạng mất cân bằng giới tính khi
sinh tại Hà Nội được triển khai mạnh mẽ hơn so với mức chung của cả nước
với tỷ lệ đánh giá tích cực trở nên chiếm tới 91,6% trong khi của cả nước chỉ
đạt 88%. Đặc biệt, tỷ lệ người được hỏi đánh giá “Rất tích cực” tại Hà Nội và
cả nước tương ứng là 39,3% và 28,9%.
Công trình nghiên cứu Đánh giá mô hình tổ chức bộ máy làm công tác
DS - KHHGĐ tuyến quận/ huyện và xã/ phường do Viện Chiến lược và chính
sách y tế thực hiện năm 2014 đã rà soát, đánh giá các văn bản liên quan đến tổ
chức bộ máy làm công tác DS - KHHGĐ cấp xã/ phường, quận/ huyện, đánh
giá thực trạng mô hình tổ chức bộ máy và cơ chế quản lý đối với cán bộ
chuyên trách DS - KHHGĐ.
Ngoài những nghiên cứu trên thì còn nhiều những cuộc điều tra, nghiên

cứu như:
Cuộc điều tra quốc gia về thanh thiếu niên lần thứ nhất (SAVY1) và lần
thứ hai (SAVY2) do Tổng cục Dân số - Kế hoạch hoá gia đình phối hợp với
Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc và Ngân hàng phát triển châu Á tiến hành. Điều

5


tra cho thấy tỉ lệ nạo phá thai trong thanh niên Việt Nam tăng theo nhóm tuổi:
7% trong nhóm 18-21 tuổi và 10% trong nhóm 22-25 tuổi.
Đề tài “Tuổi Vị thành niên với vấn đề tình dục và các biện pháp tránh
thai” của Chu Xuân Việt, Nguyễn Văn Thắng - Học viện Thanh thiếu niên
Việt Nam 1998 nghiên cứu tại 8 tỉnh, thành phố trên 2,159 vị thành niên cả
trong và ngoài trường cho biết có 11,4% vị thành niên đồng ý với ý kiến cho
rằng có thể quan hệ tình dục trước hôn nhân; 18,9% số người được hỏi cho là
có thể quan hệ tình dục trước khi cưới; 17,7% trả lời có thể quan hệ tình dục
được nếu cả hai đồng ý.
Nghiên cứu “Đánh giá thái độ của các nhóm đối tượng với các qui định
của chính sách Dân số - Kế hoạch hoá gia đình” do TS. Nguyễn Đức Mạnh
và các cộng sự thực hiện vào năm 2005 đã chỉ rõ thực trạng nhận thức và thái
độ của các nhóm đối tượng đối với một số quy định của chính sách Dân số Kế hoạch hoá gia đình và Pháp luật đời sống.
Tác giả Nguyễn Quỳnh Anh cũng có bài viết “Pháp lệnh dân số nâng
cao trách nhiệm của công dân, gia đình và xã hội” (Tạp chí Cộng sản số
27/2003). Tác giả đề cập đến một số quy định trong Pháp lệnh dân số, quyền
lợi và nghĩa vụ của công dân về Dân số - Kế hoạch hoá gia đình. Trách nhiệm
của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện các biện pháp
nâng cao chất lượng dân số.
Ngày 8/3/2010 Nghị định Quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh sửa đổi
Điều 10 của Pháp lệnh Dân số đã được ban hành với nội dung quy định lại
những trường hợp không vi phạm sinh một hoặc hai con có nghĩa là một số

trường hợp sinh con thứ ba nhưng không bị vi phạm luật.
Kết quả đạt được của công tác Dân số - Kế hoạch hoá gia đình góp phần
quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước, cũng như thực hiện thắng
lợi các mục tiêu phát triển niên kỷ, tăng thu nhập bình quân đầu người, cải

