TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA Chủ biên TS. Dưong Tuyết Miên
GIÁO TRÌNH TỘI PHẠM HỌC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA Chủ biên TS. Dương Tuyết Miên
GIÁO TRÌNH TỘI PHẠM HỌC (Giáo trình đào tạo từ xa)
Vinh-2011
MỤC LỤC
1.
4. TÌNH HUÓNG VÀ VAI TRÒ CỦA TÌNH HUÓNG TRONG co CHÉ
CỦA
HÀNH
1.1.
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VÈ TỘI PHẠM HỌC
1.
KHÁI NIỆM TỘI PHẠM HỌC
Với tính chất là một khoa học, tội phạm học ra đời khá muộn so với một số ngành
khoa học xã hội khác như chính trị học, triết học, kinh tế học, xã hội học, luật... Tuy
có hạn chế là ra đời khá muộn, nhưng tội phạm học lại có một may mắn là được kế
thừa thành tựu của những ngành khoa học khác đã ra đời trước đó, do vậy, tội phạm
học đã phát triển với tốc độ vô cùng nhanh chóng. Các nhà tội phạm học ngày nay
thường ví tội phạm học như một cái mặt bàn được tạo dựng vững chắc bởi rất nhiều
chân bàn như: triết học, nhân loại học, luật, sinh vật học, xã hội học, chính trị học, y
học, tâm lí học, kinh tế học, đạo đức học, phong tục học, tâm thần học...1 Với cách
nói đầy hình ảnh như vậy đã giúp cho chúng ta hiêu được mối quan hệ mật thiết
giữa tội phạm học và các ngành khoa học khác cũng như đặc tính kế thừa của tội
phạm học với các ngành khoa học đó.
Người đầu tiên đưa ra thuật ngữ “tội phạm học” là giáo sư luật người Italia tên là
Raffaele Garofalo vào năm 1885 (tiếng Itaỉia là Criminologia). Tiếp đó, nhà nhân
loại học người Pháp tên là Paul Tobinard lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ “tội phạm
học” trong tiếng Pháp (Tiếng Pháp là Criminologie) vào khoảng thời gian này1. (Có
ý kiến cho rằng Paul Tobinard đưa ra thuật ngữ này lần đầu tiên vào năm 1889)2.
Còn trong tiếng Anh, thuật ngữ “tội phạm học” nghĩa là “CriminoỉogỵNhư mọi
người biết, “ology” nghĩa là ngành nghiên cứu, còn từ Crimin nguồn gốc từ
2
1Xem http:/en.wikipedia.org/wiki/Criminology, ngày 2/5/2007.
Xem GS.TS Frank Schmalleger, Criminoỉogv Today, The University of North Carolina at Pembroke, Prentice Hall Publisher, năm 2002, tr 14.
1
Xem Edwind H. Sutherland, Criminoỉogy, (Philadelphia: J.B Lppincott, 1924, trang 11); Xem Principles of Criminology, tr 1.
“Crimen” tiếng La Tinh nghĩa là tội phạm. Như vậy, có thể hiểu tội phạm học theo
nghĩa đen là ngành khoa học “nghiên cứu về tội phạm” (the study of crime).
Trên thế giới, các nhà tội phạm học đã đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về tội
phạm học. Vào thế kỉ 20, có 3 trường phái khác nhau trong việc xác định khái niệm
tội phạm học, mồi trường phái đèu có sự khác biệt bởi điểm nhấn của nó.
Trường phái thứ nhất coi tội phạm học như là một ngành kiến thức, một lĩnh vực
nghiên cửu (disciplinary) chú trọng đến vấn đề xã hội của tội phạm - tiêu biêu cho
quan điêm này là Edwind H. Sutherland, Donald R.Cressey, David F. Luckenbill.
Trong cuốn giáo trình Tội phạm học xuất bản lần đầu tiên vào năm 1924, Edwind
H. Sutherland cho rằng: “Tội phạm học là lĩnh vực kiến thức tập trung vào vấn đề
xã hội của tội phạmCuốn sách này đã đặt nền móng cho sự phát trien tội phạm học
của Mỹ trong suốt thế kỉ 20. Được tái bản lần thứ hai vào năm 1934, cuốn sách nói
trên được đối tên là Các nguyên tắc của tội phạm học và nó trở thành cuốn sách nôi
tiếng nhất trong lĩnh vục tội phạm học. Trong cuốn sách này, Edwind H. Sutherland
cho rằng tội phạm học bao gồm 3 lĩnh vực cơ bản: xã hội học pháp luật, phân tích
một cách khoa học các nguyên nhân của tội phạm, kiểm soát tội phạm.1 Sau khi
Edwind H.
Sutherland mất (1950), các công trình về tội phạm học của
ông tiếp tục được các học
giả nghiên cứu trong nhiều năm mà tiêu biêu là Donald R.Cressey và David F
Luckenbill. Vào năm 1974, khái niệm cổ điển của Edwind H. Sutherland về tội
phạm học đã được Donald R.Cressey chỉnh sửa như sau: ‘Tộ/ phạm học là lĩnh
vực kiến thức chủ yếu nghiên cứu về hành vi phạm tội và tội phạm như một hiện
tượng xã hội. Tội phạm học cũng nghiên cứu quá trình làm luật, vỉ phạm pháp
luật, và phán ứng đối với việc vi phạm pháp luật. ”1
Trường phái thứ hai nhấn mạnh tới vai trò của tội phạm học trong việc tìm ra
nguyên nhân của tội phạm (causative) - tiêu biêu cho quan điêm này là Gennaro
F.Vito,
1
3
Ronald M. Holmes, Clarence Ray Jeferry. Theo Gennaro F.Vito, Ronald M.
Holmes “Tội phạm học nghiên cứu về nguyên nhân của tội phạm”; còn theo
Clarence Ray Jeferry, tội phạm học nghiên cứu 3 lĩnh vực: phát hiện tội phạm, xử lí
tội phạm và giải thích về tội phạm cũng như hành vi phạm tội .
Trường phái thứ ba coi tội phạm học như là một khoa học nghiên cứu về tội phạm
với những đặc tính riêng biệt - Tiêu biêu cho quan điêm này là Clemens Bartollas,
Simon Diniz, Gregg Barak. Clemens Bartollas và Simon Diniz cho rằng: “Tội
phạm học là khoa học nghiên cứu về tội phạm”. Còn theo Gregg Barak: “ Tội phạm
học là lĩnh vực nghiên cứu liên ngành với những kiến thức đa dạng về nguyên nhân
của tội phạm, hành vi của người phạm tội, thực tiễn phòng ngừa tội phạm và các
chính sách phòng ngừa tội phạm.2
Thời gian gần đây, trên diễn đàn khoa học cũng có nhiều quan điểm khác nhau về
khái niệm “Tội phạm học”. Cụ thê như sau:
“Tội phạm học nghiên cún về tội phạm như một hiện tượng xã hội bao gồm nguyên
nhân và hậu quả của tội phạm, hành vi phạm tội, cũng như sự phát triển, ảnh hưởng
của pháp luật đối với tội phạm. Việc áp dụng các phương pháp khoa học trong
nghiên cứu tội phạm học đế kiếm chứng các giả thuyết và việc phát trien các thuyết
sẽ giúp cho giải thích các nguyên nhân và phương diện khác của tội phạm”1.
“Tội phạm học nghiên cứu tội phạm như là một hiện tượng cá nhân và xã hội. Các
lĩnh vực nghiên cứu của tội phạm học bao gồm sự ảnh hưởng và các hình thức của
tội phạm, nguyên nhân và hậu quả của tội phạm, quy định của pháp luật, quy tắc
của xã hội và phản ứng của Chính phủ và xã hội đổi với tội phạm. Tội phạm học là
lĩnh vực liên quan đến nhiều kiến thức trong các ngành khoa học về hành vi của
con người, đặc biệt liên quan đến các công trình nghiên cứu của các nhà xã hội học,
tâm lí học”2.
