Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Thiêt kế bảng hỏi trong nghiên cứu khoa học giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.38 KB, 16 trang )

THI Ế
T K ẾB Ả
NG H Ỏ
I TRONG NGHIÊN C Ứ
U KHOA H Ọ
C GIÁO D Ụ
C
Đào Thị Oanh - Viện Nghiên cứu Sư phạm

1.Đặt vấn đề
Trong lĩnh vực khoa học giáo dục (KHGD) , các phương pháp sử
dụng tùy thuộc vào loại hình nghiên cứu tương ứng được triển
khai. Có hai nhóm phương pháp nghiên cứu cụ thể gồm: Nhóm
phương pháp nghiên cứu định lượng và nhóm phương pháp nghiên
cứu định tính. Tương ứng với chúng là hai loại hình nghiên cứu:
Định lượng và định tính. Trong KHGD các vấn đề định tính là chủ
yếu. Tuy nhiên, những vấn đề có thể định lượng được sẽ giúp cho
việc định tính trở nên cụ thể, chính xác hơn vì có thể làm rõ được
tính điển hình của hiện tượng nghiên cứu. Trong giáo dục có những
đặc điểm nghiên cứu chỉ có thể định lượng được một cách quy ước
và còn nhiều đặc điểm nghiên cứu chưa thể định lượng được.
Song, nếu muốn rút ra ứng dụng thực tiễn lớn hơn thì cần cố gắng
để định lượng. Tuy vậy, để lượng hóa một cái gì đó, các nhà
nghiên cứu thường phải đương đầu với không ít khó khăn. Nghiên
cứu KHGD có những đặc điểm chung của nghiên cứu khoa học với
tư cách là một hoạt động sáng tạo, đề xuất ra những cái mới và
hướng tới phát hiện chân lí, vì vậy có những yêu cầu chặt chẽ đối
với người nghiên cứu. Đó là yêu cầu về tính khách quan, chính xác
trong nghiên cứu, thể hiện ở sự trung thànhvới hiện thực khách
quan trong khi phát hiện được cái mới mà không sửa chữa thêm
bớt nó theo ý muốn chủ quan của người nghiên cứu hoặc của một


ai khác. Đối tượng nghiên cứu của KHGD là các hiện tượng, các
quá trình rất phức tạp, luôn luôn biến động do ảnh hưởng của rất
nhiều nhân tố khách quan và chủ quan, do đó sẽ có hàng loạt yếu
1


tố cần được kiểm soát trong quá trình triển khai nghiên cứu. Yêu
cầu khách quan, chính xác trước hết đòi hỏi việc lựa chọn phương
pháp, biện pháp, công cụ, kĩ thuật nghiên cứu sao chocàng ít phải
chịu ảnh hưởng từ chủ quan của người nghiên cứu hoặccủa những
người trung gian thì càng tốt, càng đáng tin cậy. Điều này liên
quan trước hết đến khái niệm đo lường.
2. Đo lường
Đo lường trong KHGD là sử dụng những thủ pháp hay kĩ thuật
nghiên cứunhằm lượng hóa sự vật, hiện tượng cần đánh giá (ví
dụ, đo lường sự hiểu biết, kĩ năng, cấu trúc, thuộc tính, phẩm
chất…). Đo lường có thể là định tính/đo lường chất lượng (“phạm
trù hóa” thuộc tính, hiện tượng theo bản chất/tiêu chí), hoặc định
lượng/đo lường số lượng (sử dụng các con số để lượng hóa các
thuộc tính, hiện tượng giáo dục).
Trong nghiên cứu định lượng, để có thể sử dụng công cụ toán
học nhằm xử lí số liệu thu được, trước hết phải giải quyết đúng
đắn vấn đề cơ bản về đo lường hay lượng hóa các đặc trưng của
các đối tượng nghiên cứu. Việc đánh giá định lượng liên quan chặt
chẽ với khái niệm “Đo lường”. Đó là phép so sánh một đại lượng
nào đó với một vật chuẩn đã biết, và kết quả là đưa ra các con số
để đánh giá. Như vậy, “Đo lường” là gán cho các đối tượng và các
thuộc tính cần đo của nó những con số theo những nguyên tắc xác
định. Những nguyên tắc này quy định sự phù hợp giữa một số đặc
điểm của các con số với một số đặc điểm cần đo của đối tượng.

