Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Bài giảng môn tư tưởng hồ chí minh (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (430.72 KB, 112 trang )

Bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh – Bài giảng môn tư tưởng Hồ Chí Minh

Chương mở đầu
ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ Ý NGHĨA
HỌC TẬP MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
I. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

1. Khái niệm tư tưởng và tư tưởng Hồ Chí Minh
a. Khái niệm tư tưởng
- Theo nghĩa phổ thông, tư tưởng là suy nghĩ, ý nghĩ.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống những quan điểm, quan niệm,
luận điểm được xây dựng trên một nền tảng triết học (thế giới quan và phương
pháp luận) nhất quán, đại biểu cho ý chí, nguyện vọng của một giai cấp, một dân
tộc, được hình thành trên cơ sở thực tiễn nhất định và trở lại chỉ đạo hoạt động
thực tiễn, cải tạo hiện thực.
- Nhà tư tưởng, theo Lênin: Một người xứng đáng là nhà tư tưởng khi nào
biết giải quyết trước người khác tất cả những vấn đề chính trị- sách lược, các vấn
đề về tổ chức, về những yếu tố vật chất của phong trào không phải một cách tự
phát.
b. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
Đại hội VII Đảng ta khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của
sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta và
trong thực tế, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu
của Đảng và của dân tộc”.
Đại hội IX Đảng ta khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống
quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản cách mạng Việt Nam; là
kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều
kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức


mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân; về quyền làm chủ của nhân
1


Bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh – Bài giảng môn tư tưởng Hồ Chí Minh

dân, xây dựng nhà nước thật sự của dân, do dân vì dân; về quốc phòng toàn dân,
xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hóa, không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách
mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, cán bộ, đảng viên
vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân…
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta
giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”.
=> Dựa trên định nghĩa trên các nhà khoa học đưa ra định nghĩa sau: Tư
tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn
đề cơ bản của quá trình cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân đến cách mạng XHCN; là kết quả sự vận dụng sáng tạo và phát triển CNMLN
vào điều kiện cụ thể của nước ta; đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ
thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người .
Ở định nghĩa này, Đảng ta bước đầu làm rõ:
+ Về cấu trúc, của tư tưởng Hồ Chí Minh đó là: hệ thống các quan điểm lý
luận, phản ánh những vấn đề có tính quy luật của cách mạng Việt Nam.
+ Về nguồn gốc, của tư tưởng Hồ Chí Minh đó là: chủ nghĩa Mác- Lênin,
giá trị văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại.
+ Về nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm: những vấn đề có
liên quan trực tiếp đến cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.
+ Về Mục tiêu của tư tưởng Hồ Chí Minh là: giải phóng giai cấp, giải
phóng dân tộc, giải phóng con người.

+ Về giá trị, ý nghĩa, sức hấp dẫn, sức sống lâu bền của tư tưởng Hồ Chí
Minh: Soi đường thắng lợi cho cách mạng Việt Nam; tài sản tinh thần to lớn của
Đảng và dân tộc.
=> Như vậy dù định nghĩa theo cách nào, tư tưởng Hồ Chí Minh đều được
nhìn nhận với tư cách là một hệ thống lý luận. Hiện nay, tồn tại hai phương thức
tiếp cận hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh được nhận diện như là một hệ thống tri thức
2


Bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh – Bài giảng môn tư tưởng Hồ Chí Minh

tổng hợp, bao gồm tư tưởng triết học; tư tưởng kinh tế; tư tưởng chính trị; tư tưởng
quân sự; tư tưởng văn hóa, đạo đức và nhân văn.
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm về cách mạng Việt
Nam, bao gồm: Tư tưởng về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc; về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; về Đảng cộng sản Việt
Nam; về đại đoàn kết dân tộc; về dân chủ, Nhà nước của dân, do dân, vì dân; về văn
hóa, đạo đức v.v…
2. Đối tượng và nhiệm vụ của môn học tư tưởng Hồ Chí Minh
a. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm hệ thống quan điểm,
quan niệm, lý luận về cách mạng Việt Nam trong dòng chảy của thời đại mới mà
cốt lõi là tư tưởng độc lập, tự do của dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; về mối
quan hệ biện chứng trong sự tác động qua lại của tư tưởng độc lập, tự do, dân chủ,
chủ nghĩa xã hội với tư tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, về các quan điểm cơ
bản trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Cơ sở (khách quan và chủ quan) hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm

khẳng định sự ra đời của tư tưởng Hồ Chí Minh là một tất yếu để giải đáp các vấn
đề lịch sử dân tộc đặt ra.
- Các giai đoạn hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Nội dung, bản chất cách mạng, khoa học, đặc điểm của các quan điểm trong
toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Vai trò nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động của tư tưởng Hồ Chí
Minh đối với cách mạng Việt Nam.
- Quá trình quán triệt, vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh qua các
giai đoạn cách mạng của Đảng và Nhà nước ta.
- Các giá trị tư tưởng lý luận của Hồ Chí Minh đối với kho tàng tư tưởng, lý
luận cách mạng thế giới của thời đại.

3


Bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh – Bài giảng môn tư tưởng Hồ Chí Minh

3. Mối quan hệ với môn học những nguyên l‎ý cơ bản của chủ nghĩa MácLênin và môn học Đường l‎ối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
- Mối quan hệ của môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh với môn học những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin.
- Mối quan hệ của môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh với môn học Đường lối
cách mạng của Đảng.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

1. Cơ sở phương pháp l‎uận.
- Bảo đảm sự thống nhất nguyên tắc tính Đảng và tính khoa học.
- Quan điểm thực tiễn và nguyên tắc lý luận gắn liền với thực tiễn.
- Quan điểm lịch sử cụ thể.
- Quan điểm toàn diện và hệ thống.
- Quan điểm kế thừa và phát triển.

- Kết hợp nghiên cứu các tác phẩm với thực tiễn chỉ đạo cách mạng của Hồ
Chí Minh.
2. Các phương pháp cụ thể.
- Phương pháp lịch sử và lôgíc.
- Phương pháp liên ngành.
- Các phương pháp cụ thể thường được áp dụng: Phân tích, tổng hợp, so
sánh, đối chiếu, thống kê trắc lượng, văn bản học, điều tra điền dã, phỏng vấn nhân
chứng lịch sử…
III. Ý NGHĨA CỦA VIỆC HỌC TẬP MÔN HỌC ĐỐI VỚI SINH VIÊN

- Nâng cao năng lực tư duy lý luận và phương pháp công tác.
- Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng và rèn luyện bản lĩnh chính trị.