“Tội phạm học là khoa học nghiên cứu về tỉ lệ tội phạm, nguyên nhân dẫn tới cá
nhân hay nhóm người phạm tội, phản ứng của cộng đồng, xã hội đối với tội
4
phạm.”1 “ Tội phạm học nghiên cứu những con đường khác nhau của các hệ tư
tưởng mô tả về tội phạm, dự báo tội phạm, giải thích và kiểm soát tội phạm”.2
Có thê nói, các quan điêm trên đều có hạt nhân hợp lí và đã chỉ ra được các đối tượng
nghiên cứu của tội phạm học cũng như có đóng góp vô cùng quan trọng đối với sự
phát triển của tội phạm học.
Việc xây dựng khái niệm tội phạm học trước hết phải chỉ ra được nó là ngành khoa
học xã hội đa ngành. Bởi vì tội phạm học có sử dụng các thành tựu của các ngành
khoa học xã hội khác nhất là xã hội học, tâm lí học và sinh vật học do vậy có thế nói,
nó là ngành khoa học xã hội đa ngành (liên ngành) nghiên cứu về hiện tượng tội
phạm. Tội phạm học nghiên cứu tội phạm không chỉ với tính chất như là một hiện
tượng cá nhân đơn lẻ mà còn nghiên cứu nó như là hiện tượng xã hội có quan hệ với
cộng đồng xã hội cũng như Chính phủ để hướng tới mục tiêu vô cùng quan trọng là
xây dựng được hệ thống các biện pháp phòng ngừa tội phạm có hiệu quả, từ đó có thể
kiểm soát cũng như đấy lùi được tội phạm. Mặt khác, khái niệm tội phạm học phải
bao quát được những đối tượng nghiên cứu cơ bản của tội phạm học. Từ sự phân tích
ở trên, có thể hiêu như sau: Tội phạm học là ngành khoa học xã hội đa ngành nghiên
cứu vê tội phạm với tỉnh chất là hiện tượng cá nhân và xã hội bao gồm tình hình tội
phạm, nguyên nhân của tội phạm, dự báo tội phạm, phòng ngừa tội phạm, quy định
của pháp luật, quy tắc của xã hội, phản ứng của Chính phủ và xã hội đoi với tội
phạm đê kiêm soát cũng như đây lùi tội phạm.
2.
KHÁI NIỆM NHÀ TỘI PHẠM HỌC
ơ Việt Nam hiện chưa có một công trình nghiên cún nào về tội phạm học đề cập
đến khái niệm cũng như phạm vi những cá nhân được coi là nhà tội phạm học
(Criminologist). Tuy nhiên, tác giả nhận thấy có khá nhiều tài liệu của tội phạm học
nước ngoài có đề cập tương đối cụ thể về vấn đề này. Cụ thể như sau:
5
1Xem 2/5/2007
2
Xcm T.s Tom 0’Connor, Justicc Studics Department North Carolina Wcslcyan Collcgc Rocky Mount, NC 27804, Xem trang Web The
Criminology Mega -Site ngaỳ 14/5/2007.
“Nhà tội phạm học là người nghiên cứu về tội phạm, người phạm tội và hành vi
phạm tội.”1
“Nhà tội phạm học là người nghiên cứu về: tính phức tạp của tội phạm, nguyên
nhân của tội phạm, phương thức giải quyết vấn đề tội phạm có hiệu quả, phân tích số
liệu thống kê về tội phạm, điều tra về tội phạm, nghiên cứu quan niệm của xã hội đối
với tội phạm”.2
“Thuật ngừ nhà tội phạm học được sử dụng để chỉ những người có bằng cấp liên
quan đến việc nghiên cứu tội phạm, hành vi phạm tội và xu hướng của tội phạm.”3
Nhà tội phạm học thường được dùng đê chỉ những học giả, nhà khoa học, nhà
chuyên môn nghiên cứu những vấn đề: nguyên nhân của tội phạm, phòng ngừa, kiêm
soát tội phạm, xử lí tội phạm và hành vi phạm tội, các giải pháp đối với tội phạm, sự
thi hành pháp luật, hệ thống tư pháp, hệ thống những cơ quan cải tạo người phạm tội,
nạn nhân của tội phạm.”4
Trong các quan điểm nói trên, quan điêm thứ ba là họp lí hon cả và được đông đảo
các nhà tội phạm học trên thế giới thừa nhận.
Cần phân biệt thuật ngữ nhà tội phạm học (Criminologist) với nhà hình sự học
(Criminalỉst). Thuật ngữ nhà hình sự học được sử dụng đê chỉ những người làm
những công việc liên quan đến thu thập và kiêm tra chứng cứ về tội phạm và một số
người khác làm việc trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Những người này có kĩ năng đặc
biệt trong việc tìm ra tội phạm như: nhân viên điều tra, nhân viên kĩ thuật của phòng
thí nghiệm, chuyên gia vân tay, chuyên gia chụp ảnh hiện trường, chuyên gia khoa
học đường đạn, quan chức cảnh sát, công tố viên, thẩm phán, luật sư công và một số
người khác làm việc trong hệ thống tư pháp hình sự mà có kĩ năng nghề nghiệp nhất
định.
Có thê nói, từ năm 1920 cho ãên nay, tội phạm học đã và đang phát triến theo
hướng thiên về xã hội học, bên cạnh đó, tội phạm học cũng có mối quan hệ chặt chẽ
1Xcm TS. Adam J.Mckcc, Bài giảng “What is criminologv” trôn trang Wcb AEJS.Com, International Encyclopedia of .ĩustice Studies ngày 14/5/2007.
6
2
Xem 5/5/2007.
3 Xem GS.TS Frank Schmalleger, Criminologv Today, The University of North Carolina at Pembroke, Prentice Hall Publisher, năm 2002, tr 12.
4
http:// en.wikipedia.org/wiki/criminologist ngày 5/5/2007.
với sinh vật học và tâm lì học} Vì vậy, một số lượng lớn các nhà tội phạm học trên thế
giới hiện nay có nguồn gổc từ nhà xã hội học, nhà tâm lí học, nhà sinh vật học và
những người này rất thành công trong việc nghiên cứu về tội phạm học.
Nhà tội phạm học có vai trò vô cùng quan trọng đối với việc duy trì trật tự xã hội,
góp phần thúc đẩy sự phát triên của xã hội. Ba vai trò được trình bày dưới đây được
coi là những vai trò tiêu biêu nhất của nhà tội phạm học. Các vai trò này không loại
trừ nhau và một nhà tội phạm học thậm chí có thê đảm đương được cả ba vai trò này.
Cụ thê như sau:
Nhà nghiên củĩỉ khoa học.Nhà tội phạm học trước hết là một chuyên gia nghiên
cứu về tội phạm ở trường đại học, viện nghiên cứu hay một hiệp hội nào đó. Trong
vai trò này, nhà tội phạm học nghiên cứu các vấn đề khác nhau có liên quan đến tội
phạm.
Tư van cho các cơ quan có thâm quyền. Nhà tội phạm học có thê là nhà tư vấn các
vấn đề về phòng ngừa tội phạm. Trong vai trò tư vấn, nhà tội phạm học phân tích tình
hình tội phạm, nguyên nhân, hậu quả của tội phạm, phản ứng của Chính phủ và cộng
đồng xã hội đổi với hiện tượng tội phạm, dự báo về tội phạm, tư vấn các giải pháp
phòng ngừa đế giúp Chính phủ có thê kiếm soát được tội phạm, từ đó góp phần ôn
định trật tự, trị an xã hội. Trên cơ sở đó, nhà hoạch định chính sách phòng ngừa có thể
tham khảo sự tư vấn đó đế đề ra chính sách phòng ngừa cụ the. Thực tế cho thấy,
nhiều chính sách phòng ngừa tội phạm đã bị thất bại vì nó không được xây dựng dựa
trên cơ sở khoa học mà chỉ là những biện pháp được xây dựng theo những ý tưởng
chủ quan, duy ý chí của nhà chính trị.
