Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Phân tích quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư trong Chủ nghĩa Tư bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.94 KB, 29 trang )

MỤC LỤC

1


A. MỞ ĐẦU
Theo đánh giá của V.I Lênin, lí luận giá trị thặng dư là “hòn đá tảng của
học thuyết kinh tế của Mác” và học thuyết kinh tế của C. Mác là “nội dung căn bản
của chủ nghĩa Mác”. Để đạt mục đích làm giàu tối đa của mình nhà tư bản đã mua
sức lao động của công nhân kết hợp với tư liệu sản xuất để sản xuất ra sản phẩm,
thu về giá trị thặng dư. Sản xuất ra giá trị thặng dư là cơ sở tồn tại của chủ nghĩa tư
bản. Toàn bộ hoạt động của nhà tư bản hướng đến tăng cường việc tạo ra giá trị
thặng dư thông qua hai phương pháp cơ bản là tạo ra giá trị thặng dư tuyệt đối và
tạo ra giá trị thặng dư tương đối. Sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa cho nhà tư bản
là nội dung chính của quy luật giá trị thặng dư. Nó tác động đến mọi mặt của xã
hội tư bản. Việc nghiên cứu phạm trù giá trị thặng dư và các phương pháp sản xuất
ra giá trị thặng dư có ý nghĩa quan trọng, là chìa khóa dẫn đến những vấn đề khác
trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Phải nói rằng học thuyết giá trị thặng
dư là “hòn đá tảng” trong toàn bộ lí luận kinh tế của C.Mác, nhờ có nó mà toàn bộ
bí mật của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa được vạch trần, phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa được nêu ra một cách chính xác, nhằm tạo ra tư bản để tích luỹ và
tái mở rộng sản xuất, đưa xã hội tư bản ngày càng phát triển. Do vậy, phương pháp
sản xuất giá trị thặng dư cùng với tính thực tiễn của nó có ý nghĩa vô cùng quan
trọng, đồng thời cũng đã vạch trần bản chất bóc lột của tư bản thông qua bóc lột
giá trị thặng dư.

2


B. NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT CHUNG


1. Khái niệm
a. Tư bản
Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động không
công của công nhân làm thuê.
Tư bản không phải là một vật (không phải là tiền hoặc tư liệu sản xuất).
Những vật này chỉ trở thành tư bản khi nó trở thành tài sản của nhà tư bản và được
dùng vào việc bóc lột lao động làm thuê. Nên tư bản là một quan hệ sản xuất xã
hội.
Tư bản thể hiện quan hệ sản xuất xã hội mà trong đó giai cấp tư sản chiếm
đoạt giá trị thặng dư do giai cấp công nhân sáng tạo ra.
b. Giá trị thặng dư
Giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao
động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không.
Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư chỉ là quá trình tạo ra giá trị kéo dài
quá cái điểm mà ở đó giá trị sức lao động do nhà tư bản trả được hoàn lại bằng một
vật ngang giá mới.
2. Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư trong Chủ nghĩa Tư bản
Quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là quá trình lao động tạo ra giá trị sử
dụng của hàng hóa: quá trình này là sự kết hợp giữa sức lao động với tư liệu sản
xuất để tạo ra những giá sử dụng đáp ứng yêu cầu của xã hội. Trong bất kì xã hội
nào sản xuất cũng là quá trình kết hợp giữa hai yếu tố nêu trên, nhưng giữa các xã
hội khác nhau thì nó khác nhau ở trình độ phát triển, biểu hiện ở trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất.

3


Mặt khác, đây cũng là quá trình tạo ra và làm tăng giá trị của hàng hóa. Do
vậy, nhà tư bản phải tuân theo những quy luật giá trị tức là phải theo thời gian lao
động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa.

Quá trình sản xuất trong Chủ nghĩa Tư bản là quá trình sản xuát hàng hóa,
nhà tư bản mua sức lao động của người công nhân kết hợp với tư liệu sản xuất để
sản xuất ra một loại hàng hóa có giá trị sử dụng nhất định. Bởi giá trị sử dụng là
nội dung vật chất của hàng hóa và cũng là mang giá trị và giá trị trao đổi. Tất cả
những hoạt động trên của nhà tư bản cũng chính là quá trình sản xuất ra giá trị
thặng dư.
Ví dụ: Làm rõ quá trình sản xuất giá trị thặng dư trong CNTB
Để sản xuất sợi, một nhà tư bản cần chi các yếu tố như:
- Mua 10kg bông hết 20$.
- Mua sức lao động một ngày (10 giờ đồng hồ) là 5$.
- Tiền hao mòn máy móc là 5$.
Giả sử, trong 5 giờ đầu của ngày lao động, người công nhân vận hành máy
móc đã chuyển được 10kg bông thành sợi có giá trị là 20$. Ngày lao động là 10
giờ, trong một giờ lao động, người công nhân tạo ra một lượng giá trị là 1$, khấu
hao máy móc là 5$. Như vậy giá trị sản phẩm mới là 30$. Nếu quá trình lao động
dừng lại ở đây thì nhà tư bản không có lợi già và người công nhân không bị bóc
lột. Tuy nhiên, thời gian lao động là 10 giờ nên người công nhân phải tiếp tục làm
việc thêm 5 giờ nữa. Trong 5 giờ đồng hồ đó, nhà tư bản chỉ cần đầu tư thêm 20$
cho 10kg bông và 5$ tiền hao mòn máy móc. Quá trình lao động lại tiếp tục diễn ra
và kết thúc quá trình này, người công nhân tạo ra sản phẩm có giá trị là 30$ (tương
đương với giá trị sản phẩm mới trong 5 giờ lao động đầu)
Tóm lại, trong một ngày lao động (10 giờ đồng hồ) người công nhân tạo ra
sản phẩm sợi có giá trị:
- Giá trị của bông 20kg được chuyển thành sợi là 40$.
4


- Giá trị của máy móc được chuyển vào sợi là 10$.
- Giá trị mới do lao động của công nhân tạo ra trong 10 giờ lao động là 10$
=> Tổng cộng là 60$.