Tùy theo mức độ mà sự phù hợp được xác định, có thể có các phép
đo lường sau đây ứng với các loại thang đo.
* Thang đo định danh (Nominal Scale) là một kiểu đánh giá
sự vật hiện tượng hay đặc tính theo tên gọi hay danh hiệu/nhãn
hiệu/phạm trù. Ví dụ, khi muốn phân loại con người theo giới tính
2


(nam, nữ), theo học lực (kém, yếu, trung bình, khá, giỏi), theo
nhóm tuổi (mẫu giáo, tiểu học, THCS, THPT…) hoặc khi muốn
phân loại đồ vật theo mầu sắc (đỏ, xanh, tím…) thì người ta sử
dụng thang định danh.
- Phép đo định danh (Nominal - hay định loại) là tách ra một
dấu hiệu nào đó của đặc điểm được nghiên cứu và đánh dấu mỗi
khi gặp dấu hiệu ấy (trong quan sát hoặc trong thực nghiệm).
Tổng hợp (đếm) các số ghi được sẽ có một biểu hiện đặc trưng của
đối tượng hay hiện tượng nghiên cứu (ví dụ, có thể đánh giá khả
năng viết đúng các từ của học sinh bằng cách ghi số lỗi mà học
sinh mắc phải trong một bài chính tả). Phép đo định danh là phép
đo có tính khái quát, không nhằm cung cấp những thông tin chính
xác về sự khác biệt cá nhân, mà chỉ nhằm đánh giá sự có mặt hay
vắng mặt của sự vật hiện tượng hoặc bản chất của thuộc tính. Các
con số trong thang định danh chỉ đơn thuần là con số mã hóa biểu
thị phạm trù (ví dụ, nam = 1, nữ = 2 hay thành thị = 1, nông thôn
= 2), không nói lên thứ bậc, mức độ, khối lượng của thuộc tính cần
đánh giá. Các biến giới tính, dân tộc, khu vực, thành phần,…là các
phép đo định danh.
* Thang định hạng (Ordinal Scale) là một kiểu đánh giá phân
loại sự vật, hiện tượng, thuộc tính theo thứ bậc, trật tự. Ví dụ, khi
muốn phân loại năng lực học tập của một nhóm học sinh theo thứ

hạng (xếp loại điểm tổng kết môn học từ cao nhất đến thấp nhât)
hoặc muốn phân loại đồ vật theo trọng lượng, kích cỡ (từ nặng
nhất/to nhất đến nhẹ nhất/bé nhất) thì sử dụng thang định hạng.
Thang định hạng là phép đo có tính khái quát, không nhằm cung
cấp thông tin chính xác về mức độ khác biệt giữa các cá nhân, chỉ
nhằm chỉ ra vị trí của từng cá nhân trong mối tương quan với các
cá nhân khác, hoặc vị trí của một sự vật, hiện tượng trong mối
3


tương quan thứ bậc với các sự vật, hiện tượng khác. Các con số
trong phép đo định hạng đơn thuần biểu thị thứ hạng theo một
kiểu sắp xếp nào đó (ví dụ, từ HS có điểm tổng kết môn Văn cao
nhất đến HS có điểm thấp nhất). Các con số đó không nói lên mức
độ khác biệt, chất lượng cụ thể của thuộc tính cần đánh giá (ví dụ,
khi tuyển sinh).
- Phép đo định hạng (Ordinal) là xếp các hiện tượng, các đối
tượng của đặc điểm được nghiên cứu thành một dãy theo thứ tự
giảm dần hoặc tăng dần, và sau đó gán cho mỗi đối tượng một
con số, mà con số đó chỉ rõ vị trí của đối tượng trong dãy số đó.
Con số này được gọi là hạng của đối tượng (ví dụ, xếp hạng của
học sinh một lớp – “nhất”, “nhì”, “ba”…dựa theo kết quả học tập
về một môn học).
* Thang định khoảng (Interval Scale) là một kiểu đánh giá phân
loại sự vật, hiện tượng, thuộc tính theo những đơn vị phân loại
bằng nhau ở bất kì khoảng nào trên thang đo (thước mét). Sự khác
nhau theo những khoảng cách bằng nhau trên thang đo là ngầm
chỉ sự khác nhau ở những đặc điểm hay thuộc tính được đo (ví dụ,
điểm số ở môn Toán của học sinh A và học sinh B là 8đ và 6đ được
ngầm hiểu là năng lực Toán của học sinh A hơn học sinh B một