4


Bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh – Bài giảng môn tư tưởng Hồ Chí Minh

Chương I
CƠ SỞ, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

1. Cơ sở khách quan
a. Bối cảnh lịch sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
- Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
+ Xã hội Việt Nam trước khi Pháp xâm lược là xã hội phong kiến độc lập,
nền nông nghiệp lạc hậu, trì trệ.
+ Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam (1858) và hiệp định Patơnốt
(1884) được ký kết, xã hội Việt Nam bước sang giai đoạn mới và trở thành xã

hội thuộc địa nửa phong kiến.
+ Đầu thế kỷ XX, bối cảnh xã hội Việt Nam đặt dân tộc chống cả Triều lẫn
Tây. Các cuộc khởi nghĩa của nông dân và các phong trào yêu nước ở thời kỳ
này dù dưới ngọn cờ nào cũng đều thất bại hoặc bị dìm trong bể máu. Xã hội
Việt Nam khủng hoảng về đường lối cứu nước.
- Bối cảnh thời đại, quốc tế.
+ Chủ nghĩa tư bản từ tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa
độc quyền.
+ Từ cuộc đấu tranh sôi nổi của công nhân các nước tư bản cuối thế kỷ
XIX và nhất là “sự thức tỉnh châu Á” đầu thế kỷ XX đã dẫn đến cao trào mới của
cách mạng thế giới với đỉnh cao là Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917.
+ Sự ra đời quốc tế cộng sản (3/1919).
b. Những tiền đề tư tưởng – lý luận
- Giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam.
+ Chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước và giữ
nước đã hình thành cho dân tộc Việt Nam các giá trị truyền thống phong phú,
bền vững. Đó là ý thức về chủ quyền quốc gia dân tộc, tự lực, tự cường, yêu
5


Bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh – Bài giảng môn tư tưởng Hồ Chí Minh

nước…tạo động lực mạnh mẽ của đất nước.
+ Tinh thần nhân nghĩa và truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái
trong khó khăn, hoạn nạn.
+ Truyền thống lạc quan yêu đời, niềm tin vào chính mình, tin vào sự tất
thắng của chân lý và chính nghĩa dù phải vượt qua muôn ngàn khó khăn, gian
khổ.
+ Truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo, ham học hỏi, mở
rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hoá bên ngoài làm giàu cho văn hoá Việt

Nam. Chính nhờ tiếp thu truyền thống của dân tộc mà Hồ Chí Minh đã tìm
thấy con đường đi cho dân tộc. “Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước chứ
chưa phải là chủ nghĩa cộng sản đã giúp tôi tin theo Lênin và đi theo Quốc tế
III.”
- Tinh hoa văn hóa nhân loại
+ Văn hoá phương Đông: Người đã tiếp thu tư tưởng của Nho giáo, Phật
giáo, và tư tưởng tiến bộ khác của văn hoá phương Đông.
Nho giáo Người biết chắt lọc lấy những gì tinh túy nhất trong các học
thuyết triết học, hoặc trong tư tưởng như Lão Tử, Mặc Tử, Quản Tử… Người
tiếp thu những mặt tích cực của nho giáo. Đó là các triết lý hành động, tư tưởng
nhập thế, hành đạo, giúp đời, đó là ước vọng về một xã hội bình trị, hòa mục,
hòa đồng, là triết lý nhân sinh; tu dưỡng tính; đề cao văn hóa lễ giáo, tạo ra
truyền thống hiếu học. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng phê phán Nho giáo có tư
tưởng tiêu cực như bảo vệ chế độ phong kiến, phân chia đẳng cấp – quân tử và
tiểu nhân, trọng nam khinh nữ, chỉ đề cao nghề đọc sách. Hồ Chí Minh đã chịu
ảnh hưởng của Nho giáo rất nhiều dựa trên nền tảng chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam.
Phật giáo Hồ Chí Minh tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc các tư tưởng vị
tha, từ bi bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể thương thân…; là nếp
sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm việc thiện; là tinh thần bình
đẳng, dân chủ, chống phân biệt đẳng cấp; là việc đề cao lao động, chống lười
biếng; là chủ trương sống không xa lánh việc đời mà gắn bó với dân, với nước,
tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh của nhân dân chống kẻ thù dân tộc…
Tư tưởng dân chủ tiến bộ như chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn
6


Bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh – Bài giảng môn tư tưởng Hồ Chí Minh

+ Văn hoá phương Tây:

Khi học ở Huế, những tư tưởng tiến bộ của cách mạng Pháp về “tự do,
bình đẳng, bác ái” đã ảnh hưởng mạnh đến Hồ Chí Minh và là một trong những
yếu tố tác động tới hướng đi tìm đường cứu nước của Người. Ba mươi năm sống
và hoạt động trong môi trường văn hóa phương Tây, Hồ Chí Minh đã có điều
kiện để tìm hiểu, nghiên cứu và trực tiếp trải nghiệm qua các hoạt động chính trị,
văn hóa, xã hội ở đây. Người đã trực tiếp tìm hiểu tư tưởng dân chủ của các nhà
khai sáng (Vonte, rutxô, mongtécxkiơ…) qua các tác phẩm của họ. Người đã tới
Pháp, Mỹ, Anh và trực tiếp khảo sát mọi mặt tại những nơi khởi nguồn của ba
cuộc cách mạng tư sản điển hình trên thế giới. Tư tưởng cách mạng tiến bộ của
các cuộc cách mạng này đã tác động mạnh mẽ tới Hồ Chí Minh. Đó là những tư
tưởng cơ bản của chủ nghĩa dân tộc và nhân văn trong cách mạng tư sản Mỹ và
Pháp với quyền dân tộc, quyền con người và tư tưởng dân chủ mà nội dung của
nó là Tự do – Bình đẳng – Bác ái. Đây là những điểm mới về tư tưởng trong tinh
hoa văn hóa phương Tây đã tác động mạnh mẽ tới suy nghĩ – hành động và tư
tưởng của Hồ Chí Minh.
Thiên chúa giáo là tôn giáo lớn của phương Tây, Hồ Chí Minh quan niệm
Tôn giáo là văn hoá. Điểm tích cực nhất của Thiên chúa giáo là lòng nhân ái. Hồ
Chí Minh tiếp thu có chọn lọc tư tưởng văn hoá Đông - Tây để phục vụ cho cách
mạng Việt Nam. Người dẫn lời của Lênin: “Chỉ có những người cách mạng chân
chính mới thu hái được những hiểu biết quý báu của các đời trước để lại.”
- Chủ nghĩa Mác- Lênin.
Vai trò của chủ nghĩa Mác-Lênin thể hiện:
+ Quyết định bản chất thế giới quan khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Quyết định phương pháp hành động biện chứng của Hồ Chí Minh.
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác-Lênin ở Việt Nam, là tư tưởng
Việt Nam thời Hiện đại.
Sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin ở Hồ Chí Minh nổi lên
một số điểm đáng chú ý:
Một là, khi ra đi tìm đường cứu nước Nguyễn Ái Quốc đã có một vốn học
vấn chắc chắn, một năng lực trí tuệ sắc sảo, Người đã phân tích, tổng kết các