6


thiện đời sống nhân dân, giảm tình trạng đói nghèo, tăng cường bình đẳng
giới. Là quốc gia đông dân thứ 13 trên thế giới và thứ 3 trong khu vực Đông
Nam Á, tốc độ dân số tuy đã giảm nhiều song quy mô dân số quá lớn, chất
lượng dân số thấp, tốc độ già hoá nhanh, mất cân bằng giới tính khi sinh là
vấn đề nóng và tiếp tục nâng cao, nếu không được xử lý kiên quyết ngay bây
giờ sẽ để lại những hệ luỵ rất nặng nề về mặt xã hội, kinh tế thậm chí về an
ninh, chính trị. Bên cạnh đó việc mất cân bằng giới tính khi sinh vẫn tiếp tục
gia tăng, việc tận dụng cơ hội từ cơ cấu dân số vàng chưa được quan tâm tận
dụng đúng mực [29].
Có thể thấy, đã có khá nhiều các công trình nghiên cứu về chính sách DS
- KHHGĐ, chiến lược DS - KHHGD ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy
nhiên, chưa có nghiên cứu nào đánh giá về quá trình triển khai thực hiện
chính sách DS - KHHGĐ ở tỉnh Lào Cai. Đề tài được thực hiện sẽ góp phần
làm rõ hơn quá trình triển khai thực hiện chính sách DS - KHHGĐ từ thực
tiễn ở tỉnh Lào Cai.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích của luận văn là tìm hiểu quá trình triển khai thực hiện chính
sách DS - KHHGĐ từ thực tiễn tỉnh Lào Cai, đề xuất một số quan điểm, giải
pháp nhằm thực hiện tốt hơn chính sách DS - KHHGĐ trên địa bàn tỉnh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nêu trên Luận văn có những nhiệm vụ sau

- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận trong nghiên cứu về chính
sách dân số như khái niệm, các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện chính
sách dân số theo yêu cầu về đổi mới chính sách, quá trình hình thành và phát
triển của chính sách từ khi ban hành đến nay.
- Đánh giá thực trạng chính sách DS - KHHGĐ và thực tiễn tổ chức thực
hiện chính sách dân số, làm rõ những mặt được, những mặt hạn chế, những
7


bất cập của chính sách dân số và tổ chức thực hiện chính sách thông qua kết
quả thực thi tại tỉnh Lào Cai.
- Rút ra bài học kinh nghiệm về công tác chỉ đạo, tổ chức triển khai thực
hiện, giám sát thực hiện chính sách DS - KHHGĐ trên địa bàn tỉnh Lào Cai.
Đưa ra các khuyến nghị để hoàn thiện chính sách DS - KHHGĐ từ thực tiễn
của tỉnh Lào Cai.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Chính sách về DS - KHHGĐ và quá trình triển khai thực hiện trên địa
bàn tỉnh Lào Cai.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn từ năm 2010 đến nay giới hạn trong
việc lựa chọn chính sách DS - KHHGĐ (quy định về DS - KHHGĐ: văn bản,
quy định liên quan đến chính sách DS - KHHGĐ, các biện pháp thực hiện
công tác dân số, quản lý nhà nước về dân số).
Việc nghiên cứu luận văn căn cứ vào thực tiễn thực hiện chính sách dân
số trên địa bàn tỉnh Lào Cai. Các tư liệu phục vụ cho nghiên cứu của luận văn
dựa vào các văn bản đã được ban hành và căn cứ trên thực tiễn triển khai thực
hiện chính sách DS - KHHGĐ.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận

Nghiên cứu được thực hiện trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử. Vấn đề nghiên cứu được xem xét theo một
trình tự từ quá khứ đến hiện tại trong mối quan hệ, tương tác với các vấn đề
khác trong chiến lược phát triển KT - XH chung của tỉnh Lào Cai và chiến
lược về DS - KHHGĐ của cả nước.

8


5.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu đánh giá chính sách là một loại hình nghiên cứu đặc biệt cần
có sự phối hợp của nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau. Luận
văn sử dụng một số phương pháp cụ thể sau:
 Phương pháp đánh giá chính sách
Đánh giá hệ thống chính sách, văn bản chính sách liên quan đến DS KHHGĐ đã được ban hành từ trước đến nay và đặc biệt là trong giai đoạn
2010 đến nay ở tỉnh Lào Cai
(1) Phân loại, phân tích văn bản theo tiêu chí về nội dung và theo cơ
quan ban hành (Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, Liên Bộ)
(2) So sánh các văn bản với nhau, so sánh văn bản với tình hình thực tiễn
dựa trên các kết quả điều tra nghiên cứu có sẵn.
Rà soát các văn bản chính sách, mức độ phạm vi ban hành và quá trình
tổ chức triển khai thực hiện ở các địa phương.
 Khảo sát thực địa: phỏng vấn các bên liên quan trong quá trình triển khai
thực hiện chính sách
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn:
6.1. Ý nghĩa lý luận
Nội dung và kết quả nghiên cứu luận văn có thể làm tài liệu tham khảo
cho các cơ quan, đơn vị triển khai thực hiện chính sách dân số trên địa bàn
tỉnh Lào Cai.
Luận văn là tài liệu tham khảo phục vụ việc nghiên cứu và học tập của

cán bộ làm công tác dân số và sinh viên trong lĩnh vực chính sách công và
chính sách xã hội.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn góp phần cung cấp các luận chứng khoa học nhằm đưa ra các
giải pháp để thực hiện chính sách dân số trên địa bàn cụ thể. Căn cứ kết quả
đạt được, luận văn đưa ra được những vấn đề sau:
9


