Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Nâng cao hiệu quả hoạt động chi trả chế độ trợ cấp ưu đãi người có công với cách mạng trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 20152020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.25 KB, 62 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

HOÀNG THỊ HÒA

NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
CHI TRẢ CHẾ ĐỘ ƯU ĐÃI NGƯỜI CÓ CÔNG
VỚI CÁCH MẠNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC
KẠN GIAI ĐOẠN 2015-2020

ĐỀ ÁN TỐT NGHIỆP CCLL CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH

Hà Nội, tháng 8 năm 2015


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

ĐỀ ÁN
NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
CHI TRẢ CHẾ ĐỘ ƯU ĐÃI NGƯỜI CÓ CÔNG ỚI
CÁCH MẠNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC KẠN
GIAI ĐOẠN 2015-2020

Họ và tên : Hoàng Thị Hòa
Lớp: CCLL Chính trị - Hành chính K5 Bắc Kạn
Chức vụ: Phó phòng Kế hoạch - Tài chính
Đơn vị công tác : Sở Lao động - Thương binh và Xã hội
Người hướng dẫn khoa học: Ths Nguyễn Thị Thúy
Khoa XHH - Tâm lý LĐQL


Hà Nội, tháng 8 năm 2015


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc Học viện Chính trị Khu vực I và
toàn thể các thầy giáo, cô giáo của Học viện Chính trị khu vực I; các đồng chí
lãnh đạo Sở Lao động - TB và XH tỉnh Bắc Kạn đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi
hoàn thành chương trình học tập cũng như đi thực tế nghiên cứu, xây dựng đề án
tốt nghiệp này. Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn Thạc sỹ Nguyễn Thị Thúy,
GVC khoa XXH - Tâm lý LĐQL, Học viện Chính trị Khu vực I, đã tận tình giúp
đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu, xây dựng và hoàn chỉnh đề án này.
Do thời gian nghiên cứu có hạn, kinh nghiệm công tác chưa nhiều và
cũng là lần đầu tiên xây dựng đề án khoa học nên khó tránh khỏi những thiếu
sót, vì vậy rất tôi mong được sự tham gia, bổ sung đóng góp ý kiến của các thầy
giáo, cô giáo và các đồng chí đồng nghiệp để đề án này được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn./.

Bắc Kạn, ngày 3 tháng 8 năm 2015
Người viết

Hoàng Thị Hòa
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


CSXH:

Chính sách xã hội

ƯĐXH:


Ưu đãi xã hội

NCC:

Người có công

VNAH:

Việt Nam anh hùng

CM:

Cách mạng

AHLLVTND: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
UBND:

Uỷ ban nhân dân

TW:

Trung ương

BTXH:

Bảo trợ xã hội

QL:


Quản lý

NL:

Nhân lực

CBCC:

Cán bộ công chức

CNTT:

Công nghệ thông tin

CĐHH:

Chất độc hoá học

KT-XH: Kinh tế - xã hội
UBMTTQ:

Ủy ban mặt trận tổ quốc

HCTĐ:

Hội chữ thập đỏ

HLHPN:

Hội liên hiệp phụ nữ


XĐGN:

Xóa đói giảm nghèo

TNXH:

Tệ nạn xã hội


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT........................................................................................3
A. MỞ ĐẦU...........................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề án............................................................................................................1
3. Giới hạn của đề án..........................................................................................................4
B. NỘI DUNG........................................................................................................................5
1. Cơ sở xây dựng đề án.....................................................................................................5
Sở LĐ-TBXH là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh; tham mưu, giúp UBND tỉnh thực
hiện chức năng quản lý nhà nước về Lao động, Thương binh và Xã hội trên địa bàn; về các
dịch vụ công thuộc lĩnh vực Lao động, Thương binh và Xã hội; thực hiện một số nhiệm vụ,
quyền hạn theo sự uỷ quyền của UBND tỉnh theo quy định của pháp luật..........................22
Cấp huyện, thành phố: Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan quản lý nhà
nước về Lao động - Thương binh và Xã hội trên địa bàn huyện, thành phố, chịu sự lãnh
đạo trực tiếp của UBND huyện, thành phố và chịu sự hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp
vụ của sở Lao động - Thương Binh và Xã hội.....................................................................23
Cấp xã, phường, thị trấn: Định biên cán bộ làm công tác Lao động - Thương binh và Xã
hội của 122 xã phường thị trấn, trong đó trình độ đại học có 43 người, cao đẳng 19 người,
Trung cấp 41 người, chưa qua đào tạo 19 người..................................................................23
Nhìn chung, đội ngũ công chức ngành Lao động - Thương binh và Xã hội trên địa bàn
toàn tỉnh cơ bản đã đáp ứng yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ; công tác Lao động Thương binh và Xã hội được nâng lên, dần đi vào nề nếp, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu

quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành bằng pháp luật của cấp ủy, chính quyền địa phương, giải
quyết kịp thời các công việc của người dân; hạn chế những bức xúc, mâu thuẫn, khiếu kiện
trong nhân dân; thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; bảo đảm ổn định an ninh chính trị và
trật tự an toàn xã hội của địa phương...................................................................................24


1

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề án
Dân tộc Việt Nam đã trải qua bao thăng trầm lịch sử với những cuộc đấu
tranh cam go, quyết liệt để giành độc lập và tự do Tổ quốc. Thắng lợi vĩ đại
của dân tộc ta trong các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc cũng như trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là sự hy sinh bằng xương máu, mồ hôi
và nước mắt của các thế hệ người Việt Nam. Hàng triệu đồng bào, đồng chí đã
hy sinh, hàng triệu người suốt đời mang trên mình thương tật, hoặc di chứng
của chiến tranh; hàng triệu người con ưu tú đã ngã xuống và vĩnh viễn yên
nghỉ trên mọi miền của đất nước, để lại cho người thân, gia đình và xã hội
những mất mát đau thương không gì bù đắp nổi. Sự hy sinh vì đất nước của
đồng bào và chiến sĩ ta là vô giá, không gì sánh nổi, đó là biểu thị lòng yêu
nước oanh liệt của dân tộc ta trong công cuộc kháng chiến chống giặc ngoại
xâm và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Chứng kiến những hi sinh cao cả, những mất mát vô cùng to lớn đó và
thấm nhuần lời dạy của Hồ Chủ Tịch: "Máu đào của các liệt sỹ đã làm cho lá
cờ cách mạng thêm đỏ chói. Sự hy sinh của các liệt sỹ đã chuẩn bị cho đất
nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do, nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn
liệt sỹ"... "Anh em thương binh đã hy sinh một phần xương máu đề giữ gìn Tổ
quốc, bảo vệ đồng bào, tận trung với nước, tận hiếu với dân, anh em đã làm
tròn nhiệm vụ anh em không đòi hỏi gì cả. Song đối với những người con
trung hiếu ấy, Chính phủ và đồng bào phải báo đáp thế nào cho xứng