khoảng tương đương 2 điểm). Hiện nay, hầu hết các thang đo
hành vi, tâm lí hay giáo dục được xem như thang đo khoảng mặc
dù vẫn có những tranh luận cho rằng cần xếp chúng vào thang đo
định hạng.
- Phép đo định khoảng (Interval – đo chính xác) là so sánh đặc
điểm nghiên cứu với các đơn vị đo lường chuẩn. Ví dụ, sự khác biệt
giữa người cao 160cm-170cm và người cao 155cm-165cm đều ở
cùng một khoảng như nhau là 10cm…

4


* Thang định tỉ lệ (Ratio Scale) là một thang đo khoảng nhưng
có điểm 0 tuyệt đối. Một điểm 0 thực sự chỉ ra rằng tại đó thiếu
vắng đặc tính được đo (ví dụ, đồng hồ chỉ vận tốc). Sự có mặt của
điểm 0 giúp thiết lập được tỉ lệ giữa các điểm số thu được, ví dụ,
có thể xác định chính xác vận tốc 10km/h là lớn gấp 2 lần 5km/h.
Thang tỉ lệ ít khi được dùng trong các thang đo hành vi hay trong
các phép đo tâm thần vì không thể xác định được điểm 0 thực sự
cho hầu hết các đặc tính tâm lí. Nếu một người có điểm 0 ở một
trắc nghiệm trí tuệ nào đó thì nên hiểu rằng người đó đạt điểm 0 ở
trắc nghiệm đó chứ không phải đặc tính được đo bằng 0 điểm. Đó
là điểm 0 tự đặt ra, võ đoán. Ứng với thang tỉ lệ là phép đo tỉ lệ.
- Phép đo định tỉ lệ (tỉ số). Phép đo tỉ lệ ít được dùng trong
nghiên cứu KHGD.
3.Nguyên tắc thiết kế công cụ đo lường trong nghiên cứu
khoa học giáo dục
Dù với bất cứ công cụ đo lường nào, đơn giản hay phức tạp,
đều phải tuân thủ một số nguyên tắc chung. Một công cụ đo lường
tốt phải được thiết kế một cách khoa học, theo đúng quy trình và

các nguyên tắc thiết kế, đồng thời phải được đánh giá qua thực tế,
kiểm nghiệm bằng thống kê toán học để khẳng định tính khách
quan, chính xác, lợi ích của nó. Các nguyên tắc đó là:
- Xác định rõ mục đích đo lường của công cụ (Đo cái gì?);
- Xác định rõ đối tượng trả lời/cung cấp thông tin (Dành cho ai?
Là cá nhân hay nhóm?);
- Xác định rõ nội dung đo lường và định chuẩn cho từng nội
dung cụ thể (Miền đo nào?);
- Xác định kiểu cho điểm;
- Chuẩn hóa thủ tục hướng dẫn.
5


4. Quy trình chung trong thiết kế công cụ đo lường đối với
nghiên cứu khoa học giáo dục
Trong mỗi công trình nghiên cứu về khoa học giáo dục thường có
các giai đoạn triển khai cụ thể dưới đây:
Giai đoạn 1: Xác định ý tưởng nghiên cứu
Giai đoạn 2: Xác định tên đề tài nghiên cứu
Giai đoạn 3: Xây dựng đề cương nghiên cứu
Giai đoạn 4: Xây dựng công cụ nghiên cứu
Giai đoạn 5: Thử công cụ nghiên cứu
Giai đoạn 6: Thu thập số liệu
Giai đoạn 7: Làm sạch, xử lí và phân tích số liệu
Giai đoạn 8: Viết báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu
Việc thiết kế công cụ đo lường bao gồm các giai đoạn 4 và 5.
Người nghiên cứu cần có công cụ tốt trước khi đi thu thập số liệu
và công cụ đó phải giúp họ thu được thông tin để trả lời cho câu
hỏi nghiên cứu đặt ra. Vì thế, đây là bước rất quan trọng bởi nếu
không có công cụ tốt thì việc thu thập và phân tích số liệu sẽ trở