Trong khi đó chi phí sản xuất mà nhà tư bản phải đầu tư:
- Tiền mua 20kg bông là 40$.
- Tiền hao mòn máy móc là 10$.
- Tiền mua sức lao động trong một ngày là 5$.
=> Tổng cộng là 55$.
So với chi phí sản xuất mà nhà tư bản bỏ ra (55$) thì giá trị của sản phẩm sợi
(60$) lớn hơn 5$. Đó chính là giá trị thặng dư mà nhà tư bản thu được.
Vậy, giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức
lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không.
Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư cũng là sự thống nhất giữa quá trình
sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình lớn lên giá trị (giá trị thặng dư).
II. Sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản
xuất ra giá trị thặng dư. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
1. Sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản
xuất ra giá trị thặng dư
a. Quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng trong chủ nghĩa tư bản
Quá trình sản xuất trong chủ nghĩa tư bản trước hết là quá trình kết hợp các
yếu tố sản xuất (tư liệu sản xuất và sức lao động) để tạo ra hàng hóa. Hàng hóa này
có 2 thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị (trong đó có giá trị thặng dư).
Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng mà là
giá trị, hơn nữa, cũng không phải là giá trị đơn thuần mà là giá trị thặng dư. Nhưng
để sản xuất giá trị thặng dư, trước hết nhà tư bản phải sản xuất ra một giá trị sử
dụng nào đó, vì giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi và giá trị thặng dư. Vì

5


vậy, quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra
giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư.
Trong quá trình sản xuất trong xí nghiệp tư bản đồng thời là quá trình nhà tư

bản tiêu dùng sức lao động và tư liệu sản xuất mà nhà tư bản đã mua để sản xuất
hàng hóa, nên nó có những đặc điểm riêng và mang tính tất yếu:
Một là, công nhân làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản, lao động của
anh ta thuộc về nhà tư bản giống như những yếu tố khác của sản xuất và được nhà
tư bản sử dụng sao cho có hiệu quả nhất.
Hai là, sản phẩm là do lao động của người công nhân tạo ra, nhưng nó
không thuộc về công nhân mà thuộc sở hữu của nhà tư bản.
Ví dụ: Làm rõ quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng của nhà tư bản
Một nhà sản xuất sợi:
- Trước hết, nhà tư bản bỏ tiền ra mua các yếu tố sản xuất (với đúng giá trị),
giả định như sau:
+ Mua 10 kg bông

: 10$

+ Khấu hao máy móc (để kéo 10kg bông)

: 2$

+ Mua sức lao động (12h/ngày)

: 3$

Tổng cộng

: 15$

- Lao động của người công nhân (sản xuất hàng hóa) có tính hai mặt: Lao
động cụ thể đã kéo bông thành sợi; lao động trừu tượng tạo ra giá trị mới kết tinh
trong hàng hóa. Giả định với năng suất lao động nhất định, lao động trừu tượng tạo

ra giá trị mới kết tinh trong hàng hóa. Giả định với năng suất lao động nhất định,
lao động trừu tượng tạo ra giá trị mới = 0.5$/h. Sau 6h lao động, người công nhân
tạo ra hàng hóa mới (sợi) có giá trị như sau:
+ Giá trị 10kg bông chuyển vào

: 10$

+ Khấu hoa máy móc chuyển vào

: 2$

+ Giá trị mới do công nhân tạo ra

: 3$
6


Tổng cộng

: 15$

Như vậy, giá trị của sản phẩm mới bằng số tiền nhà tư bản đã bỏ ra (15$),
tức là chưa có giá trị thặng dư, và tiền chưa trở thành tư bản.
b. Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư
Qúa trình sản xuất ra hàng hóa có giá trị sử dụng cũng là quá trình nhà tư
bản tiêu dùng hàng hóa sức lao động và tư liệu sản xuất để sản xuất giá trị thặng
dư. Bởi thế mỗi sản phẩm được làm ra đều chịu sự kiểm soát của nhà tư bản và
thuộc sở hữu của nhà tư bản. Trong quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, bằng lao
động cụ thể của mình công nhân lao động làm thuê sử dụng tư liệu sản xuất và
chuyển giá trị của chúng vào hàng hóa, bằng lao động trừu tượng, công nhận tao ra

giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động, phần lớn hơn đó là giá trị thặng dư.
Để hiểu rõ quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư diễn ra như thế nào, ta xét
tiếp ví dụ: Một nhà tư bản sản xuất sợi:
Nhà tư bản mua sức lao động của công nhân là 12h/ngày, mà người công
nhân mới làm được 6h và mới chỉ tạo ra giá trị sử dụng, nhưng theo hợp đồng ký
kết ở trên, người công nhân phải làm việc 6h nữa. Trong 6h này, nhà tư bản tiếp tục
bỏ tiền mua:
+ Mua 10kg bông

: 10$

+ Khấu hoa máy móc

: 2$

Tổng cộng

:12$

Giả định với năng suất lao động như ở trên, sau 6h người công nhân đã hoàn
thành công việc, tức là tạo ra hàng hóa mới có giá trị:
+ Giá trị 10kg bông chuyển vào