đáng"..."Thương binh, bệnh binh, gia đình bộ đội, gia đình liệt sỹ là những
người có công với Tổ quốc. Bởi vậy, bổn phận của chúng ta là phải: Biết ơn,
thương yêu và giúp đỡ họ. . ."
Cùng với tinh thần nhân văn cao cả và tấm lòng biết ơn sâu sắc đối với
những người đã hy sinh vì Tổ quốc, suốt mấy chục năm qua Đảng, Nhà nước
ta đã ban hành và thực hiện nhiều chính sách, chế độ đối với đối tượng NCC
và thường xuyên có sự điều chỉnh bổ sung phù hợp với từng thời kỳ cách
mạng. Đến nay đã hình thành hệ thống chính sách gắn liền với thực hiện


2

chính sách KT-XH và liên quan đến đời sống hàng ngày của hàng triệu người
có công.
Đó là chủ trương đúng đắn, là chính sách lớn của Đảng, Nhà nước ta.
Chính sách đã góp phần làm giảm đi phần nào những đau đớn, mất mát thể
chất; đồng thời cổ vũ động viên tinh thần giúp họ vượt lên trên những mất
mát đau thương ấy, khắc phục những khó khăn cản trở, tiếp tục khẳng định
mình, xây dựng cuộc sống mới cho bản thân, gia đình, đóng góp công sức, trí
tuệ vào công việc đổi mới và phát triển quê hương đất nước.
Với số lượng NCC rất lớn, mỗi người một hoàn cảnh khác nhau, các
chế độ cũng rất khác nhau. Do đó, thực hiện chính sách như thế nào cho đúng
quy định của Nhà nước, đảm bảo công bằng là một việc làm không đơn giản.
Quá trình thực hiện chi trả trợ cấp ưu đãi NCC trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn
trong thời gian qua đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, tuy nhiên vẫn
còn bộc lộ những hạn chế, thiếu sót, đặc biệt trong công tác quản lý chi trả
chế độ trợ cấp ưu đãi NCC: tình trạng chi không đúng đối tượng và chưa kiểm
soát được chặt chẽ đối tượng hưởng chế độ trợ cấp ưu đãi NCC, công tác
quản lý tiền mặt chưa thực sự đảm bảo an toàn, quyền lợi của người hưởng
vẫn còn bị vi phạm... Đây là những khó khăn đối với quản lý chi trả trợ cấp

ưu đãi NCC trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn trong nhiều năm qua cần phải được
giải quyết, bảo đảm cho người thụ hưởng các chế độ, chính sách trợ cấp được
thuận lợi hơn.
Nhận thức được tính cấp thiết của vấn đề ưu đãi với NCC, tôi chọn vấn đề
"Nâng cao hiệu quả hoạt động chi trả chế độ trợ cấp ưu đãi người có công
với cách mạng trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2015-2020" làm đề án
tốt nghiệp chương trình Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính của mình.
2. Mục tiêu của đề án
2.1. Mục tiêu tổng quát
Nâng cao hiệu quả hoạt động chi trả chế độ trợ cấp ưu đãi NCC với
cách mạng trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn nhằm thực hiện nghiêm túc, đầy đủ, kịp
thời các chế độ chính sách ưu đãi của Đảng và Nhà nước đối với NCC và thân


3

nhân. Phối hợp giải quyết dứt điểm chế độ, chính sách đối với NCC theo quy
định hiện hành. Đảm bảo cho NCC luôn yên ổn về vật chất, vui vẻ về tinh
thần, có cuộc sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của người dân nơi
cư trú. Tạo điều kiện cho NCC phát huy tốt khả năng lao động của mình vào
phát triển kinh tế gia đình và tham gia hoạt động xã hội để tiếp tục phát huy
phẩm chất, truyền thống cách mạng phục vụ quê hương đất nước.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Tăng cường sự quan tâm chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền trong
lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chính sách xã hội, cũng như chính sách ưu
đãi người có công với cách mạng.
- Thực hiện đầy đủ, kịp thời, chính xác các khoản chế độ trợ cấp để
đảm bảo ổn định đời sống đối với người có công với cách mạng. Huy động
sức mạnh tổng hợp của Nhà nước, địa phương và cộng đồng dân cư chăm lo
tốt hơn nữa mọi mặt đời sống cho Người và gia đình có công với cách mạng.

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức, trách
nhiệm của cấp ủy Đảng, chính quyền và toàn xã hội đối với phong trào “Đền
ơn đáp nghĩa”; phổ biến các chủ trương chính sách, các chế độ ưu đãi của
Đảng và Nhà nước đối với người có công với cách mạng để người có công
được biết và toàn xã hội cùng tham gia giám sát việc thực hiện ở cơ sở.
- Các biện pháp quản lý người có công với cách mạng phải được thực
hiện một cách linh hoạt, mềm dẻo phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội,
nhưng phải đảm bảo đúng luật. Thực hiện thống nhất quản lý về người có
công với cách mạng nhưng có sự phân công giữa các ngành và có sự tham gia
phối hợp của các cơ quan nhà nước và chính quyền địa phương cùng cấp để
thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.
- Việc quản lý và thực hiện chính sách đối với người có công dựa trên
những quy định của hệ thống chính sách pháp luật do Nhà nước ban hành. Do
vậy các thủ tục yêu cầu trong xác lập hồ sơ phải được quy định rõ ràng, cụ
thể, không gây phiền hà người có công với cách mạng và thân nhân của họ và
dễ dẫn tới tiêu cực trong bộ phận cán bộ tổ chức thực hiện nhiệm vụ.