thành vô ích.
Trong thiết kế công cụ đo lường cần thực hiện nghiêm túc các
bước sau:
a/ Xác định khái niệm (Khái niệm hóa) là quá trình cụ thể hóa
những khái niệm trừu tượng (liên quan đến câu hỏi nghiên cứu hay
mục tiêu nghiên cứu) thành các khái niệm định danh, có nội dung,
phạm vi nghiên cứu cụ thể. Có 3 kiểu định nghĩa khái niệm: Định
nghĩa “thực” (khái quát bản chất), định nghĩa “định danh” (định
nghĩa “để làm việc”), định nghĩa “thao tác” (mô tả).
b/Thao tác hóa khái niệm là sự mở rộng, cụ thể hóa hơn nữa
quá trình khái niệm hóa. Đó thực chất là quá trình phát triển
6


những thủ tục nghiên cứu cụ thể, chuyển những khái niệm đã
được định nghĩa thành những cấu trúc với những tiêu chí, hoạt
động cụ thể để có thể đo lường được như sau:
- Xác định các biến cần tìm. Định nghĩa các biến đó;
- Xác định rõ các miền đo, các cấu trúc đo lường cụ thể;
- Xác định những cấu trúc trọng tâm;
- Xác định các tiêu chí, chỉ số, chỉ báo;
- Xác định những biểu hiện cụ thể của các chỉ số;
- Phác thảo các item (câu hỏi, nhận định, tình huống…).
c/ Hiệu lực hóa item, cụ thể như sau:
- Đánh giá bản chất, nội dung từng item;
- Đánh giá hình thức item;
- Đánh giá độ phù hợp của item;
- Đánh giá số lượng item phù hợp.
4. Thiết kế bảng hỏi - công cụ phổ biến nhất để thu thập số
liệu cho nghiên cứu định lượng trong khoa học giáo dục

Bảng hỏi là một công cụ đo lường bao gồm một loạt các câu hỏi
khách quan (item) hoặc chủ quan (câu hỏi mở), như: Câu hỏi dạng
đúng/sai;Câu hỏi nhiều lựa chọn;Câu hỏi điền thế;Câu hỏi trả lời
ngắn;Câu hỏi đánh giá thứ bậc;Câu hỏi ma trận;Câu hỏi tự luận…
Các công cụ đo lường kiểu này thường kết hợp các kiểu item khác
nhau trong cùng một thang đo, thậm chí trong cùng một miền đo.
Bảng hỏi được thiết kế tốt sẽ khuyến khích người trả lời cung cấp
những thông tin đầy đủ và chính xác. Có 4 bước lớn trong việc
thiết kế bảng hỏi, là: Lập bảng chi tiết; Viết câu hỏi; Chỉnh sửa để
in ấn; Thử bảng hỏi.
4.1. Bước 1 - Lập bảng chi tiết, hỏi cụ thể:
7


- Xác định các mục tiêu mà bảng hỏi hướng đến;
- Cụ thể hóa các mục tiêu;
- Xác định đối tượng điều tra;
- Xác định các phương pháp thu thập thông tin;
- Thiết lập mối liên hệ giữa câu hỏi nghiên cứu, các thông tin
cần thiết, nguồn cung cấp thông tin và phương pháp thu thập số
liệu;
- Quyết định xem làm thế nào để đo từng biến;
- Lập bảng chi tiết, hỏi cụ thể.
a/ Xác định mục đích của bảng hỏi:
Xác định mục đích chính, hay, câu hỏi nghiên cứu của đề tài
nghiên cứu là gì? Có một vài câu hỏi chính như: Bảng hỏi để tìm
kiếm điều gì? Những loại thông tin nào cần cho nghiên cứu này?
Các câu hỏi nghiên cứu cụ thể là gì?Có những giả thuyết nghiên
cứu nào?
Ví dụ, phân tích đề tài “Ảnh hưởng của gia đình đến việc bỏ học