: 10$

+ Khấu hoa máy móc chuyển vào

: 2$

+ Giá trị mới do công nhân tạo ra


: 3$

Tổng cộng

: 15$

7


Sau một ngày lao động, người công nhân tạo ra số lượng hàng hóa có tổng
giá trị 30$. Giả định nhà tư bản bán hàng hóa đúng giá trị, sau khi bù đắp chi phí
bỏ vào sản xuất (27$), anh ta sẽ thu được giá trị thặng dư 3$. Tiền của anh ta đã trở
thành tư bản.
Các kết luận rút ra từ sự nghiên cứu quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư
dưới chủ nghĩa tư bản:
Một là, ngày lao động của người công nhân bao giờ cũng được chia thành
hai phần: Thời gian lao động cần thiết (là thời gian anh ta tạo ra lượng giá trị ngang
bằng giá trị sức lao động) và thời gian lao động thặng dư (là thời gian tạo ra giá trị
thặng dư cho nhà tư bản).
Hai là, giá trị thặng dư (m) là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị
sức lao động, do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt. Quá trình
sản xuất giá trị thặng dư chỉ là quá trình tạo ra giá trị kéo dài quá cái điểm mà ở đó
giá trị sức lao động do nhà tư bản trả được hoàn lại bằng một vật ngang giá mới.
Ba là, mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản (T – H –T’) đã được giải
quyết: việc tiền chuyển hóa thành tư bản vừa diễn ra trong lưu thông ( mua, bán
hàng hóa trong đó có sức lao động), vừa diễn ra trong lĩnh vực sản xuất (khi tiêu
dùng các yếu tố sản xuất- sức lao động của công nhân làm thuê đã tạo ra giá trị
thặng dư). Chỉ có trong lưu thông nhà tư bản mới mua được một thứ hàng hóa đặc
biệt, đó là hàng hóa sức lao động. Sau đó, nhà tư bản sử dụng hàng hóa đặc biệt đó

trong sản xuất, tức là ngoài lĩnh vực lưu thông để sản xuất ra giá trị thặng dư cho
nhà tư bản. Do đó tiền của nhà tư bản mới trở thành tư bản.
Vậy, việc nghiên cứu giá trị thặng dư được sản xuất ra như thế nào đã vạch
rõ bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
2. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
Đã có nhiều phương pháp được dùng để tạo ra giá trị thặng dư, nhưng hai
phương pháp được sử dụng chủ yếu là phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối và
8


phương pháp giá trị thặng dư tương đối. Mỗi phương pháp đại diện cho một trình
độ khác nhau của giai cấp tư sản, cũng như những giai đoạn lịch sử khác nhau của
xã hội.
a. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
● Khái niệm
Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng
dư được thực hiện trên cơ sở kéo dài tuyệt đối ngày lao động của công nhân trong
điều kiện thời gian lao động tất yếu không đổi.
● Đặc điểm
Phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối được áp dụng ở giai đoạn đầu của
chủ nghĩa tư bản vậy thời kì này nền kinh tế sản xuất chủ yếu là dựa vào lao động
thủ công, hoặc lao động với những máy móc giản đơn ở các công trường thủ công.
Đó là sự gia tăng về mặt lượng của quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. Bởi
phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày
lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng xuất lao động, giá trị
sức lao động và thời gian lao động tất yếu là không thay đổi. Có nghĩa là khi nhà tư
bản muốn tăng giá trị thặng dư, thì nhà tư bản sẽ mua thêm máy móc, tư liệu sản
xuất, thuê nhân công để sản xuất ra hàng hóa, nhưng nhà tư bản chỉ mua thêm tư
liệu sản xuất và bắt công nhân phải cung cấp thêm một lượng lao động và đồng
thời tận dụng triệt để công xuất của máy móc hiện có. Cái lợi ở đây là nhà tư bản

không cần ứng thêm tư bản, thuê thêm nhân công, mua thêm máy móc thiết bị,
đồng thời máy móc sẽ được khấu hao nhanh hơn, hao mòn và chi phí bảo quản
giảm đi rất nhiều, thời gian thu lợi nhuận sẽ dài hơn.
Việc kéo dài ngày lao động trong khi độ dài ngày lao động có giới hạn nhất
định, nó không thể bằng thời gian lao động tất yếu, cũng không thể vượt quá giới
hạn thể chất và tinh thần của người công nhân (ăn, ngủ,… để tái sản xuất sức lao
động đã hao phí trong ngày). Hơn nữa người công nhân có quyền đòi hỏi thời gian
9


lao động phải tương ứng với tiền công được trả. Độ dài ngày lao động bao nhiêu
tùy thuộc vào sự thỏa thuận và tương quan lực lượng giữa nhà tư bản và công
nhân.
Mặt khác, tăng cường độ lao động nếu dộ dài ngày lao động được xác định,
có nghĩa là chi phí nhiều sức lao động trong một khoản thời gian nhất đinh, nên về
thực chất cũng như kéo dài thời gian lao động trong ngày. Nhà tư bản có thể tăng
thêm tư liệu lao động, yêu cầu hay thỏa thuận buộc công nhân làm việc khẩn
trương hơn, căng thẳng hơn, tức là sức lực hao phí nhiều hơn, nhờ vậy mà giá trị
và giá trị thặng dư được tạo ra nhiều hơn.
Việc kéo dài ngày lao động và tăng cường độ lao động là những biện pháp
rất “lộ liễu”, vì vậy nó luôn vấp phải sự đấu tranh kinh tế của công nhân đòi tăng
lương, giảm giờ làm của công nhân. Để tăng cường độ lao động thay cho kéo dài
ngày lao động nhà tư bản phải thay đổi máy móc của mình.
● Ví dụ
Giả sử độ dài ngày lao động là 8h, trong đó thời gian lao động tất yếu là 4h,
thời gian lao động thặng dư là 4h, ta có:

Do đó tỷ suất giá trị thặng dư là: m’= 4/4.100% =100%

10



Giả sử nhà tư bản kéo dài ngày lao động thêm 2h, trong khi thời gian tất yếu
không thay đổi, vẫn là 4h khi đó ngày lao động được chia như sau:

Do đó, tỷ xuất giá trị thặng dư là: m’=6/4.100%=150%
Vậy, khi kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động
tất yếu không thay đổi, thì thời gian lao động thặng dư tăng lên, nên tỷ suất giá trị
thặng dư tăng lên. Trước đây tỷ suất giá trị thặng dư là 100% thì bây giờ là 150%.
b. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về thể chất và tinh thần của nguời lao
động và vấp phải cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai cấp công nhân. Mặt
khác, khi sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn đại công nghiệp cơ
khí, kỹ thuật đã tiến bộ làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, thì các
nhà tư bản chuyển sang phương thức bóc lột dựa trên cơ sở tăng năng suất lao
động xã hội, tức là bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
● Khái niệm
Sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng
dư được thực hiện bằng cách rút ngắn thời gian lao động tất yếu lại để kéo dài một
cách tương ứng thời gian lao động thặng dư trên cơ sở tăng năng suất lao động xã
hội trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi. Giá trị thặng dư được sản xuất
ra bằng phương pháp này được gọi là giá trị thặng dư tương đối.
● Đặc điểm
11


Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt
đối là phương pháp chủ yếu, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi kỹ thuật phát triển, sản
xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp chủ yếu. Lịch sử phát triển của lực
lượng sản xuất và của năng suất lao động xã hội dưới chủ nghĩa tư bản đã trải qua

ba giai đoạn: hợp tác giản đơn, công trường thủ công và đại công nghiệp cơ khí, đó
cũng là quá trình nâng cao trình độ bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp sản xuất
theo chiều sâu, lao động phức tạp tăng lên và thay thế cho lao động giản đơn. Để
có lợi cho mình các nhà tư bản buộc phải chú trọng đến nhân cách sáng tạo của lao
động làm thuê, có nghĩa là lao động bằng trí óc, lao động có trình độ kĩ thuật ngày
càng cao.
Làm thế nào để có thể rút ngắn được thời gian lao động tất yếu? Thời gian
lao động tất yếu có quan hệ với giá trị sức lao động. Muốn rút ngắn thời gian lao
động tất yếu phải giảm giá trị sức lao động. Muốn hạ thấp giá trị sức lao động phải
giảm giá trị những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân. Điều
đó chỉ có thể thực hiện được bằng cách sử dụng máy móc làm tăng năng suất lao
động trong các ngành sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng
của công nhân và tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra tư liệu sản
xuất để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt đó, tức là tăng năng suất lao động xã
hội.
● Ví dụ
Giả sử ngày lao động là 8 giờ và nó được chia thành 4 giờ là thời gian lao
động tất yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư. Điều đó có thể biểu diễn như

12


sau:

Do đó, tý suất giá trị thặng dư là:

Giả định rằng ngày lao động không thay đổi, nhưng bây giờ công nhân chỉ
cần 3 giờ lao động đã tạo ra được một lựơng giá trị mới bằng với giá trị sức lao
động của mình. Do đó, tỷ lệ phân chia ngày lao động sẽ thay đổi: 3 giờ là thời gian

lao động tất yếu và 5 giờ là thời gian lao động thặng dư. Điều đó được biểu diễn
như sau:

Do đó, bây giờ tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là:

Như vậy, tỷ suất giá trị thặng dư đã tăng từ 100% lên 166%.
● Nhận xét

13


Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được các nhà tư bản sử
dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong quá
trình phát triển của chủ nghĩa tư bản. Dưới chủ nghĩa tư bản, việc áp dụng máy
móc không phải là để giảm nhẹ cường độ lao động của công nhân, mà trái lại tạo
điều kiện để tăng cường độ lao động. Ngày nay, việc tự động hóa sản xuất làm cho
cường độ lao động tăng lên, nhưng dưới hình thức mới, sự căng thẳng của thần
kinh thay thế cho cường độ lao động cơ bắp.
* So sánh phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối với phương pháp
sản xuất giá trị thặng dư tương đối
- Giống nhau:
+ Đều có các phạm trù về: giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa sức động,
giá trị thặng dư.
+ Đều đòi hỏi một trình độ nhất định về năng suất lao động, độ dài ngày lao
động.
+ Giá trị thặng dư tuyệt đối và giá trị thặng dư tương đối đều là một bộ phận
giá trị mới do sức lao động của công nhân tạo ra, dôi ra ngoài giá trị sức lao động.
- Khác nhau:
Phương pháp sản xuất GTTD
tuyệt đối

Phương thức - Kéo dài tuyệt đối ngày lao
thực hiện
động.
- Tăng cường độ lao động trong
khi các yếu tố khác đổi.
Thời gian
- Thời kì đầu của CNTB, khi
năng suất lao động thấp thì
phương pháp này chiếm ưu thế.

c. Giá trị thặng dư siêu ngạch
14

Phương pháp sản xuất GTTD
tương đối
- Tăng năng suất lao động từ đó
rút ngắn thời gian lao động xã
hội cần thiết, tăng lao động
thặng dư.
- Khi khoa học công nghệ
(KHCN) phát triển, ứng dụng
thành tựu KHCNvào sản xuất
ngày càng phổ biến, năng suất
lao động tăng cao thì phương
pháp này chiếm ưu thế.