4

- Nâng cao ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, coi trọng việc tổ
chức thực hiện chính sách vì đây là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và nhân
dân dành cho người có công với cách mạng. Kịp thời phát hiện, uốn nắn, chấn
chỉnh những sai phạm và kiên quyết xử lý đối với những trường hợp cố tình
vi phạm Chính sách xã hội để đảm bảo và củng cố niềm tin của nhân dân.
- Đổi mới từng bước tổ chức bộ máy, chú trọng nâng cao trình độ cho
cán bộ Lao động -Thương binh và xã hội, đặc biệt là cán bộ cấp xã phải được
đào tạo và thường xuyên học tập, nghiên cứu về chuyên môn nghiệp vụ, tu
dưỡng phẩm chất đạo đức để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
3. Giới hạn của đề án

3.1. Giới hạn về đối tượng: Hiệu quả hoạt động chi trả chế độ trợ cấp
ưu đãi người có công với cách mạng trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn (gồm: công tác
quản lý và tổ chức triển khai thực hiện việc chi trả trợ cấp ưu đãi người có
công với cách mạng).
3.2. Giới hạn về không gian:
Đề án được thực hiện trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn
3.3. Giới hạn về thời gian:
Thời gian thực hiện đề án từ 2015 - 2020.


5

B. NỘI DUNG
1. Cơ sở xây dựng đề án
1.1. Cơ sở khoa học
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
Trong sự nghiệp cách mạng lâu dài và gian khổ của nhân dân ta,
thương bệnh binh, gia đình liệt sỹ, liệt sỹ, người và gia đình có công giúp đỡ
cách mạng đã có nhiều công lao to lớn, đã hy sinh xương máu, tính mạng để
bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân. Đảng, Nhà nước đánh giá cao những cống
hiến đó. Đồng thời để tỏ lòng biết ơn sâu sắc Đảng, Nhà nước đã có chính
sách ưu đãi với NCC. Đó là một trong những chính sách lớn của Đảng, Nhà
nước và có ý nghĩa chính trị - xã hội quan trọng.
1.1.1.1. Khái niệm chính sách xã hội
Chính sách xã hội là tổng thể các quan điểm, các chủ trương mà chủ thể
lãnh đạo và quản lý xã hội nêu ra, thể chế hoá và cụ thể hoá thành các biện
pháp, công cụ tác động vào con người, nhóm xã hội và các cộng đồng xã hội
nhằm đạt được những mục tiêu của chiến lược con người và giải quyết những
vấn đề thuộc lĩnh vực xã hội, tạo dựng môi trường tốt nhất cho sự phát triển
toàn diện con người trong một khoảng thời gian nhất định.

Chính sách xã hội được xem là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội,
thực hiện công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội và phát triển toàn diện con
người. Chính sách xã hội phải tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất về kinh
tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng để phát triển toàn diện mỗi cá nhân, các cộng
đồng người... tạo điều kiện cho mọi người được hưởng thụ phúc lợi xã hội, an
sinh xã hội. Chính sách xã hội phải tạo ra những điều kiện và cơ hội thuận lợi
để mọi người phát triển và hòa nhập vào cộng đồng. Cho nên, chính sách xã
hội phải đặc biệt chú ý đến những nhóm người thiếu hoặc mất những điều
kiện sống bình thường, tối thiểu, những người có công lao, nhiều cống hiến
cho quốc gia, dân tộc đang phải chịu thiệt thòi, những người tài năng đặc biệt
cần chăm sóc.


6

Nằm trong nhóm các chính sách tác động vào quan hệ sản xuất và tái
sản xuất xã hội, Ưu đãi xã hội là chính sách đãi ngộ cho những người có công
với đất nước, người có tài năng. Điều này thể hiện truyền thống quý báu của
dân tộc, là đạo lý uống nước nhớ nguồn và là sự tôn trọng những định hướng
giá trị có tính nhân văn, tác động vào quá trình phân phối và phân phối lại thu
nhập góp phần đem lại công bằng xã hội, giúp bù đắp phần nào thiệt thòi cho
những người có công lao đóng góp cho đất nước. Cùng với việc phát triển
kinh tế đất nước, chăm lo cho đời sống người có công là trách nhiệm, là bổn
phận của Nhà nước và toàn xã hội với tinh thần “Đền ơn đáp nghĩa”, ưu tiên
ưu đãi với những người đã cống hiến cho Tổ quốc.
1.1.1.2. Khái niệm người có công
Người có công với cách mạng là người có đóng góp công lao hoặc hy
sinh tính mạng, hy sinh một phần thân thể trong thời kỳ trước cách mạng
tháng Tám, trong các cuộc giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và nghĩa vụ
quốc tế được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận.

Người có công với cách mạng là những người đã giúp đỡ cách mạng
trong lúc khó khăn, nguy hiểm, được Nhà nước ghi nhận vinh danh bằng
nhiều hình thức như tặng Tổ quốc ghi công, bằng có công với nước, Huân huy
chương kháng chiến, Giấy chứng nhận và những hình thức ghi nhận khác
Người có công với cách mạng hiện nay đa số là những người tuổi cao,
sức yếu, thêm vào đó là thương tật, bệnh tật, di chứng của chiến tranh để lại
nên sức lao động giảm sút. Trong điều kiện chiến tranh, họ phải cầm súng ra
trận hoặc sớm tham gia các hoạt động phục vụ cuộc chiến, không có điều kiện
học tập nên phần lớn những người có công với cách mạng đều có trình độ văn
hóa, chuyên môn nghiệp vụ thấp nên hạn chế trong quá trình hòa nhập cộng
đồng, tìm việc làm, tăng thu nhập trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay.
Do vậy cuộc sống phụ thuộc vào trợ cấp của nhà nước.
Người có công với cách mạng đã cống hiến, hy sinh, chịu nhiều mất
mát vì sự nghiệp chung của dân tộc nên họ rất cần được quan tâm chia sẻ
động viên, khích lệ và mong muôn được hòa nhập cộng đồng. Với phẩm chất


7

truyền thống cách mạng, đại bộ phận người và gia đình có công luôn gương
mẫu trong đời sống và công tác vượt qua khó khăn để vươn lên.
Thân nhân NCC với cách mạng tuy phải chịu những thiệt thòi vì người
thân yêu nhất của mình đã hy sinh cả tính mạng hoặc một phần thân thể cho
sự nghiệp chung của dân tộc, nhưng họ luôn ý thức và tự hào vì sự đóng góp
hy sinh ấy và coi đó là tấm gương để học tập.
Theo pháp lệnh ưu đãi người có công với cánh mạng của UBTVQH số
26/2005/PL

-


UBTVQH

11

ngày

29/6/2005;

Pháp

lệnh

số

04/2012/UBTVQH13 ngày 16/7/2012 sửa đổi và bổ sung một số điều của
pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng gồm:
a) Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945;
b) Người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến ngày
khởi nghĩa tháng Tám năm 1945;
c) Liệt sĩ;
d) Bà mẹ Việt Nam anh hùng;
đ) Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân;
e) Anh hùng Lao động trong thời kỳ kháng chiến;
g) Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh;
h) Bệnh binh;
i) Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học;
k) Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày;
l) Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và
làm nghĩa vụ quốc tế;
m) Người có công giúp đỡ cách mạng.