Giảng viên. Việc giảng dạy tội phạm học đe truyền bá kiến
thức là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của nhà tội phạm
học. Nhà tội phạm học thực hiện mục tiêu đào tạo các
chuyên gia thuộc lĩnh vực tội phạm học thuộc các bậc sau
đại học, đại học, cao đang. Ngoài ra, nhà tội phạm học
còn phải quảng bá kiến thức tội phạm học trong quần chúng
nhân dân, trong giới khoa học đe nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật cho nhân dân, ý thức giữ gìn bảo vệ7 tài
sản của mình, hàng xóm cũng như cộng đồng,
hướng tới phòng ngừa, kiếm soát tội phạm trong xã hội có hiệu quả.
3. ĐÓI
TƯỢNG NGHIÊN cứu CỦA TỘI PHẠM HỌC
Với tư cách là một ngành khoa học, tội phạm học có đối tượng nghiên cứu của
riêng mình. Việc làm sáng tỏ đối tượng nghiên cứu của tội phạm học có ý nghĩa vô
cùng quan trọng vì đối tượng nghiên cứu không những chỉ ra những nội dung nghiên
cứu cơ bản mà còn chỉ ra khuynh hướng nghiên cứu, phát triên của khoa học đó. Các
tài liệu tội phạm học ngày nay đề cập đến đối tượng nghiên cứu của tội phạm học như
sau :
+ Quá trình phát triến, nội dung của các thuyết về tội phạm, sự đóng góp của từng
thuyết đối với sự phát triển của tội phạm học;
+ Tình hình tội phạm;
+ Nguyên nhân của tội phạm;
+ Dự báo tội phạm;
+ Phòng ngừa tội phạm ;
+ Nạn nhân học;
+ Đánh giá tác động của pháp luật đối với phòng ngừa tội phạm;
+ Tội phạm học so sánh (được nghiên cứu dưới góc độ xã hội của tội phạm thông
qua việc tìm hiểu văn hoá, phân tích sự giống nhau và khác nhau ở các mẫu tội
phạm); + Phản ứng của Chính phủ và xã hội đối với tội phạm;
+ Hình phạt học;
Các tội phạm thuộc lĩnh vục chuyên biệt như:
+ Tội phạm xâm phạm con người;
+ Tội phạm xâm phạm tài sản;
+ Tội phạm có tô chức;
+ Vần đề lạm dụng ma túy và tội phạm ma túy;
+ Tội phạm cổ cồn trắng;
+ Tội phạm công nghệ cao.
+ Tội phạm có sử dụng bạo lực;
8
+ Giới và tội phạm;
+ Tội phạm đường phố;
+ Tội phạm và vấn đề đô thị hoá...
4. PHƯƠNG
4.1.
PHÁP NGHIÊN cứu CỦA TỘI PHẠM HỌC
Yêu cầu đối với việc nghiên cứu tội phạm học
Cũng như các khoa học xã hội khác, độ chính xác của kết quả nghiên cứu trong tội
phạm học chỉ mang tính chất tương đối, không thê có tính chính xác cao như trong
khoa học tự nhiên. Điều đó có hai lí do cơ bản:
Thứ nhất, các phương pháp mà tội phạm học sử dụng mượn từ khoa học tự nhiên
như toán, lí thuyết hệ thống, tin học chỉ được áp dụng trong thời gian gần đây vào
việc nghiên cứu vấn đề tội phạm như một hiện tượng có tính chất cá nhân và xã hội.
Thứ hai, trong quá trình nghiên cứu, tội phạm học hướng tới tất cả các vấn đề có
liên quan đến các nhân tố chủ quan của con người như các nhân tố chủ quan của
người phạm tội, nạn nhân mà các nhân tố này không hề có mặt trong khoa học tự
nhiên.
Tuy nhiên, tội phạm học ngày càng thể hiện rõ tính khoa học của mình thông qua
các phương pháp nghiên cứu của nó. Để thu thập số liệu, phân tích tài liệu, xử lí
thông tin, biểu diễn tổng quát và mô tả, tội phạm học đã sử dụng nhiều phương pháp,
kĩ thuật nghiên cứu khoa học.
Đê sử dụng tốt các phương pháp nghiên cứu, trước hết cần phải tôn trọng những
yêu cầu tiên quyết sau đây:
+ Bằng chứng xác thực. Nghiên cứu tội phạm học bằng phương pháp điều tra,
khảo sát đòi hỏi nhất thiết phải có bằng chứng là những số liệu, mẫu tội phạm xác
thực. Việc có thể thẩm tra lại được bằng bằng chứng là có ý nghĩa hết sức quan trọng
trong công tác điều tra, khảo sát khoa học.
+ Không chấp nhận cải tuyệt đoi. Tội phạm học không chấp nhận cái tuyệt đối.
Các nhà tội phạm học phải luôn luôn chuân bị tư thế thấm tra các bằng chứng.
Sự thật
9
của khoa học phải là cái còn lại của phép thử.
+ Trung lập, khách quan. Trong tội phạm học, nhà tội phạm học hoạt động với tư
cách cá nhân nhà khoa học và không nôn để các giá trị cá nhân như định kiến chính
trị, cảm xúc cá nhân) chi phối làm ảnh hưởng đến các kết luận khoa học và chi phối
hoạt động nghề nghiệp của mình. Tất cả các hoạt động nghiên cứu phải được tiến
hành khách quan, chỉ vì mục đích khoa học. Tuyệt đối không được thành kiến hoặc áp
đặt trong nghiên cứu.
+ Tư chất nghiệp vụ nghiên cứu. Kĩ năng nghiên cứu là một tư chất bắt buộc đối
với nhà tội phạm học. Không có kĩ năng nghiên cứu thì có thê dẫn đến kết quả nghiên
cứu không chính xác, các giải pháp phòng ngừa tội phạm đưa ra có thê thiếu tính khả
thi.
4.2.
Một số phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong nghiên cứu tội
phạm
*
Phương pháp thống kê (Statistic method)
Đây là phương pháp sử dụng rất phổ biến trong nghiên cứu tội phạm học và mang
lại kết quả nghiên cứu có tính chân thực cao.
Thống kê tội phạm cung cấp các phương thức thống kê về mức độ hoặc tông số tội
phạm có tính chất phô biến trong xã hội.
Người đầu tiên sử dụng thống kê tội phạm là nhà điều tra tội phạm người Pháp Andre’Michel Guerry (1802 - 1866). Ông đã tính toán tỉ lệ tội phạm tính trên đầu
người khắp các tỉnh của nước Pháp trong những năm 1800. Vào năm 1835, nhà thiên
văn học, xã hội học và toán học người Bỉ Adolphe Quetelet (1796 -1864) đã xuất bản
cuốn sách “Phân tích về thống kê tội phạm ở một số nước Châu Âu” (gồm 3 nước Bỉ,
Pháp và Hà Lan). Adolphe Quetelet đã đặt mục tiêu cho mình là đánh giá mức độ các
tỉ lệ tội phạm khác nhau thông qua vấn đề khí hậu, giới tính, tuổi. Ông cũng là người
đưa ra ý kiến cho đến nay vần được coi là “vấn đề nóng” của thống kê tội phạm ngày
nay. Cụ thê là bằng phương pháp thong kê, ông đã rút ra kết luận: tội phạm thay đôi
1
0
theo mùa, rất nhiều tội phạm bạo lực đã tăng lên trong những tháng hè nóng
nực, các
tội phạm xâm phạm tài sản thường tăng vào thời gian lạnh hơn của năm. Với kết quả
của quá trình nghiên cứu này, ông đã đưa ra thuật ngữ rất noi tiếng trong tội phạm học
-
“luật nhiệt” (thermic law).