- Nêu ra những đặc điểm, vai trò của chính sách dân số
- Đánh giá ưu điểm, khuyết điểm, nêu những hạn chế, bất cập trong quá
trình thực hiện chính sách.
- Nêu ra những quan điểm và giải pháp để thực hiện chính sách tốt hơn
trong giai đoạn đổi mới đất nước.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài những phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham
khảo, nội chung luận văn được trình bày gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận nghiên cứu về chính sách DS - KHHGĐ ở Việt Nam
Chương 2: Thực hiện chính sách DS - KHHGĐ ở tỉnh Lào Cai.
Chương 3: Các yếu tố tác động và giải pháp hoàn thiện chính sách DS - KHHGĐ.

10


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU VỀ CHÍNH SÁCH
DÂN SỐ - KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM
1.1. Một số khái niệm
Đã có khá nhiều khái niệm được đưa ra về dân số, chính sách dân số và
kế hoạch hoá gia đình. Trong luận văn này, tôi sử dụng một số khái niệm về

dân số và kế hoạch hoá gia đình đã được quy định rõ trong điều 3, chương 1
của Pháp lệnh dân số 2003. Cụ thể là:
1. Dân số là tập hợp người sinh sống trong một quốc gia, khu vực, vùng
địa lý kinh tế hoặc một đơn vị hành chính.
2. Quy mô dân số là số người sống trong một quốc gia, khu vực, vùng
địa lý kinh tế hoặc một đơn vị hành chính tại thời điểm nhất định.
3. Cơ cấu dân số là tổng số dân được phân loại theo giới tính, độ tuổi, dân
tộc, trình độ học vấn, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân và các đặc trưng khác.
4. Phân bố dân cư là sự phân chia tổng số dân theo khu vực, vùng địa lý
kinh tế hoặc một đơn vị hành chính.
5. Chất lượng dân số là sự phản ánh các đặc trưng về thể chất, trí tuệ và
tinh thần của toàn bộ dân số.
6. Sức khoẻ sinh sản là sự thể hiện các trạng thái về thể chất, tinh thần và
xã hội liên quan đến hoạt động và chức năng sinh sản của mỗi người.
7. Kế hoạch hoá gia đình là nỗ lực của Nhà nước, xã hội để mỗi cá nhân,
cặp vợ chồng chủ động, tự nguyện quyết định số con, thời gian sinh con và
khoảng cách giữa các lần sinh nhằm bảo vệ sức khoẻ, nuôi dạy con có trách
nhiệm, phù hợp với chuẩn mực xã hội và điều kiện sống của gia đình.
8. Công tác dân số là việc quản lý và tổ chức thực hiện các hoạt động tác
động đến quy mô dân số, cơ cấu dân số, phân bố dân cư và nâng cao chất
lượng dân số.

11


9. Quản lý nhà nước về DS - KHHGĐ:
- Nhà nước có chính sách, biện pháp để triển khai công tác dân số, thực
hiện xã hội hoá công tác dân số, bảo đảm điều kiện thuận lợi cho công tác dân
số phù hợp với sự phát triển KT - XH của đất nước.
- Nhà nước có các chính sách khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư,

hợp tác, giúp đỡ, hỗ trợ chương trình chăm sóc SKSS, KHHGĐ, nâng cao
chất lượng dân số, ưu tiên đối với người nghèo, đồng bào các dân tộc thiểu số,
vùng có điều kiện KT - XH đặc biệt khó khăn, vùng có điều kiện KT - XH
khó khăn.
- Cơ quan quản lý nhà nước về dân số có trách nhiệm chỉ đạo thực hiện
công tác dân số; phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên của Mặt trận để triển khai công tác dân số; thanh tra, kiểm tra việc
thi hành pháp luật về dân số.
Thực hiện tốt công tác KHHGĐ sẽ làm giảm được số sinh, giảm được tử
vong mẹ do sinh nhiều và phá thai ngoài kế hoạch, giảm tỷ lệ tử vong sơ sinh
và trẻ em, giảm tỷ lệ vô sinh và chửa ngoài tử cung. Giải phóng phụ nữ làm
nhẹ gánh nặng gia đình, có điều kiện tham gia vào các công tác xã hội, chăm
sóc nuôi dưỡng con cái tốt hơn làm cho cuộc sống gia đình hạnh phúc hơn,
nâng cao chất lượng cuộc sống.
KHHGĐ là các hoạt động hướng dẫn mọi người lựa chọn số con mong
muốn và khoảng cách giữa các lần sinh, mỗi gia đình nên có từ một đến hai
con dù trai hay gái để đảm bảo hạnh phúc gia đình, nuôi con khỏe manh, dậy
con ngoan, phù hợp với hoàn cảnh ở Việt Nam. Khoảng cách giữa các lần
sinh nên cách nhau từ ba đến năm năm để người phụ nữ hồi phục sức khỏe
sau lần thai sản vừa qua đồng thời có điều kiện nuôi dậy con cái tốt hơn.
Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ.
Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực
cụ thể nào đó [23, trang 475].
12