Những người làm công tác chính sách NCC sử dụng khái niệm này để làm
căn cứ khi thực hiện chi trả các chế độ cho đối tượng có công với CM.
1.1.1.3. Khái niệm chính sách ưu đãi người có công
Ưu đãi NCC được hiểu là "sự phản ánh trách nhiệm của Nhà nước và
cộng đồng xã hội, là sự đãi ngộ đặc biệt ưu tiên hơn mức bình thường về mọi


8

mặt trong đời sống vật chất văn hoá, tinh thần với người có công lao đặc biệt
với đất nước".
Chính sách ưu đãi NCC là những quy định chung của Nhà nước bao
gồm mục tiêu, phương hướng, giải pháp về ghi nhận công lao, sự đóng góp,
hy sinh cao cả của người có công, tạo mọi điều kiện và khả năng góp phần ổn
định và nâng cao đời sống vật chất, văn hoá tinh thần đối với người có công
với CM.
Chính sách ưu đãi NCC gồm các chế độ chăm sóc về các mặt như sau:
Y tế, giáo dục đào tạo, sản xuất, đời sống sinh hoạt với mục tiêu: "Đảm bảo
cho NCC luôn luôn được yên ổn về vật chất, vui vẻ về tinh thần, có cuộc sống
không thấp hơn mức trung bình của nhân dân địa phương”.
Tạo điều kiện cho người có công sử dụng được khả năng lao động của
mình vào những hoạt động có ích cho xã hội, tiếp tục duy trì và phát huy
truyền thống tốt đẹp của mình, phục vụ sự nghiệp đổi mới của đất nước".
Như vậy có thể khẳng định, vấn đề NCC không chỉ là vấn đề xã hội
rộng lớn mà còn là vấn đề chính trị, tư tưởng tình cảm sâu sắc. Có ảnh hưởng
lớn tới quốc phòng và an ninh, đến sự an toàn của xã hội và việc thực hiện hai
nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.1.2. Hình thức chi trả chế độ trợ cấp ưu đãi xã hội cho NCC
Hoạt động chi trả trợ cấp cho NCC với cách mạng chủ yếu là dưới hai
hình thức sau:

1.1.2.1. Chi trả trợ cấp một lần: Là đối tượng hoặc thân nhân đối
tượng làm bản khai theo mẫu qui định và nộp bản khai và các giấy tờ gốc
hoặc giấy tờ được coi là giấy tờ gốc; giấy tờ có liên quan (nếu có) cho UBND
xã (phường).
1.1.2.2. Hoạt động chi trả theo hàng tháng:
Áp dụng ưu đãi đối với người hoạt động cách mạng trước và sau
ngày01 tháng 01 năm 1945 gồm:
- Trợ cấp hàng tháng, phụ cấp hàng tháng kể từ ngày có quyết định
công nhận.


9

- Được cấp báo Nhân dân hàng ngày, sinh hoạt văn hoá tinh thần phù
hợp với điều kiện nơi cư trú.
- Khi người hoạt động cách mạng chết thì người tổ chức mai táng được
nhận mai táng phí; thân nhân người hoạt động cách mạng được hưởng:
+ Trợ cấp một lần bằng ba tháng trợ cấp, phụ cấp mà người hoạt động
cách mạng được hưởng trước khi chết.
+ Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng; con từ 18 tuổi trở xuống hoặc trên 18
tuổi nếu còn tiếp tục đi học; con bị tàn tật nặng từ nhỏ, khi hết thời hạn hưởng
trợ cấp vẫn bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên thì được hưởng trợ
cấp tiền tuất hàng tháng.
+ Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng đang sống cô đơn không nơi nương
tựa; con mồ côi từ 18 tuổi trở xuống hoặc trên 18 tuổi nếu còn tiếp tục đi học;
con mồ côi bị tàn tật nặng từ nhỏ, khi hết thời hạn hưởng trợ cấp mà vẫn bị
suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên thì được hưởng trợ cấp tuất nuôi
dưỡng hàng tháng.
1.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về việc trợ
cấp ưu đãi với NCC

Chính sách đối với người có công là một trong những chính sách ưu
tiên, xuyên suốt quá trình cách mạng của Đảng và Nhà nước ta. Sinh thời,
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến tất cả mọi người, đặc biệt là các
chiến sỹ, thương binh và bệnh binh. Ngay từ những ngày đầu của chính quyền
cách mạng non trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khởi xướng và đưa ra những
quan điểm cơ bản về ưu đãi người có công với cách mạng, hình thành chính
sách ưu đãi thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ. Theo Người: Thương
binh, bệnh binh, gia đình quân nhân, gia đình liệt sỹ là những người có công
với Tổ quốc, với nhân dân. Cho nên, bổn phận của chúng ta là phải biết ơn,
phải thương yêu và giúp đỡ họ. Người đã ra Chỉ thị lấy ngày 27/7 làm “Ngày
Thương binh toàn quốc”, vận động đồng bào nhường cơm sẻ áo giúp đỡ
thương binh và kêu gọi các tầng lớp nhân dân phát huy tinh thần “Uống nước