Thống kê tội phạm chính thức được xuất bản lần đầu tiên trong tờ Công báo
(Gazette) của Luân đôn vào năm 1828 và tờ Compte genemle cuả Pháp vào năm
1825. Thời gian đầu, thống kê tội phạm đã tính toán, so sánh giữa các điều kiện kinh
tế với các loại tội phạm khác nhau. Tiếp đó, bằng việc nghiên cứu các dữ liệu thống
kê của Anh trong suốt các năm 1810 đến năm 1847, Joseph Fletcher, một học giả
người Anh đã đưa ra kết luận: việc phạm tội ở Anh thường tăng vào thời điếm giá lúa
mì tăng.
Tương tự, Gerog Von Mayr, một học giả người Đức trong quá trình nghiên cứu từ
năm 1836 đến năm 1861, bằng phương pháp thống kê tội phạm đã rút ra kết luận tỉ lệ
tội trộm cắp tăng khi giá lúa mạch đen ở Baravia tăng. Những công việc mà các nhà
thống kê (statisticians) như Andre’Michel Guerry, Adolphe Que’teles tiến hành nêu ở
trên được gọi là trường phái thống kê của tội phạm học.
Ngày nay, thống kê tội phạm được sử dụng rộng rãi trong tội phạm học. Thong kê
tội phạm được tiến hành và tường thuật không chỉ trong các cơ quan thống kê chính
thức của các nước mà còn được thống kê bởi các tô chức quốc tế như Interpol, United
Nations. Một số nước mà điên hình là Mỹ thường xuất bản hàng năm số liệu thống kê
về tội phạm do Cục thống kê tư pháp (BJS) và Cục điều tra liên bang (FBI) thu thập.
Ví dụ, từ phương pháp thống kê “đồng hồ tội phạm” (Crime Clock), các nhà thong kê
đã xác định được ở Mỳ cứ 22 giây có một vụ phạm tội có sử dụng vũ lực (trong đó cứ
34 phút có một vụ giết người, 6 phút có một vụ hiếp dâm có sử dụng bạo lực, một
phút có một vụ cướp tài sản); và cứ 3 giây có một vụ phạm tội xâm phạm tài sản
(trong đó 95 giây có một vụ trộm cắp trong nhà, 5 giây có một vụ trộm cắp thông
thường, 27 giây có một vụ trộm cắp ô tô)1.
1
1
1 Xem FBI, Crime in United State, 1999, DC Washington, us Government Printing Office
Việc thống kê tội phạm thường dựa theo số liệu về tội phạm rõ (Cleared Crime
hoặc Solved Crime). Được coi là tội phạm rõ khi có đủ 3 điều kiện sau:
+ Có người chứng kiến hoặc phát hiện ra tội phạm;
+ Tội phạm đã được tường thuật (tố cáo) với cảnh sát;
+ Cơ quan cảnh sát hoặc cơ quan áp dụng luật khác khẳng định đó là hành vi phạm
luật hình sự.
Như vậy, vẫn có thê được coi là tội phạm rõ khi người phạm tội mới chỉ bị bắt giữ
và chưa bị đưa ra truy tố, xét xử.
Thuật ngữ tội phạm rõ được Bảo cáo tội phạm chỉnh thức(ƯCR) của Mỹ giải thích
đó là trường hợp các cơ quan áp dụng luật đã chính thức buộc tội một người vì tội
phạm họ đã thực hiện1.
Cần lưu ý là khi lấy nguồn dữ liệu để thống kê tội phạm, các nhà tội phạm học chủ
yếu lấy từ hai nguồn:
+ Nguồn của Cảnh sát;
+ Nguồn của các cơ quan khác.
Việc thống kê tội phạm sẽ tập trung vào các đối tượng sau:
+ Vụ phạm tội;
+ Người phạm tội;
+ Nạn nhân của tội phạm.
Trong thống kê tội phạm, việc tiến hành khảo sát, thăm dò dư luận rất quan trọng
và cần thường xuyên tiến hành, ơ nhiều nước trên thế thế giới, việc làm trên được
hiệp hội thống kê tội phạm thực hiện hàng năm. Tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu
mà đối tượng, nội dung được nghiên cứu cũng có thê khác nhau (trong đó việc phát
và thu thập phiếu tự tường thuật của nạn nhân là rất quan trọng đê đánh giá về tình
hình tội phạm, nhất là đối với nạn nhân của một số loại tội như nhóm tội xâm phạm
tình dục, nhóm tội xâm phạm tài sản).
1
1
2
Xem Criminologv Today của GS.TS Frank Schmalleger, The University of North Carolina at Pembroke, Prcnticc Hall Publishcr, năm 2002, tr 38. Có thế thấy
quan điểm tương tự xcm GS.TS Suc Titus Rcid, trưởng khoa luật Trường đại học Florida, Criminal Justice, Macmillan Publishing Company.
Trong tội phạm học, thống kê tội phạm có thể được thực hiện dưới các dạng:
+ số tuyệt đổi
Số tuyệt đối thường được sử dụng đê mô tả thực trạng của tình hình tội phạm, số
tuyệt đối trên thực tế là số liệu thống kê của cơ quan thống kê chính thức.
+ số tương đổi
Số tương đối thường được sử dụng đê nghiên cứu mức độ phổ biến của tội phạm
trong dân cư hoặc có thê sử dụng trong nghiên cứu về diễn biến, cơ cấu của tình hình
tội phạm. Có 3 loại số tương đối:
Chỉ sổ tội phạm (Crime Index). Chỉ sổ tội phạm được xác định đe tính mức độ phô
biến của tội phạm trong dân số. Đây là tỉ lệ số tội phạm (hoặc vụ phạm tội) tính trên
100.000 dân (nên tính trên 100.000 người dân hoặc 10.000 dân, không nên là 1000 vì
diện người quá hẹp thì chỉ số tội phạm khó chính xác), cần lưu ý là chỉ số tội phạm
luôn được xác định gắn liền với một địa bàn nhất định và trong một khoảng thời gian
nhất định. Khi đánh giá tình hình tội phạm không the bỏ qua chỉ sổ tội phạm, nhất là
khi đánh giá, so sánh tình hình tội phạm ở các địa bàn khác nhau.
số tương đổi phàn ánh quan hệ giữa cái cá thê và tông thế.Con số này thường
được dùng đê mô tả cơ cấu của tình hình tội phạm. Ví dụ trong tông số 1.200 vụ
phạm tội xảy ra trên địa bàn tỉnh A năm 2000 thì tội trộm cắp tài sản có 214 vụ. Như
vậy, nếu so sánh giữa vụ phạm tội trộm cắp tài sản với tông số các vụ phạm tội thì tội
trộm cắp tài sản chiếm tỉ lệ 17,83%. (Tông số các vụ phạm tội trên địa bàn tỉnh A năm
2000 sẽ được coi là 100%).
Sổ tương đối phản ảnh xu hướng của tội phạm. Loại số tương đối này được sử
dụng đê nghiên cứu diễn biến của tình hình tội phạm. Ví dụ số vụ phạm tội cướp đã bị
xét xừ trên địa bàn tỉnh A trong 7 năm liên tiếp như sau: Năm 2000 có 23 vụ, năm
2001 có 29 vụ, năm 2002 có 35 vụ, năm 2003 có 37 vụ, năm 2004 có 56 vụ năm 2005
có 32 vụ, năm 2006 có 30 vụ, năm 2007 có 29 vụ. Neu coi số vụ phạm tội cướp đã bị
1
xét xử trong năm 2000 là 100% làm gốc đê so sánh thì ta được kết quả là năm
2001 là
3
126%, năm 2002 là 152%, năm 2003 là 160%, năm 2004 là 243%, năm 2005 là
139%, năm 2006 là 130%, năm 2007 là 126%. Neu đánh giá diến biến của tình hình
tội phạm, ta sẽ thấy số vụ phạm tội có xu hướng tăng dần từ năm 2000 đến năm 2004,
sau đó từ năm 2005 đến năm 2007 có xu hướng giảm dần.