Chính sách là tập hợp các chủ trương và hành động về phương diện nào
đó của chính phủ bao gồm các mục tiêu mà chính phủ muốn đạt được và cách
làm để thực hiện các mục tiêu đó nhằm phát triển đất nước toàn diện trên các
lĩnh vực kinh tế - văn hóa – xã hội – môi trường [8].

Chính sách dân số được quan niệm theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp tuỳ
thuộc vào mục tiêu cần đạt được trong từng giai đoạn nhất định ở mỗi quốc
gia. Có khá nhiều khái niệm về chính sách dân số, mỗi khái niệm có những
đặc thù riêng, theo cách nhìn nhận riêng hoặc tùy theo tính cấp bách đối với
việc điều chỉnh sự phát triển và di chuyển của dân cư. Sau đây là một số khái
niệm thường gặp:
Chính sách dân số có thể được định nghĩa như là những quy định về mặt
pháp lý, những chương trình quản lý, điều hành và những hoạt động khác của
Chính phủ nhằm vào việc thay thế hoặc sửa đổi xu hướng phát triển dân số
trong thời điểm hiện tại có quan tâm tới lợi ích và sự sống còn của quốc gia.
Chính sách dân số bao gồm các biện pháp nhằm xoá đi khoảng cách giữa
tổng số những đứa trẻ thực sự sinh ra trong xã hội và số trẻ mà xã hội có thể
chấp nhận (thông qua một số biện pháp đặc biệt trong việc quyết định để đạt
được những mục tiêu xã hội quan trọng).
Chính sách dân số theo quan niệm dân số học là tất cả các biện pháp
chính sách nhằm ảnh hưởng một cách hài hòa đến quy mô (chính sách dân số
định lượng) hoặc cơ cấu (chính sách dân số định tính) của dân cư. Dưới sự trợ
giúp và hướng dẫn toàn diện về hôn nhân, về kiểm soát sinh đẻ, tử vong, nhập
cư và di cư, chính sách dân số được liên kết chặt chẽ với chính sách gia đình,
sức khỏe và di cư, cũng như lãnh thổ [1].
Theo quan niệm của khoa học về chính sách công thì Chính sách dân số
là tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của nhà nước nhằm lựa chọn
các mục tiêu cụ thể với giải pháp và công cụ thực hiện giải quyết các vấn đề
dân số theo mục tiêu xác định của đảng chính trị cầm quyền.
13


1.2. Quan điểm và quá trình ban hành chính sách Dân số - Kế hoạch hóa gia
đình ở Việt Nam
DS - KHHGD là một trong những chính sách lớn, quan trọng luôn được

Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Ngay từ sau khi giải phóng miền Bắc, công
tác DS - KHHGĐ đã được chú trọng với những chính sách về KHHGĐ được
ban hành trong bối cảnh miền Bắc tiến hành xây dựng XHCN, miền Nam đấu
tranh giải phóng và thống nhất đất nước. Trong các kỳ đại hội Đảng xây dựng
và phát triển đất nước, chính sách DS - KHHGĐ luôn được nhấn mạnh.
Đại hội lần thứ IV, lần thứ V và lần thứ VI của Đảng đều coi công tác
DS - KHHGĐ là quốc sách trong sự nghiệp phát triển đất nước. Báo cáo
chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội Đảng lần thứ IV đã
xác định: “Mọi ngành mọi cấp phải coi trọng cuộc vận động sinh đẻ có kế
hoạch là công tác có tầm quan trọng to lớn, có ý nghĩa chính trị, kinh tế và xã
hội, góp phần tích cực vào việc nâng cao đời sống của nhân dân ta” [11].
Mục tiêu cuộc vận động trong giai đoạn này là đẻ ít (từ 2 đến 3 con), đẻ
muộn (từ 22 tuổi trở nên) và đẻ thưa (cách nhau 3 đến 5 năm). Mục tiêu cụ
thể được xác định tại Đại hội IV năm 1976 là “đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận
động sinh đẻ có kế hoạch, kiên quyết giảm dần tốc độ gia tăng dân số hằng
năm, phấn đấu đến năm 1980, tỷ lệ gia tăng dân số là trên 2%”. Tại Đại hội V
năm 1982,chỉ tiêu được đưa ra là “giảm tốc độ tăng dân số bình quân của cả
nước từ 2,4% hằng năm xuống còn 1,7% vào năm 1985; đến Đại hội VI năm
1986 thì “giảm tỷ lệ phát triển dân số từ 2,2% hiện nay xuống còn 1,7% vào
năm 1990” .
Ngày 14/1/1993 tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII
Đảng ban hành Nghị quyết số 04 về chính sách DS - KHHGĐ (gọi tắt là Nghị
quyết TW khóa VII), đây là văn bản có tính chất quan trọng, làm tiền đề cho
những quyết sách về công tác DS - KHHGĐ sau này của Đảng và Nhà Nước.

14


Tiếp tục quán triệt và kiên quyết thực hiện các quan điểm cơ bản của
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII về

chính sách DS - KHHGĐ, phấn đấu sớm đạt mục tiêu về ổn định quy mô dân
số, đồng thời từng bước nâng cao chất lượng dân số của nước ta. Ngày
22/3/2005, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 47-NQ/TW về việc tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện chính sách DS - KHHGĐ.
Đồng nhất quán triệt và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng
và pháp luật của Nhà nước, qua hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết TW 04
khóa VII, với sự chỉ đạo sâu sát của các cấp ủy Đảng, chính quyền, sự tham
gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và sự hưởng ứng mạnh mẽ
của nhân dân, chính sách DS - KHHGĐ đã thực sự đi vào đời sống và đạt
được những kết quả quan trọng: nhận thức của toàn xã hội đã có bước chuyển
rõ rệt, quy mô gia đình có một hoặc hai con được chấp hành ngày càng rộng
rãi, tốc độ gia tăng dân số đã được khống chế, số con trung bình của một phụ
nữ trong độ tuổi sinh đẻ giảm từ 3,5 con năm 1992 xuống còn 2,28 con năm
2002, tỷ lệ tăng dân số giảm tương ứng từ hơn 2% còn 1,32% [22].
Ngày 9/1/2003, Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XI thông qua Pháp
lệnh Dân số và có hiệu lực thi hành từ này 1/5/2003. Pháp lệnh Dân số được
Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI ban hành ngày 09/01/2003 và có hiệu
lực từ ngày 01/5/2003. Cho đến nay, PLDS vẫn là văn bản pháp lý cao nhất
của nước ta, điều chỉnh các quan hệ pháp luật giữa các chủ thể trong lĩnh vực
dân số. Với 7 Chương, 40 Điều, PLDS đã điều chỉnh các vấn đề liên quan đến
kết quả của dân số (quy mô, cơ cấu, chất lượng dân số, phân bố và quản lý
dân cư), đến quá trình dân số (quá trình sinh, tử, di cư) và quy định các biện
pháp thực hiện công tác dân số...
PLDS nêu rõ quan điểm về cơ cấu dân số “Nhà nước điều chỉnh cơ cấu dân
số nhằm bảo đảm cơ cấu dân số hợp lý về giới tính, độ tuổi, trình độ học vấn,

15


ngành nghề và các đặc trưng khác, bảo vệ và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu

số phát triển” (Điều 13, PLDS) và chất lượng dân số “Nâng cao chất lượng dân
số là chính sách cơ bản của Nhà nước trong sự phát triển của đất nước, Nhà nước
thực hiện chính sách nâng cao chất lượng dân số về thể chất, trí tuệ, tinh thần
nhằm nâng cao chỉ số phát triển con người của Việt Nam lên mức tiên tiến của
thế giới, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [29].
PLDS năm 2003 đã bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trên
thực tế hầu như không còn tình trạng cản trở hay cưỡng bức thực hiện
KHHGĐ. Pháp lệnh Dân số năm 2003 đã thể hiện được cam kết của Nhà
nước Việt Nam trong các điều ước, công ước quốc tế về quyền con người liên
quan đến công tác DS - KHHGĐ và sức khỏe sinh sản mà Việt Nam đã ký kết,
gia nhập.
Trên cơ sở PLDS đã được công bố ngày 16/9/2003 năm 2003, Chính phủ
ban hành Nghị định số 104/2003/NĐ –CP ngày 16/9/2003 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của PLDS. Theo Nghị định, mục tiêu chính
sách dân số là duy trì mỗi cặp vợ chồng có một hoặc hai con để ổn định quy
mô dân số, đảm bảo cơ cấu dân số và phân bố dân cư hợp lý, nâng cao chất
lượng dân số. Nghị định cũng nghiêm cấm các hành vi cản trở hay cưỡng bức
thực hiện KHHGĐ và lựa chọn giới tính thai nhi. Có thể nói với Nghị định
này chính sách DS - KHHGĐ của Việt Nam đã thật sự chấm dứt một thời kỳ
áp dụng có tính gò ép và chuyển sang khuyến khích sự tự nguyện của người
dân trong thực hiện KHHGĐ [30].
Trong quá trình thực hiện chính sách DS - KHHGĐ chúng ta đã thu
được một số kết quả tốt: về mức sinh giảm từ 2,28 con năm 2002 xuống còn
2,05 con năm 2012. Việt Nam đã nhanh chóng đạt được mức sinh thay thế
vào năm 2006 (2,09 con/phụ nữ), 3 năm sau khi PLDS ra đời và từ đó đến nay
liên tục đạt dưới mức sinh thay thế.

16



Sau khi PLDS được ban hành đã có 23 Luật và Dự luật có những nội
dung liên quan gần gũi, nhiều nội dung đã được “gợi mở” từ PLDS như: Luật
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật Bình đẳng giới, Luật Cư trú, Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình, Luật Người cao tuổi, Luật Hộ tịch…
Để PLDS đi vào cuộc sống, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ,
cơ quan ngang Bộ đã ban hành hàng loạt các văn bản quy định chi tiết, hướng
dẫn thi hành như: Nghị định 104/2003/NĐ-CP ngày 16/9/2003 quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh; Nghị định
114/2006/NĐ-CP ngày 3/10/2006 quy định xử phạt vi phạm hành chính về
dân số và trẻ em; Nghị định 90/2010/NĐ-CP ngày 18/8/2010 quy định về cơ
sở dữ liệu quốc gia về dân cư... Tại địa phương, Hội đồng Nhân dân, UBND
các tỉnh, thành phố đều đã ban hành các văn bản triển khai PLDS ở địa
phương. Như vậy, PLDS đã thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng trong
lĩnh vực dân số. PLDS là một trong những văn bản quy phạm pháp luật cao
nhất, căn bản nhất để Nhà nước, các tổ chức và người dân tham gia trên cơ sở
các quyền và nghĩa vụ luật định, phù hợp với các Công ước, Điều ước và văn
bản quốc tế mà Việt Nam ký kết, gia nhập. PLDS cùng với các văn bản dưới
luật, các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đã tạo thành hệ thống văn
bản pháp luật về dân số.
Về mức sinh, nếu như năm 2002, số con trung bình/phụ nữ trong độ tuổi
sinh đẻ ở nước ta là 2,28 con thì năm 2012 còn 2,05 con. Việt Nam đã nhanh
chóng đạt được mức sinh thay thế vào năm 2006 (2,09 con/phụ nữ), 3 năm
sau khi PLDS ra đời và từ đó đến nay, liên tục dưới mức sinh thay thế. Tỷ lệ
gia tăng dân số cũng giảm từ 1,17% (2002) xuống còn 1,06% (2012). Tỷ lệ
sinh con thứ 3 trở lên đã giảm mạnh từ 21,7% (2002) xuống còn 14,2%
(2012). Quy mô dân số nước ta năm 2002 là 79,54 triệu người, năm 2010 là
86,93 triệu người (thấp hơn so với mục tiêu của Chiến lược Dân số Việt Nam