7


Bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh – Bài giảng môn tư tưởng Hồ Chí Minh

phong trào yêu nước Việt Nam chống Pháp cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX;
Người tự hoàn thiện vốn văn hoá, vốn chính trị, vốn sống thực tiễn phong phú
nhờ đó Bác đã tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin như một lẽ tự nhiên “tất yếu khách
quan và hợp với quy luật”. Chủ nghĩa Mác-Lênin là bộ phận văn hoá đặc sắc
nhất của nhân loại: tinh tuý nhất, cách mạng nhất, triệt để nhất và khoa học nhất
Hai là, Nguyễn Ái Quốc đến với CNMLN là tìm con đường giải phóng
cho dân tộc. Người hồi tưởng lần đầu tiếp xúc với chủ nghĩa Lênin, “khi ấy ngồi
một mình trong phòng mà tôi nói to lên như đang đứng trước đông đảo quần
chúng: hỡi đồng bào bị đoạ đầy đau khổ, đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là
con đường giải phóng cho chúng ta.”
Ba là, Người vận dụng CNMLN theo phương pháp mác-xít và theo
tinh thần phương Đông, không sách vở, không kinh viện, không tìm kết luận
có sẵn mà tự tìm ra giải pháp riêng, cụ thể cho cách mạng Việt Nam. Chủ
nghĩa Mác-Lênin là cơ sở chủ yếu nhất hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
2. Nhân tố chủ quan
- Hồ Chí Minh có tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo, có óc phê phán tinh
tường và sáng suốt trong việc nghiên cứu, tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn trên
thế giới.
- Hồ Chí Minh có bản lĩnh kiên định, luôn tin vào nhân dân; khiêm tốn,
bình dị, ham học hỏi; nhạy bén với cái mới, có phương pháp biện chứng, có đầu
óc thực tiễn (chính người đã khám phá ra cách mạng thuộc địa trong thời đại
mới).
- Người không ngừng học tập nhằm chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức nhân loại,
là tâm hồn của một nhà yêu nước chân chính, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành
cách mạng, một trái tim yêu nước thương dân, sẵn sàng chịu đựng hi sinh vì độc

lập tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của đồng bào.
III. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

1. Thời kỳ trước năm 1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cứu
nước.
- Tiếp thu truyền thống của gia đình, quê hương, đất nước.
Hồ Chí Minh sinh ngày 19/5/1890 tại làng Hoàng Trù (còn gọi là làng
8


Bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh – Bài giảng môn tư tưởng Hồ Chí Minh

Trùa), thuộc xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, nay là xã Kim Liên, huyện Nam
Đàn, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình Nho học, có nề nếp gia phong mẫu mực,
giữ đạo hiếu và có truyền thống hiếu học, yêu thương đùm bọc…, Cụ Nguyễn
Sinh Sắc có tư tưởng yêu nước, thương dân, cuộc đời cụ Phó bảng có ảnh hưởng
sâu sắc đến việc hình thành nhân cách và tư tưởng Hồ Chí Minh sau này.
Quê hương Nghệ tĩnh, huyện Nam Đàn, làng Kim Liên có truyền thống
cách mạng đậm nét, giàu truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm. Quê hương
của Người có nhiều anh hùng nổi tiếng như Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng
Dung, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu…, đã thấm máu của các anh hùng liệt
sĩ chống Pháp như Vương Thúc Mậu, Nguyễn Sinh Quyến… Bản thân anh trai,
chị gái của Bác cũng tham gia chiến đấu dũng cảm. Từ thủa thiếu thời, Nguyễn
Tất Thành đã tận mắt chứng kiến cuộc sống nghèo khổ, bị áp bức bóc lột đến
cùng cực của đồng bào mình ngay trên quê hương. Khi vào Huế, Anh lại tận mắt
nhìn thấy tội ác của thực dân Pháp và thái độ ươn hèn của bọn phong kiến Nam
triều.
- Những bài học thành, bại rút ra từ các cuộc đấu tranh chống Pháp.
- Nung nấu ý chí yêu nước và quyết tâm ra đi tìm con đường cứu nước.
=> Như vậy, quê hương, gia đình, truyền thống dân tộc… đã chuẩn bị cho

Anh nhiều điều. Quê hương đất nước cũng đặt niềm tin lớn ở Anh trên bước
đường tìm đến trào lưu mới của thời đại.
2. Thời kỳ 1911 – 1920: Tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc
- Tới Pháp và các nước châu Âu, nơi sản sinh những tư tưởng tự do, bình
đẳng, bác ái. Kiên trì chịu đựng gian khổ, ra sức học tập và khảo sát thực tiễn.
Tham gia vào các tổ chức chính trị, xã hội tiến bộ.
Ngày 5 tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước
với ý định xem các nước làm cách mạng thế nào, để rồi trở về giúp đồng bào
mình thực hiện của cách mạng giải phóng dân tộc
Tháng 7 năm 1911 Người đến cảng Mác xây, Lơ Havơrơ ở Pháp; qua xem
xét, Người thấy nhiều phụ nữ còn sống trong cảnh nghèo khổ, Hồ Chí Minh nói
với bạn “ tại sao người Pháp không “khai hoá” đồng bào của họ trước khi đi
“khai hoá” chúng ta”.
9


Bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh – Bài giảng môn tư tưởng Hồ Chí Minh

Giữa tháng 12 năm 1912, Hồ Chí Minh tới Mỹ, Người dành một thời gian
để lao động kiếm sống, thời gian còn lại dành cho việc học tập, nghiên cứu cách
mạng tư sản Mỹ. Năm 1919 Hồ Chí Minh ra nhập đảng xã hội Pháp, tham gia
hoạt động cùng phong trào công nhân Pháp, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của
giai cấp công nhân và nhân dân lãnh đạo Pháp đối với cuộc đấu tranh yêu nước
của dân tộc Việt Nam.
Sau chiến tranh (1914-1918), các nước đồng minh thắng trận họp hội nghị
Vécxây tại Pari (18/6/1919). Nhiều đại biểu đại diện cho các dân tộc thuộc địa
đến Pari, trình bày nguyện vọng cho dân tộc mình, Hồ Chí Minh lúc đó với tên
gọi Nguyễn ái Quốc thay mặt cho các dân tộc Việt Nam gửi đến hội nghị và
chính phủ Pháp một bản yêu sách 8 điểm. Nội dung của bản yêu sách này là yêu
cầu các nước thắng trận thực hiện những cải cách mà họ đã từng hứa trong chiến

tranh. Nghĩa là đòi chính phủ Pháp thừa nhận quyền tự do dân chủ và bình đẳng
cho người Việt Nam. Bản yêu sách đó không được hội nghị quan tâm đến. Từ
thực tế này, Người rút ra kết luận quan trọng: Những lời tuyên bố “dân tộc tự
quyết” của bọn đế quốc chỉ là trò bịp bợp; các dân tộc bị áp bức muốn được độc
lập tự do thực sự phải trông cậy trước hết vào lực lượng của bản thân mình, phải
tự mình giải phóng cho mình.
- Bác tìm hiểu các cuộc cách mạng trên thế giới.
Trên con đường bôn ba khắp năm châu bốn biển, Hồ Chí Minh đã tìm tòi
xem xét tình hình nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm của các cuộc cách mạng
điển hình trên thế giới như cách mạng Mỹ năm 1776 và cách mạng Pháp 1789.
Hồ Chí Minh đã học tập được nhiều bài học quý về lực lượng cách mạng, về tổ
chức, về tinh thần, ý chí cách mạng và đặc biệt là bài học về con đường cách
mạng. Người vạch rõ: “ Cách mệnh Pháp cũng như cách mạng Mỹ... thì dân
chúng mới được hạnh phúc” Người còn rút ra một chân lý: “ Chủ nghĩa tư bản,
chủ nghĩa đế quốc, thực dân là cội nguồn của mọi đau khổ của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như các thuộc địa”.
Trong những ngày đang hoạt động sôi nổi (ở Pháp) lựa chọn con đường
cách mạng của Hồ Chí Minh, thì cuộc cách mạng tháng Mười Nga năm 1917
bùng nổ và thắng lợi, làm chấn động toàn cầu. Sự kiện lịch sử vĩ đại này mở đầu
cho thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới. Khẩu hiệu
đấu tranh vang dội của Lênin “Vô sản các dân tộc bị áp bức, tất cả các nước đoàn
10


Bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh – Bài giảng môn tư tưởng Hồ Chí Minh

kết lại” đã mở ra con đường, ánh sáng mới cho cách mạng giải phóng dân tộc ở
các nướ thuộc địa và phụ thuộc. Tại Pháp, Hồ Chí Minh đã hướng đến con
đường cách mạng tháng Mười, và chú tâm tìm hiểu tư tưởng đường lối của
cuộc cách mạng đó.