10

nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ người trồng cây”, hết lòng giúp đỡ thương binh,
gia đình liệt sỹ về vật chất cũng như về tinh thần.
Thực hiện tư tưởng của Người, cùng với sự tôn vinh, biết ơn, Đảng và
Nhà nước ta đã có các chính sách và việc làm thích hợp để đãi ngộ xứng đáng
đối với những người có công còn sống và thân nhân những người đã hy sinh.
Văn bản pháp luật đầu tiên về ưu đãi người có công với cách mạng là Sắc
lệnh số 20/SL do Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ký ngày 16-21947, sau đó được bổ sung bằng Sắc lệnh số 242/SL ngày 12-10-1948, quy
định tiêu chuẩn xác nhận thương binh, truy tặng “tử sỹ”, thực hiện chế độ
“lương hưu thương tật” đối với thương binh, chế độ “tiền tuất” đối với gia
đình liệt sỹ.
Ngày 27-07-1947, tại xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, bức
thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Ban Thường trực của Ban Tổ chức Ngày
Thương binh toàn quốc, nêu rõ: “Thương binh là những người đã hy sinh gia
đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ

quốc, của đồng bào, mà các đồng chí chịu ốm yếu, què quặt. Vì vậy Tổ quốc,
đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy”1.
Trước lúc đi xa, Bác đã căn dặn, công tác đền ơn đáp nghĩa rất quan
trọng song cần phù hợp với từng đối tượng cụ thể. Trong Di chúc, Bác dặn
dò: Đối với những người dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình
(cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích…), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm
mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp
dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể “dần dần tự lực cánh sinh”.
Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn
hoa và bia tưởng niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo
dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta. Đối với cha mẹ, vợ con của thương
binh và liệt sĩ mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa
phương và hợp tác xã phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn ổn định, quyết
không để họ bị đói rét...
1

Hồ Chí Minh(2011), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 204.


11

Ngay sau ngày miền Bắc được giải phóng (năm 1954), Đảng và Nhà
nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách, văn bản pháp luật quy định chế
độ ưu đãi đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ, với dân quân, du
kích, thanh niên xung phong bị thương tật... với cán bộ tiền khởi nghĩa, Anh
hùng Lực lượng vũ trang, Anh hùng Lao động, NCC giúp đỡ cách mạng. Và
khi đất nước hoàn toàn thống nhất, cả nước bước vào thời kỳ xây dựng chủ
nghĩa xã hội, Đảng và Nhà nước ta vẫn xác định công tác thương binh, liệt sỹ
là một trong những vấn đề đặc biệt quan trọng của đất nước.
Cụ thể hóa quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước ta đã ban hành,

sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản pháp luật ưu đãi NCC, khắc phục một số bất
hợp lý, giải quyết một khối lượng lớn công việc do hậu quả của chiến tranh để
lại, hình thành một hệ thống pháp luật văn bản pháp quy có hiệu lực thống
nhất trong cả nước, phục vụ cho yêu cầu của giai đoạn mới. Đối tượng thụ
hưởng chính sách ngày càng mở rộng, mức hỗ trợ được nâng lên.
Bắt đầu từ Chỉ thị số 223/CT-TW ngày 8-7-1975 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng xác định yêu cầu nhiệm vụ của công tác thương binh, liệt sỹ sau
chiến tranh. Sau đó là nhiều Nghị định, Quyết định, Thông tư nhằm sửa đổi,
bổ sung chế độ ưu đãi đối
với NCC; xác nhận chính xác đối tượng người có công để họ được hưởng chế
độ trợ cấp theo quy định của Nhà nước.
Đối với thương binh, liệt sĩ, Nghị quyết Đại hội VI của Đảng chỉ rõ
phải “thực hiện tốt chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình
cán bộ, chiến sĩ chiến đấu ngoài mặt trận, gia đình có công với cách
mạng…”.
Về vấn đề thương binh, liệt sĩ, Đại hội VII của Đảng tiếp tục khẳng
định: “Quan tâm chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và những
người có công với cách mạng, coi đó vừa là trách nhiệm của Nhà nước, vừa
là trách nhiệm của toàn dân; sớm ban hành chế độ toàn dân đóng góp vào
quỹ đền ơn, trả nghĩa để chăm lo đời sống thương binh, gia đình liệt sĩ và
những người có công với cách mạng”.


12

Trong định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu, mục Chính sách giải
quyết một số vấn đề xã hội, Nghị quyết Đại hội VIII chỉ rõ: “Tổ chức tốt việc
thi hành Pháp lệnh về người có công, bảo đảm cho những NCC với đất nước
và cách mạng có đời sống vật chất và tinh thần ít nhất bằng mức sống trung
bình của nhân dân nơi cư trú; bồi dưỡng và tạo điều kiện cho con em những

NCC với cách mạng tiếp nối sự nghiệp của cha anh. Mở rộng phong trào đền
ơn đáp nghĩa, chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ...”2.
Đại hội IX của Đảng, khẳng định: “Chăm lo tốt hơn đối với các gia
đình chính sách và những người có công với cách mạng, bảo đảm tất cả các
gia đình chính sách đều có cuộc sống bằng hoặc khá hơn mức sống trung
bình so với người dân địa phương trên cơ sở kết hợp 3 nguồn lực: Nhà nước,
cộng đồng và cá nhân các đối tượng chính sách tự vươn lên”3.
Đại hội X một lần nữa chỉ rõ: “Chú trọng các chính sách ưu đãi xã
hội. Vận động toàn dân tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước
nhớ nguồn đối với các lão thành cách mạng, những người có công với nước,
người hưởng chính sách xã hội”4.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) được Đại hội XI của Đảng thông qua,
khẳng định “Hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội. Thực hiện tốt chính sách đối
với người và gia đình có công với nước”5.
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: “Huy động mọi nguồn lực xã
hội cùng với Nhà nước chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần
của những người và gia đình có công, tạo điều kiện về việc làm, thu nhập sao

2

Đảng Cộng sản Việt Nam(1996), Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. CTQG, Hà Nội,
tr.115.