+ So trung bình. Trung bình tìm được bằng cách lấy tổng của các trường hợp trong
tập hợp được xét rồi chia cho số các trường hợp. Ví dụ: số vụ phạm tội giết người ở
tỉnh H trong 5 năm liên tiếp là 35, 73, 27, 56, 44. Như vậy, số vụ phạm tội giết người
trung bình hàng năm ở tỉnh H là 47. Đó là kết quả của việc cộng tất cả số vụ phạm tội
nói trên rồi chia cho 5.
+ Sổ trung vị là con số nằm chính giữa trục phân bổ các con số được sắp xếp theo
thứ tự (theo độ lớn của các con số). Ví dụ: số bị cáo bị kết án về tội trộm cắp tài sản
trong 7 năm ở tỉnh A là: 69, 80, 89, 97, 99, 101, 103. số trung vị trong trường hợp này
là 97. Có 3 con số ở phía trước 97 (69, 80, 89) và có 3 con số ở phía sau 97 (99, 101,
103).
* Phưong
pháp nghiên cứu điều tra (Survey research)
Phương pháp phiếu điều tra trong tội phạm học là tông hợp các kĩ năng đưa câu
hởi cho đối tượng cần nghiên cứu đê đạt kết quả cao nhất. Với phương pháp điều tra,
người nghiên cứu sẽ biên soạn câu hỏi. Bảng câu hởi được thiết kế với mục đích đưa
trực tiếp tận tay đê đối tượng điền tại chồ hoặc trao đôi qua điện thoại hoặc có thê gửi
qua bưu điện đến đổi tượng hoặc qua e-mail. Trong cách thức này, các câu hỏi dùng
đe diễn tả và chỉ dẫn cách sử dụng cũng như bố cục ảnh hưởng rất nhiều đến độ tin
cậy của kết quả đạt được trong cuộc nghiên cứu. Câu hỏi nên có hai loại:
Thứ nhấtlà loại câu hỏi có nhiều phương án trả lời đe người được hỏi có the lựa
chọn một trong các phương án trả lời đó. Ví dụ như câu hởi: Anh chị đã bao giờ lén
lút
chiếm đoạt tài sản của
+ Người thân;
+ Bạn bè;
+ Hàng xóm;
1
4
+ Đồng nghiệp;
+ Cơ quan.
Thứ hai, câu hởi mở không đưa sẵn câu trả lời mà để cho người được hỏi toàn
quyền trả lời tự do theo suy nghĩ của mình. Ví dụ như câu hỏi: Lí do anh (chị) lén lút
chiếm đoạt tài sản người khác?
Đê có thể thu được kết quả tối ưu trong khi sử dụng phương pháp này, ngay tại
phần đầu của phiếu điều tra, nhà nghiên cứu phải cam kết ngay việc giữ bí mật danh
tính của người tham gia; Chỉ rõ cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân nào đứng ra tiến hành
nghiên cứu và trách nhiệm của họ trong việc đảm bảo bí mật đời tư người tham gia
trả lời. Bên cạnh đó, đối tượng được hỏi phải trên diện rộng và nhà nghiên cứu phải
có khả năng tố chức, tiến hành cuộc điều tra, đặc biệt là kĩ thuật thu thập và xử lí
thông tin phải tốt.
Có nhiều loại điều tra trong nghiên cứu tội phạm học nhưng phô biến nhất là hai
loại sau đây:
Điều tra về tội phạm tự tường thuật (offender self-report surveys).
Đê tiến hành các cuộc điều tra loại này, các nhà nghiên
cứu phải cam kết giữ bí mật danh tính của người tham gia
tự tường thuật về tội phạm đã thực hiện, đảm bảo đê họ
không phải lo lang về sự tiết lộ thông tin với người tiến
hành điều tra cũng như không sợ hãi sẽ bị bắt giữ và bị
xử lí về hình sự do đã thực hiện tội phạm. Đổi tượng mà
các nhà nghiên cứu hướng tới là những người trẻ tuối,
nhất là đối với học sinh phố thông, sinh viên các trường
đại học, cao đắng. Điều tra về tội phạm tự tường thuật thường được
tiến hành hàng năm, bên cạnh đó, tùy theo mục đích nghiên
cứu mà có thê có những cuộc điều tra kéo dài trong khoảng
thời gian nhất định, ví dụ như từ 3 năm đến 5 năm. Kết
quả thu được từ Điều tra về tội phạm tự tường thuật cho thấy số tội
phạm xảy ra trên thực tế cao hơn rất nhiều so với số tội
phạm có trong thống kê chính thức. Bên cạnh đó, các nhà
nghiên cứu còn biết được một số vấn đề khác không thê có
được trong thống kê chính thức của cơ quan thống kê như
những nhân tố tiêu cực tác động đến việc gây ra tội
phạm.
1
5
Đồng thời, bức tranh về tình hình tội phạm đã sáng tỏ hơn
khi kết hợp xem xét, đánh giá cả số liệu về tội phạm rõ
cũng như sổ liệu tội phạm ân đã xảy ra. Vì vậy, nhiều nhà
nghiên cứu về tội phạm học đánh giá rất cao Điêu tra vê tội
phạm tự tường thuật . “Phát triên và mở rộng việc sử dụng phương pháp thu thập dữ
liệu về tội phạm bằng phương pháp tự tường thuật về tội phạm và hành vỉ phạm tội là
một trong những sự cải cách quan trọng nhất trong nghiên cứu tội
phạm học của thế kỉ 20.”1
Trên thế giới, Điều tra về tội phạm tự tường thuật bắt đầu xuất hiện vào đầu thập
niên 40 của thế kỉ 20. Từ đó đến nay, nó thường xuyên được các nhà nghiên cứu sử
dụng đế điều tra về tình hình tội phạm nói chung cũng như một nhóm tội hoặc một tội
cụ thê nói riêng. Tuy nhiên, phương pháp này cũng có một số hạn chế. Cụ thê là do
đối tượng được nghiên cứu thường nhằm vào người trẻ tuôi - diện nghiên cứu còn
chưa rộng và sự tự tường thuật của một số người có thê không trung thực hoặc do tội
phạm xảy ra đã lâu so với thời điêm tự tường thuật, do vậy, có thê đưa tới kết quả
nghiên cứu chỉ mang tính chính xác tương đối. Tuy nhiên, điều đó cũng không thế
làm lu mờ vai trò to lớn của Điều tra về tội phạm tự tường thuậttrong nghiên cứu tội
phạm học.
Điều tra về nạn nhân của tội phạm {the vỉctimỉzation surveỳ).
Với loại điều tra này, nhà nghiên cứu cũng phải cam kết giữ bí mật danh tính của
nạn nhân tham gia tự tường thuật bởi vì sự tiết lộ danh tính của họ trong nhiều trường
họp có thế gây bất lợi cho nạn nhân (nhất là đổi với nạn nhân của nhóm tội xâm phạm
tình dục, tội phạm bạo lực gia đình). Điều tra về nạn nhân của tội phạm được tiến
hành thường xuyên ở nhiều nước, nhất là ở những nước có “hiệp hội bảo vệ nạn nhân
và nhân chứng” hoặc “hiệp hội nạn nhân của tội phạm”; ở những nước này, việc thu
thập, quản lí các dữ liệu về nạn nhân của tội phạm khá tập trung, thống nhất; do vậy,
việc tiến hành điều tra về nạn nhân của tội phạm không phải là quá khó khăn. Điều
cần chú ý là việc thiết kế mẫu điều tra về nạn nhân của tội phạm phải khác với mẫu
điều tra về tội phạm tự tường thuật vì đây là những đối tượng nghiên cứu khác nhau.