của học sinh THCS nông thôn Việt Nam”
Câu hỏi nghiên cứu có thể gồm:
- Các yếu tố giới, đặc điểm gia đình, thái độ đối với học tập và
kết quả học tập tác động với nhau như thế nào đến việc bỏ học?
- Từng yếu tố - giới, đặc điểm gia đình, thái độ đối với học tập
và kết quả học tập có ảnh hưởng ở mức độ nào đến việc bỏ học?
- Yếu tố nào tác động mạnh nhất?
b/ Quá trình cụ thể hóa bắt đầu từ các thông tin chung cần
thiết, gồm:
- Đặc điểm gia đình
- Thái độ
8


- Kết quả
- Giới
Các biến trên còn quá chung chung. Cần phải cụ thể hóa chúng
thành những biến có thể đo đạc được. Mỗi câu hỏi phải cụ thể để
câu trả lời có thể mã hóa được. chẳng hạn,
-Thái độ đối với học tập:


Thái độ của học sinh đối với học tập



Thái độ của cha mẹ đối với học tập

-Kết quả:



Kết quả học tập



Kết quả đạo đức

-Các đặc điểm gia đình:


Dân tộc



Vị trí xã hội



Thu nhập của gia đình



Số con trong gia đình



Việc bỏ học của anh chị em ruột

Như vậy tới đây câu hỏi nghiên cứu đã cụ thể hơn:Các yếu tố giới,
dân tộc, thu nhập, kích cỡ gia đình, số lượng anh chị em bỏ học,

thái độ của học sinh và cha mẹ với học tập và kết quả học tập và
đạo đức có tương tác với nhau như thế nào trong việc ảnh hưởng
đến việc bỏ học của học sinh THCS ở vùng nông thôn Việt Nam?
c/Xác định đối tượng cung cấp thông tin, theo đó cần xác
định xem:
- Ai sẽ là người thích hợp cung cấp những thông tin cần thiết?
- Các đặc điểm của nhóm đối tượng trả lời phiếu?

9


Ví dụ, nếu muốn hỏi về trình độ học vấn của cha mẹ, thì đôi khi có
thể hỏi trực tiếp học sinh hay giáo viên chủ nhiệm. Nhưng, đối với
học sinh tiểu học thì có thể các em không biết. Vì thế, việc điều
tra thử sẽ giúp chúng ta biết rõ nên hỏi ai.
d/Xác định phương pháp thu thập thông tin, theo đó phải
làm rõ: Liệu có đúng là phải dùng bảng hỏi hay không bởi đôi khi
thông tin mà chúng ta cần có thể đã có sẵn trong các điều tra
khác, vì vậy cần phải quyết định xem nên dựa vào những nguồn
thông tin đã có nào.
e/ Lập bảng liên kết giữa thông tin cần có, nguồn thông tin
và phương pháp thu thập số liệu.Bảng này giúp định hướng
xem có thể có baonhiêu câu hỏi cần thiết phải đặt ra.
Thông
tin
thiết/biến cần đo

cần Nguồn
thông tin


PP thu thập số
liệu

Từ bảng trên có thể xác định các bảng hỏi cần thiết kế, gồm:
- Bảng hỏi dành cho học sinh đang đi học
- Bảng hỏi dành cho học sinh đã bỏ học
- Bảng hỏi dành cho cha mẹhọc sinh
f/ Xác định cách thức đo từng biến
Cần phải xem xét xem biến đo là biến đơn hay biến ẩn, tức là cần
xác định:
- Biến đó đo một tiêu chí hay nhiều tiêu chí?
- Đo tiêu chí đó như thế nào?
Biến đơn là biến đo một tiêu chí, có thể quan sát, đo đạc trực
tiếp (giới, trình độ học vấn của cha mẹ...), còn biến ẩn là biến
không thể quan sát hay đo đạc trực tiếp mà phải được đo đạc gián
tiếp thông các biến có liên quan có thể quan sát được, gián tiếp
thông qua các chỉ số - là các biến quan sát được.
10