3

Đảng Cộng sản Việt Nam(2001) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. CTQG, Hà Nội,
tr.301.
4
Đảng Cộng sản Việt Nam(2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, Hà Nội,

tr.104.
5
Đảng Cộng sản Việt Nam(2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, Hà Nội, tr.79


13

cho các đối tượng này có mức sống cao hơn mức sống trung bình của dân cư
tại địa bàn. Giải quyết dứt điểm các tồn đọng về chính sách người có công”.
Với truyền thống đạo lý của dân tộc, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
không ngừng phấn đấu làm được nhiều việc tốt trong lĩnh vực chăm sóc
thương binh, gia đình liệt sĩ và những NCC với cách mạng. Đường lối, chủ
trương nhất quán, trước sau như một của Đảng ta đối với NCC với cách mạng
đã được thể chế hóa về mặt Nhà nước phù hợp với tình hình cách mạng trong
mỗi thời kỳ và từng giai đoạn cụ thể, góp phần ổn định chính trị, xã hội, có ý
nghĩa nhân văn sâu sắc, tăng lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ ta,
tạo nên nét đẹp mới trong đời sống xã hội của đất nước và dân tộc.
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý
1.2.1. Cơ sở chính trị
- Chỉ thị số 223/CT-TW ngày 8-7-1975 của Ban Bí thư Trung ương Đảng
xác định yêu cầu nhiệm vụ của công tác thương binh, liệt sỹ sau chiến tranh
- Chỉ thị số 20-CT/TW ngày 05-5-1993 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng về công tác mộ nghĩa trang liệt sĩ, yêu cầu các cấp, các ngành cần có
những biện pháp tích cực để trong vài năm tới giải quyết một bước cơ bản
việc tìm kiếm quy tập mộ liệt sĩ vào các nghĩa trang liệt sĩ.
- Chỉ thị số 09-CT/TW ngày 14-12-1996 của Bộ Chính trị về việc mở đợt
vận động kỷ niệm 50 năm Ngày thương binh, liệt sĩ. Chỉ thị yêu cầu các bộ,
ngành, các cấp ủy Đảng và chính quyền tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
tốt các chế độ, chính sách theo Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng
- Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

VI, VII, VIII, IX, X, XI.
- Chỉ thị số 80-CT/TW ngày 01-03-2002 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thương binh, liệt
sĩ, người có công với cách mạng và phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” trong
giai đoạn mới.


14

- Chỉ thị số 07/CT-TW ngày 14-12-2006 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác thương binh, liệt sĩ,
người có công và phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”.
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm số: 15-NQ/TW, ngày 01 tháng 6
năm 2012 của Ban chấp hành Trung ương khóa XI về “Một số vấn đề về
chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020”
1.2.2. Cơ sở pháp lý
- Hiến pháp 1992, tại Chương V - Điều 67 ghi rõ: “Thương binh, bệnh
binh, gia đình liệt sỹ được hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước”
- Hiến pháp 2013, tại Khoản 1- Điều 59 nêu rõ: “Nhà nước, xã hội tôn
vinh, khen thưởng, thực hiện chính sách ưu đãi đối với Người có công với
Cách mạng”.
- Pháp lệnh số: 26/2005/PL-UBTVQH11 của Ủy Ban Thường vụ Quốc
hội ban hành ngày 29 tháng 6 năm 2005 về ưu đãi NCC với cách mạng.
- Pháp lệnh số: 04/2012/UBTVQH13 ngày16/7/2012 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số một số điều của pháp lệnh
ưu đãi NCC với cách mạng
- Pháp lệnh số 05/2012/UBTVQH ngày 20/10/2012 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh quy định
danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng.
- Nghị định số 45/2006/NĐ-CP ngày 28/4/2006 của Chính phủ ban

hành Điều lệ quản lý và sử dụng Quỹ Đền ơn đáp nghĩa các cấp.
- Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 9/4/2013 của Chính phủ quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh ưu đãi Người có
công với cách mạng.
- Nghị định số 56/2013/NĐ-CP ngày 22/05/2013 của Chính phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự
Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng.


15

- Nghị định số 20/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy
định mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi đối với người có công với cách mạng.
- Thông tư liên tịch số 47/2009/TTLT-BTC-BLĐTBXH ngày
11/03/2009 của Liên Bộ tài chính, Bộ LĐTBXH hướng dẫn cấp phát, quản lý
kinh phí thực hiện chính sách ưu đãi NCC với cách mạng và người trực tiếp
tham gia kháng chiến.
- Thông tư số 05/2013/TT-BLĐTBXH ngày 15/5/2013 của Bộ Lao
động -Thương binh và Xã hội hướng dẫn về thủ tục lập hồ sơ, quan lý hồ sơ,
thực hiện chế độ ưu đãi Người có công với Cách mạng và thân nhân.
- Thông tư Liên tịch số 03/2014/TTLT-BNV-BQP-BLĐTBXH ngày
10/10/2014 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 56/2013/NĐCP ngày 22/05/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng.
- Chỉ thị số 23/CT-TTg về việc tổng rà soát việc thực hiện chính sách

ưu đãi đối với người có công với cách mạng trong hai năm 2014 - 2015.
1.3. Cơ sở thực tiễn
Phát huy truyền thống của dân tộc, trải qua hai cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, có 21.323
người con của quê hương Bắc Kạn đã hăng hái tham gia chiến đấu, phục vụ

chiến đấu trên khắp các chiến trường. Tổng kết hai cuộc kháng chiến Đảng bộ
và nhân dân tỉnh Bắc Kạn đã được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ
trang nhân dân có 01 người, danh hiệu anh hùng lao động 02 người, 100 Bà
mẹ Việt nam anh hùng, 2.000 Liệt sỹ, 1.300 Thương, Bệnh binh, 2000 Người
bị nhiễm chất độc hóa học, 15.000 người hoạt động kháng chiến GPDT, 500
người HĐCM trước cách mạng tháng 8/1945, 20 người bị địch bắt tù đày, 400
người giúp đỡ cách mạng.
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan chuyên môn trực
thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh có nhiệm vụ tham mưu với Ủy ban nhân dân tỉnh
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các lĩnh lao động, việc làm, dạy
nghề, tiền lương, tiền công, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, an toàn


16

lao động, người có công, bảo trợ xã hội, bảo vệ chăm sóc trẻ em, bình đẳng
giới, phòng chống tệ nạn xã hội.
Thực hiện Pháp lệnh ưu đãi NCC với cách mạng Sở Lao động -Thương
binh và Xã hội đang quản lý và thực hiện chế độ đối với 12 nhóm đối tượng,
số tiền trợ cấp trên 100 tỷ đồng/năm.
Với khối lượng công việc lớn, các văn bản về chính sách liên tục được
điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung để tiến tới hoàn thiện, số lượng cán bộ hạn chế,
trang thiết bị, các điều kiện phục vụ công tác còn thiếu nên mặc dù đã có
nhiều cố gắng song việc thực hiện chính sách ưu đãi đối với NCC với cách
mạng trên địa bàn toàn tỉnh vẫn còn những vướng mắc, tồn tại cần khắc phục,
vẫn còn những gia đình có công với cách mạng có hoàn cảnh khó khăn, vẫn
còn những đối tượng có công nhưng chưa được hưởng chính sách ưu đãi của
Nhà nước.
Trải qua chặng đường 18 năm xây dựng và phát triển trong điều kiện có
nhiều khó khăn và thử thách, nhưng Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh

Bắc Kạn đã tổ chức thực hiện quản lý chi trả trợ cấp ưu đãi NCC có hiệu quả.
Công tác chi trả các chế độ chính sách ngày càng được cải thiện, việc chi trả
diễn ra nhanh chóng kịp thời, an toàn và chính xác. Chính vì vậy đã được
đánh giá cao và được chính quyền địa phương ghi nhận, tạo niềm tin đối với
ngành Lao động - Thương binh và Xã hội.
Mặc dù là địa phương có số đối tượng hưởng chế độ ưu đãi không
nhiều so với các tỉnh khác, số tiền chi trả không lớn, song cán bộ công chức
trong ngành luôn nêu cao tinh thần vượt khó, chi trả kịp thời, đầy đủ, đúng
chế độ cho các đối tượng. Trong năm 2014 Sở Lao động - Thương binh và Xã
hội đã tổ chức chi trả số tiền hơn 69 tỷ đồng cho 3.613 lượt người hưởng trợ
cấp thường xuyên hàng tháng. Trong các đợt điều chỉnh chế độ trợ cấp Sở Lao
động - Thương binh và Xã hội tỉnh chỉ đạo Phòng Lao động - Thương binh và
Xã hội triển khai ngay, để chi trả cho đối tượng thụ hưởng kịp thời. Việc tổ
chức chi trả các chế độ uu đãi NCC trong những năm qua đã nhận được sự
đồng tình cao của đối tượng, góp phần ổn định an ninh, chính trị trên địa bàn


17

toàn tỉnh.
Bên cạnh những thuận lợi trong công tác quản lý chi trả chế độ trợ cấp ưu
đãi NCC, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh còn gặp không ít những
khó khăn, tồn tại cần phải chấn chỉnh, khắc phục trong giai đoạn tới như:
Trong những năm qua công tác chi trả trợ cấp ưu đãi NCC của Phòng Lao
động - Thương binh và Xã hội thành phố Bắc Kạn và huyện Chợ Mới vẫn chưa
thực hiện đúng quy định về quản lý chi trả các chế độ trợ cấp cụ thể: Cán bộ,
nhân viên làm công tác quản lý tại Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội đi
chi trả trực tiếp cho đối tượng tại các xã, phường, một số nơi có số lượng người
thụ hưởng lớn nhưng điểm chi trả rất chật chội, nóng bức, tập trung đông người,
chưa bố trí đủ nước uống và loa đài nên khi cán bộ chi trả gọi tên, người thụ

hưởng không nghe rõ, làm ảnh hưởng đến tiến độ chi trả; thực hiện số ngày chi
trả ít hơn theo quy định, ngày chi trả mới có mặt hoặc không sử dụng hết thời
gian tại nơi chi trả do vậy một số đối tượng chưa nhận chế độ trợ cấp, số tiền chi
tồn lại, ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt của người hưởng.
Qua công tác kiểm tra chi trả của cán bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội, tại một số điểm chi trả cán bộ chi trả không kiểm tra giấy tờ tùy thân có
ảnh, không có giấy lĩnh thay hoặc ủy quyền vẫn chi tiền, nhất là trường hợp
vợ (chồng), giấy lĩnh thay không đúng mẫu, không điền đầy đủ không tin,
giấy lĩnh thay hết hạn sử dụng…
Trong công tác quản lý người hưởng cũng bộc lộ nhiều bất cập. Theo
đó, việc quản lý người hưởng chế độ trợ cấp ưu đãi NCC hàng tháng chưa
chặt chẽ, đặc biệt các đối tượng người già không đến nhận trực tiếp. Việc xác
nhận chữ ký theo định kỳ hàng năm của người nhận chế độ trợ cấp ưu đãi
NCC hàng tháng chưa được quan tâm đúng mức; chưa phối hợp với các
UBND xã (phường) trong việc thông báo thời gian, địa điểm ký xác nhận lại
chữ ký, chưa bố trí cán bộ trực thường xuyên để người hưởng đến ký dẫn đến
người hưởng phải đến tận Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh hỏi thông
tin gây nhiều bức xúc. Số người chưa ký danh sách chuyển lại cơ quan Sở Lao
động - Thương binh và Xã hội còn nhiều dẫn đến việc báo tạm dừng in danh


18

sách chi trả số lượng lớn. Đáng chú ý, do chưa phối hợp với cán bộ Lao động
- Thương binh và Xã hội các phường (xã) rà soát những trường hợp người
hưởng chết sau kỳ chi trả chế độ trợ cấp hàng tháng dẫn đến chưa kịp thời
dừng in danh sách chi trả chế độ trợ cấp hàng tháng. Hậu quả, tại huyện Chợ
Mới, Thành phố Bắc Kạn một số người hưởng đã chết trong tháng trước
nhưng Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội vẫn tiếp tục chi trả vào những
tháng tiếp theo.

Đứng trước một loạt những khó khăn mà người thụ hưởng trợ cấp ưu đãi
NCC trên đại bàn tỉnh đang gặp phải thì việc tìm các giải pháp nâng cao công tác
chi trả trợ cấp ưu đãi NCC tại tỉnh trong thời gian tới là điều cấp thiết.
Quá trình đổi mới toàn diện của Việt Nam nói chung và của tỉnh Bắc
Kạn nói riêng trong những năm qua đã tạo ra những thay đổi tích cực trên
nhiều lĩnh vực như đời sống, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa… Nhưng đi
liền với những thành tựu đã đạt được thì cuộc sống của người dân cũng phải
đối mặt với rất nhiều vấn đề khó khăn thách thức. Đó chính là sự già hóa dân
số, là sự phân biệt giàu nghèo ngày càng lớn, là sự quan tâm, thực hiện vấn đề
chính sách xã hội chưa được coi trọng, từ đó kéo theo việc xuất hiện hàng loạt
những tồn tại, hạn chế cần phải khắc phục đặc biệt là trong công tác quản lý
chi trả chế độ ưu đãi NCC. Trước thực trạng trên, Đảng và Nhà nước đã ban
hành rất nhiều các Bộ luật, các Nghị định, Nghị quyết về thực hiện các chính
sách xã hội, trong đó chính sách đảm bảo an sinh xã hội là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách. Nhưng trên thực tế hiện nay công tác quản lý
chi trả trợ cấp ưu đãi NCC nói chung còn nhiều bất cập, chưa có tính chuyên
nghiệp, chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu của người thụ hưởng. Đây cũng là cơ
sở thực tiễn để thực hiện việc quản lý chính sách ưu đãi NCC cần được quan
tâm phát triển mạnh mẽ hơn.
2. Nội dung thực hiện của đề án
2.1. Bối cảnh thực hiện đề án
Bắc Kạn là một tỉnh miền núi nằm sâu trong nội địa vùng Đông Bắc. Phía
Đông giáp Lạng Sơn, phía Tây giáp Tuyên Quang, phía Nam giáp Thái Nguyên,