1
1 Xem Terence p. Thomberry and Marvin D. Krohn, The Self Report Method For Mesuaring Deỉinquency ancỉ Crime, Criminal justice 2000,
6 Washington, D.C:
National Institute of Justice 2000; Xem GS.TS Frank Schmalleger, Criminology Today, The University of North Carolina at Pembroke, Prentice Hall Publisher,
năm 2002, trói.
Ket quả điều tra về nạn nhân của tội phạm cho thấy số nạn nhân tường thuật tội phạm
với cảnh sát trên thực tế chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ. Một cuộc điều tra về nạn nhân của tội
phạm ở Mĩ cho thấy chỉ 38% nạn nhân của tất cả tội phạm, 48% nạn nhân của tội
phạm bạo lực, 29% nạn nhân của tội trộm cắp tài sản cá nhân đã tường thuật về tội
phạm với cảnh sát.1 Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu còn biết rất nhiều lí do giải
thích tại sao nhiều nạn nhân của tội phạm không tường thuật về vụ phạm tội với cảnh
sát. Tuy nhiên, phương pháp này cũng có hạn chế là không phải nạn nhân nào cũng
tường thuật đúng sự thật do e ngại bị ảnh hưởng đến đời sống riêng tu - hoặc do thái
độ bất hợp tác... Diện nghiên cửu của phương pháp này có thê không bao quát được
hết tất cả các nạn nhân của tội phạm, do vậy kết quả nghiên cứu theo phương pháp
này cũng chỉ có tính chính xác tương đối. Mặt khác cũng phải kê đến một số tội phạm
không có nạn nhân, do vậy, trường hợp này không thê tiến hành phương pháp Điều
tra về nạn nhân của tội phạm. Nhưng với Điều tra về nạn nhân của tội phạm đã giúp
cho các nhà tội phạm học đánh giá chính xác hơn về tội phạm an cũng như nhận diện
được bức tranh hiện thực về tình hình tội phạm.
* Phương
pháp phỏng vấn (Intervievv method)
Trong phương pháp phỏng vấn, nhà nghiên cứu hởi đối tượng được hỏi những câu
hỏi có thê có sự chuấn bị từ trước hoặc không có chuấn bị mà đặt câu hỏi theo diễn
biến các câu trả lời của người được hỏi (nhưng vẫn gắn với mục đích đã chuấn bị của
người nghiên cứu). Việc phởng vấn có thê thực hiện qua việc gặp trực tiếp đối tượng
hoặc phỏng vấn qua điện thoại. Có hai loại phỏng vấn thường được tiến hành trong
nghiên cứu tội phạm học.
Cuộc phỏng van đã được cơ cẩu hoá. Mỗi người phỏng vấn sẽ nhận được một loạt
các câu hỏi, các câu hỏi này đã được chuấn bị từ trước và theo những thứ tự nhất định
đã tính toán từ trước, sổ liệu thu được từ cuộc phỏng vấn này có thế dễ dàng xếp
thành cột và so sánh với nhau. Ví dụ, nhà nghiên cứu muốn tìm hiêu ý thức chấp hành
luật giao thông đường bộ trong dân cư, đã đưa câu hỏi chuan bị trước như 1sau:
Câu hởi: Anh (chị) chấp hành luật giao thông đường bộ do
7
+ Có mặt cảnh sát giao thông ở đó;
+ Chấp hành luật giao thông đường bộ đã là thói quen thường trực;
+ Không thích phiền phức;
+ Tất cả các phương án trên.
Cuộc phỏng vẩn không được cơ cấu hoá (không được chuẩn bị trước). Đây là cuộc
phỏng vấn không được sự chuẩn bị đầy đủ ở nội dung hỏi mà cuộc phỏng vấn này nhà
nghiên cứu tự đưa ra câu hỏi trên cơ sở diễn biến trả lời của người được hỏi. Trường
họp này, nhà nghiên cứu phải đưa câu hỏi có nội dung rõ ràng và đối với câu hỏi quan
trọng cần có kết quả thì nên chú ý khuyến khích, động viên người được hỏi trả lời.
Khác với cuộc phỏng vấn đã được cơ cấu hoá có kết quả đã định lượng và dễ so sánh,
còn trong cuộc phỏng vấn không được cơ cấu hoá, kết quả rất khó so sánh vì các câu
hỏi có thê không giống nhau, do vậy, câu trả lời sẽ rất khó so sánh. Nói một cách đơn
giản hơn, cuộc phỏng vấn không được cơ cấu hoá gần như cuộc đối thoại về một chủ
đề nào đó. Ví dụ:
Câu hỏi: Ông suy nghĩ gì về nạn tham nhũng ở nước ta hiện nay?
Trả lời: Tham nhũng ở nước ta rất trầm trọng.
Câu hỏi: Tại sao ông có suy nghĩ như vậy?
Trả lời: Không chỉ tôi có quan điếm đó mà nhiều người cũng có quan điêm tương
tự, báo chí cũng nói nạn nhũng nhiễu của quan chức xảy ra khắp nơi, ngay Chính phủ
cũng nói tham nhũng ở nước ta là quốc nạn.
Ket quả phỏng vấn được ghi chép lại và quản lí dữ liệu nôn bằng mã số. Mục đích
của mã hoá là sự chuyển đối các câu trả lời cho các câu hỏi sang các biểu tượng để có
thê so sánh với nhau. Với ưu thế của tính năng đa dụng của máy vi tính, việc so sánh
giữa các tập hợp câu hỏi có thể giúp nhà nghiên cún xử lí nhanh và dễ dàng các dừ
liệu.
* Phương
pháp nghiên cứu thực nghiệm (Experimental method)
Trong phương pháp thực nghiệm, nhà nghiên cứu sử dụng các biến số. Các biến số
1
8
là bất kì sự thay đôi nào diễn tiến từ một trạng thái, vị trí này tới một trạng thái, vị trí
tiếp theo. Ví dụ: các cá nhân có thế thay đổi trạng thái trong địa vị kinh tế, lứa tuôi,
quan điếm sống...
Xác định trạng thái có thê bằng biến số độc lập hoặc biến số phụ thuộc.
Biến số độc lập là biến số được thao tác trong một cuộc nghiên cứu. Nó được trình
bày dưới đại lượng thay đôi và có thê mô tả được, bản thân nó hoạt động độc lập. Nhà
nghiên cứu thường có một vài giả thuyết ban đầu về biến số độc lập sẽ ảnh hưởng
như thế nào đến kết quả cuộc thực nghiệm.
Biến số phụ thuộc là biến số được xác định như là biến số kết quả. Nhà nghiên cứu
dựa trên nó đế đo lường và từ đó dẫn đến kết luận. Các cuộc thực nghiệm được tiến
hành trong phòng thí nghiệm ôn định thì khả năng điều khiên được biến số độc lập rất
cao. Đối với các cuộc thực nghiệm riêng lẻ thì chỉ tồn tại một biến số độc lập, biến số
đó được nhà thực nghiệm sử dụng và chuyên dịch từ cuộc thực nghiệm thử tới cuộc
thực nghiệm tiếp theo.