- Bác đến với chủ nghĩa Mác – Lênin và tán thành tham gia đệ tam quốc tế.
Tháng 7/1920 bản sơ thảo lần thứ nhất đề cương về vấn đề dân tộc và vấn
để thuộc địa của V.I.Lênin đến với Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở
luận cương những lời giải đáp đầy thuyết phục, cái cần thiết nhất cho Người và
cho cả đồng bào bị đoạ đầy đau khổ của Người là: Con đường tự giải phóng, con
đường giành độc lập cho Tổ quốc, tự do cho đồng bào.
Sau này, khi nói về cảm tưởng đọc luận cương của Lênin, Người viết: Luận
cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ tin tưởng biết bao!
Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng tối mà tôi nói to
lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đoạ đày đau khổ
đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”.
=> Như vậy, trải qua cuộc hành trình đầy gian khổ, qua nhiều đại dương và
lục địa, bằng trí tuệ sáng suốt và hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh
đã đi đến một sự lựa chọn đúng đắn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc
theo con đường cách mạng của Lênin. Người nói: “Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Từ
đây, Hồ Chí Minh đã dứt khoát đi theo con đường này.
Tại đại hội Đảng xã hội Pháp họp ở Tua ( Tours) năm 1920 Hồ Chí Minh
đứng về phía đa số của đại hội bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế cộng
sản và thành lập Đảng cộng sản Pháp. Sự kiện Hồ Chí Minh đã cùng những đại
biểu ưu tú của giai cấp công nhân Pháp sáng lập ra Đảng cộng sản Pháp đã đánh
dấu bước ngoặt quyết định trong đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh,
bước ngoặt từ: Chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản; từ một chiến sĩ
giải phóng dân tộc chưa có khuynh hướng rõ ràng thành một chiến sĩ giải phóng
dân tộc theo chủ nghĩa cộng sản.
3. Thời kỳ 1921 – 1930: Hình thành tư tưởng cơ bản về cách mạng Việt Nam
- Hồ Chí Minh tiếp tục hoạt động, tìm hiểu chủ nghĩa Mác- Lênin, kết hợp
nghiên cứu lý luận với xây dựng lý luận.
11



Bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh – Bài giảng môn tư tưởng Hồ Chí Minh

Từ năm 1921 đến tháng 6.1923 Hồ Chí Minh hoạt động tại Pháp. Tại đây,
Người đã cùng với một số nhà hoạt động cách mạng thuộc địa của Pháp như:
Angiêri, Marốc, Tuynidi... thành lập Hội liên hiệp thuộc địa (10.1921). Hội đã
cho xuất bản tờ báo Le Paria ( Người cùng khổ) do Hồ Chí Minh làm chủ nhiệm
kiêm chủ bút. Đồng thời, Người làm trưởng tiểu ban nghiên cứu vấn đề Đông
Dương trong ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng cộng sản Pháp, viết bài đăng
trên báo: Người cùng khổ, Nhân đạo (L’humanité) , Đời sống công nhân
(Lavieourière). Đặc biệt Người viết tác phẩm: Bản án chế độ thực dân Pháp xuất
bản lần đầu tiên ở Pari năm 1925.
Từ tháng 6.1923 đến cuối năm 1924, Hồ Chí Minh nghiên cứu và hoạt
động tại Liên Xô. Tại Liên Xô Người đã dự Hội nghị quốc tế nhân dân
(10.1923); dự Đại hội lần thứ V quốc tế cộng sản (1924). Người đã viết nhiều bài
đăng trên báo của Liên Xô, của Quốc tế chính sách. Đây là dịp Hồ Chí Minh đi
sâu nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm của cách mạng Nga, xây dựng lý luận về
cách mạng giải phóng dân tộc.
Tháng 12.1924, Hồ Chí Minh về Quảng Châu ( Trung Quốc) để trực tiếp
chuẩn bị thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. Tại đây, Người đã phối hợp với các
nhà cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên, ấn Độ, Thái Lan, Inđôxia... sáng lập
“Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở á Đông”, do ông Liêu Trọng Khải (TQ)
làm hội trưởng và người làm bí thư.
Giữa năm 1925 Người sáng lập ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên,
trong đó nhóm trung kiên là cộng sản đoàn, đồng thời sáng lập ra cơ quan tuyên
truyền của hội là tờ báo thanh niên, hội đã chọn nhiều thanh niên ưu tú, tổ chức
nhiều lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ cốt cán cho cách mạng, chuẩn bị các điều
kiện thành lập một chính Đảng của giai cấp công nhân.
Tác phẩm “ Đường cách mệnh” (XB năm 1927) là tập hợp các bài giảng
của Hồ Chí Minh tại các lớp huấn luyện chính trị đầu năm 1925 đến tháng

4.1927. Trong khoảng thời gian này có 200 học viên đã qua các lớp này. Cùng
với “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Đường cách mệnh” là văn kiện có tính
chất cương lĩnh của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam
những năm 20, vạch ra những hình thức và phương pháp tổ chức lực lượng cách
mạng, góp phần quan trọng vào việc chuẩn bị thành lập một chính đảng vô sản ở
Việt Nam.
12


Bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh – Bài giảng môn tư tưởng Hồ Chí Minh

- Hình thành hệ thống các quan điểm về cách mạng Việt Nam
Tháng 2/1930, Nguyễn Ái Quốc chủ trì hội nghị hợp nhất và thành lập
Đảng cộng sản Việt Nam. Người trực tiếp thảo văn kiện “Chánh cương vắn tắt,
sách lược vắn tắt của Đảng”. Ngày 3/2/1930, Hồ Chí Minh trở thành nhà tư
tưởng theo đúng nghĩa. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam được
hình thành cơ bản. Có thể tóm tắt nội dung chính của những quan điểm lớn, độc
đáo, sáng tạo của Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam như sau:
+ Bản chất của chủ nghĩa thực dân là “ăn cướp” và “giết người”.
+ Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải đi theo con đường
cách mạng vô sản.
+ Cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có quan hệ
khăng khít với nhau, nhưng không phụ thuộc vào nhau.
+ Cách mạng thuộc địa trước hết là một cuộc “dân tộc cách mạng”, đánh
đuổi đế quốc xâm lược, giành lại độc lập, tự do.
+ Giải phóng dân tộc là việc chung của cả dân chúng; phải tập hợp lực
lượng dân tộc thành một sức mạnh to lớn chống đế quốc và tay sai.
+ Phải đoàn kết và liên minh với các lực lượng cách mạng quốc tế.
+ Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân chứ không phải việc
của một vài người. Vì vậy, cần phải tập hợp, giác ngộ và từng bước tổ chức quần

chúng đấu tranh từ thấp đến cao.
+ Cách mạng trước hết phải có Đảng lãnh đạo, Đảng phải theo chủ nghĩa
Mác- Lênin.
4. Thời kỳ 1930 – 1945: Vượt qua thử thách, kiên trì giữ vững l‎ập trường
cách mạng
- Giữ vững lập trường quan điểm trước khuynh hướng “tả khuynh” của
Quốc tế cộng sản.
- Theo sát tình hình để chỉ đạo cách mạng trong nước.
Năm 1938, đồng chí Nguyễn ái Quốc từ Liên Xô về Trung Quốc trực tiếp chỉ
đạo cách mạng Đông Dương.