19

phía Bắc giáp Cao Bằng. Bắc Kạn có tổng diện tích tự nhiên là 4.868,41 km2 và
là tỉnh có vị trí quan trọng về mặt kinh tế và an ninh quốc phòng.
Bắc Kạn là tỉnh nằm trên quốc lộ 3 đi từ Hà Nội lên Cao Bằng - trục

quốc lộ quan trọng của vùng Đông Bắc, đồng thời nằm giữa các tỉnh có tiềm
năng phát triển kinh tế lớn. Chính quốc lộ 3 chia lãnh thổ thành 2 phần bằng
nhau theo hướng Nam - Bắc, là vị trí thuận lợi để Bắc Kạn có thể dễ dàng
giao lưu với tỉnh Cao Bằng và các tỉnh của Trung Quốc ở phía Bắc, với tỉnh
Thái Nguyên, Hà Nội cũng như các tỉnh của vùng Đồng bằng sông Hồng ở
phía Nam.
Bắc Kạn có địa hình đa dạng, phức tạp, chủ yếu là đồi và núi cao. Địa
hình Bắc Kạn có thể chia làm 3 khu vực:
- Khu vực phía Đông là các dãy núi kéo dài của cánh cung Ngân Sơn. Về
kinh tế, địa hình nơi đây chủ yếu thuận lợi phát triển lâm nghiệp.
- Khu vực phía Tây cũng là khối núi cao chót vót trên lãnh thổ Bắc Kạn.
Cấu tạo chủ yếu của núi là đá phiến thạch anh, đá cát kết và đá vôi có lớp dày
nằm trên đá kết tinh cổ.
- Khu vực trung tâm dọc thung lũng Sông Cầu có địa hình thấp hơn
nhiều. Địa hình nơi đây thích hợp phát triển nông nghiệp, giao thông.
Bắc Kạn có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa nhưng có sự phân hoá theo độ
cao của địa hình và hướng núi. Với chế độ nhiệt đới gió mùa, một năm ở Bắc
Kạn có hai mùa rõ rệt: mùa mưa nóng ẩm từ tháng 5 đến tháng 10, chiếm 70 80% lượng mưa cả năm; mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, lượng
mưa chỉ chiếm khoảng 20 - 25% tổng lượng mưa trong năm, tháng mưa ít
nhất là tháng 12. Khí hậu Bắc Kạn có sự phân hoá theo mùa, có nhiều thuận
lợi cho việc phát triển nông, lâm nghiệp cũng như phát triển một số cây nông
phẩm cận nhiệt và ôn đới.
Bắc Kạn có 08 đơn vị hành chính, bao gồm 01 Thành phố (Thành phố
Bắc Kạn) và 07 huyện gồm: Chợ Mới, Chợ Đồn, Bạch Thông, Ngân Sơn, Ba
Bể, Na Rỳ, Pác Nặm, với tổng số 122 xã, phường, thị trấn.


20

Dân số Bắc Kạn là l.294.660 người, với 07 dân tộc anh em cùng sinh

sống; trong đó: Tày chiếm: 54%; Dao: 16,8%; Kinh: 14%; Nùng: 9%; Mông:
5,5%; Hoa: 0,4%; Sán Chay: 0,3%.
Bắc Kạn được tự nhiên ưu đãi cho nhiều tiềm năng phát triển kinh tế - xã
hội với nguồn tài nguyên rừng, đất rừng, khoáng sản phong phú và vườn
Quốc gia Ba Bể, nơi có hồ Ba Bể - một trong 20 hồ nước ngọt lớn trên thế
giới…
Trên địa bàn tỉnh có 165 mỏ và điểm quặng, với các loại khoáng sản có trữ
lượng lớn là: Chì kẽm 70 mỏ và điểm quặng, trữ lượng khoảng 4 triệu tấn; sắt
có 13 mỏ và điểm mỏ, trữ lượng khoảng 22 triệu tấn; vàng có 17 mỏ và điểm
quặng, trữ lượng khoảng 39 tấn; đá vôi xi măng 150 triệu m 3; đá trắng, thạch
anh khoảng 460 triệu m3; sét xi măng trên 10 triệu m 3, ngoài ra còn có
antimon, titan, Kaolin, Silic.... Từ đó, Bắc Kạn có triển vọng đầu tư chế biến
sâu ở quy mô vừa và nhỏ để nâng giá trị các loại khoáng sản, đặc biệt là
ngành sản xuất vật liệu xây dựng.
Trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn còn có nhiều hệ suối là đầu nguồn sông Đáy,
sông Gâm, sông Chu… lưu vực nhỏ và độ dốc dòng chảy lớn, lòng hẹp và có
nhiều thác ghềnh, là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các công trình
thuỷ điện nhỏ, tạo điều kiện thúc đẩy công nghiệp phát triển.
Trong những năm qua thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã
hội gắn với công tác giảm nghèo của Trung ương, của tỉnh, cùng với sự quan
tâm chỉ đạo của các cấp ủy, chính quyền, các ngành từ tỉnh đến cơ sở, tập
trung khai thác, phát huy nội lực của từng địa phương và sự nỗ lực phấn đấu
của nhân dân, sự đầu tư hỗ trợ của các doanh nghiệp nên kinh tế - xã hội, hệ
thống cơ sở hạ tầng, đời sống của người dân của tỉnh Bắc Kạn đã có sự
chuyển biến tích cực, quốc phòng, an ninh được giữ vững và ổn định.
Điều kiện cơ sở hạ tầng nông thôn, nhất là giao thông, thuỷ lợi, cấp
điện, cấp nước, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa cộng đồng v.v… đã có



×