Tiếp theo cần lập bảng, chỉ rõ làm thế nào để đo từng chỉ số
của mỗi biến ẩn. Cụ thể có:
-Các chỉ số đo đạc thu nhập của gia đình
-Các chỉ số đo đạc vị thế xã hội của gia đình
g/ Lập bảng chi tiết, bao gồm: tất cả các biến, các chỉ số,
các phương pháp đo đạc và các thông tin cần thiết để trả lời câu
hỏi nghiên cứu.
Có những biến đơn (giới), nhưng cũng có những biến ẩn cần
nhiều chỉ số để đo. Bảng này như là một sự định hướng giúp cho
người nghiên cứu hiểu và tự tin về khung lí thuyết của mình.

4.2. Bước 2 – Viết câu hỏi:
a/ Xây dựng các tiêu chí. Trước hết phải xác định những vấn đề
cần quan tâm đối với mỗi tiêu chí. Cụ thể là:
- Thông tin nào cần phải có?
- Thông tin là các sự việc/sự kiện hay không phải là sự việc/sự
kiện?
- Hỏi như thế nào?
- Loại hình trả lời nào là cần thiết? Người được hỏi cần trả lời
như thế nào? (cấu trúc của câu hỏi)
- Từng tiêu chí sẽ được mã hóa như thế nào?
- Có thể đưa cả mã hóa vào bảng hỏi được không?
b/ Các loại hình câu hỏi
Có hai cách phân loại câu hỏi, là: Phân loại theo cấu trúc
phương án trả lời đưa ra và phân loại theo loại hình thông tin.
*Đối với cách phân loạitheo cấu trúc phương án trả lời
đưa ra, có hai loại câu hỏi là:

11


- Câu hỏi mởlà dạng câu hỏi để cho người trả lời được tự do đưa
ra ý kiến của mình. Trong một bảng hỏi có thể bao gồm cả câu hỏi
đóng và câu hỏi mở (ví dụ, “Hãy cho biết lí do vì sao em bỏ
học?”,“Hãy nêu những nguyên nhân gây cản trở việc ứng dụng
công nghệ thông tin trong giảng dạy của anh/chị?”).
Trong nghiên cứu, câu hỏi mở có những lợi thế sau đây:Người được
hỏi có thể diễn đạt chính xác những quan điểm hay cảm nghĩ của
mình;Không hạn chế các phương án trả lời;Rất hữu ích trong việc
kiểm tra giả thuyết về những ý tưởng hay nhận thức.
Tuy nhiên, câu hỏi mở cũng có những bất lợi như:Khó trả lời và

tốn nhiều thời gian để trả lời;Khó phân tích và tốn nhiều thời gian
để phân tích.
-Câu hỏi đóng là dạng câu hỏi có đưa ra các phương án trả lời
sẵn để người được hỏi lựa chọn, hoặc câu hỏi dưới dạng
Có/Không…Nhóm câu hỏi đóng gồm có các loại hình sau
đây:Bảng kiểm; Câu hỏi hai lựa chọn; Câu hỏi nhiều lựa chọn;
Thang đo/Thang xếp loại.
Bảng kiểm thường đượcsử dụng để kiểm tra xem có hay không
có một cái gì đó? Ví dụ: “Anh/Chị đã sử dụng những loại tài liệu
tham khảo nào sau đây?” (liệt kê các tài liệu tham khảo); Hay,
“Em đã tham gia những hoạt động nào sau đây?” (liệt kê các hoạt
động). Một bảng kiểm tốtcần phải chứa đựng tất cả các lựa chọn
phù hợp;Sẽ tốt hơn khi cung cấp lựa chọn “Cái khác” để người
được hỏi có thể bổ sung thêm ở phía cuối bảng kiểm.
Câu hỏi hai lựa chọn thường được sử dụng để đo sự khác nhau
hoàn toàn (đối lập) của các biến. Trong câu hỏi hai lựa chọn, người
trả lời được yêu cầu lựa chọn một trong hai phương án đối lập
nhau như: Có/không; Đồng ý/không đồng ý; Ủng hộ/phản đối;
Xấu/tốt; Thích/không thích; ….
12