13


Bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh – Bài giảng môn tư tưởng Hồ Chí Minh

+ Về mục tiêu, khẩu hiệu đấu tranh, Người khẳng định: “lúc này, Đảng
không nên đưa ra những đòi hỏi quá cao… chỉ nên đòi các quyền dân chủ, tự do
tổ chức, tự do hội họp, tự do báo chí và tự do ngôn luận, đòi ân xá toàn thể chính
trị phạm”.
+ Về mặt trận: “ra sức tổ chức mặt trận dân tộc dân chủ rộng rãi. Mặt trận
ấy không chỉ có người Đông Dương mà bao gồm cả người Pháp tiến bộ …
+ Về Đảng: “Đảng không thể đòi hỏi mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo
của mình mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân
thật nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng thừa nhận
chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng thì Đảng mới giành được địa
vị lãnh đạo”.
+ Về mối quan hệ quốc tế: “Mặt trận dân chủ Đông Dương phải có liên hệ
chặt chẽ với Mặt trận nhân dân Pháp vì Mặt trận này cũng đấu tranh cho các
quyền tự do dân chủ và có thể giúp rất nhiều cho ta”.

Những tư tưởng chỉ đạo của Nguyễn ái Quốc cùng với những chủ trương
mới của Đảng có ý nghĩa quyết định đưa phong trào cách mạng phát triển mạnh
mẽ trong hầu hết mọi tầng lớp nhân dân trên các miền đất nước, ở mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội.
- Xây dựng và hoàn thiện chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc, xác
lập tư tưởng độc lập, tự do dẫn tới thắng lợi của Cách mạng tháng tám.
Hội nghị 8 diễn ra từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941 tại Pắc Pó, Hà Quảng,
Cao Bằng do đồng chí Nguyễn ái Quốc chủ trì. Tham gia Hội nghị có các đồng
chí: Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, cùng với một số đại biểu
các xứ uỷ Trung Kỳ, Bắc Kỳ và một số đại biểu hoạt động ở nước ngoài.
Hội nghị đã phân tích tình hình chiến tranh thế giới và dự đoán lần này,
cuộc chiến sẽ làm cho các nước đế quốc bị suy yếu, Liên Xô nhất định thắng và
phong trào cách mạng thế giới phát triển nhanh chóng, cách mạng nhiều nước sẽ
thành công và một loạt các nước xã hội chủ nghĩa sẽ ra đời.
Hội nghị nêu rõ ở nước ta mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải được giải quyết
cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc phát xít Pháp – Nhật vì
vậy nhiệm vụ đánh Pháp đuổi Nhật là nhiệm vụ chung của toàn thể nhân dân
Đông Dương. Cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại là một cuộc cách mạng dân
tộc giải phóng.
14


Bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh – Bài giảng môn tư tưởng Hồ Chí Minh

Hội nghị quyết định thành lập ở mỗi nước một mặt trận riêng: Việt Nam độc
lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh), Ai Lao độc lập đồng minh và Cao Miên độc
lập đồng minh. Trên cơ sở sự ra đời mặt trận ở mỗi nước, sẽ tiến tới thành lập
mặt trận chung của ba nước là Đông Dương độc lập đồng minh.
Hội nghị quyết định phải xúc tiến ngay công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ
trang, coi đây là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và của nhân dân ta trong giai

đoạn hiện tại
Hội nghị cử ra Ban chấp hành Trung ương lâm thời do Trường Chinh làm
Tổng bí thư
- Tư tưởng về các quyền dân tộc cơ bản (trong tuyên ngôn độc lập)
5. Thời kỳ 1945 – 1969: Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển, hoàn
thiện
Đây là thời kỳ mà Hồ Chí Minh cùng trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân
ta vừa tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp, vừa xây dựng chế độ dân chủ
nhân dân mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ; tiến hành cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Tư tưởng Hồ Chí
Minh có bước phát triển mới:
- Tư tưởng kết hợp kháng chiến với kiến quốc.
- Tư tưởng chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức
mình là chính.
- Tư tưởng tiến hành kháng chiến kết hợp với xây dựng chế độ dân chủ
nhân dân, tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau.
- Xây dựng quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước của dân, do
dân, vì dân.
- Tư tưởng về chiến lược con người.
- Xây dựng Đảng Cộng sản với tư cách là một Đảng cầm quyền.
- Về quan hệ quốc tế và đường lối đối ngoại…
15


Bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh – Bài giảng môn tư tưởng Hồ Chí Minh

III. GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường giải phóng và phát triển dân
tộc.

- Tài sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam.
Sở dĩ như vậy là vì tư tưởng của Người không chỉ tiếp thu, kế thừa những
giá trị, tinh hoa văn hóa, tư tưởng “vĩnh cửu” của loài người, trong đó chủ yếu là
chủ nghĩa Mác- Leenin, mà còn đáp ứng nhiều vấn đề của thời đại, của sự nghiệp
cách mạng Việt Nam và thế giới.
Tính sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện ở chỗ: Nó trung
thành với những nguyên lí phổ biến của chủ nghĩa Mác- Leenin, đồng thời khi
nghiên cứu, vận dụng những nguyên lý đó, Hồ Chí Minh đã mạnh dạn loại bỏ
những gì không phù hợp với điều kiện cụ thể cảu nước ta, dám đề xuất những
vấn đề mới do thực tiễn đặt ra và giải quyết một cách linh hoạt, khoa học, hiệu
quả. Về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Lý luận không phải là
một cái gì cứng nhắc, nó đầy đủ tính sáng tạo, lý luận luôn luôn cần được bổ
sung bằng những kết luận mới, rút ra từ trong thực tiễn sinh động”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được kiểm nghiệm trong quá khứ, với những
hoạt động cách mạng của Người. Ngày nay, tư tưởng đó, bao gồm một hệ thống
những quan điểm lý luận, tư tưởng về chiến lược, sách lược cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, về sự cải biến cách
mạng đối với thế giới, về đạo đức, phong cách, phương pháp Hồ Chí Minh, về
việc hiện thực hóa các tư tưởng ấy trong đời sống xã hội… đang soi sáng cho
chúng ta
- Nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của cách mạng Việt
Nam.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự phát triển thế giới.
- Phản ánh khát vọng của thời đại.
C.Mác khái quát “Mỗi thời đại xã hội đều cần có những con người vĩ đại
16


Bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh – Bài giảng môn tư tưởng Hồ Chí Minh


của nó và nếu không có những con người vĩ đại như thế thì thời dại sẽ sáng tạo
ra những con người như thế”.
Đúng như vậy, Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử vĩ đại, không chỉ là sản
phẩm của dân tộc, của giai cấp công nhân Việt Nam, mà còn là sản phẩm của
thời đại, của nhân loại tiến bộ
Ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX, cùng với quá trình hình thành về tư
tưởng Hồ Chí Minh, Người đã có những cống hiến xuất sắc về lý luận cách
mạng giải phóng dân tộc thuộc địa dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác- Lênin:
Giành độc lập dân tộc để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người cũng có
những nhận thức sâu sắc và độc đáo về mối quan hệ chặt chẽ giữa vấn đề dân tộc
và vấn đề giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách
mạng vô sản. Người chỉ rõ tầm quan trọng đặc biệt của độc lập dân tộc trong tiến
trình đi lên chủ nghĩa xã hội, về tính tự thận vận động của công cuộc đấu tranh
giải phóng của nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc, về mối quan hệ giữa
cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc và
về khả năng cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa nổ ra và thắng lợi trước
cách mạng vô sản chính quốc. Từ đó đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng
lý luận của chủ nghĩa Mác- leenin.
Việc xác định đúng đắn những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam
trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có cả các vấn đề về chủ nghĩa xã hội và
xây dựng chủ nghĩa xã hội, về hòa bình, hợp tác, hữu nghị giữa các dân tộc… có
giá trị to lớn về mặt lý luận và đang trở thành hiện thực của nhiều vấn đề quốc tế
ngày nay.
- Tìm ra các giải pháp đấu tranh giải phóng loài người.
Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn vấn đề “Làm cách nào để giải phóng
các dân tộc thuộc địa”; Người đã xác định chủ nghĩa đế quốc là kẻ thù lớn nhất
của các dân tộc bị áp bức, và để chiến thắng chủ nghĩa đế quốc, cần phải thực
hiện “đại đoàn kết”, “đại hòa hợp”. Đây là một đóng góp to lớn của Hồ Chí
Minh. Việc nắm chính xác xu thế phát triển của thời đại, Hồ Chí minh đã đề ra
đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp cách mạng đúng đắn cho sự

nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam. Rồi chính từ kinh nghiệm của
17


Bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh – Bài giảng môn tư tưởng Hồ Chí Minh

cách mạng Việt Nam, Người đi đến khẳng định: “… trong thời đại đế quốc chủ
nghĩa, ở một nước thuộc địa nhỏ, với sự lãnh đạo của giai cấp vô sản và đảng của
nó, dựa vào quần chúng nhân dân rộng rãi trước hết là nông dân và đoàn kết
được mọi tầng lớp nhân dân yêu nước trong mặt trận thống nhất, với sự đồng
tình ủng hộ của phong trào cách mạng thế giới, trước hết là của phe xã hội chủ
nghĩa hùng mạnh, nhân dân nước đó nhất định thắng lợi”.
Những tư tưởng trên đây của Hồ Chí Minh đã, đang và sẽ mãi mãi là chấn
lý sáng ngời, góp phần vào sự kiến tạo và phát triển của nhân loại. Đó là một sự
thật của lịch sử.
- Cổ vũ các dân tộc đấu tranh vì mục tiêu cao cả.
Hồ Chí Minh đã làm sống lại những giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam.
Sự nghiệp cứu nước của Người đã xóa bỏ tất cả những tủi nhục của gần một thế
kỷ nô lệ đè nặng trên đầu dân tộc ta.
Trong lòng nhần dân thế giới, Hồ Chí Minh là bất diệt. Bạn bè năm châu
khâm phục và coi Hồ Chí Minh là “lãnh tụ thế giới thú ba”. Bu-mê-điên, Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng nước cộng hòa Angiêri: “Cuộc chiến đấu của Người là
kim chỉ nam cho tất cả các cuộc đấu tranh, cho thanh niên và cho các nhà lãnh
đạo trên toàn thế giới”. Chủ tịch Ban lãnh đạo phong trào nhân dân giải phóng
Ăng-gô-la, Agô-xti-nhô-nê-nô: “cuộc đời chủ tịch Hồ Chí Minh là nguồn cổ vũ
đối với tất cả các chiến sĩ đấu tranh cho tự do”. Tổng thống nước cộng hòa thống
nhất Tan-da-ni-a, Gu-li-út Ni-ê-rê-rê: “tư tưởng chỉ đạo của Người vẫn mãi mãi
soi sáng cuộc đấu tranh cho tới khi tất cả bọn xâm lược và bọn bị áp bức bị đánh
bại hoàn toàn”; Ủy ban toàn quốc Đảng cộng sản Mỹ “Tên tuối của đồng chí Hồ
Chí Minh sẽ mãi mãi gắn bó với những hành động cao cả và những ước mơ cáo

quý nhất cảu nhân loại”; Tổng bí thư Đảng cộng sản U-ru-goay, R.A-rix-men:
“Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày nay là ngôi sao trên bầu trời của cách mạng xã hội
chủ nghĩa, của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc, đang chỉ đường cho chúng ta
bằng ánh sáng của chủ nghĩa Mác- Lênin. Trong sự nghiệp của chúng ta, nhất
định Người sẽ sống mãi”.

18


Bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh – Bài giảng môn tư tưởng Hồ Chí Minh

Chương II
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
VÀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC

1. Vấn đề dân tộc thuộc địa
a. Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa
- Đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc
Nếu như Mác bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, Lênin
bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thì Hồ Chí Minh tập trung
bàn về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Mác và Lênin bàn nhiều về đấu
tranh giai cấp ở các nước tư bản chủ nghĩa, thì Hồ Chí Minh bàn nhiều về đấu
tranh giải phóng dân tộc ở thuộc địa.
Vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề đấu tranh giải phóng dân tộc
thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành độc lập dân tộc, xoá
bỏ ách áp bức, bóc lột thực dân, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập nhà
nước dân tộc độc lập.
- Lựa chọn con đường phát triển của dân tộc.
Để giải phóng dân tộc, cần xác định một con đường phát triển của dân tộc,

vì phương hướng phát triển dân tộc quy định những yêu cầu và nội dung trước
mắt của cuộc đấu tranh giành độc lập. Mỗi phương hướng phát triển gắn liền với
một hệ tư tưởng và một giai cấp nhất định.
Từ thực tiễn phong trào cứu nước của ông cha và lịch sử nhân loại, Hồ Chí
Minh khẳng định phương hướng phát triển của dân tộc trong bối cảnh thời đại
mới là chủ nghĩa xã hội.
Hoạch định con đường phát triển riêng của dân tộc thuộc địa là một vấn đề
hết sức mới mẻ. Từ một nước thuộc địa đi lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua
nhiều giai đoạn chiến lược khác nhau. Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh viết: “Làm tư sản dân quyền cách mạng
và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Con đường đó kết hợp trong cả
nội dung dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; xét về thực chất chính là con
19


Bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh – Bài giảng môn tư tưởng Hồ Chí Minh

đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
b. Độc lập tự do, nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa.
- Hồ Chí Minh tiếp cận vấn đề này từ quyền con người.
Hồ Chí Minh hết sức trân trọng quyền con người. Người đã tìm hiểu và
tiếp nhận những nhân tố về quyền con người được nêu trong tuyên ngôn độc lập
Mỹ và tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền Pháp như: quyền bình đẳng, quyền
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Người khẳng định “đó là
những lẽ phải không ai chối cãi được”.
Nhưng từ quyền con người, Hồ Chí Minh đã khái quát và nâng cao thành
quyền dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc
nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
- Từ cách tiếp cận đó Hồ Chí Minh khẳng định, độc lập tự do là khát vọng
lớn nhất của các dân tộc thuộc địa. Người nói: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập

cho tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn; đấy là tất cả những điều tôi
hiểu”
- Nền độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn của một dân tộc, theo Hồ Chí
Minh, phải được thể hiện đầy đủ ở những nội dung chủ yếu sau:
+ Độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn về tất cả các mặt: chính trị, kinh tế,
an ninh, toàn vẹn lãnh thổ; đối nội và đối ngoại; trong đó, trước hết và quan
trọng nhát là độc lập về chính trị.
+ Mọi vấn đề thuộc chủ quyền quốc gia phải do chính nhân dân của dân
tộc đó tự quyết định, không có sự can thiệp của nước ngoài.
+ Độc lập thực sự, hoàn toàn của một dân tộc, theo Hồ Chí Minh, còn phải
được thể hiện ở ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh nền độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn của
dân tộc Việt Nam là nền độc lập phải được thực hiện một cách triệt để theo
nguyên tắc: nước Việt Nam của người Việt Nam; mọi vấn đề thuộc chủ quyền
quốc gia của Việt Nam phải do nhân dân Việt Nam tự quyết định, không có sự
can thiệp của nước ngoài; mọi sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ Việt Nam đấu
tranh cho độc lập, tự do, xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc đều được nhân
dân Việt Nam hoan nghênh, ghi nhớ.
20


Bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh – Bài giảng môn tư tưởng Hồ Chí Minh

c. Chủ nghĩa yêu nước chân chính – Một động lực lớn của đất nước
Theo Hồ Chí Minh, chính do tinh thần yêu nước mà quân đội và nhân dân
ta đã mấy năm trường chịu đựng trăm đắng nghìn cay, kiên quyết đánh cho tan
bọn thực dân cướp nước và bọn Việt gian phản quốc, kiên quyết xây dựng một
nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, tự do, phú cường, một nước Việt
Nam dân chủ mới. Trong tư tưởng, Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước chân chính
là một bộ phận của tinh thần quốc tế, khác hẳn với tinh thần “vị quốc” của bọn

đế quốc phản động.
2. Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
a. Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Vấn đề dân tộc bao giờ cũng được nhận thức và giải quyết theo lập trường
của một giai cấp nhất định. Theo quan điểm của CNMLN, chỉ trên lập trường
của giai cấp vô sản, cách mạng vô sản mới giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc.
Trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản, Mác-Ăngghen đã đề cập mối quan hệ dân tộc
và giai cấp: cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nhằm lật đổ ách thống trị của giai
cấp tư sản, ở giai đoạn đầu của nó là mang tính chất dân tộc. Mác kêu gọi “giai
cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên
thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành giai cấp dân tộc,... không phải theo
cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu”. Cũng theo Mác –Ăngghen, chỉ có giai cấp vô
sản mới thống nhất được lợi ích dân tộc- lợi ích của mình với các lợi ích của
nhân dân lao động và của cả dân tộc. Chỉ có xoá bỏ áp bức, bóc lột giai cấp thì
mới xoá bỏ áp bức dân tộc, đem lại độc lập thật sự cho dân tộc mình và cho dân
tộc khác. Tuy nhiên, Mác và Ăngghen không đi sâu nghiên cứu vấn đề dân tộc
vì ở Tây Âu vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong cách mạng tư sản, đối với
Mác, vấn đề dân tộc chỉ là thứ yếu so với vấn đề giai cấp.
Thời đại Lênin, khi CNĐQ đã trở thành một hệ thống thế giới, cách mạng
giải phóng dân tộc trở thành bộ phận của cách mạng vô sản, Lênin mới phát triển
vấn đề dân tộc thành học thuyết về cách mạng thuộc địa. Lênin cho rằng, cách
mạng vô sản ở chính quốc không thể giành thắng lợi nếu không liên minh với
cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa. Khẩu hiệu của Mác được
bổ sung: “vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại.” Lênin đã
thực sự “đặt tiền đề cho một thời đại mới, thật sự cách mạng trong các nước
thuộc địa.”
21


Bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh – Bài giảng môn tư tưởng Hồ Chí Minh


Hồ Chí Minh, từ chủ nghĩa yêu nước đến với CNMLN, đã nhận thức được
mối quan hệ chặt chẽ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, lựa chọn cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường
cách mạng vô sản. Hồ Chí Minh nêu, các nước thuộc địa phương Đông không
phải làm ngay cách mạng vô sản, mà trước hết giành độc lập dân tộc. Có độc lập
dân tộc rồi mới bàn đến cách mạng XHCN. Từ thực tiễn của đấu tranh cách
mạng, Nguyễn Ái Quốc đã phê phán quan điểm của các đảng cộng sản Tây Âu
không đánh giá đúng vai trò, vị trí, tương lai của cách mạng thuộc địa, và
Nguyễn Ái Quốc đi đến luận điểm: “Các dân tộc thuộc địa phải dựa vào sức
mình là chính, đồng thời biết tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của giai cấp vô sản và
nhân dân lao động thế giới để phải đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, từ cách
mạng giải phóng dân tộc tiến lên làm cách mạng XHCN.”
Sự kết hợp nhuần nhuyễn vần đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí
Minh thể hiện:
- Khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và quyền lãnh đạo duy
nhất của Đảng cộng sản trong quá trình cách mạng Việt Nam.
- Chủ trương đại đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công
nhân, nông dân và trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để chống lại bạo lực phản
cách mạng của kẻ thù.
- Thiết lập chính quyền nhà nước của dân, do dân và vì dân.
- Gắn kết mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
b. Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết, độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội.
- Hai mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội phải kết hợp chặt chẽ
với nhau suốt tiến trình của cách mạng Việt Nam
Mục tiêu trực tiếp của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là giành được
độc lập dân tộc, đồng thời cũng chuẩn bị tiền đề cho giai đoạn cách mạng tiếp
theo là cách mạng xã hội chủ nghĩa. Không giành được độc lập dân tộc, không

chuẩn bị được những tiền đề cần thiết thì không thể tiến hành được cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
22


Bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh – Bài giảng môn tư tưởng Hồ Chí Minh