17



2001 - 2010 do Chính phủ đặt ra là không vượt quá 89 triệu người). Đến
1/4/2012, quy mô dân số nước ta là 88,78 triệu người và chắc chắn đạt được
mục tiêu Chiến lược Dân số và Sức khỏe sinh sản của Chính phủ đặt ra đến
năm 2015 (quy mô không vượt quá 93 triệu người), bình quân mỗi năm tăng
thêm 924.000 người.
Tỷ lệ sử dụng các BPTT tăng hàng năm. Các phương tiện, BPTT nói
riêng và các dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ nói chung ngày càng phong
phú, đa dạng, thuận tiện cho người dân từ nông thôn tới miền núi, tới tận
những vùng sâu, vùng xa của Tổ quốc. Điều đó đã mang đến, mở rộng quyền
được tiếp cận và thụ hưởng dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ của người dân
trên mọi miền đất nước.
Mức sinh vì thế đã giảm, mức chết giảm, đặc biệt là tỷ suất chết trẻ em
dưới một tuổi, dưới 5 tuổi, tỷ số tử vong bà mẹ đều giảm; đời sống người dân
ngày một được cải thiện, thu nhập bình quân tăng. Những thành công trong
lĩnh vực DS - KHHGĐ đã mang đến các cơ hội về giáo dục, việc làm, kinh tế,
an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, nâng cao vị thế người phụ nữ trong gia
đình và xã hội, thực hiện bình đẳng giới, thúc đẩy xã hội ổn định, phát triển.
Chính sách, pháp luật dân số trong giai đoạn này được chuyển hướng
nhằm giải quyết toàn diện các vấn đề dân số. Chính sách, pháp luật, chiến
lược DS - KHHGĐ giai đoạn này thể hiện trong một số văn bản quan trọng
của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ:
Tại Nghị quyết tại đại hội Đảng lần thứ IX xác định: “Chính sách dân số
nhằm chủ động kiểm soát quy mô và tăng chất lượng dân số phù hợp với
những yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Nâng cao chất lượng các dịch vụ
chăm sóc SKSS - KHHGĐ, giải quyết tốt mối quan hệ giữa phân bổ dân cư
hợp lý với quản lý dân số và phát triển nguồn nhân lực”.
Trên cơ sở năm quan điểm của Nghị quyết số 04-NQ/HNTW và quan
điểm của Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng, Quyết định số
18



147/2000/QĐ-TT xác định quan điểm mở rộng toàn diện mục tiêu của chính
sách, Chiến lược dân số là “Thực hiện đồng bộ từng bước và có trọng điểm
việc điều chỉnh hài hòa quan hệ giữa số lượng với chất lượng dân số, giữa
phát triển dân số và phát triển nguồn nhân lực, giữa phân bố và di chuyển dân
cư phù hợp với sự phát triển KT - XH là nhiệm vụ trọng tâm của công tác dân
số, tập trung ưu tiên cho các vùng có mức sinh cao, vùng nghèo, vùng sâu
vùng xa để giải quyết các vấn đề dân số và nâng cao mức sống nhân dân”[14].
Nghị quyết 47-NQ/TW xác định quan điểm chỉ đạo: một là tiếp tục quán
triệt và kiên quyết thực hiện các quan điểm cơ bản của Nghị quyết Hội nghị
lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII về chính sách DS KHHGĐ phấn đấu sớm đạt mục tiêu ổn định quy mô dân số, đồng thời từng
bước nâng cao chất dân số Việt Nam. Hai là toàn Đảng toàn dân kiên trì thực
hiện chủ trương mỗi cặp vợ chồng chỉ có một đến hai con để có điều kiện
nuôi dạy tốt. Ba là cán bộ, Đảng viên phải gương mẫu đi đầu thực hiện chính
sách DS - KHHGĐ.
Phạm vi và đối tượng thực hiện công tác DS - KHHGĐ được mở rộng
toàn diện đến mọi tầng lớp dân cư và đến mọi cơ quan, tổ chức, đơn vị, cộng
đồng; chú trọng nhóm đối tượng trong độ tuổi sinh đẻ, nhóm vị thành niên và
nam giới; tập trung ở các vùng có điều kiện KT - XH khó khăn và đặc biệt
khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng nghèo. Một hệ thống giải pháp đồng bộ
của chính sách, chiến lược bao gồm: lãnh đạo, tổ chức và quản lý; truyền
thông - giáo dục thay đổi hành vi, chăm sóc SKSS, KHHGĐ.
Các chính sách, pháp luật về DS - KHHGĐ đã được ban hành khá đầy
đủ từ Trung ương đến địa phương, tạo môi trường pháp lý cũng như những
động lực và điều kiện để thu hút được sự tham gia hưởng ứng của toàn xã hội,
nhằm thực hiện tốt Chiến lược Dân số 2001 - 2010 và tiếp tục thực hiện Chiến
lược Dân số và SKSS giai đoạn 2011 - 2020. Bên cạnh các chính sách khen