Câu hỏi nhiều lựa chọn là dạng câu hỏi đưa ra tất cả các phương
án trả lời có thể có để người được hỏi lựa chọn.
Thang đo thứ bậc là một dạng câu hỏi được cấu trúc, theo đó, cấu
trúc này cho chúng ta thấy người được hỏi xếp thứ bậc như thế
nào?Nó sẽ tốt khi có số lượng hạn chế các biến muốn được xếp
loại. (Ví dụ: Hãy sắp xếp những thứ cần thay đổi trong nhà trường
được nêu ra ở đây theo thứ tự ưu tiên ?).
Những ưu thế của câu hỏi đóng:So với câu hỏi mở, loại hình

này dễ trả lời và trả lời nhanh hơn; Có thể hỏi nhiều câu hỏi trong
một khoảng thời gian nhất đinh;Có thể hỏi nhiều người;Giá thành
thấp hơn;So sánh nhóm dễ hơn;Thời gian dành cho tập huấn cán
bộ điều tra ít hơn. Bên cạnh đó, những bất lợi của câu hỏi đóng,
là:Có thể thiếu các phương án trả lời khác;Có thể có yếu tố chủ
quan của nhà nghiên cứu khi bắt người được hỏi chỉ được lựa chọn
các phương án sẵn có đưa ra;Có thể có những người trả lời chọn
bừa cho xong;Khó thiết kế.
*Phân loại theo loại hình thông tin cung cấp, có 2 dạng
câu hỏi chủ yếu, là:Hỏi về sự việc/sự kiện;Hỏi về thái độ, niềm tin,
nhận thức.
Thông thường, phần lớn các bảng hỏi đều kết hợp cả hai loại câu
hỏi về sự kiện/sự việc và câu hỏi liên quan đến thái độ, nhận thức,
niềm tin. Câu hỏi về sự kiện/sự việc cung cấp thông tin có thể
kiểm tra, xác minh; là biến đơn; dễ thiết kế. Trong khi đó câu hỏi
không về sự vật, sự kiện thường cung cấp loại thông tin khó xác
minh/kiểm tra; là biến ẩn;Khó thiết kế.
Khi thiết kế câu hỏi về sự việc/sự kiện, cần lưu ý xem liệu người
được hỏi có đủ thông tin để trả lời câu hỏi hay không (ví dụ, kiến
thức, trí nhớ) và liệu người được hỏi có muốn trả lời hay không (ví
13


dụ, các vấn đề nhạy cảm). Muốn thế, có một số vấn đề phải quan
tâm:
-Dùng câu chữ khi đặt câu hỏi:Sử dụng các từ ngữ đơn giản,
trực tiếp; Tránh dùng những nhóm từ viết tắt (UNESCO), chữ viết
tắt (PHHS), biệt ngữ (từ khó hiểu);Tránh dùng những từ tối nghĩa
hoặc có nhiều nghĩa; Tránh dùng câu hỏi có tính định hướng; Tránh
dùng những câu hỏi có nhiều ý; Tránh những giả định ngấm ngầm;

Không được bắt người trả lời phải nhớ quá nhiều;Tránh dùng các
mệnh đề hay câu nói đã quen thuộc;Những câu hỏi về thái độ sẽ
tốt nếu người được hỏi nhận thấy là câu hỏi bắt mình phải suy
nghĩ.
-Khi lựa chọn loại hình câu hỏi cần lưu ý đến:Số lượng người
được hỏi;Số lượng và loại hình thông tin cần thu thập;Những đặc
trưng của người được hỏi (Trình độ, tuổi, văn hóa, tín ngưỡng); Số
lượng thời gian cần cho việc xử lí và phân tích số liệu;Hiểu biết của
người nghiên cứu về các vấn đề muốn hỏi (khả năng dự đoán các
phương án trả lời có thể có ở mức độ nào);Phương pháp phân tích
số liệu.
c/ Cấu trúc bảng hỏi bao gồm cảPhần Chỉ dẫn(Chỉ dẫn
chung;Chỉ dẫn từng phần;Chỉ dẫn ở từng câu hỏi).
d/ Một số lưu ý khi xây dựng bảng hỏi:
- Nên bắt đầu với câu hỏi dễ và ít nhạy cảm;
- Không nên bắt đầu bằng câu hỏi mở;
- Nên sắp xếp các câu hỏi từ chung nhất đến cụ thể;
- Nên nhóm các câu hỏi theo từng chủ đề hay tiểu mục;
- Nên làm bảng hỏi càng ngắn càng tốt.
4.3. Bước 3 – Chỉnh sửa bảng hỏi