Trong quá trình nghiên cứu, những thay đối trong biến số độc lập sẽ kéo theo
những thay đổi trong biến số phụ thuộc. Đe làm rõ quá trình này, nhà tội phạm học
phải phân chia đối tượng nghiên cứu làm hai nhóm: nhóm thực nghiệm (experimental
group) và nhóm kiêm tra (control group). Mục đích của việc xây dựng nhóm kiếm tra
là đê có cơ sở so sánh. Nhóm thực nghiệm chịu sự tác động của biến số độc lập được
thao tác theo nhiều phương thức khác nhau. Nhà tội phạm học bằng cách so sánh
nhóm kiêm tra với nhóm thực nghiệm đê đi tới kết luận về giá trị của những biến số
độc lập được thao tác. Ví dụ: Nhà nghiên cứu muốn tìm hiêu tác động, ảnh hưởng của
việc xem văn hoá phấm khiêu dâm đến lối sổng của thanh thiếu niên. Nhà nghiên cứu
phải thiết kế một chương trình thí nghiệm gồm có hai nhóm: nhóm thực nghiệm và
nhóm kiêm tra. Còn biến số độc lập ở đây là việc sử dụng các phương tiện nghe nhìn
và các phim, ảnh khiêu dâm. Mục tiêu mà các nhà nghiên cứu muốn khảo sát ở đây là
khi thao tác thực nghiệm thì các biến số phụ thuộc hay còn gọi là biến số kết quả có
xuât hiện không? Nhóm kiêm tra sẽ được xem phim có nội dung lành mạnh,
không có
1
9
hình ảnh khiêu dâm. Còn ở nhóm thực nghiệm, đối tượng được nghiên cứu sẽ xem
phim, ảnh có hình ảnh khiêu dâm ở các mức độ khác nhau. Nhà nghiên cứu sẽ tiến
hành trắc nghiệm cả ở hai nhóm đế biết được kết quả của cuộc thực nghiệm xem ảnh
hưởng của các phim, ảnh khiêu dâm tới lối sổng của thanh thiếu niên.
Nhà tội phạm học thiết kế nhóm kiêm tra và nhóm thực nghiệm theo hai cách cơ
bản:
+ Cách thứ nhất được gọi là kĩ thuật cặp đôi - đổi chứng. Cách này được hiêu là
nếu một phần từ có trong nhóm kiêm tra thì sẽ có một phần tử tương ứng trong nhóm
thực nghiệm.
+ Cách thứ hai được gọi ỉà kĩ thuật phân nhóm ngẫu nhiên. Những đối tượng được
chứa trong hai nhóm thực nghiệm và kiêm soát được phân phối theo phương pháp
ngẫu nhiên qua thống kê.
Phương pháp thực nghiệm có ưu điểm là số liệu thu thập có độ chính xác tương
đối cao bởi sự cho phép kiêm soát cả quá trình diễn tiến của cuộc nghiên cứu. Hạn
chế của phương pháp này kết quả nghiên cứu khó có thê áp dụng cho những người
khác ngoài nhóm thực nghiệm và hơn nữa nó chỉ có ý nghĩa đối với một bộ phận dân
cư nhất định.
* Phương
pháp nghiên cứu tình huống (case study)
Trong pháp nghiên cứu tình huống, nhà tội phạm học sẽ phân tích kĩ càng một số
trường hợp nhất định. Việc nghiên cứu những tình huống cụ thế sẽ giúp nhà nghiên
cứu thu thập được nhiều thông tin từ một lượng nhỏ đổi tượng được nghiên cứu. Ví
dụ nghiên cứu tình huống một nhóm thanh niên phạm tội cướp giật tài sản trên đường
phổ nhằm thu được những thông tin phong phú về đặc trưng nhân cách của người
phạm tội cướp giật tài sản.
Nghiên cửu tình huống bao giờ cũng gắn kết với các sự kiện mà các sự kiện đó
được nhà nghiên cứu cần ghi nhận cẩn thận thông qua ghi chép, phỏng vấn, quan sát
từng tình huống, hoặc nghiên cứu tài liệu thông tin khác. Ví dụ: nhà tội phạm học
muốn tìm hiếu tội cướp tài sản là loại tội phạm vốn rất phô biến ở một 2huyện vùng
0
biên giới từ 25 năm về trước. Khi đó, nhà nghiên cứu sẽ đến thị sát huyện vùng biên
giới đê phỏng vấn bất kì người cao tuối nào hoặc cán bộ điều tra, truy tố, xét xử hình
sự đã nghỉ hưu đế hỏi về tệ nạn cướp đã từng hoành hành cách đây 25 năm. Ngoài ra,
nhà nghiên cứu có thế đọc các nguồn tại liệu khác như: các bản án đã xử về tội cướp
tài sản 25 năm về trước, các bài báo viết về tội cướp tài sản trên địa bàn huyện cách
đây 25 năm....
Phương pháp nghiên cứu tình huống có điểm mạnh là nguồn tài liệu vô cùng
phong phú, độ tin cậy tương đối cao. Hạn chế của phương pháp này là khi nhà nghiên
cứu muốn thực hiện việc khái quát hoá từ những trường hợp cụ thê là tương đổi khó
khăn bởi vì nhà nghiên cứu không thế khắng định chắc chắn những kết luận mà mình
rút ra trong trường hợp này lại đúng trong những trường hợp khác. Hơn nữa, trong
nghiên cứu tình huống, các mẫu khảo sát thường với phạm vi không lớn lắm nên
trong chừng mực nhất định, độ chính xác nói chung còn ít nhiều hạn chế.
* Phương
pháp nghiên cứu mẫu
Phương pháp nghiên cứu mẫu cực kì hữu ích trong trường hợp đối tượng nghiên
cứu tương đối rộng. Phương pháp nghiên cứu mẫu cho ta những thông tin thuộc tần
suất (bao nhiêu %), tần số (thường lặp lại là bao nhiêu trong một đơn vị thời gian).
Căn cứ vào mục đích nghiên cứu mà nhà nghiên cứu có thế lựa chọn các loại mẫu
+ Mau thuận tiện: Mầu thuận tiện chứa đựng các cá nhân mà đặc trưng của họ
mang lại sự thuận lợi cho nhà nghiên cứu. Nhà nghiên cứu không phải tốn công lựa
chọn bởi vì họ đã có sẵn các đặc trưng cần thiết đáp ứng đủ các yêu cầu của cuộc
nghiên cứu đề ra. Ví dụ để đánh giá tông quát vấn đề di dân của người nông thôn ra
thành phố cũng như những phức tạp nảy sinh từ vấn đề này trong đó có tội phạm, tệ
nạn ma túy.... nhà nghiên cứu sử dụng các số liệu thu được từ cộng đồng dân nhập cư
sinh sống ổn định trong thành phổ, những người lao động ngoại tỉnh đang tạm trú,
những người này đã có sẵn những dấu hiệu đặc trưng nào đó về giới tính, tuối, nguồn
gốc xuất thân, nghề nghiệp...
2
1
+ Mau tự nguyện: Mầu tự nguyện bao gồm các cá nhân tự nguyện tham gia vào
cuộc nghiên cứu. Ví dụ đê nghiên cứu tác động của thời tiết nóng nực, ngột ngạt với
việc hình thành và thê hiện tính cách của con người, nhà nghiên cứu có thê mời một
số người tự nguyện là người chưa thành niên tham gia. Tuy nhiên, kết quả thu được từ
nhóm này có giá trị thấp, bới vì đối tượng tự nguyện tham gia cuộc nghiên cứu chưa
có tính đại diện trên diện rộng.
+ Mau ngẫu nhiên: Việc chọn mầu này nhằm đảm bảo kết quả nghiên cứu có tính
khách quan và có tính đại diện trên diện rộng. Mầu ngẫu nhiên phải có tính chất đại
diện cho tống the lớn hơn nó. Những số liệu thu thập được từ loại mẫu này có giá trị
tin cậy khá cao.
Điếm mạnh của phương pháp nghiên cứu mẫu là có thế thu thập thông tin theo tần
số, tần suất trên một nhóm khá rộng lớn. số liệu có thể tin cậy nếu nhà nghiên cứu lựa
chọn mầu phù hợp.
Điểm hạn chế của phương pháp này thê hiện ở chồ các thông tin thu được chỉ giới
hạn ở bề mặt của đối tượng, nhất là đổi tượng nghiên cứu quá lớn. Do vậy, cần phải
kết họp với phương pháp nghiên cứu tình huống đê thu được những số liệu thuyết
phục./.
CẢU HỎĨ ỎN TẢP:
Câu 1: Phân tích khái niệm tội phạm học.