Cạnh tranh giữa các nhà tư bản buộc họ phải áp dụng phương pháp sản xuất
tốt nhất để tăng năng suất lao động trong xí nghiệp của mình nhằm giảm giá trị cá
biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội của hàng hoá, nhờ đó thu được giá trị

thặng dư siêu ngạch.
● Khái niệm
Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do tăng năng
suất lao động cá biệt, làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá thị trường
của nó.
GTTD siêu ngạch = Giá trị xã hội – Giá trị cá biệt
● Đặc điểm
Xét từng trường hợp, thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời,
nhanh chóng xuất hiện rồi cũng lại nhanh chóng mất đi. Nhưng xét toàn bộ xã hội
tư bản thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tồn tại thường xuyên. Theo đuổi
giá trị thặng dư siêu ngạch là khát vọng của nhà tư bản và là động lực mạnh nhất
thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao
động, làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên nhanh chóng.
C.Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị
thặng dư tương đối, vì giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối đều
dựa trên cơ sở tăng năng xuất lao động song khác nhau ở chỗ: Giá trị thặng dư
tương đối thu được do tăng năng xuất lao động xã hội, giá trị thặng dư siêu ngạch
có được do tăng năng xuất lao động cá biệt. Do đó, giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ
có một số ít nhà tư bản thu được, giá trị thặng dư tương đối thì cả xã hội tư bản thu
được. Giá trị thặng dư siêu ngạch không chỉ thể hiện mối quan hệ bóc lột của nhà
tư bản đối với người công nhân làm thuê mà còn trực tiếp biểu thị mối quan hệ
cạnh tranh giữa các nhà tư bản với nhau. Các nhà tư bản luôn tìm cách cải tiến kỹ
thuật, tăng năng xuất lao động nhằm hạ thấp giá trị cá biệt của hàng hóa.
● Ví dụ
15


Về giá trị thặng dư siêu ngạch: Một chiếc xe hơi được sản xuất tại nước
ngoài chỉ có giá 10.000 USD, nhưng khi nhập vào một nước khác sẽ bị đánh thuế
lên đến 100% thì giá bán của nó tại thị trường đó ít nhất là 20.000 USD. Vì vậy,

nếu một người kinh doanh sử dụng các biện pháp để trốn thuế mà vẫn bán với giá
hiện hành trên thị trường thì họ đã đạt được siêu lợi nhuận.
* So sánh giá trị thặng dư tương đối với giá trị thặng dư siêu ngạch:
- Giống nhau: Giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối cùng
có một cơ sở chung đó là dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động để rút ngắn thời
gian lao động cần thiết.
- Khác nhau:
Giá trị thặng dư tương đối
- Dựa trên cơ sở tăng năng xuất lao
động xã hội.
- Giá trị thặng dư tương đối do toàn bộ
giai cấp các nhà tư bản thu được

Giá trị thặng dư siêu ngạch
- Dựa trên cơ sở tăng năng xuất lao
động cá biệt.
- Giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ do
một số các nhà tư bản có kỹ thuật tiên
tiến thu được
- Vạch rõ mối quan hệ bóc lột của toàn - Phản ánh mối quan hệ giữa các nhà
bộ giai cấp các nhà tư bản với toàn bộ tư bản cá biệt với công nhân làm thuê
giai cấp công nhân làm thuê
và mối quan hệ giữa các nhà tư bản với
nhau
Từ đó, ta thấy rằng giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực trực tiếp, mạnh
nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản
xuất, hoàn thiện tổ chức lao động và tổ chức sản xuất để tăng năng xuất lao động
giảm giá trị của hàng hoá.
d. Mối quan hệ giữa hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
Thực ra, hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư không hề bị tách rời

nhau, mà chỉ trong mỗi thời kì khác nhau sự vận dụng hai phương pháp là nhiều
hay ít tùy thuộc vào sự biến chuyển của lực lượng lao động và sự pháp triển của
khoa học công nghệ. Trong thời kì đầu của chủ nghĩa tư bản thì phương pháp sản
16


xuất giá trị thặng dư tuyệt đối được sử dụng nhiều hơn so với phương pháp sản
xuất giá trị thặng dư tương đối, còn trong thời kì sau của chủ nghĩa tư bản thì
ngược lại.
Trong xã hội hiện nay, việc nhà tư bản kết hợp tốt hai phương pháp sản xuất
giá trị thặng dư đã ngày càng tạo ra nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư bản, tuy
phương pháp kéo độ dài ngày lao động không còn phù hợp nhưng các nhà tư bản
lại tìm cách tăng cường độ lao động, tức người lao động phải hao phí nhiều sức lao
động trong một thời gian. Đồng thời, cũng bằng cách tăng cường các phương tiện
kĩ thuật, máy móc hiện đại và quản lí để bóc lột ngày càng nhiều sức lao động làm
thuê. Máy móc hiện đại được áp dụng, các lao động chân tay bị cắt giảm nhưng
điều đó không đi đôi với giảm nhẹ cường độ lao động của người công nhân, mà
trái lại giao việc áp dụng máy móc không đồng bộ nên khi máy móc chạy với tốc
độ cao, có thể chạy với tốc độ liên tục, người công nhân phải chạy theo tốc độ vận
hành máy làm cho cường độ lao động tăng lên năng suất lao động tăng. Ngoài ra,
để sản xuất hiện đại áp dụng tự động hóa cao, cường độ lao động người công nhân
cũng được tăng lên với hình thức mới đó là cường độ lao động thần kinh thay thế
cho cường độ lao động cơ bắp, tạo ra sản phẩm chứa nhiều chất xám có giá trị lớn.
Nên sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều kiện hiện đại là sự kết hợp tinh vi của hai
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư tương đối.
3. Ý nghĩa của hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
a. Ý nghĩa về mặt lí luận
Nắm được các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư giúp nhà nước đưa ra
các biện pháp bảo vệ những quyền chính đáng của người lao động bằng luật và

các chế tài cụ thể.
Vận dụng những tư tưởng và các nguyên lí trong phương pháp sản xuất giá
trị thặng dư một cách có hiệu quả để đẩy mạnh sự phát triển kinh tế đất nước, tạo
17