Nhưng giành được độc lập mới chỉ là bước đầu của việc thực hiện mục
tiêu độc lập dân tộc. Còn phải củng cố và bảo vệ nền độc lập dân tộc mới giành
được. Vì vậy khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, một mặt, chúng
ta phải xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; mặt
khác, phải làm thất bại mọi âm mưu phá hoại, lật đổ của các thế lực thù địch.
Càng thắng lợi trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, chúng ta càng
có điều kiện bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.
- Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội còn kết hợp ngay trong cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân và trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Giữa hai giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa không có bức tường thành ngăn cách. Cuối giai đoạn
trước đã có thể tiến hành một số nhiệm vụ của giai đoạn sau; khi bước vào giai
đoạn sau vẫn có thể phải hoàn thành nốt một số nhiệm vụ còn lại của giai đoạn
trước.
Sự kết hợp chặt chẽ độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội còn thể hiện ở
nhiều nhiệm vụ quan trọng khác, như vấn đề thực hiện dân chủ, xây dựng nhà
nước của dân, do dân, vì dân, vấn đề không ngừng cải thiện và nâng cao đời
sống của nhân dân v.v.. Đó là những vấn đề chung của cả mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội. Những vấn đề đó đã đặt ra và thực hiện một phần ở giai
đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, chúng càng được mở rộng, nâng cao
hơn trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.
c. Giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp.
Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp, nhưng

đồng thời đặt vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc. Giải phóng dân tộc khỏi ách
thống trị của chủ nghĩa thực dân là điều kiện để giải phóng giai cấp.
Vì thế, lợi ích của giai cấp phải phục tùng lợi ích của dân tộc. Tháng
5/1941, Người cùng Trung ương Đảng khẳng định: “Trong lúc này quyền lợi của
bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia dân tộc.
Trong lúc này không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được
độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc
còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn
năm cũng không đòi lại được”
23


Bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh – Bài giảng môn tư tưởng Hồ Chí Minh

d. Giữ vững độc lập cho dân tộc mình, đồng thời tôn trọng độc lập của các
dân tộc khác
- Về chính sách đối ngoại của Nhà nước Việt Nam độc lập theo Hồ Chí
Minh: “làm bạn với mọi nước dân chủ và không gây thù oán vói một ai”, theo
nguyên tắc:
+ Việt Nam không can thiệp vào công việc nội bộ của các dân tộc khác,
đồng thời “kiên quyết chống hết thảy” những âm mưu, hành động “xâm phạm đến
quyền tự do độc lập” của dân tộc Việt Nam.
+ Việt Nam thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết quốc tế mà mình đã ký kết,
đồng thời yêu cầu các nước trên thế giới tôn trọng và có trách nhiệm thực hiện
trung thực các cam kết đã ký với Việt Nam.
+ Mọi tranh chấp giữa Việt Nam và các dân tộc khác, cũng như mọi vấn đề
quốc tế, cần được giải quyết bằng thương lượng hòa bình.
- Đối với các nước có thế lực xâm lược Việt Nam như Pháp, Mỹ, Hồ Chí
Minh luôn chủ động, tích cực tìm mọi giải pháp ngăn chặn chiến tranh xẩy ra; vì
theo người, chiến tranh sẽ gây thiệt hại cho cả hai dân tộc.

Khi nhân dân Việt Nam buộc phải tiến hành kháng chiến để bảo vệ độc lập,
chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ của mình và để bảo vệ hòa bình thế giới,
Hồ Chí Minh tuyên bố dân tộc Việt Nam không thù oán, không chống dân tộc có
các thế lực đang gây chiến ở Việt Nam, đồng thời Người luôn tìm kiếm giải pháp
kết thúc chiến tranh có lợi cho cả hai dân tộc. Ngoài giải pháp đình chiến, đàm
phán, Hồ Chí Minh còn chỉ cho bọn xâm lược cách rút khỏi Việt Nam để tránh bị
tiêu diệt và để bảo vệ danh dự của dân tộc họ trước dư luận quốc tế
Trong kháng chiến, Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh rằng nhân dân Việt
Nam luôn tôn trọng nhân dân Pháp, nhân dân Mỹ, muốn quan hệ thân thiện với
hai nước này, Việt Nam sẽ hợp tác cùng có lợi với những người Pháp, những
người Mỹ muốn làm ăn ở Việt Nam trên cơ sở họ tôn trọng độc lập, chủ quyền
quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc Việt Nam.
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC

1. Tính chất, nhiệm vụ và mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc.
* Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng ở thuộc địa
- Nếu như mâu thuẫn chủ yếu ở các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây là
24


Bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh – Bài giảng môn tư tưởng Hồ Chí Minh

mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, thì mâu thuẫn chủ yếu trong
xã hội thuộc địa phương Đông là mâu thuẫn giữa dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa
thực dân.
Hồ Chí Minh cho rằng sự phân hóa giai cấp ở các nước thuộc địa phương
Đông không giống như ở các nước tư bản phương Tây. Các giai cấp ở thuộc địa
có sự khác nhau ít nhiều, nhưng đều chung một số phận mất nước, giữa họ vẫn
có sự tương đồng lớn: dù là địa chủ hay nông dân, họ đều chịu chung số phận là
người nô lệ mất nước. Người đã phân tích: xã hội Đông Dương, Ấn Độ hay

Trung Quốc, xét “về mặt cấu trúc kinh tế, không giống các xã hội phương Tây
thời Trung cổ, cũng như thời cận đại và đấu tranh giai cấp ở đó không quyết liệt
như ở đây”. Do mâu thuẫn chủ yếu khác nhau, tính chất cuộc đấu tranh cách
mạng ở các nước tư bản chủ nghĩa và các nước thuộc địa cũng khác nhau. Nếu
như ở các nước tư bản chủ nghĩa phải tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp, thì ở các
nước thuộc địa trước hết lại phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
- Đối tượng của cách mạng ở thuộc địa không phải là giai cấp tư sản bản
xứ, cũng không phải là giai cấp địa chủ nói chung, mà là chủ nghĩa thực dân và
tay sai phản động.
Cách mạng xã hội là lật đổ nền thống trị hiện có và thiết lập một chế độ xã
hội mới. Cách mạng ở thuộc địa trước hết phải “lật đổ ách thống trị của chủ
nghĩa đế quốc”, chứ chưa phải là cuộc cách mạng xóa bỏ sự tư hữu, sự bóc lột
nói chung. Hồ Chí Minh luôn phân biệt rõ bọn thực dân xâm lược với nhân dân
các nước tư bản chủ nghĩa. Người kêu gọi nhân dân các nước phản đối chiến
tranh xâm lược thuộc địa, ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân
dân Việt Nam.
- Yêu cầu bức thiết của nhân dân các nước thuộc địa là độc lập dân tộc.
Ở các nước thuộc địa, nông dân là lực lượng đông đảo nhất, chiếm hơn
90% trong lực lượng toàn dân tộc. Thực dân Pháp thống trị và bóc lột nhân dân
Việt Nam, thì chủ yếu là thống trị và bóc lột nông dân. Nông dân là nạn nhân
chính của các chính sách khai thác thuộc địa, bóc lột tô thuế và cướp đoạt ruộng
đất. Vì thế, kẻ thù số một của nông dân là bọn đế quốc thực dân. Họ có hai yêu
cầu: độc lập dân tộc và ruộng đất, nhưng họ luôn đặt yêu cầu độc lập dân tộc cao
hơn so với yêu cầu ruộng đất. Cùng với nông dân, tất cả các giai cấp và tầng lớp
khác nhau đều có nguyện vong chung là “cứu giống nòi” ra khỏi cảnh “nước sôi
25


×