19



thưởng, khuyến khích, động viên tập thể, cá nhân thực hiện tốt chính sách DS
- KHHGĐ, chính sách, biện pháp đặc thù đối với người dân tộc thiểu số, vùng
dân tộc ít người trong việc thực hiện mục tiêu DS - KHHGĐ, chính sách chế
độ với cán bộ làm công tác DS - KHHGĐ, những quy định về xử lý kỷ luật
cán bộ, Đảng viên, công chức, viên chức vi phạm chính sách DS - KHHGĐ
được ban hành kịp thời.
Chính sách DS - KHHGĐ bền vững phải đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các
quan hệ xã hội trong các lĩnh vực dân số. Từng văn bản quy phạm pháp luật
cần quy định về các yếu tố dân số cụ thể để bảo đảm được tính toàn diện,
đồng bộ của các nội dung liên quan như: ba nguyên tắc của pháp luật dân số
nói chung và Pháp lệnh dân số nói riêng. Ngoài ra, các văn bản quy phạm
pháp luật cần quy định về quy mô dân số, cơ cấu dân số, chất lượng dân số.
Tính toàn diện, đồng bộ của chính sách dân số đã góp phần quan trọng trong
việc nâng cao trách nhiệm của công dân, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân trong việc kiểm soát sinh sản, lựa chọn nơi cư trú,
thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng dân số.
Sự thành công trong việc ban hành và thực hiện chính sách DS - KHHGĐ
trong những năm qua đến từ nhiều yếu tố. Hầu hết các tổ chức Đảng, chính
quyền đã coi công tác dân số là bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển
KT - XH, bước đầu chúng ta đã tạo được những cơ sở cho việc thay đổi hành vi
một cách bền vững, hạn chế được tác động tiêu cực của tâm lý xã hội. Tuy
nhiên do chưa nhận thức được hết tính chất khó khăn, phức tạp và lâu dài của
công tác DS - KHHGĐ, ở một số nơi đã xuất hiện những dấu hiệu của sự chủ
quan, thỏa mãn với những thành tích bước đầu trong công tác DS - KHHGĐ.
Có không ít địa phương, chính quyền và cơ quan chức năng đã thể hiện sự
thiếu kiên quyết trong khâu tổ chức thực hiện. Chính vì vậy, công tác dân số
cũng bộc lộ một số hạn chế. Những hạn chế tiêu biểu có thể kể ra đó là:


20


Mức sinh ở một số nơi vẫn còn ở mức cao và sự chênh lệch về mức sinh
giữa các vùng còn khá lớn, chênh lệch có khi lên tới từ 1,1 đến 1,9 lần. Việc
giảm sinh diễn ra chưa đồng đều. Tỷ lệ sinh con thứ ba tăng mạnh trở lại.
Trong một thời gian dài chúng ta đã quá chú trọng đến mục tiêu giảm
sinh mà chưa thực sự quan tâm đến vẫn đề chất lượng dân số, chất lượng cuộc
sống. Chính sách dân số còn thể hiện sự mất cân đối. Chất lượng dân số, chất
lượng cuộc sống chưa đáp ứng được yêu cầu về nguồn nhân lực có chất lượng
cao cho thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Các tố chất về thể lực
của con người Việt Nam như chiều cao, cân nặng và sức bền còn rất hạn chế.
Bộ máy quản lý dân số ra đời muộn, chưa ổn định, trình độ của đội ngũ
quản lý, triển khai chương trình còn hạn chế, điều này thể hiện cả về trình độ
khoa học cơ bản, hiểu biết pháp luật cũng như trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Thực tế đã có không ít những nơi tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể và
ngay cả những cán bộ chuyên trách đã hết sức lúng túng trước những vấn đề
cụ thể và thực tiễn đặt ra trong quá trình thực hiện chính sách. Điều này cho
thấy phần nào khả năng cũng như năng lực dự báo, lập kế hoạch và xử lý tình
huống của đội ngũ cán bộ còn yếu kém.
Những thực tiễn trong quá trình thực hiện chính sách DS - KHHGĐ trên
đây cho thấy quy trình quy hoạch và ban hành chính sách phải đi liền, gắn bó
mật thiết với công tác tổ chức thực hiện và giám sát thực tiễn mới có thể đảm
bảo được tính bền vững của chúng.
Đối với chính sách DS - KHGGD ở vùng dân tộc thiểu số, Đảng và Nhà
nước đã có những chủ trương cụ thể trong phát triển chất lượng dân số ở một
số dân tộc có dân số ít và các dân tộc cư trú ở vùng sâu, vùng xa. Xây dựng
các chính sách cụ thể về bảo vệ và phát triển một số dân tộc ít người sống ở
vùng khó khăn, vùng sâu vùng xa đang có chiều hướng suy giảm dân số . Mở
rộng tuyên truyền, giáo dục và cung cấp các dịch vụ về chăm sóc SKSS,


21


×