tiền đề vững chắc đưa nền kinh tế đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Cần đầu tư nghiên cứu và phát triển khoa học công nghệ, nâng cao đời sống,
chất lượng nguồn lao động trong nước.
Nếu gạt bỏ mục đích và tính chất của tư bản chủ nghĩa thì để tăng năng suất
lao động có hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư làm giàu cho xã hội. Muốn
tăng sản phẩm xã hội thì sử dụng hết, sử dụng có hiệu quả lực lượn lao động xã
hội. Đồng thời những ngành còn sử dụng nhiều lao động như: công nghiệp chế
biến, nông nghiệp, dịch vụ… muốn kích thích sản xuất, tăng năng suất lao động
cao cần nhanh chóng áp dụng khoa học- kĩ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, tiết kiệm
chi phí sản xuất.
=> Đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nền kinh tế
quốc dân là là giải pháp cơ bản để tăng năng suất lao động xã hội, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế.
b. Ý nghĩa về mặt thực tiễn
Trên cơ sở ý nghĩa về mặt lý luận, Đảng và nhà nước ta đề ra đường lối
chính sách trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa hiện nay ở Việt Nam.
Khẳng định rõ hơn bản chất bóc lột của tư bản đối với người lao động làm thuê và
chứng minh tính khách quan của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và
Nhà nước và nhân dân ta lựa chọn.
Hiện nay, Việt Nam muốn tăng năng suất lao động, muốn làm giàu cho xã
hội thì phải sử dụng hiệu quả nguồn lực lao động xã hội. Lực lượng lao động nước
ta được xét trên hai phương diện:
+ Về mặt số lượng: nước ta có nguồn lao động dồi dào, đông đảo, nhưng

chưa được sự được quan tâm đúng mức, chưa được quy hoạch, chưa được khai
thác một cách tối ưu nhất có thể. Thực tế, nguồn lực lượng lao động xã hội ở nước
ta chưa thực sự phát triển, đang có hướng đi và hướng phát triển mới.
18


+ Về mặt chất lượng: chất lượng nguồn lực lao động chưa cao, trình độ tay
nghề còn thấp, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn giữa lượng và chất. Trình độ của lực
lượng lao động nước ta khá thông minh, rất nhanh nhạy trong việc nắm bắt và tiếp
thu cái mới. Tuy nhiên, họ lại chưa được khai thác đầy đủ, đào tạo chưa bài bản,
điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng lực lượng lao động và ảnh hưởng đến
sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam.
Để kích thích sản xuất phát triển, tăng năng suất lao động, ta phải áp dụng
những thành tựu của khoa học công nghệ vào sản xuất, cải tiến tổ chức quản lý sản
xuất theo xu hướng phát triển tất yếu và tính xã hội hóa ngày càng cao của lực
lượng sản xuất mâu thuẫn ngày càng gay gắt với tính chất tư nhân của quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa.
III. LIÊN HỆ THỰC TIỄN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
1. Thực trạng Việt Nam hiện nay
Là một quốc gia đi theo con đường XHCN, nền kinh tế cũng được cấu tạo
chung thành nền kinh tế thị trường định hướng XNCH, trải qua nhiều năm chuyển
đổi mô hình và cơ chế, kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu cũng như
thách thức trong nhiều ngành và lĩnh vực khác nhau. Việc tiếp thu học thuyết kinh
tế thị trường đã đưa đặt ra cho nước nhà và các nhà quản lý những bài toán về kinh
tế, các phương pháp để sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa từ việc tận dụng nhiều
phương pháp để tăng tỉ xuất và khối lượng giá trị thặng dư.
Với thực tiễn là một quốc gia đang trong giai đoạn quá độ lấy kinh tế là
trọng tâm. Giai đoạn với nền kinh tế cơ sở còn
2. Bài học cho Việt Nam từ các nước tư bản thông qua thực hiện các phương
pháp sản xuất giá trị thặng dư

Trong lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản đã lần lượt sử dụng qua các
phương pháp từ sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối trong giai đoạn đầu đến giai
đoạn khi đã có nền tảng kĩ thuật khoa học phát triển, sản xuât giá trị thăng dư tuyệt
19


đối là phương pháp chủ yếu. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trên được
nhà tư bản sự dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bọc lột công nhân làm
thuê trong quá rtinfh phát triển của chủ nghĩa tư bản. Bên cạnh đó với sự phát triển
của máy móc hiện đại thúc đẩy sự bóc lột tăng cao dưới hình thực là sự căng thẳng
về thần kinh thay cho cường độ cơ bẳp.
Bên canh đó, Trên cơ sở cạnh tranh các nhà tư bản còn tìm cách giảm giá trị
cá biệt của hàng hóa, thúc đẩy tìm kiếm khoa học và giải pháp cho việc tăng năng
xuất lao động. Đó là khát vọng cũng như là động lực thúc đẩy các nhà tư bản cải
tiến kỹ thuật tăng năng xuất làm cho năng xuất lao động tăng lên nhanh chóng.
Từ đó có thể thấy những bài học có thể được áp dụng trực tiếp vào Việt Nam
hiện nay, cụ thể:
Thứ nhất, Việc khai thác giá trị thặng dư cần có sự linh hoạt, tức là cần có sự
đan xen giữa hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và tuyệt đối.
Thứ hai, cần đẩy mạnh nâng cao trình độ khoa học kĩ thuật, đặc biệt là áp
dụng thành tựu hiện có và thành tựu nhân loại vào cải tiến máy móc, phương pháp
tăng năng xuất, tăng sức cạnh tranh.
Thứ ba, lấy phát triển kinh tế tạo thế cạnh tranh, thúc đẩy sự tiến bộ tự
nhiên.
Tuy nhiên việc áp dụng các bài học đi trước cũng cần có sự chọn lọc và cân
nhăc, cụ thể:
Một là, với bản chất là nhà nước của nhân dân, việc sử dụng lao động cũng
cần tính tới khả năng phát triển cá nhân cũng như giá trị sử dụng mà cá nhân được
nhận sau lao động.
Hai là, cần có sự can thiệp của nhà nước trong cơ chế phát triển kinh tế,

nhằm tránh sự canh tranh bùng phát từ năng xuất dẫn đến độc quyền.
3. Con đường và nhiệm vụ trọng tâm của Việt Nam trong thời đại công nghiệp
hóa – hiện đại hóa đất nước
20