14


Tùy theo loại bảng hỏi được thiết kế mà có cách thức chỉnh sửa
khác nhau. Thông thường hiện nay, đối với các bảng hỏi với câu
hỏi đóng khách quan, ví dụ, các thang đo năng lực hoặc hành vi có
cấu trúc/chuẩn hóa, khi tiến hành chỉnh sửa nhà nghiên cứu có thể
sử dụng các phần mềm thống kê thông dụng để đánh giá độ tin
cậy và độ hiệu lực của thang đo nhằm đáp ứng yêu cầu về mặt kĩ

thuật.
Đối với các loại bảng hỏi có câu hỏi mở, có thể sử dụng phương
pháp chuyên gia và chỉnh sửa theo góp ý của chuyên gia về nội
dung hoặc hình thức diễn đạt, cách trình bày, liều lượng các câu
hỏi…
4.4. Bước 4 – Thử bảng hỏi
Sau khi chỉnh sửa, bảng hỏi cần được đưa ra làm thử nghiệm
trên nhóm mẫu nhỏ khách thể mà nó định đo nhằm mục đích
đánh giá sự phù hợp với đối tượng nghiên cứu về các khía cạnh
khác nhau:Về cả hình thức lẫn nội dung cũng như thời gian thực
hiện. Sau lần thử đầu tiên trên mẫu nhỏ khách thể, cần phải thử
tiếp trên mẫu lớn hơn để khẳng định tính khách quan của bảng
hỏi. Trong trường hợp của thang đo chuẩn hóa cần có sự tính toán
lại các chỉ số kĩ thuật để đảm bảo là khách quan, tin cậy.
5. Kết luận
Công cụ điều tra quyết định chất lượng cuộc nghiên cứu. Một
bảng hỏi tốt phải đảm bảo các đặc tính thiết kế tốt (xác định rõ đo
cái gì? Dùng cho đối tượng nào?...) và có đặc tính đo lường tốt (độ
tin cậy, độ hiệu lực). Cụ thể là:
- Công cụ phải được thiết kế trên cơ sở xác định rõ mô hình lí
thuyết về cái định đo (về bản chất các khái niệm chỉ đối tượng
nghiên cứu sẽ được đo lường);
15


- Cấu trúc phép đo phải phù hợp với mô hình lí thuyết định
hướng về cái định đo (ví dụ, nhận thức, thái độ, hành vi);
- Việc thiết kế công cụ phải tuân thủ theo các bước: Xác định
khái niệm, xác định cấu trúc phép đo, xác định các miền đo, thang
bậc, chỉ số, biểu hiện cụ thể, mức độ đánh giá, viết item, hiệu lực

hóa item;
- Công cụ đo phải đảm bảo sự phù hợp với đặc điểm nhóm mẫu
nghiên cứu, đồng thời hiện thực hóa được yêu cầu giáo dục, xã hội
thể hiện trong nội dung đo;
- Công cụ phải được đo thử trên mẫu khách thể để phát hiện lỗi
thiết kế và kiểm định các đặc tính đo lường;
- Công cụ phải có phần hướng dẫn sử dụng.
Tài liệu tham khảo:
1/ võ Duy Tần, Lê Văn Trọng, 2012, Cơ sở phương pháp luận
nghiên cứu khoa học giáo dục, NXB Đại học Huế.
2/ Nghuyễn Kim Dung, 2013, Đánh giá công tác nghiên cứu khoa
học giáo dục tại các trường đại học sư phạm Việt Nam, tạp chí
Khoa học ĐHSP TP HCM, số 50.
3/ Nguyễn Công Khanh, 2012, Phương pháp thiết kế công cụ đo
lường và đánh giá trong giáo dục. Tài liệu lưu hành nội bộ, ĐHSP
Hà Nội.

16



×