Câu 2. Phân tích khái niệm nhà tội phạm học.
Câu 3. Trình bày đối tượng nghiên cửu của tội phạm học.
Câu 4. Trình bày phương pháp nghiên cún của tội phạm học.
CHƯƠNG 2
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIÉN CỦA TỘI PHẠM HỌC
Từ xa xưa cho đến nay, một câu hỏi lớn đối với loài ngưòi luôn luôn tồn tại. Đó
là tại sao con ngưòi ta phạm tội hay nguyên nhân gốc rễ của tội phạm 2là gì? Trải
2
qua các giai đoạn phát triển khác nhau của xã hội, các nhà tội phạm học luôn cố
gắng lí giải vấn đề này. Quá trình hình thành, phát triến của tội phạm học chính
là quá trình ra đòi, phát triến các thuyết, các trường phái khác nhau giải thích
về nguyên nhân của tội phạm. Mỗi thuyết, trường phái đó đều có con đường
riêng nghiên cứu về tội phạm, cũng có the có sự kế thừa ít nhiều quan niệm của
người đi trước và tựu chung lại các thuyết, các trường phái đó đều cố gắng giải
thích nguyên nhân của tội phạm và đưa ra giải pháp phòng ngừa tương ứng.
Việc nghiên cứu các thuyết, các trường phái ở các giai đoạn lịch sử khác nhau
có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong nghiên cún tội phạm học vì nó giúp ta đánh
giá được những thành tựu mà các nhà nghiên cứu tiền bối đã đạt được trong
việc tìm ra nguyên nhân của tội phạm cũng như tìm ra các biện pháp phòng
ngừa tưong ứng, từ đó có thế kế thừa một cách hợp lí thành tựu khoa học của
các nhà tiền bối trong phòng ngừa và kiếm soát tội phạm ngày nay. Bên cạnh
đó, việc nghiên cứu này cũng giúp cho chúng ta tìm ra những hạn chế của các
thuyết đế từ đó tiếp tục nghiên cứu đế phát triến, hoàn thiện các thuyết hoặc
tiếp tục nghiên cứu cố gắng tìm ra thuyết mói giải thích về tội phạm, trên cơ sở
đó, có thế xây dựng các biện pháp phòng ngừa tội phạm sát họp. Đe nghiên cứu
toàn diện về quá trình phát triển của tội phạm học, đòi hỏi người nghiên cứu
phải có cái nhìn khách quan, chỉ trên cơ sở khoa học và phải đặt trong hoàn
cảnh lịch sử cụ thế. Nghiên cứu về quá trình hình thành, phát trỉến của tội
phạm học phải nhận thức được rằng đó quá trình tích lũy, phát triến tri thức
của
loàingườivới từng nấc phát triến khác
nhau, với những thăng trầm riêng của
đều
nó nhưng tựu chung lại
có đóng góp
đối với kho tàng trí tuệ của nhân loại và vì sự phát triến của nhân loại.
Có rất nhiều thuyết trong tội phạm học giải thích về nguyên nhân của tội phạm
nhưng nhìn chung có the chia là hai nhóm cơ bản (trong mỗi nhóm này lại có nhiều
nhánh khác nhau). Đó là:
+ Các thuyết về bản chất con người;
2
3
+ Các thuyết xã hội học.
Trong chương này, chúng ta sẽ được học các thuyết giải thích về nguyên nhân của tội
phạm qua hai phần:
Phần thứ nhất: Các thuyết về bản chất con người; Phần thứ hai: Các thuyết xã
hội học.
PHẦN THÚ NHẤT CỦA CHƯƠNG 2 - CÁC THUYÉT VÈ BẢN CHẤT CON
NGƯỜI Phần này gồm các vấn đề sau
Ngay từ thời cổ đại, người xưa đã có giải thích về nguyên nhân của tội phạm, tuy
nhiên các giải thích này còn mang nặng tính thần bí, siêu nhiên. Từ hơn 5000 trước
công nguyên, người xưa cho rằng nguyên nhân của tội phạm là do ảnh hưởng của ma
quỉ {Demonic Influencè), thời kì 3.500 trước công nguyên, người xưa lại cho rằng
nguyên nhân của tội phạm là do ảnh hưởng của thiên văn (Zodìac Infỉuencè), thời kì
1250 trước công nguyên, người xưa lại cho rằng nguyên nhân phát sinh tội phạm là
do ý chí của chúa trời (God ’ wilt). Tuy nhiên, theo vòng quay của lịch sử, xã hội ngày
càng phát triên. Lịch sử đã bắt đầu xuất hiện những tư tưởng đầu tiên liên quan đến
tội phạm học.
Các triết gia nổi tiếng như Socrates (470-399 trước CN), Plato (428-347 trước
CN), Arixtotle (384-322 trước CN) đã đưa ra những tư tưởng đầu tiên về tội phạm
học. Những tư tưởng này chịu ảnh hưởng của quan niệm triết học cô đại. Tuy nhiên,
các triết gia này đã đưa ra được một số tư tưởng của tội phạm học.
2
4
Plato cho rằng Luật pháp do nhà nước ban hành phải có tác dụng kiềm chế, khắc
phục được nguyên nhân dần đến tội phạm. Nhà nước có trách nhiệm không để sự
giàu có và nghèo đói cùng tồn tại trong xã hội vì sự giàu có làm phát sinh tính lười
biếng và ham tiêu khiên, ăn chơi; còn nghèo đói thì làm phát sinh tính hèn hạ, dễ làm
điều ác của con người. Bên cạnh đó, ông còn cho rằng phòng ngừa tội phạm là hướng
tới tương lai chứ không phải là hiện tại.
Triết gia Arixtotle cũng có một số tư tưởng về tội phạm
học. Arixtotle cho rằng nguyên nhân của tội phạm bắt
nguồn từ các thói quen và sở thích hư hỏng của con người,
từ sự mâu thuẫn giữa lí trí với những đam mê của con
người, khi dục vọng lấn át lí trí. Ông cho rằng cưỡng chế
tâm lí có the phòng ngừa được tội phạm, vì pháp luật giúp
cho tinh thần thống trị được thê xác và lí trí thống trị
được bản năng con người.
Tuy nhiên, trong suốt một thời kì lâu dài, vẫn chưa xuất hiện một công trình nào
nghiên cứu chuyên sâu về tội phạm học. Chỉ đến khi ra đời tác phấm “Tội phạm và
hình phạt” của Cessa Beccaria vào năm 1764 đã đánh dấu một bước ngoặt vô cùng
quan trong cho sự ra đời và hình thành một ngành khoa học mới của nhân loại - Tội
phạm học và mãi đến tận năm 1885, thuật ngữ Tội phạm học mới ra đời.
1.
TRƯỜNG PHÁI TỘI PHẠM HỌC CỔ ĐIẺN
Thời gian: Từ những năm 1700 đến năm 1880.
Học giả tiên biêu: Cesare Beccaria, Jeremy Bentham.
1.1
Hoàn cảnh ra đòi cùa tội phạm học cố điến
Tội phạm học cô điển ra đời chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi hệ tư tưởng của các nhà
chính trị, triết học “thời kì khai sáng” (age of enlightenment) - Một phong trào xã hội
có ý nghĩa vô cùng quan trọng diễn ra trong suốt thế kỉ 17-18. Các nhà tư tưởng đi
theo phong trào này mà tiêu biểu là Francis Bacon (1561-1626), Thomas Hobbes
(1588-1679), Jonh Locke (1632-1704), Jean-Jacques Rousseau (1712-1778), Baruch
Spinoza (1632- 1677), Thomas Paine (1737-1809) cho rằng chính lí trí và khoa học
(chứ không phải tôn giáo) sẽ làm cho nhân loại tiến bộ. Hay nói cách 2khác, chính
5
những tu- tưởng của các học giả lỗi lạc của “thời kì khai sáng” đã đóng góp gián tiếp