Giá trị thặng dư là do lao động không công của công nhân lao động làm thuê
tạo ra, là mục đích, kết quả hoạt động của tư bản, của giai cấp tư sản. Trong xã hội
xã hội chủ nghĩa, việc bóc lột sức lao động không công của người công nhân
không còn nữa, nhưng không có nghĩa là giá trị thặng dư không tồn tại, mà giá trị
thặng dư được sử dụng vào mục đích khác không giống như giai cấp tư sản, đó là
giá trị thặng dư thu được là cơ sở, tiền đề để xây dựng đất nước, xây dựng chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất, vì mục đích phát triển xã hội chủ nghĩa, vì con người.
Không tác ra khỏi xu hướng của xã hội, với những bài học từ các nước tư bản, Việt
Nam vận dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư vào trong công cuộc xây
dựng đất nước, cần xác định rõ ràng nhiệm vụ trong tâm của mình trong xây dựng
kinh tế, mà trọng tâm của nhiệm vụ ấy phải xuất phát từ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, là một nhiệm vụ hàng đầu, một quy luật đặc biệt của quá trình phát triển kinh
tế mỗi quốc gia với mục tiêu chính yếu là tiến lên chủ nghĩa xã hội và bậc cao nhất
là cộng sản chủ nghĩa.
Khi tách riêng hai thuật ngữ công nghiệp hoá và hiện đại hoá ra làm hai,
thấy công nghiệp hoá là quá trình biến đổi nền kinh tế quốc dân một nước từ trình
độ phát triển thấp sang một trình độ phát triển cao hơn nhiều dựa trên cơ sở các
ngành kinh tế có trình độ khoa học công nghệ hiện đại, với năng suất chất lượng
hiệu quả kinh tế cao hơn hẳn, còn hiện đại hoá là việc xây dựng và phát triển đất
nước đạt trình độ của những nước phát triển nhất của thời đại mà mấu chốt là đạt
trình độ hiện đại hoá của nền sản xuất xã hội. Chính bởi vậy mà công nghiệp hoá
phải luôn đi đôi với hiện đại hoá, tạo thành khái niệm công nghiệp hoá, hiện đại
hoá.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta là quá trình chuyển đổi căn bản,

toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội, từ
sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến lao động với
công nghệ, phương tiện tiên tiến, hiện đại tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
21


Thực chất công nghiệp hoá, hiện đại hoá: là quá trình tạo ra những tiền đề về vật
chất, kỹ thuật, về con người, công nghệ, phương tiện, phương pháp, những yếu tố
cơ bản của lực lượng sản xuất cho chủ nghĩa xã hội. Nội dung cốt lõi của công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là cải biến lao động thủ công lạc hậu thành lao động sủ
dụng kỹ thuật tiên tiến hiện đại đạt tới năng suất lao động xã hội cao, tạo ra sự đổi
mới trong tất cả các ngành nghề, lĩnh vực. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
phải được tiến hành từng bước, phải có sự đồng bộ trong giữa các bước, tránh nóng
vội chủ quan sẽ đem lại những hậu quả đáng tiếc.
Muốn phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất trước hết bằng việc cơ khí hoá
nền sản xuất xã hội trên cơ sở áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ. Trong
đó, chú trọng xây dựng, phát triển công nghiệp và sản xuất tư liệu sản xuất, then
chốt là công nghiệp chế tạo tư liệu sản xuất. Khi phát triển công nghiệp sẽ tạo điều
kiện cho các ngành công nghiệp sản xuất ra nhiều sản phẩm có giá trị, trong đó sản
phẩm được sử dụng nhiều nhất là các tư liệu sản xuất. Đối tượng của công nghiệp
hoá, hiện đại hoá là tất cả các ngành trong nền kinh tế quốc dân, các ngành công
nghiệp chế tạo tư liệu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vì sản phẩm của ngành này
sẽ được ứng dụng vào các ngành khác để sản xuất ra sản phẩm cấp thấp hơn, nên
ngành công nghiệp chế tạo tư liệu sản xuất có vị trí quan trọng việc thúc đẩy sự
nghiệp phát triển của các ngành khác. Xã hội phát triển kéo theo quy mô, cơ cấu, tỷ
trọng các ngành công nghiệp phải phù hợp với điều kiện hoàn cảnh tiềm năng của
đất nước. Đó là trong thời kì đầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì sản xuất
công nghiệp nhẹ chiếm tỷ trọng lớn hơn so với công nghiệp, bởi trong hoàn cảnh
này sẽ dễ dàng tận dụng được những nguyên liệu có sẵn và lao động có tay nghề
không cao, tuy nhiên phải không ngừng đầu tư phát triển để đưa ngành công

nghiệp nặng tạo tiền đề cho giai đoạn sau. Ở giai đoạn sau công nghiệp nặng sẽ
chiếm tỷ trọng lớn hơn so với công nghiệp nhẹ, công nghệ nặng sẽ là nền công

22


nghiệp chủ đạo của nền kinh tế sử dụng những lao động lành nghề, trình độ kỹ
thuật cao.
Đồng thời, công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng là chuyển đổi cơ cấu kinh tế
theo hướng hiện đại hợp lý và hiệu quả hơn. Tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch
vụ tăng dần, nhưng mỗi giai đoạn khác nhau mà tỷ trọng công nghiệp là lớn hay tỷ
trọng dịch vụ là lớn hơn, nhưng một tất yếu là tỷ trọng ngành nông nghiệp sẽ giảm
đi trong cơ cấu kinh tế. Kéo theo là lao động trong nông nghiệp sẽ giảm và chuyển
sang ngành công nghiệp và dịch vụ. Vì vậy, chúng ta phải tăng cường củng cố địa
vị chủ đạo của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, tiến tới xác lập địa vị thống trị
của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là cuộc cải biến cách mạng từ xã hội nông nghiệp trở
thành xã hội công nghiệp, đó là cuộc cải biến trên mọi lĩnh vực, làm được điều đó
cần có nhiều điều kiện về kinh tế, văn hoá xã hội.
Một tiền đề quan trọng là việc huy động và sử dụng vốn có hiệu quả. Quan
điểm của nước ta là dựa vào vốn trong nước là chính, vốn nước ngoài là quan
trọng. Chúng ta phải tận dụng hết mọi nguồn vốn trong nước để tạo ra sự phát triển
bền vững, cân đối, nhưng nguồn vốn nước ngoài là chất xúc tác quan trọng đưa nền
kinh tế phát triển vượt bậc. Việc tích luỹ nguồn vốn từ nội bộ nền kinh tế quốc dân
được thực hiện trên cơ sở hiệu quả sản xuất, nguồn của nó là lao động thặng dư của
người lao động thuộc tất cả các thành phần kinh tế. Con đường cơ bản để giải
quyết vấn đề tích luỹ vốn trong nước là tăng năng suất lao động xã hội trên cơ sở
ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, hợp lý hoá sản xuất. Mặt khác, chúng ta
phải khai thác và sử dụng tốt quỹ lao động, tập trung sức phát triển nông nghiệp,
công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, chỉ như thế chúng ta mới tận dụng

được hết các nguồn lực sẵn có, tận dụng được lợi thế tương đối của nước ta. Các
nguồn vốn như FDI, ODA, nguồn vốn vay của các tổ chức tài chính quốc tế như:
IMF, ADB, WB… khi được đưa vào trong nước thì sẽ cải thiện rất nhiều cho tình
23


hình kinh tế Việt Nam, như một luồng gió mới, chất xúc tác không thể thiếu đưa
nền kinh tế Việt Nam đi lên. Thực chất của việc thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài
cũng là việc mở rộng quan hệ đối ngoại, là tiếp thu nhiều kỹ thuật và công nghệ
hiện đại, học hỏi được kinh nghiệm điều hành, quản lý hiện đại để áp dụng vào tình
hình thực tế nước ta, đồng thời cũng dễ dàng cho việc mở rộng thị trường, giúp cho
công nghiệp hoá, hiện đại hoá được tiến hành nhanh hơn.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với mục đích là nâng cao nền sản
xuất xã hội, mà chỉ sử dụng các phương tiện công nghệ thì chưa đủ, một điều kiện
không thể thiếu là chúng ta phải sử dụng đội ngũ những người lao động có khả
năng vận hành được trang bị tốt về tư tưởng chỉ đạo của đảng, về kiến thức văn
hoá, được đào tạo thành thạo về kỹ năng nghề nghiệp, về năng lực sản xuất kinh
doanh, về điều hành kinh tế vĩ mô nền kinh tế và toàn xã hội, có trình độ khoa học
kỹ thuật vươn lên ngang tầm với thế giới. Đó là nguồn lực của nền văn hoá công
nghiệp hiện đại.
Một trong những điều kiện không thể thiếu trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá là sự lãnh đạo đảng và sự quản lý của nhà nước. Khi có sự lãnh đạo
của đảng thì công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá mới được thực hiện từng
bước theo đúng quy luật và phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế, chúng ta
mới có thể đi đúng hướng theo con đường đảng đã chọn lựa là phát triển đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mà cao hơn cái mà chúng ta đang hướng tới là
chủ nghia cộng sản.
Tóm lại, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta phải kết hợp chặt
chẽ hai nội dung công nghiệp hoá và hiện đại hoá trong quá trình phát triển. Quá
trình ấy, không chỉ đơn thuần phát triển công nghiệp mà còn phải thực hiện chuyển

dịch cơ cấu trong từng ngành, từng lĩnh vực và toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo
hướng kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Quá trình ấy không chỉ tuần tự trải qua các
bước cơ giới hoá, tự động hoá, tin học hoá, mà còn sử dụng kết hợp kỹ thuật thủ
24


công truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những
khâu có thể và mang tính quyết định.
Đây là nhu cầu tất yếu của Chủ nghĩa xã hội - giai đoạn thấp đòi hỏi phương
thức sản xuất mới cao hơn chủ nghĩa tư bản - đòi hỏi một cơ sở vật chất - kỹ thuật
cao hơn trên cả hai mặt: trình độ kỹ thuật và cơ cấu sản xuất, gắn với thành tựu của
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đạị.
Như vậy có thể thấy để hoàn thành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhiệm vụ
trọng tâm chúng ta cần:
• Về cơ bản:
Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải
quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công lại lao động xã hội.
• Trước mắt
Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải
quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
Phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
Phát triển kinh tế vùng.
Phát triển kinh tế biển.
Để thực hiện được như vậy cần có những tiền đề:
- Tạo vốn cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Đào tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Xây dựng tiềm lực khoa học, công nghệ theo yêu cầu của công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
- Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.

- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.

25


×